Tải bản đầy đủ (.docx) (215 trang)

Hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp ở miền đông nam bộ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (815.65 KB, 215 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

VŨ TRUNG KIÊN

HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
- TƯ TƯỞNG CHO CÔNG NHÂN CÁC KHU
CÔNG NGHIỆP Ở MIỀN ĐÔNG NAM BỘ
HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA

HỒ CHÍ M

HỌC VIỆN BÁO
CHÍ VÀ TUYÊN
TRUYỀN


TR
UN
G
KI


ÊN

HIỆU QUẢ CÔNG
TÁC GIÁO DỤC
CHÍNH TRỊ - TƯ
TƯỞNG CHO
CÔNG NHÂN CÁC
KHU CÔNG
NGHIỆP Ở MIỀN
ĐÔNG NAM BỘ
HIỆN NAY

Ngành: Chính trị học


Chuyên ngành: Công tác tư tưởng
Mã số: 93 10 201

LUẬN ÁN TIẾN
SĨ CHÍNH TRỊ
HỌC

PGS,TS. Trần
NGƯỜI
Thị Anh Đào
HƯỚNG
DẪN KHOA
HỌC:



NỘI 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, tư liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Những kết quả nghiên cứu
trong luận án là trung thực, chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Tác giả luận án

Vũ Trung Kiên


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU -------------------------------------------------------------------------TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI, LUẬN ÁN-----------------------------------------------Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ-TƯ TƯỞNG CHO CÔNG NHÂN CÁC KHU
CÔNG NGHIỆP -----------------------------------------------------------------------1.1. Khái niệm giáo dục chính trị - tư tưởng ---------------------------------------1.2. Công nhân các khu công nghiệp và công tác giáo dục chính trị - tư tưởng
cho công nhân các khu công nghiệp--------------------------------------------------1.3. Hiệu quả, phân loại và tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác giáo dục chính
trị - tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp---------------------------------Chương 2: ĐẶC ĐIỂM; NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ THỰC
TRẠNG HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ - TƯ
TƯỞNG CHO CÔNG NHÂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở MIỀN
ĐÔNG NAM BỘ HIỆN NAY-------------------------------------------------------2.1. Đặc điểm; những yếu tố tác động đến hiệu quả công tác giáo dục chính trị
- tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp ở miền Đông Nam Bộ hiện
nay----------------------------------------------------------------------------------------2.2. Kết quả và thực trạng hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho
công nhân các khu công nghiệp ở miền Đông Nam Bộ---------------------------2.3. Những vấn đề đặt ra về hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng
cho công nhân các khu công nghiệp ở miền Đông Nam Bộ hiện nay-----------Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO
DỤC CHÍNH TRỊ - TƯ TƯỞNG CHO CÔNG NHÂN CÁC KHU CÔNG
NGHIỆP Ở MIỀN ĐÔNG NAM BỘ----------------------------------------------3.1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm, năng lực của các chủ thể; quan tâm xây

dựng tổ chức, bộ máy, con người-----------------------------------------------------3.2. Nâng cao tính tự giác, chủ động của đối tượng; trình độ chính trị và ý
thức trách nhiệm của người công nhân----------------------------------------------3.3. Nắm vững đặc điểm của công nhân các khu công nghiệp ở miền Đông
Nam Bộ để lựa chọn nội dung phù hợp----------------------------------------------3.4. Lựa chọn phương pháp, hình thức, phương tiện phù hợp--------------------3.5. Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của người công nhân, xây dựng môi
trường xã hội lành mạnh---------------------------------------------------------------3.6. Huy động và sử dụng hợp lý, tiết kiệm các nguồn lực------------------------KẾT LUẬN-----------------------------------------------------------------------------DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO------------------------------------------DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ----------PHỤ LỤC--------------------------------------------------------------------------

01
07
34
34
40
46

69
69
84
120
132
132
145
150
154
156
163
169
171
188
189


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BTG

: Ban Tuyên giáo

CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

CTTT

: Công tác tư tưởng

CT-XH

: Chính trị - Xã hội

ĐNB

: Đông Nam Bộ

GCCN

: Giai cấp công nhân

GDCT-TT

: Giáo dục chính trị - tư tưởng

HĐND


: Hội đồng nhân dân

KCN

: Khu công nghiệp

KCX

: Khu chế xuất

LĐLĐ

: Liên đoàn lao động

MTTQ

: Mặt trận Tổ quốc

Nxb

: Nhà xuất bản

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

TP

: Thành phố


UBND

: Ủy ban nhân dân

VH–XH

: Văn hóa - Xã hội


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
STT

Biểu đồ
2.1

T

L

Đ
Biểu đồ
2.2

T


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác giáo dục chính trị - tư tưởng (GDCT-TT) nói chung, công tác
GDCT-TT cho công nhân các khu công nghiệp (KCN) ở miền Đông Nam Bộ
(ĐNB) là một hoạt động quan trọng trong công tác tư tưởng (CTTT) của Đảng
nhằm truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp công nhân (GCCN). Đây là hoạt động
có tính mục đích, mang tính chủ động, tích cực của các chủ thể nhằm tác động
đến ý thức cộng đồng, ý thức cá nhân của người lao động nhằm xác lập vị trí chủ
đạo của chủ nghĩa C.Mác - V.I. Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đời sống tinh
thần xã hội, góp phần nâng cao nhận thức/ kiến thức; thái độ, niềm tin và tính
tích cực chính trị - xã hội (CT-XH), hướng đội ngũ công nhân thực hiện có hiệu
quả các nhiệm vụ chính trị của Đảng, chấp hành hiến pháp, pháp luật của Nhà
nước.
Từ đất nước tiến hành công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam
khởi xướng và lãnh đạo, trong đó có việc thành lập các KCN, khu chế xuất
(KCX), đã thu hút, tạo việc làm cho rất nhiều lao động. Từ đây, xuất hiện một bộ
phận công nhân mới: Công nhân trong các KCN.
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định vị trí và tầm quan trọng của GCCN
đối với sự phát triển của đất nước. Cùng với việc ban hành các chủ trương, chính
sách chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của công nhân trong các KCN,
Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng luôn quan tâm đến công tác GDCT-TT cho
đội ngũ này, trong đó có công nhân các KCN ở miền ĐNB. Trong những năm
qua công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở nước ta nói chung, ở các tỉnh
miền ĐNB nói riêng đã có nhiều đổi mới và đã đạt nhiều kết quả. Các chủ thể đã
quan tâm nhiều hơn thể hiện bằng việc nội dung ngày càng phong phú, đa dạng;
phương pháp, hình thức, phương tiện được chú trọng và tăng cường; các nguồn
lực giành cho công tác GDCT-TT đã được huy động, sử dụng cơ bản đầy đủ, hợp
lý và tiết kiệm; trình độ nhận thức chính trị của công nhân các KCN trên địa bàn
đã bước đầu được cải thiện…Tuy nhiên, hiệu quả của công tác này xét trên bình
diện nhiều mặt vẫn còn những hạn chế cần nhìn nhận, đánh giá thật trung thực,
khách quan cả từ lý luận đến thực tiễn để có các giải pháp khắc phục.



