Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Phân tích các quy định của Luật thuế giá trị gia tăng về hai phương pháp tính thuế giá trị gia tăng và liên hệ thực tiễn. So sánh hai phương pháp tính thuế này. Đánh giá về ưu điểm và nhược điểm của từng phương pháp dưới góc độ cơ quan quản lý thuế.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.7 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................................1
NỘI DUNG................................................................................................................................2
I.

Khái quát về thuế giá trị gia tăng............................................................................2
1.

Khái niệm thuế giá trị gia tăng.............................................................................2

2.

Bản chất, đặc điểm của thuế giá trị gia tăng.......................................................2

II.

Phương pháp tính thuế giá trị gia tăng................................................................3

1. Phương pháp tính thuế giá trị gia tăng theo quy định của Luật thuế giá trị
gia tăng...........................................................................................................................3
2.

Phương pháp khấu trừ thuế.................................................................................3

3.

Phương pháp tính trực tiếp trên phần giá trị tăng thêm...................................5

4.

Thực tiễn áp dụng hai phương pháp tính thuế giá trị gia tăng.........................6



5.

4.1.

Ưu điểm...........................................................................................................6

4.2.

Hạn chế............................................................................................................6

So sánh hai phương pháp tính thuế giá trị gia tăng...........................................7

III. Ưu điểm và nhược điểm của hai phương pháp tính thuế giá trị gia tăng dưới
góc độ cơ quan quản lý thuế............................................................................................9
1.

2.

3.

Phương pháp khấu trừ thuế.................................................................................9
1.1.

Ưu điểm...........................................................................................................9

1.2.

Nhược điểm...................................................................................................10


Phương pháp trực tiếp........................................................................................10
2.1.

Ưu điểm.........................................................................................................10

2.2.

Nhược điểm...................................................................................................10

Hoàn thiện phương pháp tính thuế và chứng từ kế toán thuế giá trị gia tăng
10

KẾT LUẬN..............................................................................................................................11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:............................................................................11

1


MỞ ĐẦU
Với những hình thức phong phú, thuế giá trị gia tăng là một phần quan trọng của hệ
thống tài chính của nhiều nước trên thế giới. Thuế giá trị gia tăng là một loại thuế đánh trên
giá tăng thêm của hàng hóa và dịch vụ. So với nhiều sắc thuế khác, thuế giá trị gia tăngcó
lịch sử phát triển không dài nhưng loại thuế này đã trải qua một quá trình phát triển mạnh
mẽ. Luật Thuế giá trị gia tăng số 13/2008/QH ra đời và sửa đổi bổ sung luật số
106/2016/QH đã đánh dấu sự phát triển mới về chính sách thuế giá trị gia tăng của Việt
Nam. Thuế giá trị gia tăng đã trở thành một sắc thuế tiên tiến góp phần làm cho hệ thống
thuế của Việt Nam ngày càng được hoàn thiện, phù hợp với sự vận động và phát triển của
nền kinh tế thị trường. Luật thuế giá trị gia tăng quy định đánh trên phần giá trị tăng thêm
của hàng hóa, dịch vụ. Điểm nổi bật của thuế giá trị gia tăng là khắc phục được những
nhược điểm thu trùng lặp, chồng chéo qua nhiều khâu của thuế doanh thu.

Việc xác định số thuế giá trị gia tăng nộp qua mỗi khâu phải dựa trên điều kiện thực tế
của chủ thể kinh doanh, đồng thời đáp ứng yêu cầu thu đúng, thu đủ thuế vào ngân sách
nhà nước. Dựa trên đối tượng tính thuế là phần chênh lệch giữa giá trị đầu ra và phần giá
trị đầu vào tương ứng, phương án khả thi xác định số thuế phải nộp là tính theo phần thuế
chênh lệch giữa các khâu của quá trình sản xuất, lưu thông hoặc tính trực tiếp trên phần giá
trị tăng thêm phá sinh do chủ thể nộp thuế tạo ra. Các phương án khác chỉ đúng về phần lý
thuyết mà không có điều kiện thực tế. Pháp luật Việt Nam ghi nhận và quy định phương
pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng. Để tìm hiểu sâu hơn
nữa về phương pháp tính thuế giá trị gia tăngcũng như nghiên cứu, hoàn thiện hơn nữa
pháp luật về thuế giá trị gia tăng, em xin chọn đề tài: “Phân tích các quy định của Luật
thuế giá trị gia tăng về hai phương pháp tính thuế giá trị gia tăng và liên hệ thực tiễn.
So sánh hai phương pháp tính thuế này. Đánh giá về ưu điểm và nhược điểm của từng
phương pháp dưới góc độ cơ quan quản lý thuế.”

NỘI DUNG
I.
Khái quát về thuế giá trị gia tăng
1. Khái niệm thuế giá trị gia tăng
Luật thuế giá trị gia tăng lần đầu tiên được Quốc hội khóa IX thông qua vào ngày
10/05/1997 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/1999. Việc quy định thuế giá trị gia tăng
thay cho thuế doanh thu là một bước cải cách quan trọng trong hệ thống chính sách thues
của Việt Nam. Tính đến nay, Luật đã trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung. Tại kỳ họp thứ 3
Quốc hội khóa XII, nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 03/06/2008 đã thông
qua Luật thuế giá trị gia tăng, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009. Kể từ khi ban hành
đến nay, Luật thuế giá trị gia tăng luôn thu hút sự quan tâm đặc biệt của xã hội, của doanh
nghiệp, tổ chứ kinh tế, tổ chức, cá nhân.
2