2

Những hạn chế, bất cập có thể kể tới là: Một bộ phận chủ thể chưa nhận thức đầy
đủ về công tác này và còn xem đó là việc của các cơ quan tuyên giáo; trình độ
học vấn, trình độ chính trị của một bộ phận công nhân các KCN còn hạn chế; nội
dung có nơi, có lúc còn dàn trải, ôm đồm, chưa xác định rõ những nội dung cốt
lõi cần chuyển tải trong khi nguồn lực, thời gian hạn hẹp; một bộ phận chủ thể
chưa được đào tạo chuyên sâu về kỹ năng; phương pháp, hình thức, phương tiện


nhiều nơi chậm được đổi mới; việc huy động và sử dụng hợp lý, tiết kiệm các

nguồn lực ngày càng khó khăn nhưng vẫn chưa có những giải pháp phù hợp để
sử dụng hiệu quả…Về phía người công nhân, vẫn có một bộ phận thiếu tổ chức,
còn mông lung, mơ hồ, ít quan tâm đến chính trị - tư tưởng nên dễ bị kích động,
bị các thế lực xấu lôi kéo dẫn tới các hiện tượng biểu tình, đình công trái pháp
luật, tự phát, đập phá…
Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) và hội nhập
quốc tế, GCCN nói chung, công nhân trong các KCN vẫn được Đảng Cộng sản
Việt Nam xác định là lực lượng quan trọng trong quá trình này. Trong bối cảnh
Việt Nam tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, nhất là Hiệp
định đối tác toàn diện tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) với những quy
định ngặt nghèo về tổ chức công đoàn và vấn đề lao động, công tác GDCT-TT
cho công nhân các KCN càng trở nên quan trọng và bức thiết.
Trong công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN, một vấn đề quan
trọng hàng đầu cần phải lưu tâm là vấn đề hiệu quả. Nếu công tác này mang lại
những hiệu quả thiết thực chính là đã mang lại kết quả thực chất, hạn chế lãng
phí và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Để công tác GDCT-TT cho công nhân

các KCN ở miền Đông Nam Bộ mang lại hiệu quả thiết thực, cần có những
nghiên cứu, bổ sung, phát triển cả lý luận và thực tiễn nhằm giải quyết những
vấn đề mà cả lý luận và thực tiễn đang đặt ra. Vì vậy, việc tìm nguyên nhân chủ
yếu, quan trọng để nâng cao hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các
KCN ở miền ĐNB hiện nay là việc làm cần thiết.
Từ những lý do nêu trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Hiệu quả công tác
giáo dục chính trị - tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp ở miền


3

Đông Nam Bộ hiện nay” để triển khai thực hiện Luận án tiến sĩ Chính trị học,
chuyên ngành CTTT.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.

2.1.

Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu đề tài để nâng cao hiệu quả của công tác GDCT-TT cho công
nhân các KCN ở miền ĐNB, góp phần xây dựng đội ngũ công nhân về chính trị tư tưởng.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
-

Tổng quan những công trình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên

quan đến đề tài; nhận xét khái quát về kết quả đã nghiên cứu và đề ra các hướng
nghiên cứu tiếp theo.

-

Luận giải làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả công tác

GDCT-TT cho công nhân các KCN.
-

Khảo sát và đánh giá thực trạng hiệu quả công tác GDCT-TT cho công

nhân các KCN ở miền ĐNB hiện nay.
-

Xác định những vấn đề đặt ra và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm

nâng cao hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở miền ĐNB
trong những năm tiếp theo.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các
KCN ở miền ĐNB.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
-

Về nội dung: Luận án nghiên cứu về hiệu quả công tác GDCT-TT cho

công nhân làm việc trong các KCN; bao gồm cả công nhân làm việc trong các
KCX các tỉnh, thành ở miền ĐNB.
-

Về không gian: Luận án khảo sát, lấy số liệu thực tế của 03 tỉnh, thành


có đông công nhân trong các KCN là: Thành phố (TP) Hồ Chí Minh, Đồng Nai
và Bình Dương.
-

Về thời gian: Khảo sát, nghiên cứu từ năm 2014 đến năm 2018.


4
4.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1.

Cơ sở lý luận

Luận án dựa trên các nguyên lý lý luận của Chủ nghĩa C.Mác - V.I. Lênin,
Tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước; các nhiệm vụ, giải pháp của các địa phương ở
miền ĐNB về CTTT, hiệu quả CTTT, công tác GDCT-TT, hiệu quả công tác
GDCT-TT, công tác tuyên giáo, công tác GDCT-TT cho công nhân. Luận án dựa
trên các quan điểm của lý luận chính trị học hiện đại và kế thừa, có chọn lọc kết
quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đến đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu khoa học:
Phương pháp phân tích và tổng hợp: Được sử dụng để nghiên cứu các chủ
trương, nghị quyết của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; báo cáo của

BTG, Công đoàn các cấp của các tỉnh, thành trên địa bàn; các công trình khoa
học trong và ngoài nước có liên quan đến Luận án.
Phương pháp lôgic và lịch sử: Sử dụng phương pháp lôgic để tìm ra mối
liên hệ bản chất, tính tất yếu, quy luật các nội dung có liên quan đến đề tài. Luận
án trình bày vấn đề theo trình tự các công trình nghiên cứu ngoài nước đến các
công trình nghiên cứu trong nước; trình bày theo trình tự thời gian để có cơ sở
tham chiếu sự hoàn thiện, bổ sung, phát triển các quan điểm, quan niệm về các
nội dung có liên quan đến đề tài qua từng giai đoạn, thời gian.
Phương pháp thống kê, so sánh và quan sát: Thống kê các số liệu có liên
quan đến công tác tuyên truyền, công tác GDCT-TT, hiệu quả công tác GDCTAT

cho công nhân các KCN ở các tỉnh, thành miền ĐNB với nhau; so sánh đánh

giá, nhận xét của chủ thể và đối tượng; so sánh, đánh giá, nhận xét của các đối
tượng công nhân các KCN khác nhau trên địa bàn về độ tuổi, trình độ học vấn,
quê quán...để vừa đảm bảo độ tin cậy của số liệu, vừa có đánh giá chính xác
nhằm đề ra các giải pháp phù hợp các đối tượng khác nhau...
Phương pháp tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận: Luận án tìm hiểu
những tài liệu của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan và thực


5

tiễn công tác GDCT-TT, hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN
làm cơ sở cho việc xây dựng khung lý thuyết cũng như đánh giá thực trạng và đề
ra giải pháp.
Phương pháp điều tra xã hội học: Luận án sử dụng phương pháp điều tra
bằng bảng hỏi nhằm đưa ra những chỉ số đánh giá về hiệu quả công tác GDCTAT

theo các chỉ số từ: Tiếp cận, các chỉ số về nhận thức, kiến thức; niềm tin, thái


độ; hình thành tính tích cực xã hội. Thông tin thu thập được từ bảng hỏi được xử
lý để phục vụ cho việc lượng hóa các nhóm vấn đề liên quan đến đánh giá hiệu
quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở miền ĐNB. Kết quả cụ thể
của việc nghiên cứu sẽ được phân tích sâu trong chương 2 của Luận án.
Luận án khảo sát: 600 phiếu với đối tượng là CN các KCN ở miền ĐNB.
5. Đóng góp mới của luận án
-

Luận án góp phần làm rõ hơn quan niệm về công nhân các KCN và công

nhân các KCN ở miền ĐNB; đặc điểm công nhân các KCN ở miền ĐNB.
-

Luận án đưa ra các khái niệm: Tư tưởng, hệ tư tưởng, chính trị, GDCT-

TT, GDCT-TT cho công nhân các KCN.
-

Từ tiêu chí phân loại hiệu quả và tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác

GDCT-TT nói chung, nghiên cứu sinh đã cụ thể hóa vào đối tượng là công nhân
các KCN ở miền ĐNB; bổ sung một phần các tiêu chí đánh giá cho phù hợp đối
tượng là công nhân các KCN.
-

Luận án đưa ra quan niệm về hiệu quả công tác GDCT-TT; phân tích nội

hàm của quan niệm đó; nêu ra các tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác GDCT-TT
cho công nhân các KCN.

-

Từ việc phân tích những yếu tố tác động và chi phối đến hiệu quả công

tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở miền ĐNB, Luận án đã phân tích thực
trạng hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở miền ĐNB hiện
nay.


6
-

Luận án xác định được sáu vấn đề đặt ra và sáu nhóm giải pháp nâng cao

hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở miền ĐNB những năm
tiếp theo.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
-

Kết quả nghiên cứu góp phần luận giải rõ hơn về khái niệm, các tiêu chí

đánh giá hiệu quả tác GDCT-TT trong một đối tượng cụ thể là công nhân các
KCN ở miền ĐNB.
-

Với kết quả nghiên cứu đạt được, Luận án có thể cung cấp luận cứ khoa

học phục vụ cho lãnh đạo các bộ, ngành, tỉnh, thành ủy, UBND các tỉnh, thành
phố, đặc biệt là BTG Trung ương, BTG ở các địa phương ở miền ĐNB; Liên
đoàn Lao động (LĐLĐ) các cấp, công đoàn các KCN ở miền ĐNB trong việc

nâng cao hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân.
-

Kết quả nghiên cứu có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ BTG,

công đoàn các cấp; làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, học tập những nội
dung liên quan về CTTT, về vận động quần chúng, về vận động công nhân.
7. Cấu trúc của Luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu, kết luận, phụ lục và
danh mục tài liệu tham khảo, Luận án có kết cấu 03 chương, 12 tiết.


7

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.

Các công trình nghiên cứu về công tác giáo dục chính trị - tư tưởng

1.1. Công trình nghiên cứu của nước ngoài


Việt Nam đã có nhiều cuốn sách của Liên Xô có liên quan đến nội dung

này đã được dịch ra tiếng Việt như: Hoạt động tư tưởng của ĐCS Liên Xô do X.L
Xu-rơ-ni-tren-cô (chủ biên); Phương pháp luận công tác giáo dục tư tưởng của
D.A. Vôn-cô-gô-nốp”…Các công trình này dù chưa đưa ra định nghĩa về công
tác GDCT-TT nhưng đã đưa ra nhiệm vụ và phương hướng cơ bản của công tác
GDCT-TT. Cuốn sách Chủ nghĩa cộng sản khoa học từ điển do A.M. Ru-mi-antxép (chủ biên) (bản dịch tiếng Việt), các tác giả cũng không đưa ra khái niệm

GDCT-TT mà giải thích về giáo dục cộng sản chủ nghĩa là: “Sự hình thành một
cách có mục đích, có hệ thống và có kế hoạch những con người có lòng trung
thành với chủ nghĩa cộng sản” [8, tr.151]. Theo quan điểm này, nội hàm của giáo
dục cộng sản chủ nghĩa rất rộng, bao gồm cả GDCT-TT; giáo dục lao động; giáo
dục nghề nghiệp; giáo dục phổ thông.
Các nhà khoa học phương Tây thường chỉ sử dụng thuật ngữ tuyên truyền
chính trị để chỉ hoạt động truyền bá những nội dung liên quan đến việc giành,
giữ chính quyền của các đảng chính trị. Trên Trang nghiên cứu về tuyên truyền
của Đức Quốc xã [189], thuật ngữ tuyên truyền chính trị được dùng gần như phổ
biến để chỉ hoạt động truyền bá đường lối, chính sách của đảng cầm quyền. Hiện
trên trang này còn lưu trữ cuốn sách nhỏ về kỹ thuật tuyên truyền của Đức Quốc
xã do Paul Joseph Goebbels, Bộ trưởng Bộ Giác ngộ quần chúng và Tuyên
truyền của Đức Quốc xã viết về kỹ thuật tuyên truyền [189].


Trung Quốc, trong một số công trình, các tác giả thường chỉ sử dụng

một thuật ngữ là “思思思思思思” (GDCT-TT) và cũng đôi khi sử dụng thuật ngữ “思思
思思” (giáo dục tư tưởng). Cuốn sách CTTT lý luận của Đảng Cộng
sản Trung Quốc trong thời kỳ cải cách và mở cửa (bản dịch tiếng Việt) sử dụng
cả 02 cách trình bày thuật ngữ là: GDCTTT (không có dấu gạch ngang) và giáo
dục tư tưởng [51, tr.32], tuy nhiên, thuật ngữ GDCTTT được dùng phổ biến hơn.