Tại Điều 2 Luật thuế giá trị gia tăng quy định: “Thuế giá trị gia tăng là thuế tính trên

khoản giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu
thông đến tiêu dùng”. Như vậy thuế giá trị gia tăng đánh vào hàng hoá dịch vụ, chứ không
đánh trực tiếp vào thu nhập của cá nhân hay doanh nghiệp. Nhưng do thuế được cộng với
phần giá trị của hàng hóa, dịch vụ làm giá thanh toán nên người tiêu dùng sẽ phải chịu
khoản thuế này. Với cùng một mức thu nhập nếu chưa có thuế giá trị gia tăng thì người
mua sẽ mua được hàng hóa nhiều hơn khi đã áp thuế này, do đó nó đã gián tiếp đánh vào
thu nhập của người tiêu dùng. Người tiêu dùng sẽ không phải trực tiếp nộp khoản thuế này
cho các cơ quan thuế mà người bán sẽ nộp bởi trong thanh toán tiền bán hàng đã bao gồm
cả thuế giá trị gia tăng. Đây chính là bản chất của thuế GTGT chỉ gián tiếp đánh vào thu
nhập của dân cư chứ nó không mang tính trực thu như thuế thu nhập doanh nghiệp hay
thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao.
2. Bản chất, đặc điểm của thuế giá trị gia tăng
Xét về bản chất, thuế giá trị gia tăng là thuế gián thu. Các nhà xản xuất, kinh doanh và
cung cấp dịch vụ là người nộp thuế nhưng người tiêu dùng lại thực chất là người chịu thuế
thông qua giá cả hàng hóa, dịch vụ. Điều này giúp cho cơ quan quản lí thuế, thu thuế giá trị
gia tăng tránh được sự phản ứng gay gắt về thuế. Bên cạnh đó, thuế giá trị gia tăng cũng
ảnh hưởng đến sức mua của công chúng do phần thuế này được cấu thành trong giá bán
hàng hóa, cung cấp dịch vụ cho người tiêu dùng. Chính vì vậy việc áp dụng thuế giá trị gia
tăng tại một quốc gia cần phải cân nhắc tính phù hợp, những yếu tố ảnh hưởng của loại
thuế này cho nền kinh tế.
Xét về đặc điểm, thuế giá trị gia tăng có nhiều điểm tương đồng so với các loại thuế
đánh vào hàng hóa, dịch vụ khác (như thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất
nhập khẩu) nhưng có thể nhận diện thuế giá trị gia tăng thông qua các đặc điểm sau:
Thứ nhất, thuế giá trị gia tăng chỉ đánh vào giá trị gia tăng:
Đặc điểm này nằm ngay trong tên gọi của nó là thuế chỉ đánh vào phần giá trị tăng thêm
hàng hóa, dịch vụ ở từng giai đoạn chứ không đánh vào toàn bộ doanh thu ở mỗi khâu.
Doanh thu là khoản tiền bán hàng hoặc cung ứng dịch vụ trong đó bao hàm cả tiền là
nguồn vốn của sản phẩm. Nếu đánh thuế đối với toàn bộ doanh thu nghĩa là đánh cả vào
phần hàng hóa, dịch vụ là đầu vào mà hàng hóa, dịch vụ này khi người sản xuất mua vào
cũng đã phải chịu thuế do đó sẽ gây ra tình trạng thuế đánh trùng lặp. Nhưng nếu đánh thuế

đối với phần giá trị tăng thêm có nghĩa là loại đi phần thuế đầu vào thì sẽ không gây ra tình
trạng này.
Thứ hai, thuế giá trị gia tăng là loại thuế trung lập:
Thuế giá trị gia tăng chỉ đánh vào phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ và phần
thuế doanh nghiệp sản xuất sản phẩm khi mua hàng hóa dịch vụ đầu vào sẽ được khấu trừ.
Theo đó, phần thuế giá trị gia tăng khi mua hàng sẽ không tính vào giá trị của hàng hóa và
được ghi vào tài khoản được khấu trừ do đó thuế giá trị gia tăng không còn nằm trong yếu
tố chi phí sản xuất sản phẩm nữa. Không nằm trong chi phí sản xuất đồng nghĩa với việc
thuế giá trị gia tăng không nằm trong doanh thu và không ảnh hưởng đến kết quả sản xuất
của doanh nghiệp.

3


Xuất phát từ tính trung lập này mà việc áp thuế giá trị gia tăng sẽ không đẩy gía trị của
hàng hóa dịch vụ lên cao khi mà giá thành của sản phẩm đầu vào không tăng dù cho sản
phẩm có qua nhiều công đoạn.
Thứ ba, thuế giá trị gia tăng là loại thuế mà số thuế Nhà nước thu được không phụ thuộc
vào chu trình sản xuất kinh doanh của sản phẩm:
Quá trình sản xuất kinh doanh của một sản phẩm dù tập trung tại một doanh nghiệp hay
được phân chia tại các doanh nghiệp khác nhau thì tổng số thuế Nhà nước thu được luôn
bằng với số thuế tính trên giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng.
Thứ tư, thuế gái trị gia tăng là loại thuế mà việc thực hiện có liên quan chặt chẽ tới hóa
đơn chứng từ:
Hóa đơn chứng từ là các bằng chứng phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh tại mỗi
cơ sở sản xuất kinh doanh. Căn cứ vào hóa đơn chứng từ này mà cơ quan thuế thông báo
mức thuế cơ sở phải nộp cũng như được khấu trừ hàng tháng.
Thứ năm, thuế giá trị gia tăng có đối tượng chịu thuế rất rộng. Mọi đối tượng tồn tại
trong xã hội, cho dù là tổ chức hay cá nhân, là người nghèo hay người có thu nhập cao đều
phải chi trả thu nhập của mình để thụ hưởng kết quả sản xuất kinh doanh tạo ra cho nền