8

Cuốn sách Công tác tuyên truyền tư tưởng trong thời kỳ mới của Cục Cán bộ,
Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc chỉ sử dụng một thuật
ngữ duy nhất là Công tác chính trị tư tưởng. Các tác giả trong cuốn sách này cho
rằng nội dung cơ bản của công tác chính trị tư tưởng là: “Lấy giáo dục niềm tin

vào lý tưởng làm cốt lõi, triển khai mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục trên các mặt lý
luận cơ bản, đường lối cơ bản, cương lĩnh cơ bản của Đảng, chủ nghĩa yêu nước”
[53, tr.226 và 270]. Tác giả Hoàng Chí Bân trong cuốn Phương pháp luận về
GDCTTT đương đại (tiếng Trung) đã nêu lên một cách có hệ thống những nội
dung, phương pháp luận trong GDCT-TT [192].
Trang Bách khoa toàn thư Trung Quốc (Baidu - Bách Độ), mục “ 思思思思思
思” (GDCTTT) quan niệm: “GDCT-TT là những quan niệm tư tưởng, quan điểm
chính trị, quy phạm đạo đức của một xã hội hoặc một tập thể xã hội và nó ảnh
hưởng mang tính mục đích, kế hoạch, tổ chức lên mỗi thành viên trong xã hội
đó, từ đó khiến họ hình thành nên những hoạt động thực tiễn và phẩm chất đạo
đức phù hợp với yêu cầu của xã hội [198]. Theo đó, nội dung GDCTTT ở Trung
Quốc hiện nay bao gồm giáo dục chủ nghĩa yêu nước; chủ nghĩa tập thể; giáo
dục CNXH; giáo dục lý tưởng [198]. Quan niệm này cơ bản thống nhất với quan
điểm về GDCT-TT mà các nhà khoa học Trung Quốc đưa ra trong cuốn sách
Công tác tuyên truyền tư tưởng trong thời kỳ mới.
1.2. Công trình nghiên cứu trong nước
Cuốn sách chuyên khảo Cơ sở lý luận CTTT của Đảng Cộng sản Việt
Nam, tác giả Lương Khắc Hiếu cho rằng GDCT-TT là một trong 04 nội dung cơ
bản của giáo dục tư tưởng [86, tr.175-186]. Tác giả Trần Thị Anh Đào trong hai
cuốn sách chuyên khảo CTTT và vấn đề đào tạo cán bộ làm CTTT và CTTT
trong sự nghiệp CNH, HĐH đã đề cập khá toàn diện về lý luận của CTTT nói
chung và CTTT nói riêng, trong đó có luận giải về phẩm chất và năng lực của
đội ngũ cán bộ làm CTTT. Giáo trình Nguyên lý CTTT, do tác giả Lương Khắc
Hiếu (chủ biên) quan niệm GDCT-TT có chức năng “trang bị cho nhân dân lao
động một hệ thống những kiến thức về lĩnh vực chính trị của đời sống xã hội,
trên cơ sở đó hình thành ý thức giác ngộ chính trị, hình thành những quan niệm,
quan điểm đúng đắn về các vấn đề chính trị mà quan trọng nhất là hiểu rõ và
nắm vững đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, trách nhiệm và nghĩa vụ



9

công dân [82, tr.183]. Theo đó, mỗi lĩnh vực của xã hội đều có một tư tưởng
tương ứng và chắc chắn tương ứng với chính trị có tư tưởng chính trị. Tất tất cả
các hoạt động giáo dục tư tưởng khác nhau đều “phải trực tiếp hoặc gián tiếp xây
dựng nền tảng cho GDCT-TT và gắn bó hữu cơ với GDCT-TT” [82, tr.183-184].
Tài liệu Bồi dưỡng Bí thư Chi bộ và cấp ủy viên cơ sở (2017), BTG Trung
ương, cho rằng GDCT-TT ở cơ sở hiện nay gồm rất nhiều nội dung, trong đó có
nội dung rất quan trọng là giáo dục lý luận chính trị, bao gồm giáo dục nhận thức
về Chủ nghĩa C.Mác - V.I. Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh [14, tr.52-53]. Tác giả
Cao Xuân Trung trong luận án Tiến sĩ tâm lý học Những điều kiện tâm lý sư
phạm nâng cao hiệu quả GDCT-TT cho quân nhân ở đơn vị cơ sở đưa ra khái
niệm GDCT-TT cho quân nhân là hoạt động có mục đích, có tổ chức và bằng
phương pháp khoa học của người giáo dục “tác động vào nhận thức, tình cảm, ý
chí của quân nhân nhằm hình thành, phát triển ở họ thế giới quan, lý tưởng, niềm
tin, phẩm chất chính trị-tư tưởng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng của
Đảng, quân đội trong từng giai đoạn cách mạng [177, tr.30].
Tác giả Lương Ngọc Vĩnh trong Luận án tiến sĩ Chính trị học chuyên
ngành CTTT Hiệu quả công tác GDCT-TT trong học viên các học viện quân sự
ở nước ta hiện nay quan niệm:
Công tác GDCT-TT của Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận
của CTTT nhằm truyền bá Chủ nghĩa C.Mác - V.I. Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước,
các tri thức và giá trị chính trị của nhân loại, những truyền thống chính trị
của GCCN và dân tộc, những sự kiện chính trị trong nước và quốc tế…để
nâng cao nhận thức chính trị, hình thành niềm tin và cổ vũ tính tích cực CTXH của cán bộ, đảng viên và quần chúng trong quá trình xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN [182, tr.38].
Như vậy, có thể tên gọi khác nhau nhưng các nhà khoa học đều thống
nhất quan nhiệm công tác GDCT-TT nhằm truyền bá hệ tư tưởng, cương lĩnh,
đường lối, chiến lược, sách lược của chủ thể (có thể là của một giai cấp, của

một


10

chính đảng, của một lực lượng) trong quần chúng với mục đích giác ngộ, lôi kéo
quần chúng đi theo thế giới quan và niềm tin mà chủ thể mong muốn.
2.

Các công trình nghiên cứu về công tác giáo dục chính trị - tư tưởng

cho công nhân
2.1. Công trình nghiên cứu của nước ngoài
Tập thể tác giả Trung Quốc trong cuốn sách Công tác xây dựng Đảng ở
doanh nghiệp ngoài quốc doanh (bản dịch tiếng Việt) đã đề cập đến vị trí, vai trò
của công tác xây dựng Đảng trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng như
các giải pháp để đảm bảo lợi ích hài hòa giữa chủ doanh nghiệp nghiệp và người
lao động, một trong những giải pháp được đề cập đó là định hướng về chính trị
[52, tr.234].
Tác giả Lý Quần trong bài viết Tăng cường CTTT trong doanh nghiệp để
đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu (tiếng Việt) cho rằng một trong
những nhiệm vụ của CTTT trong các doanh nghiệp là thông qua “nói” và “làm”
để phấn đấu “vì sự phát triển hài hòa của doanh nghiệp [51, tr.168]. Tác giả Từ
Trí trong bài viết Tìm tòi phương pháp đổi mới CTTT trong doanh nghiệp (tiếng
Việt), cho rằng CTTT của doanh nghiệp “xét đến cùng đó là công tác quần
chúng, làm tốt CTTT trong doanh nghiệp để thúc đẩy xây dựng doanh nghiệp hài
hòa [51, tr.161-168]. Tác giả Tống Quảng Phát trong bài viết Phát triển công tác
chính trị, tư tưởng tại các xí nghiệp trong bối cảnh mới hiện nay như thế nào?
(tiếng Trung) khẳng định các công ty nếu làm tốt công tác chính trị, tư tưởng thì
mới có thể phát huy tốt nhất năng lực tiềm ẩn của mỗi người, “tăng cường tinh