kinh tế xã hội. Điều này có nghĩa mọi đối tượng trong xã hội đều là chủ thể chịu thuế, chủ
thể thực tế phải chi trả một phần thu nhạp cho hành vi tiêu dùng.
II.
Phương pháp tính thuế giá trị gia tăng
1. Phương pháp tính thuế giá trị gia tăng theo quy định của Luật thuế giá trị gia
tăng
Căn cứ vào Điều 9, Luật thuếgiá trị gia tăng quy định có hai phương pháp tính thuếgiá
trị gia tăng: phương pháp khấu trừ và phương pháp trực tiếp. Thuếgiá trị gia tăng phải nộp
theo phương pháp khấu trừ sẽ bằng số thuếgiá trị gia tăng đầu ra trừ số thuếgiá trị gia tăng
đầu vào được khấu trừ; số thuếgiá trị gia tăng sẽ phải nộp theo phương pháp trực tiếp bằng
giá trị gia tăngcủa hàng hóa, dịch vụ bán ra nhân với số thuế suất giá trị gia tăng.
2. Phương pháp khấu trừ thuế
Nội dung cơ bản của phương pháp khấu trừ thuế là số thuế giá trị gia tăng phải nộp
được tính trên cơ sở số thuế giá trị gia tăng đầu ra trừ đi số thuế giá trị gia tăng đầu vào
được khấu trừ. Điểm cần đặc biệt lưu ý, đối với phương pháp khấu trừ thuế, số thuế được
xác định một cách trực tiếp, là hiệu số thuế của các khâu trong quá trình sản xuất lưu thông
mà không phải là phần giá trị gia tăng được xác định trực tiếp qua các khâu.
Thuế GTGT = Thuế GTGT đầu ra – Thuế GTGT đầu vào (được khấu trừ)
Thuế giá trị gia tăngđầu ra là số thuế xuất hiện ở khâu bán ra, chủ thể nộp thuế đã xác
định và tính trong giá bán cho người nhận hàng hóa dịch vụ (trong giá thanh toán). Phần
thuế này được tính trên toàn bộ giá trị hàng hóa, dịch vụ bán ra ghi trên hóa đơn giá trị gia
tăng. Thuế giá trị gia tăngghi trên hóa đơn giá trị gia tăngbằng giá tính thuế của hàng hóa,
dịch vụ chịu thuế bán ra nhân với thuế suất thuế của hàng hóa, dịch vụ đó. Trong đó:
-

Giá tính thuế là giá bán chưa có thuế giá trị gia tăngtheo quy định của pháp luật;

- Thuế suất được quy định rõ cho từng loại ngành nghề kinh doanh, từng chủng loại
hàng hóa, dịch vụ.


4


- Thuếgiá trị gia tăng ở khâu bán ra được xác định trên chứng từ hóa đơn hợp lệ của
chủ thể nộp thuế. Pháp luật cũng quy định chặt chẽ từng trường hợp chứng từ không phản
ánh số thuếgiá trị gia tăng hoặc chỉ ghi nhận giá thanh toán của hàng hóa, dịch vụ.
Đối với cơ sở kinh doanh hàng hóa, dịch vụ: nếu thuế suất thuế giá trị gia tăngghi trên
hóa đơn cao hơn thuế suất đã được quy định tai các văn bản quy phạm pháp luật về thuế
giá trị gia tăngthì phải kê khai, nộp thuế giá trị gia tăngtheo thuế suất đã ghi trên hóa đơn;
nếu thuế suất thuế giá trị gia tăngghi trên hóa đơn thấp hơn thuế suất đã được quy định tại
các văn bản quy phạm pháp luật về thuế giá trị gia tăngthì phải kê khai, nộp thuế giá trị gia
tăngtheo thuế suất thuế giá trị gia tăngquy định tại các văn bản quy phạm pháp luật về thuế
giá trị gia tăng.
Thuế giá trị gia tăngđầu vào xuất hiện ở khâu mua vào, được tính trong tổng giá mà chủ
thể nộp thuế đã trả để nhận được hàng hóa, dịch vụ. Thuế giá trị gia tăngđầu vào bằng tổng
số thuế đã thanh toán được ghi trên hóa đơn giá trị gia tăngmua hàng hóa, dịch vụ hoặc
chứng từ nộp thuế giá trị gia tănghàng hóa nhập khẩu. Như vậy, phát hành hóa đơn vừa là
cơ sở xác định số thuế đầu ra cho chủ thể cung ứng hàng hóa, dịch vụ, vừa là căn cứ xác
định số thuế đầu vào cho bên nhận hàng hóa, dịch vụ. Vì vậy, nó gắn kết nghĩa vụ nộp thuế
với nghiệp vụ kinh doanh của các doanh nghiệp – một nghĩa vụ hết sức quan trọng của các
chủ thể khi thực hiện các nghĩa vụ kinh doanh.
Muốn khấu trừ thuế giá trị gia tăngđầu vào cũng phải đáp ứng những điều kiện nhất
định, đó là:
- Có hóa đơn giá trị gia tăngcủa hàng hóa, dịch vụ mua vào hoặc chứng từ nộp thuế
giá trị gia tănghàng hóa ở khâu nhập khẩu, chứng từ nộp thuế giá trị gia tăngđối với trường
hợp mua dịch vụ
- Có chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào, trừ
trường hợp tổng giá trị hàng hóa, dịch vụ mua vào từng lần có giá trị dưới 20 triệu đồng.
- Đối với tài sản cố định đầu tư để sản xuất hàng hóa, dịch vụ thuộc diện chịu thuế
giá trị gia tăng, phần thuế tương ứng giá trị tài sản đầu tư được xác định là thuế đầu vào để