thần trách nhiệm của công nhân, phát huy nhiệt tình cống hiến và lòng trung
thành đối với sự ổn định và phát triển của các xí nghiệp” [196].
2.2. Công trình nghiên cứu trong nước
Tác giả Dương Xuân Ngọc trong cuốn GCCN Việt Nam trong sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước khẳng định cần “nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị,
trình độ học vấn và tay nghề, bồi dưỡng tác phong công nghiệp, thực hiện “trí
thức hóa công nhân” [133, tr.216]. Cuốn sách Công tác chính trị, tư tưởng trong
GCCN Đồng Nai - Thực trạng và giải pháp, các tác giả đã đưa ra các nhóm giải
pháp về công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN là: Tăng cường công tác


11

phát triển Đảng và giáo dục pháp luật cho công nhân; thực hiện có hiệu quả quy
chế dân chủ ở cơ sở [154, tr.146-154]. Tác giả Nguyễn An Ninh trong sách Về xu
hướng công nhân ở nước ta hiện nay cho rằng để hệ giá trị của GCCN trở thành
một hệ giá trị - xã hội cần rất nhiều giải pháp, trong đó cần chú trọng định hướng
cuộc đấu tranh của những người lao động, tổ chức họ lại, giáo dục họ trong cuộc
đấu tranh cả lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, bảo vệ, tôn vinh những giá trị
của GCCN [135, tr.256-259]. Tác giả Văn Tạo trong cuốn sách Đổi mới tư duy
về GCCN - Kinh tế tri thức và công nhân tri thức cho rằng cần “trí thức hóa công
nhân và đào tạo ra nhiều công nhân tri thức…Có chính sách phát hiện, bồi dưỡng
sử dụng nhân tài trên mặt trận lý luận xuất hiện trong GCCN và phong trào công
nhân” [153, tr.213 và 224]. Cuốn sách Đảng lãnh đạo GCCN trong giai đoạn
hiện nay của tác giả Nguyễn Văn Giang đã đề xuất nhiều nhóm giải pháp, một
trong những nhóm giải pháp đầu tiên mà tác giả đề xuất là “nâng cao chất lượng,
hiệu quả tuyên truyền, quán triệt chủ trương, quan điểm của Đảng về xây dựng
GCCN đối với cán bộ, đảng viên, tổ chức Đảng và người sử dụng lao động” [78,
tr.155]. Cuốn sách GCCN và tổ chức công đoàn Việt Nam trong những năm đầu
thế kỷ XXI, tác giả Nguyễn Viết Vượng đưa ra 09 giải pháp, trong đó có giải

pháp được xác định là “tuyên truyền, giáo dục nâng cao bản lĩnh chính trị của
GCCN” [183, tr.281]. Tác giả Bùi Kim Hậu trong cuốn sách Trí thức hóa công
nhân Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay coi công tác tuyên truyền,
giáo dục là biện pháp quan trọng để nâng cao tác phong công nghiệp và ý thức
chính trị cho công nhân và cho rằng các tổ chức đoàn thể, doanh nghiệp cần
thường xuyên mở các lớp tập huấn tuyên truyền, giáo dục để nâng cao ý thức
pháp luật cho công nhân, “tổ chức nhiều phong trào thi đua, nêu gương những
điển hình tiên tiến trong lao động” [81, tr.166]. Đề tài GDCT,TT cho công nhân
lao động trong các KCN, KCX hiện nay cho rằng GDCTTT cho công nhân các
KCN hiện nay không chỉ nhằm bồi dưỡng và nâng cao nhận thức cơ bản về
đường lối cách mạng của Đảng trên cơ sở nguyên lý của Chủ nghĩa C.Mác Lênin, không chỉ dừng lại ở biểu dương cái hay, phê phán cái xấu mà ở chỗ giải
quyết những vấn đề bức xúc, cấp bách trong công nhân lao động các KCN, dẫn
dắt công nhân vươn lên trong học tập, lao động, sản xuất [75].


12

Nhiều bài báo, bài nghiên cứu cũng đã đi vào phân tích thực trạng cũng
như đề ra các giải pháp hữu hiệu nhằm thực hiện có hiệu quả công tác GDCTTT
cho công nhân. Trong bài viết GDCT,TT trong công nhân - Kinh nghiệm từ TP.
Hồ Chí Minh, tác giả Vũ Thị Mai Oanh đã khái quát 02 nhóm kinh nghiệm trong
công tác này từ thực tiễn TP. Hồ Chí Minh là: Kiên trì xây dựng và hoàn thiện
các tổ chức chính trị - xã hội của công nhân trong các loại hình doanh nghiệp;
tạo chuyển biến căn bản trong công tác GDCT,TT, nâng cao ý thức chính trị cho
GCCN [139, tr.44-46]. Tác giả Nguyễn An Ninh và Tô Văn Sơn trong bài viết
Vài vấn đề đặt ra từ công tác DCT,TT cho công nhân trong các KCN, KCX trên
Tạp chí Lao động và Công đoàn đã nêu lên 04 hạn chế của CTGDCT,TT cho
công nhân các KCN là: Nội dung chưa sát hợp, vừa ôm đồm, vừa thiếu sót;
phương pháp giáo dục cũ mòn, xơ cứng, chưa phù hợp với đối tượng và môi
trường của KCN; lãnh đạo buông lỏng, tổ chức thiếu phối hợp, đơn tuyến, thời