tính số thuế phải nộp.
- Không phải phần tính thuế giá trị gia tăng của mọi giá trị hàng hóa dịch vụ ở khâu
mua vào đều được coi là phần thuế đầu vào. Số thuế đầu vào được xác định tương ứng với
phần hàng hóa, dịch vụ dùng cho hàng hóa, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng.
- Số thuế đầu vào phát sinh trong tháng nào, kê khai trong tháng đó. Quy định này
một mặt hỗ trợ cơ quan quản lý thuế, một mặt là cơ sở để xác định điều kiện hoàn thuế giá
trị gia tăng.
- Thuế đầu vào của hàng hóa dịch vụ phải đủ điều kiện theo luật định.
Đối với hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu cần phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau:
- Có hợp đồng bán, gia công hàng hóa xuất nhập khẩu hoặc ủy thác gia công hàng
hóa xuất khẩu, hợp đồng cung ứng dịch vụ với tổ chức, cá nhân ở nước ngoài hoặc ở trong
khu phi thuế quan;
- Có chứng từ thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu qua ngân hàng và các
chứng từ khác theo quy định của pháp luật; đối với hàng hóa xuất khẩu phải có tờ khai hải
quan.
3. Phương pháp tính trực tiếp trên phần giá trị tăng thêm
5


Phương pháp tính trực tiếp là phương pháp tính thuế mà theo đó: “Số thuế phải nộp
bằng giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ nhân với thuế suất giá trị gia tăng áp dụng đối
với hoạt động mua bán, chế tác vàng bạc, đá quý.”1
Thuế GTGT = GTGT ×Thuế suất thuế GTGT
Trong đó:
GTGT = Giá bán ra – Giá mua vào.
Điểm khác biệt của phương pháp tính trực tiếp là xác định theo hiệu số kết quả kinh
doanh của chủ thể nộp thuế. GTGT (hay giá trị tăng thêm) được xác định bằng giá thanh
toán của hàng hóa dịch vụ bán ra trừ giá của hàng hóa dịch vụ mua vào tương ứng.
Giá thanh toán của hàng hóa dịch vụ bán ra là giá thực tế bán ghi trên hóa đơn bán hàng
hóa, dịch vụ bao gồm cả thuế giá trị gia tăngvà các khoản phụ thu, phí thu thêm mà bên

bán được hưởng, không phân biệt đã thu tiền hay chưa thu tiền. Giá thanh toán của hàng
hóa, dịch vụ mua vào được xác định bằng giá trị hàng hóa, dịch vụ mua vào hoặc nhập
khẩu, đã có thuế giá trị gia tăngdùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế
giá trị gia tăngbán ra tương ứng. Một điểm lưu ý là căn cứ tính phần “giá trị tăng thêm”
(gồm giá và lượng hàng hóa, dịch vụ bán ra) là giá thanh toán tức giá đã có thuế giá trị gia
tăngđược xác định trong chứng từ hóa đơn (hóa đơn bán hàng). Đối với hàng hóa dịch vụ ở
khâu mua vào nều không chứng minh được đã bán ra, đã cung ứng, không được xác định là
phần giá trị được phép trừ đi khi tính phần giá trị gia tăng. Điều này cũng có nghĩa là việc
đầu tư tài sản cố định không được xác định là phần giá trị hàng hóa mua vào tương ứng
được phép trừ. Theo hướng dẫn của cơ quan quản lý thuế, chủ thể nộp thuế theo phương
pháp trừ trực tiếp không được chuyển phần giá trị mua ngoài, giá trị đầu tư, xây dựng làm
tài sản cố định vào phần “giá trị đầu vào tương ứng” để tính thuế giá trị gia tăng.
Nghiên cứu quy định của pháp luật về phương pháp tính thuế trực tiếp trên phần giá trị
tăng thêm cho thấy:
Giá thanh toán của chủ thể nộp thuế có đủ căn cứ xác định nhưng không ddue căn cứ
xác định giá trị hàng hóa, dịch vụ khâu mua vào. Điều này có thể lí giải do từ hóa đơn hoặc
xuất chứng từ hóa đơn của tổ chức, cá nhân không có khả năng xuất chứng từ hóa đơn
hoặc xuất chứng từ hóa đơn không hợp lệ. Pháp luật có quy định để giải quyết vấn đề này,
đó là “giá trị gia tăngđược xác định bằng doanh thu nhân với tỉ lệ phần trăm giá trị phần
trăm trên doanh thu”.
Giá thanh toán của cá nhân kinh doanh có thể không đủ căn cứ để chứng minh, vì vậy
không đủ cơ sở xác định phần “giá trị gia tăng”. Giải quyết vấn đề này cơ quan thuế “căn
cứ vào tình hình kinh doanh của từng cá nhân kinh doanh để ấn định mức doanh thu; giá trị
gia tăng được xác định bằng doanh thu ấn định nhân với tỉ lệ phần trăm giá trị gia tăngtính
trên doanh thu”
Thuế suất thuế giá trị gia tăng được áp dụng phù hợp với ngành nghề kinh doanh, hàng
hóa dịch vụ mà chủ thể nộp thuế cung cấp; và nó được áp dụng cho hàng hóa dịch vụ mua
vào và hàng hóa dịch vụ bán ra.
1Khoản 1, Điều 11 Luật thuế giá trị gia tăng


6


4. Thực tiễn áp dụng hai phương pháp tính thuế giá trị gia tăng
4.1. Ưu điểm
Pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam tuy ra đời muộn và còn khá mới mẻ so với
các loại thuế khác, nhưng về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu về lý luận cảu pháp luật thuế
giá trị gia tăng cả cấu trúc bên trong lẫn biểu hiện bên ngoài. Kể tù ngày được ban hành và
có hiệu lực thì pháp luật thuế giá trị gia tăng nói chung và hai phương pháp tính thuế nói
riêng đã đạt được một số thành tựu đáng kể:
Thứ nhất, hai phương pháp tính thuế đã tạo thành cơ sở pháp lý hình thành nguồn thu ổn
định chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng thu thuế, phí và lệ phí. Việc triển khai
phương pháp tính thuế giá trị gia tăng bảo đảm động viên số thu ngân sách nhà nước không
giảm hơn so với thuế doanh thu.
Thứ hai, việc công nhận hai phương pháp tính thuế tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp lựa chọn hình thức tính thuế phù hợp với đặc điểm của mình. Tránh tình
trạng thủ tục, giấy tờ rườm rà, không hiệu quả.
Thứ ba, đưa ra hai phương pháp tính thuế đảm bảo ở mức độ nhất định nguyên tắc công
bằng và hiệu quả của pháp luật thuế giá trị gia tăng.
4.2. Hạn chế
Theo quy định hiện hành, các doanh nghiệp được quyền lựa chọn một trong hai cách
tính thuế giá trị gia tăng: khấu trừ hoặc trực tiếp; sử dụng một trong hai loại hóa đơn bán
hàng tương ứng là: Hóa đơn giá trị gia tăng và hóa đơn bán hàng thông thường (ngoài ra
còn có: hóa đơn đặc thù, bảng kê mua hàng hóa của người không có hàng hóa đơn) làm
nảy sinh hiện tượng thuế trùng thuế và nguy cơ gian lận thuế. Trong trường hợp doanh
nghiệp thực hiện phương pháp khấu trừ thuế giá trị gia tăng có quan hệ kinh tế với doanh
nghiệp thực hiện tính thuế giá trị gia tăngtheo phương pháp trực tiếp hoặc hộ kinh doanh
thì cả hai bên đều bị thiệt hại.
Cụ thể: Đối với doanh nghiệp áp dụng phương pháp khấu trừ để tính thuế giá trị gia
tăng khi mua hàng hóa, dịch vụ của daonh nghiệp áp dụng phương pháp trực tiếp để tính

thuế giá trị gia tăng thì dù có hóa đơn bán hàng (đã có thuế GTGT) nhưng không được sử
dụng để khấu trừ thuế. Bởi, theo quy định chỉ có hóa đơn VAT hoặc hóa đơn đặc thù của
các đơn vị nộp thuế thep phương pháp khấu trừ thuế giá trị gia tăng phát hành mới được
khấu trừ thuế. Như vậy, trong các doanh nghiệp này mặc dù đã tuân thủ chế độ kế toán,
giao dịch kinh tế có chứng từ pháp lý đầy đủ, nhưng trong chi phí hợp lý hình thành giá
bán hàng hóa dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng vẫn có một phần thuế giá trị gia tăng đầu
vào không được khấu trừ. Khi tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp phải nộp thuế giá trị gia
tăngđầu ra trên tổng giá trị hàng hóa. Vậy là, thuế giá trị gia tăng đầu ra vẫn đang đánh
chồng lên thuế GTGT đầu vào làm doanh nghiệp mất đi một khoản lợi nhuận, đó là sự bất
bình đẳng không đáng có.
Theo thống kê (Bộ Tài chính), hiện có khoảng 550 000 tổ chức kinh tế đang kê khai và
nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ. Trong đó có khoảng 1/3 là doanh

7


nghiệp có quy mô nhỏ và rất nhỏ, doanh thu chưa tới 1 tỷ đồng/năm, số thu thuế giá trị gia
tăng chiếm khaongr 0.3% tổng thu về thuế giá trị gia tăng.2
Đối với hầu hết doanh nghiệp nhỏ, rất nhỏ, việc tổ chức một bộ máy kế toán chưa bảo
đảm tuân thủ theo Luật Kế toán, không ít doanh nghiệp thiếu ý thức tuân thủ quy định của
pháp luật về kê khai, nộp thuế giá trị gia tăng. Một số ít doanh nghiệp lợi dụng cơ chế
thông thoáng trong việc thành lập doanh nghiệp để thành lập doanh nghiệp mua bán hóa
đơn, thậm chí lập khống hóa đơn cho các doanh nghiệp khác để kê khai khấu trừ đầu vào,
vừa ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường kinh doanh, vừa gây thất thu ngân sách nhà nước.
Tương tự, khi doanh nghiệp thực hiện phương pháp tính thuế giá trị gia tăng trực tiếp
mua dịch vụ, hàng hóa của các doanh nghiệp áp dụng tính thuế giá trị gia tăng theo
phương pháp khấu trừ để dùng vào sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế giá trị
gia tăng, doanh nghiệp cũng có hóa đơn giá trị gia tăng do doanh nghiệp áp dụng phương
pháp khấu trừ thuế giá trị gia tăng phát hành cũng không được khấu trừ thuế giá trị gia
tăng, họ cũng phải trả thuế giá trị gia tăngđầu vào chìm trong giá bán ở đầu ra, tức là thuế

vẫn đánh chồng lên thuế. Đến nay đã hơn mười năm thực hiện Luật thuế giá trị gia
tăngnhưng tính ưu việt của luật thuế này vẫn chưa thể thực hiện được một cách toàn diện
và triệt để. Quy định về phương pháp tính thuế với hai loại hóa đơn bán hàng hiện nay chỉ
phù hợp với giai đoạn đầu áp dụng Luật thuế giá trị gia tăng để các đơn vị kinh doanh có
“dự lệnh” chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thống nhất một chế độ chứng từ và một
phương pháp tính thuế thống nhất. Nếu tiếp tục kéo dài tình trạng này sẽ tạo ra sự bất bình
đẳng giữa các đơn vị kinh doanh, nảy sinh hiện tượng tiêu cực ở chính các đơn vị đang áp
dụng phương pháp khấu trừ, vì buộc họ phải mua, sử dụng hóa đơn bất hợp pháp để hợp
thức hóa sổ sách về thuế giá trị gia tăng đầu vào được khấu trừ và đó cũng là mảnh đất
màu mỡ để các công ty “ma” buôn, bán hóa đơn giá trị gia tăng trục lợi
5.