vụ; nhân lực thiếu chuyên nghiệp, thiếu điều kiện vật chất [137, tr.14-15].
Ngoài ra, về hiệu quả công tác GDCTTT nói chung, hiệu quả công tác
GDCT-TT cho công nhân các KCN nói riêng còn có nhiều báo cáo có liên quan
góp phần làm rõ thêm cho công tác này, đó là các cuốn sách, tài liệu tổng kết
năm của BTG Trung ương như: Hữu Hữu Thọ, Đào Duy Quát (chủ biên) (1999),
Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả CTTT và văn hóa trong tình
hình mới, Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Hà Nội. BTG Trung ương
(2008), Tiếp tục đổi mới, nâng cao tính chiến đấu, sự sắc bén, chất lượng và
hiệu quả công tác tuyên giáo, Hà Nội; BTG Trung ương (2009), Tập trung trí
tuệ, tâm huyết, phát huy sức mạnh tổng hợp, thực hiện có hiệu quả công tác
tuyên giáo... Một số bài viết như: Phạm Huy Kỳ (2009), Các loại hình tuyên
truyền và tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả các loại hình tuyên truyền, Tạp chí Lý
luận Chính trị và Truyền thông, (số 10); Phạm Huy Kỳ (2012), Nâng cao tính
thuyết phục của công tác tư tưởng trong điều kiện hiện nay, Tạp chí Tuyên giáo,
(số 10). Các giáo trình, tài liệu tuyên truyền cho công nhân do Tổng LĐLĐ Việt
Nam và các tỉnh, thành vùng ĐNB phát hành; các báo cáo của các cấp ủy, chính
quyền các cấp, LĐLĐ ở các tỉnh, thành ở miền ĐNB.


13

3. Các công trình nghiên cứu về hiệu quả giáo dục chính trị - tư tưởng
3.1. Nghiên cứu về khái niệm hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng

3.1.1. Công trình nghiên cứu của nước ngoài
Trong cuốn Hoạt động tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên Xô, các nhà
khoa học Xô Viết đã đưa ra khái niệm hiệu quả của công tác GD-TT (các nhà
khoa học Liên Xô dùng thuật ngữ này) “là tương quan của những kết quả tác
động tư tưởng đã đạt được so với mục tiêu xây dựng giác ngộ cộng sản chủ nghĩa
và phẩm hạnh cộng sản chủ nghĩa của con người” [184, tr.299]. Theo cách hiểu

này, hiệu quả công tác GDCT-TT là tương quan giữa kết quả và mục tiêu. Khi
đưa ra khái niệm này, các nhà khoa học Xô Viết đã tính tới hiệu quả cuối cùng và
hiệu quả từng giai đoạn, từng thời điểm, từng nội dung của CTTT trong những
công việc, những thời gian cụ thể. Tác giả Bưrôđanốp, trong cuốn sách Xã hội
học và công tác Đảng cho rằng “hiệu quả là sự ăn khớp một phần hay hoàn toàn
của kết quả với mục đích” [86, tr.288].
Các nhà khoa học Trung Quốc khi bàn về hiệu quả công tác GDCTTT
chưa đưa ra khái niệm cụ thể. Trong bài viết Đánh giá tính hiệu quả của công
tác GDCTTT (tiếng Trung) trên website Trường Đảng tỉnh Sơn Đông, các tác giả
Tào Tổ Minh và Trần Đình cho rằng đánh giá tính hiệu quả của công tác
GDCTTT là “thể hiện ở việc đáp ứng nhu cầu tương ứng và đạt được mục đích
tương ứng của người học (…) phán đoán kết quả của hoạt động GDCTTT với
việc phù hợp mục tiêu dự kiến và khả năng phát huy chức năng của giáo dục”
[195]. Các tác giả trên quan niệm đánh giá hiệu quả công tác GDCT-TT là so
sánh giữa kết quả với mục tiêu và mục đích. Hoạt động thì so sánh với mục tiêu,
song hiệu quả phải so sánh với mục đích. Mục đích chỉ có một, nhưng mục tiêu
có thể có nhiều và có thể thay đổi.
3.1.2. Công trình nghiên cứu trong nước
Giáo trình Nguyên lý CTTT do Lương Khắc Hiếu (chủ biên) đưa ra khái
niệm hiệu quả CTTT là: “Sự tương quan giữa kết quả đạt được do tác động tư
tưởng mang lại với mục đích của CTTT được đặt ra và với chi phí để đạt được
kết quả đó trong một điều kiện xã hội nhất định” [83, tr.280]. Tác giả đã phân
biệt sự khác nhau giữa hiệu quả và kết quả và cho rằng kết quả chưa tính đến yếu


14

tố chi phí, còn hiệu quả là sự so sánh giữa kết quả với mục đích và chi phí. Trong
cuốn sách chuyên khảo Cơ sở lý luận CTTT của Đảng Cộng sản Việt Nam, tác
giả Lương Khắc Hiếu đã bổ sung khái niệm trên, song về cơ bản vẫn giữ nguyên

nội hàm khái niệm [86, tr.290]. Thống nhất với quan điểm này, tác giả Trần Thị
Anh Đào trong cuốn CTTT trong sự nghiệp CNH, HĐH cho rằng “Hiệu quả
CTTT là sự tương quan giữa kết quả mà CTTT đạt được so với mục đích của
CTTT được xác định từ trước trong một điều kiện xã hội nhất định và với một
chi phí nhất định” [60, tr.38]. Tác giả cho rằng hiệu quả tỷ lệ nghịch với mục
đích và chi phí nhưng nếu chi phí bằng không hoặc xác định mục đích quá thấp
cũng không thể đạt được hiệu quả như mong muốn.
Một số bài viết của các tác giả trong nước cũng đã đưa ra khái niệm hiệu
quả GDCTTT. Tác giả Lương Ngọc Vĩnh trong bài viết Bàn về tiêu chí hiệu quả
của GDCT-TT cho học viên các nhà trường quân đội đã đưa ra khái niệm: “Hiệu
quả GDCT-TT cho học viên là sự tương quan giữa kết quả đạt được với mục đích
đặt ra và việc sử dụng hợp lý các nguồn lực trong những điều kiện cụ thể” [181].
Tác giả Nguyễn Văn Dưỡng quan niệm: “Hiệu quả CTTT là kết quả thu được so
với mục đích của CTTT đặt ra với việc sử dụng tối ưu mọi khả năng hoạt động
của CTTT trong một điều kiện lịch sử xác định” [58, tr.08]. Tác giả Lương Ngọc
Vĩnh trong Luận án tiến sỹ Chính trị học chuyên ngành CTTT đã đưa ra khái
niệm hiệu quả công tác GDCT-TT là: “Sự tương quan giữa kết quả lĩnh hội tri
thức chính trị, hình thành niềm tin chính trị và tính tích cực CT-XH ở đối tượng
sau tác động giáo dục của chủ thể với mục đích đã xác định và sử dụng hợp lý
các nguồn lực để đạt kết quả đó trong những điều kiện cụ thể” [182, tr.52]. Như
vậy, theo tác giả này, hiệu quả công tác GDCT-TT chính là kết quả đạt được,
nhưng là kết quả được “đo” ở cấp độ cao tức sự hiểu biết, tính tích cực CT-XH
của đối tượng so với lúc ban đầu - khi chủ thể chưa tác động - và có so sánh về
sử dụng hợp lý các nguồn lực.
Từ các công trình nghiên cứu nêu trên cho thấy, mặc dù các quan niệm
đưa ra có thể có những điểm chưa thống nhất, nhưng đều có điểm chung khi
quan niệm hiệu quả là tương quan hoặc so sánh giữa kết quả với mục đích đề ra
và chi phí để đạt mục đích ấy trong những điều kiện nhất định. Trong số các
công trình này, có những công trình chỉ đề cập và so sánh giữa kết quả và chi