So sánh hai phương pháp tính thuế giá trị gia tăng
Tiêu chí

Phương pháp trực tiếp

Phương pháp khấu trừ

Đối tượng áp dụng

- Doanh nghiệp, hợp tác xã có
doanh thu hàng năm dưới mức
ngưỡng doanh thu một tỷ đồng,
trừ trường hợp đăng ký tự
nguyện áp dụng phương pháp
khấu trừ thuế;
- Hộ, cá nhân kinh doanh;
- Tổ chức, cá nhân nước ngoài
kinh doanh không có cơ sở

thường trú tại Việt Nam nhưng
có doanh thu phát sinh tại Việt
Nam chưa thực hiện đầy đủ
chế độ kế toán, hóa đơn, chứng
từ, trừ tổ chức, cá nhân nước
ngoài cung cấp hàng hóa, dịch

- Cơ sở kinh doanh thực hiện
đầy đủ chế độ kế toán, hóa
đơn, chứng từ theo quy định
của pháp luật về kế toán, hóa
đơn chứng từ bao gồm:
a) Cơ sở kinh doanh có doanh
thu hàng năm từ bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ từ một tỷ
đồng trở lên, trừ hộ, cá nhân
kinh doanh;
b) Cơ sở kinh doanh đăng ký
tự nguyện áp dụng phương
pháp khấu trừ thuế, trừ hộ, cá
nhân kinh doanh.

2Thống kê Bộ Tài chính

8


vụ để tiến hành hoạt động tìm
kiếm, thăm dò, phát triển và
khai thác dầu, khí nộp thuế

theo phương pháp khấu trừ do
bên Việt Nam khấu trừ nộp
thay;
- Tổ chức kinh tế khác, trừ
trường hợp đăng ký nộp thuế
theo phương pháp khấu trừ
thuế
Hóa đơn sử dụng

Hóa đơn bán hàng mẫu 02
GTGT
Tính thuế GTGT
Thuế GTGT = GTGT × thuế
suất thuế GTGT
(trong đó: GTGT = Gía bán ra
– Gía mua vào)
- Tỷ lệ % để tính thuế giá trị
gia tăng được quy định như
sau:
+ Phân phối, cung cấp hàng
hóa: 1%
+ Dịch vụ, xây dựng không
bao thầu nguyên vật liệu: 5%
+ Sản xuất, vận tải, dịch vụ gắn
với hàng hóa, xây dựng có bao
thầu nguyên vật liệu: 3%
+ Hoạt động kinh doanh khác:
2%
Khai thuế GTGT
Mẫu 04 GTGT

Đối
với
doanh - Không được khấu trừ, hoàn
nghiệp
thuế giá trị gia tăng đầu vào,
phải đưa vào chi phí khoản
thuế giá trị gia tăng đầu vào có
phát sinh, dẫn đến giá thành
cao hơn hoặc lời ít hơn.
- Phải sử dụng hóa đơn bán
hàng và đóng thuế giá trị gia
tăng đầu ra như hộ, cá nhân
kinh doanh. Trong khi nhiều
khách hàng là doanh nghiệp lại
muốn có hóa đơn giá trị gia
tăng để khấu trừ thuế đầu vào
của họ, nên không chọn nhà
cung cấp là doanh nghiệp
không có hóa đơn giá trị gia
tăng
Đối với nhà quản lý - Doanh nghiệp không cần phải
thuế, xây dựng luật thực hiện đầy đủ chế độ kế
toán, sổ sách, hóa đơn, chứng
9

Hóa đơn mẫu 01 GTGT
Thuế GTGT = Thuế GTGT đầu
ra – Thuế GTGT đầu vào
(được khấu trừ)


Mẫu 01 GTGT
- Việc phải thực hiện đầy đủ
chế độ kế toán, sổ sách, hóa
đơn, chứng từ là không khó, và
chi phí cũng không cao.
- Doanh nghiệp được khấu trừ
thuế giá trị gia tăng đầu vào,
được hoàn thuế.
- Doanh nghiệp có hóa đơn giá
trị gia tăng đầu ra ch khách
hàng là doanh nghiệp cần hóa
đơn giá trị gia tăng để khấu trừ
thuế đầu vào.

- Doanh nghiệp phải thực hiện
đầy đủ chế dộ kế toán, sổ sách,
hóa đơn, chứng từ là điều khó


từ, không cần các hóa đơn giá
trị gia tăng ở đầu vào vì không
được khấu trừ thuế.
- Nhà nước thu trực tiếp số
thuế GTGT phải đóng = tỷ lệ
% × doanh thu (tỷ lệ này chỉ từ
1% - 5%, tùy ngành).
- Nhà nước hạn chế tình trạng
lập doanh nghiệp “ma” mua
bán hóa đơn đơn giá trị gia
tăng để hoàn thuế, khấu trừ

thuế giá trị gia tăng
Chủ thể nộp thuế
Tỉ lệ lớn hơn
Chi phí quản lí Lớn hơn
thuế

khăn với các doanh nghiệp mới
thành lập, quy mô nhỏ.
- Nhiều doanh nghiệp “ma”
mua bán hóa đơn giá trị gia
tăng để hoàn thuế, khấu trừ
thuế giá trị gia tăng.

Tỉ lệ nhỏ hơn
Nhỏ hơn

III.

Ưu điểm và nhược điểm của hai phương pháp tính thuế giá trị gia tăng
dưới góc độ cơ quan quản lý thuế
1. Phương pháp khấu trừ thuế
1.1. Ưu điểm
Nhìn chung phương pháp khấu trừ thuế giá trị gia tăng có nhều ưu điểm, vì vậy hầu hết
các nước đều xác định phậm vi nghĩa vụ thuế giá trị gia tăng theo phương pháp này, mặc
dù chi phí quản lý hành chính cao hơn, cụ thể:
Phương pháp khấu trừ thuế xác định đúng số thuế phải nộp ở từng khâu, từng chủ thể
nộp thuế, chống thất thu thuế. Đảm bảo thu đủ số thuế cần thiết điều tiết thu nhập của
người tiêu dùng. Bởi, tính thuế theo phương pháp khấu trừ không cần phải xác định giá trị
gia tăng, điều này vốn rất khó và không chính xác nhưng vẫn đánh thuế đúng và đủ đối với
mọi đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng, không phân biệt đối tượng chịu thuế đó ở khâu sản

xuất hay lưu thông.
Phương pháp khấu trừ thuế làm đơn giản hóa quá trình quản lý và thu thuế, do đó số
thuế phát sinh ở các khâu được phản ánh rõ trên chứng từ hóa đơn. Xét ở khía cạnh quản
lý, phương pháp khấu trừ thuế được thực hiện tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan thuế.
Điều này lý giải vì sao, pháp luật các nước đang áp dụng thuế giá trị gia tăng đều quy định
phương pháp này là phương pháp tính thuế chủ yếu của loại thuế này. Phương pháp khấu
trừ thuế còn thúc đẩy các tổ chức kinh tế tiến hành hoạch toán theo chuẩn mực pháp luật.
Tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế đảm bảo sự động viên kịp thời của một phần
thu nhập quốc dân bởi có thể xác định được nghĩa vụ nộp thuế theo tuần, theo tháng, theo
quý hoặc theo năm. Trường hợp đối với hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu còn có khả năng
động viên trước được số thuế giá trị gia tăng phải nộp vào ngân sách nhà nước.
Ngoài ra, phương pháp khấu trừ còn phân biệt được hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng trong
nước và hàng hóa dịch vụ xuất khẩu. Bởi hàng hóa dịch vụ xuất khẩu chịu mức thuế suất
0% đây là điều kiện quan trọng đối với tình trạng cạnh tranh rất lớn trong việc hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay.

10


Tuy nhiên không phải mọi chủ thể đều được nộp thuế theo phương pháp khấu trừ mà
phải đảm bảo những điều kiện sau:
- Chủ thể nộp thuế có hoạt động kinh doanh ổn định, chấp hành chế độ hoạch toán kế
toán, chế độ sử dụng chứng từ hóa đơn (hóa đơn GTGT) theo quy định hiện hành dành cho
các chủ thể kinh doanh. Cần lưu ý là chế độ kế toán chứng từ hóa đơn của các chủ thể nộp
thuế có thể khác nhau giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài về hệ thống kế toán, loại chứng từ hóa đơn phát hành.
- Đăng kí thuế và được cơ quan thuế cấp mã số thuế theo đúng trình tự luật định;
- Đăng kí với cơ quan thuế và được cơ quan thuế chấp nhận nộp thuế giá trị gia tăng
theo phương pháp khấu trừ.
Có thể nói, tính thuế theo phương pháp khấu trừ làm nổi bật về tính trung lập kinh tế

của thuế giá trị gia tăng, không làm tăng giá thành sản xuất, không phụ thuộc vào độ dài
ngắn của chu trình sản xuất và lưu thông của hàng hóa, dịch vụ.
1.2. Nhược điểm
Phương pháp nào dù ưu việt đến đâu cũng có những mặt hạn chế của nó, và phương
pháp khấu trừ cũng không phải là ngoại lệ. Đó là: số thuế được khấu trừ thực tế là dựa trên
những hóa đơn chứng từ, vì vậy, nếu hóa đơn chứng từ phản ánh nghiệp vụ phát sinh
không trung thực hoặc những hóa đơn, chứng từ khống thì rõ ràng lúc này số thuế nộp
không còn phản ánh đúng phạm vi mức độ của nghĩa vụ thuế giá trị gia tăng. Vì vậy, một
vấn đề cần chú trọng là phải tạo lập thói quen và sử dụng hóa đơn chứng từ hợp lệ và cùng
với các biện pháp đồng bộ khác nhằm đảm bảo cho hóa đơn chứng từ luôn được phản ánh
trung thực, đầy đủ thu nhập và hoạt động kinh doanh của các chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế.
2. Phương pháp trực tiếp
2.1. Ưu điểm
Phù hợp với những doanh nghiệp không có số thuế giá trị gia tăng mua vào, hoặc thuế
giá trị gia tăng mua vào là quá nhỏ so với số thuế giá trị gia tăng bán ra.
2.2. Nhược điểm
Thực tế quản lý thuế cho thấy chủ thể nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu
trừ thuế chiếm tỉ lệ không lớn so với tổng các chủ thể nộp thuế giá trị gia tăng vì: phương
pháp khấu trừ chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hóa đơn,
chứng từ theo quy định của của pháp luật về kế toán, hóa đơn, chứng từ và đăng ký nộp
thuế theo phương pháp khấu trừ thuế. Chủ thể nộp thuế theo phương pháp này chiếm tỉ lệ
lớn, nhưng tổng thu thuế giá trị gia tăng của các đối tượng này không cao, chi phí quản lí
thuế lớn so với các chủ thể nộp thuế theo phương pháp khấu trừ. Phương pháp trực tiếp
được áp dụng đối với các doanh nghiệp trong nước chưa thực hiện đầy đủ chế độ kế toán,
hóa đơn chứng từ và doanh nghiệp nước ngoài không có cơ sỏ thường trú tại Việt Nam.
Các hoạt động mua bán vàng, bạc, đá quý cũng áp dụng phương pháp trực tiếp.
3. Hoàn thiện phương pháp tính thuế và chứng từ kế toán thuế giá trị gia tăng
Trước hết, đối với các hộ kinh doanh cá thể không thể thực hiện được chế độ kế toán thì
cần quy định cho cơ quan thuế địa phương áp dụng hợp đồng thuế khoán theo tỷ lệ doanh
thu thực tế đầu ra. Tỷ lệ thuế khoán trên doanh thu của hộ kinh doanh cá thể cũng sẽ là cơ