15

phí, cũng có công trình so sánh kết quả và mục đích. Ngoài ra, các công trình
nghiên cứu nêu trên đều đưa ra cách phân loại cũng như các yếu tố tác động ảnh
hưởng đến hiệu quả CTTT, hiệu quả công tác GDCT-TT.
3.2. Nghiên cứu về đánh giá hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng

Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, hiệu quả luôn được đặt lên hàng đầu,
có lẽ vì vậy mà vấn đề hiệu quả luôn được xem xét rất kỹ. Tất nhiên, hiệu quả
trong lĩnh vực kinh tế không hẳn chỉ là những kết quả đạt được sau khi trừ đi chi
phí. Chẳng hạn, với các cơ sở sản xuất kinh doanh cụ thể thì thường đánh giá
theo tiêu chí này; tuy vậy, trên một bình diện lớn hơn, chẳng hạn trên bình diện
xã hội, hiệu quả kinh tế không hẳn là kết quả sau khi trừ chi phí mà còn có
những hiệu quả khác đi kèm. Một công ty sẽ đánh giá hiệu quả chủ yếu là lợi
nhuận thu được sau khi trừ đi chi phí; thế nhưng, với cấp ủy, chính quyền địa
phương nơi công ty hoạt động sẽ thu được những hiệu quả khác như tạo công ăn
việc làm cho người dân địa phương, thúc đẩy kinh doanh buôn bán, các dịch vụ
khác đi kèm…Đó chính là hiệu quả ngoài dự định nhưng hiệu quả này có ý nghĩa
rất quan trọng.
Trong kinh tế học, hiệu quả kinh tế được biểu hiện qua phạm trù hiệu quả
kinh doanh, công thức tính thường là H=K/C. Theo đó, H là hiệu quả kinh tế của
một hiện tượng (quá trình kinh tế) nào đó; K là kết quả thu được từ quá trình
kinh tế và C là chi phí toàn bộ để đạt kết quả đó; bao gồm các chi phí về nguồn
lực, nhân lực, thời gian…Như vậy có thể thấy, hiệu quả kinh tế phản ánh chất
lượng hoạt động kinh tế được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được với chi
phí bỏ ra để đạt kết quả đó [79, tr.408]. Quan điểm này đã đánh giá tốt nhất trình
độ sử dụng các nguồn lực ở mọi điều kiện của hoạt động của doanh nghiệp và
không bị phụ thuộc vào quy mô và tốc độ biến động của các hoạt động kinh tế.
3.2.1. Công trình nghiên cứu của nước ngoài

Đối với giới kinh tế trên thế giới thì hiệu quả Pareto (Effective pareto) hay
nguyên tắc Pareto (Pareto Prinpicle) hay còn gọi là nguyên lý 80/20 thông dụng
đến nỗi Josef Steindl, một nhà kinh tế của Áo đã khẳng định rằng “nó lừng lững
tồn tại trong lĩnh vực kinh tế như một tảng đá bất trị” [150, tr.11]. Hiệu quả
Pareto hay còn gọi là tối ưu Pareto là một trong những lý thuyết được


16

xem là trung tâm của kinh tế học và ngày nay nó đã được ứng dụng rộng rãi
trong nhiều ngành khoa học khác, trong đó có cả khoa học xã hội, nhất là trong
lĩnh vực giáo dục.
Các doanh nghiệp đương nhiên quan tâm hiệu quả kinh tế nhưng không
chỉ là sự so sánh giữa chi phí đầu vào và kết quả thu được ở đầu ra mà là việc
thực hiện đồng bộ nhiều chính sách xã hội khác của doanh nghiệp. Nội dung này
đã được RiChard Koch trong cuốn sách Nguyên lý 80/20 khẳng định: “Các
doanh nghiệp phải có tinh thần doanh nghiệp xã hội” [150, tr.396] và cho rằng
khi áp dụng nguyên lý 80/20 trong giáo dục cần “xác định một số ít đòn bẩy thực
sự quan trọng có thể đưa đến những kết quả phi thường, phân quyền và cạnh
tranh” [150, tr.396]. Tác giả cho rằng có một vài lý do ít ỏi thực sự quan trọng có
thể lý giải cho hiệu quả hoạt động giáo dục ưu việt; đó là các phương pháp hay
cách tiếp cận có thể mang lại kết quả phi thường khi khẳng định: “Luôn có một
số nhỏ những phương pháp, những người thực hiện, những nguyên nhân và
những cách tiếp cận, tạo ra được những kết quả cao hơn nhiều” [150, tr.399]. Lee
Thomas trong sách 1% sẽ thay đổi tất cả cho rằng “chúng ta cần có sự lựa chọn
rõ ràng: Tập trung tối đa sức lực và thời gian vào những thời gian có thể mang
lại thành công” [101, tr.204]. Brian Tracy thì cho rằng để có hiệu quả trong công
việc cần phải thực hiện 20 nguyên tắc thiết thực, bao gồm: Xác định mục tiêu;
lập kế hoạch làm việc; vận dụng quy tắc 80/20; tiên liệu kết quả cuối cùng; xử lý
hiệu quả những công việc có giá trị thấp; xác định mức độ ưu tiên; tập trung vào

các lĩnh vực trọng yếu...[25, tr.15-114].
Như vậy, theo tác giả nêu trên, để nâng cao hiệu quả giáo dục nói chung
cần phải xác định được những nội dung quan trọng cần thực hiện, xác định
phương pháp, những người thực hiện và cách thức tiến hành. Đó chính là cách
xác định mục đích là gì để xác định mục tiêu, lựa chọn nội dung, phương pháp,
hình thức, phương tiện phù hợp.
Lênin đã bàn nhiều đến hiệu quả trong GDCT-TT. Theo V.I. Lênin Lênin,
để GDCT-TT có hiệu quả cần những chủ thể có đủ phẩm chất, năng lực: “Trong
bất cứ một trường học nào, điều quan trọng nhất là phương hướng chính trị và tư
tưởng của bài giảng. Cái gì quyết định phương hướng đó? Hoàn toàn và chỉ là
thành phần của các giảng viên thôi” [105, tr.248]. Như vậy, theo luận điểm này


17

của Lênin, chủ thể công tác GDCT-TT đóng vai trò quan trọng trong việc nâng
cao hiệu quả. V.I. Lênin cũng khẳng định, một trong những tiêu chí để đánh giá
hiệu quả công tác GDCT-TT là những chủ thể phải am hiểu tâm lý, mong muốn,
nhu cầu của đối tượng, gần gũi đối tượng và khẳng định việc am hiểu tâm lý đối
tượng sẽ mang lại hiệu quả thiết thực: “Biết xác định một cách chắc chắn bất cứ
trong vấn đề nào, trong lúc nào, tâm trạng của quần chúng, những nhu cầu,
nguyện vọng, những ý nghĩ thật sự của họ (…) bằng cách quan tâm thỏa mãn
những nhu cầu của họ [103, tr. 426]. Và, “Đối với quần chúng, phải học cách gần
gũi họ một cách đặc biệt kiên nhẫn và thận trọng, để có thể hiểu được những đặc
điểm những nét tâm lý riêng biệt của mỗi tầng lớp, mỗi nghề nghiệp…của quần
chúng đó” [103, tr. 233].
Bàn về hiệu quả hiện nay, nhất là hiệu quả theo quan niệm của phương
Đông, nhà triết học nổi tiếng người Pháp là Francois Jullien trong cuốn sách Bàn
về tính hiệu quả cho rằng thực tại được xem xét như là quá trình. Trong hoạt
động của con người (có hiệu quả hay không?), điều quan trọng là ở mỗi thời

điểm của quá trình thực tại phải nhận cho ra xu thế của tình hình ở thời điểm đó
và phải theo dõi diễn biến của xu thế trong quá trình phát triển của thực tại. Tác
giả cho rằng tính hiệu quả của hoạt động con người là ở sự biết nương theo và lợi
dụng xu thế của tình hình và ở sự tác động tới tình hình, tạo ra sự biến hóa của
tình hình, sự diễn biến của xu thế, tạo lập những điều kiện cho sự phát triển dẫn
tới mong muốn. Theo tác giả, để có hiệu quả cần tác động đúng thời điểm để hạn
chế công sức và cho rằng giống như việc giáo dục con người, xây dựng tính cách
và chí hướng phải từ lúc nhỏ sẽ dễ dàng hơn là đến tuổi khôn lớn, tính cách đã
hình thành và kết luận tác động đúng thời điểm sẽ tạo ra hiệu quả, đạt hiệu quả
[77, tr.216-218]. Như vậy khi bàn về việc làm thế nào để nâng cao tính hiệu quả,
Francois Jullien không hề quan tâm đến vấn đề chi phí mà chủ yếu quan tâm đến
việc xác định mục tiêu và xác định thời điểm để tác động “vì thao tác ở quãng
thượng lưu, ở giai đoạn mà tất cả đương còn mềm dẻo, chưa có cái gì biểu lộ sự
chống đối” [77, tr.220]. Tác giả cho rằng chú trọng đến sự lựa chọn: Tác động ở
thời điểm nào, tới khâu nào của quá trình để đạt hiệu quả. Tư tưởng Trung Hoa
quan tâm đến sự tác động ở thượng lưu của quá trình thực tại vì ở thời điểm này,
khâu này của quá trình, thực tại chưa bị khô cứng và vì vậy


18

khi tác động sẽ không tốn nhiều công sức. Ở hạ lưu của quá trình, mọi cái đã
định hình, đã cứng nhắc nên tác động ở thời điểm này sẽ tốn nhiều công sức [77,
tr.18-19]. Cùng quan điểm với Francois Jullien, một học giả người Pháp gốc Hoa
là André Chieng trong cuốn sách Bàn về thực tiễn của Trung Hoa cùng với
Francois Jullien, khi bàn về tính hiệu quả đã cơ bản nhất trí với Francois Jullien
và cũng cho rằng muốn có hiệu quả cần tác động đúng thời điểm, kịp thời [2,
tr.205].
Tác giả Tào Tổ Minh và Trần Đình trong bài viết Đánh giá tính hiệu quả
của công tác GDCTTT (tiếng Trung) đăng trên website Trường Đảng tỉnh Sơn

Đông, Trung Quốc cho rằng để đánh giá hiệu quả công tác này phải hiểu rõ nội
hàm của tính hiệu quả trong GDCTTT: “Đánh giá hiệu quả công tác GDCTTT là
sự đánh giá, phán đoán kết quả của hoạt động GDCTTT với việc phù hợp mục
tiêu dự kiến và khả năng phát huy chức năng của GDCTTT” [195]. Theo các tác
giả, để đánh giá hiệu quả công tác GDCTTT phải dựa trên 03 căn cứ là xây dựng
mục tiêu giáo dục, đánh giá mức độ văn minh tinh thần của người dân và xác
định chính xác vai trò của GDCTTT nhằm đạt đến mục tiêu đã đề ra [195]. Để
đánh giá chính xác hiệu quả công tác GDCTTT cần chú ý 03 vấn đề. Thứ nhất,
phải xây dựng mục tiêu GDCTTT phù hợp bởi theo các tác giả, mục tiêu dự kiến
có tầm quan trọng đáng kể đến hiệu quả công tác GDCTTT. Theo đó, hiệu quả
GDCTTT chính là khả năng đạt được mục tiêu đề ra ban đầu, hiệu quả như nhau,
khi so sánh với mục tiêu dự kiến khác nhau sẽ có kết quả đánh giá tính hiệu quả
khác nhau. Do đó, việc xây dựng mục tiêu quyết định đến hiệu quả GDCTTT.
Thông thường, khi xây dựng mục tiêu càng thấp, càng dễ thực hiện, thì hiệu quả
đạt được càng cao; ngược lại khi xây dựng mục tiêu càng cao, khó đạt được thì
khả năng đạt được hiệu quả càng thấp. Vì vậy, khi đánh giá tính hiệu quả của
GDCTTT trước tiên cần xem xét kỹ vấn đề xây dựng mục tiêu. Thứ hai là đánh
giá hiệu quả GDCT-TT phải so sánh mức độ văn minh tinh thần của đối tượng
(mức độ đạo đức, tư tưởng) trước và sau các quá trình giáo dục xem có đạt các
mục tiêu dự kiến hay không. Thứ ba, xác định chính xác vai trò của GDCTTT
nhằm đạt đến mục tiêu đã đề ra. Để đánh giá hiệu quả GDCTTT, nếu chỉ lập mục
tiêu hợp lý và phán đoán chính xác mức độ văn minh tinh thần của người dân thì
chưa đủ, mà còn cần phải nắm bắt chính xác vai trò của GDCTTT nhằm


×