11


sở để khấu trừ thuế cho doanh nghiệp đang thực hiện phương pháp khấu trừ thuế khi mua
hàng hóa, dịch vụ của hộ kinh doanh làm đầu vào cho sản xuất kinh doanh hàng hoám dịch
vụ chịu thuế GTGT của doanh nghiệp; để tính thuế GTGT bán hàng hóa, dịch vụ chịu thuế
GTGT cho các doanh nghiệp áp dụng phương pháp khấu trừ thuế GTGT để sản xuất, kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT. Cần cho phép các doanh nghiệp áp dụng phương
pháp khấu trừ sử dụng hóa đơn bán hàng hóa, dịch vụ thông thường của hàng mua vào làm
căn cứ để khấu trừ thuế GTGT. Đồng thời cần quy định lộ trình thực nghiệm hướng dẫn và
bắt buộc họ cam kết thời gian chuyển sang áp dụng thuế GTGT theo phương pháp khấu
trừ.
Nên áp dụng một phương pháp khấu trừ thuế, bỏ phương pháp tính thuế trực tiếp trên
phần giá trị tăng thêm bởi lẽ điều này trái với bản chất của thuế GTGT là thuế gián thu liên
hoàn và gây ra nhiều hậu quả tiêu cực cho xã hội. Nếu pháp luật thuế GTGT xác định
ngưỡng doanh thu chịu thuế thì phương pháp tính thuế trực tiếp sẽ không có cơ sở để tồn
tại.

KẾT LUẬN
Cũng như các quốc gia trên thế giới, hệ thống pháp luật Việt Nam được coi là thành tố
quan trọng trong hệ thống pháp luật kinh tế - tài chính. Trong quá trình đổi mới, xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò của hệ thống pháp luật về thuế
ngày càng trở nên rõ nét, tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo
nguồn lực tài chính để phục vụ hiệu quả cho hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Đến nay, hệ thống chính sách, pháp luật về thuế Việt Nam đã trải qua ba giai đoạn cải
cách và đã có một cơ cấu thuế tương tự các nước có nền kinh tế thị trường khác ở Châu Á.
Một cơ cấu hệ thống chính sách thuế phù hợp và đồng bộ sẽ là tiền đề để hệ thống thuế
phát huy được những chức năng cơ bản trong nên kinh tế thị trường, tạo cơ sở cho quá
trình hội nhập. Trước yêu cầu phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế trong thời kỳ đổi mới,
hệ thống pháp luật về thuế nói chung và hệ thống pháp luật về thuế giá trị gia tăng nói

riêng của Việt Nam cần được tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện, nhất là trong giai đoạn
2010 – 20120 nhằm đáp ứng nhu cầu khách quan của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước theo chủ trương mà đại hội Đảng lần thứ XII đã đề ra.
Trên cơ sở nghiên cứu “Phân tích các quy định của Luật thuế giá trị gia tăng về hai
phương pháp tính thuế giá trị gia tăng và liên hệ thực tiễn. So sánh hai phương pháp
tính thuế này. Đánh giá về ưu điểm và nhược điểm của từng phương pháp dưới góc độ
cơ quan quản lý thuế.” góp phần làm sáng tỏ vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện pháp
luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay, đồng thời đáp ứng một phần nhiệm vụ cải cách thuế
giai đoạn 2010 – 2020.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình Luật thuế Việt Nam, trường đại học luật Hà Nội, nxb Công an nhan dân;
12


2.
3.

Luật thuế giá trị gia tăng số 13/2008/QH12;
Luật thuế số 106/2016/QH13 giá trị gia tăng sửa đổi, bổ sung một số điều của luật

thuế giá trị gia tăng, luật thuế tiêu thụ đặc biệt và luật quản lý;
4. Nghị định 209/2013/NĐ – CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
Luật thuế giá trị gia tăng;
5. Thông tư 119/2014/BTC
6. “Một số bất cập trong quá trình thực hiện Luật thuế giá trị gia tăng”, Nghiêm Thị
Hà, Thanh tra số 1/2012;
7. “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật thuế giá trị gia tăng”, luận văn thạc

sĩ, tác giả Lê Thị Bích Liên;
8. “Pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp hoàn thiện”,
luận văn thạc sĩ, tác giả Trần Thị Minh Hiền;
9. Bài báo: “Thông tư 119 tháo gỡ bất cập về hai phương pháp tính thuế”, Tin tức
pháp luật;

13



×