Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Kinh nghiệm giáo dục học sinh cá biệt ở lớp 6b nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh trường THCS quảng đông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.76 KB, 12 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HĨA

PHỊNG GD& ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
KINH NGHIỆM GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT Ở LỚP 8B
NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HỌC
SINH Ở TRƯỜNG THCS QUẢNG ĐÔNG

Người thực hiện: Trịnh Thị Hân
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Quảng Đông
SKKN thuộc lĩnh vực: Chủ nhiệm

THANH HÓA, NĂM 2017
1


M ỤC L ỤC
M ỤC L ỤC .............................................................................................................2
PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU...............................................................................3
1. Lý do chọn đề tài..................................................................................................3
2. Mục đích nghiên cứu:...........................................................................................3
3. Đối tượng nghiên cứu...........................................................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu......................................................................................3
PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM .............................3
I- Cơ sở lí luận của vấn đề........................................................................................3
II- Thực trạng của vấn đề........................................................................... .............4
II.1. Ngun nhân khách quan.................................................................................4
II.1.1.Ngun nhân từ phía gia đình................................................................ .......4
II.1.2.Ngun nhân từ phía nhà trường...................................................................5


II.1.3.Ngun nhân từ phía mơi trường xã hội........................................................5
II.2.Nguyên nhân từ phía bản thân các em..............................................................5
III. Các biện pháp giáo dục......................................................................................5
III.1.Tìm hiểu kỹ từng đối tượng học sinh cá biệt...................................................5
III.2.Phân nhóm đối tượng học sinh cá biệt ............................................................5
III.2.1. Dạng học sinh ương ngạnh do gia đình quá chiều chuộng..........................6
III.2.2. Dạng học sinh cá biệt do gia đình thiếu quan tâm.......................................6
III.2.1. Dạng học sinh cá biệt do có hồn cảnh gia đình khá đặc biệt ....................6
III.3. Tìm ra phương pháp giáo dục tối ưu nhất cho từng nhóm đối tượng.............6
III.3.1.Biện pháp giáo dục bằng tâm lý...................................................................6
III.3.1.1 Dạng học sinh ương ngạnh do gia đình quá chiều chuộng........................6
III.3.1.2. Dạng học sinh cá biệt do gia đình thiếu quan tâm....................................7
III.3.1.3.Dạng học sinh cá biệt do có hồn cảnh gia đình khá đặc biệt ..................7
III.3.2.Giao nhiệm vụ và kiểm tra kết quả công việc...............................................8
III.3.3.Yêu cầu các em viết nhật ký hàng ngày........................................................8
III.3.4.Kết hợp giáo dục qua giáo viên bộ môn.......................................................8
III.3.5.Kết hợp với các ban ngành, các bộ phân trong và ngoài nhà trường............8
III.3.5.1.Kết hợp với tổ chức Đội thiếu niên ......................................................... .9
III.3.5.2.Kết hợp với các tổ chuyên môn..................................................................9
III.3.5.3.Kết hợp với hội khuyến học và hội phụ nữ xã...........................................9
IV.Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục...............................................10
PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ....... .................................................10
I.Kết luận................................................................................................................10
II.Kiến nghị.............................................................................................................11

2


PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài:

Khái niệm “ Học sinh cá biệt ” được hiểu đó là những học
sinh có cá tính khác biệt so với số đơng học sinh bình thường.
Những học sinh này thường xuyên vi phạm nội qui, qui định của
trường, của lớp. Nói chung đây là những học sinh yếu về mặt đạo
đức. Thế nhưng thực tế trong các trường THCS hiện nay một bộ phận học sinh cá
biệt dường như trường nào lớp nào và năm nào cũng có. Vì vậy giáo dục đạo đức
cho học sinh cá biệt là một trong những nhiệm vụ thiết yếu trong nhà trường nói
chung và giáo viên chủ nhiệm nói riêng. Bản thân tơi gặp khơng ít đối tượng học
sinh cá biệt nhưng mỗi em một vẻ cá biệt khác nhau, đòi hỏi trong q trình giáo
dục phải có nhiều sáng tạo mới mong có hiệu quả.
Qua tìm tịi học hỏi ở đồng nghiệp, tham khảo phương pháp giáo dục trên
các tạp chí giáo dục, trên truyền hình, vận dụng vào q trình cơng tác chủ nhiệm
lớp, bản thân tôi cũng rút ra được một số kinh nghiệm. Trong phạm vi đề tài này
tôi xin được trao đổi với các bạn đồng nghiệp, mong muốn được góp một phần nhỏ
bé của mình tạo nguồn kinh nghiệm dồi dào về biện pháp giáo dục học sinh góp
phần nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục hiện nay.
II. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài được nghiên cứu với mong muốn tìm ra những biện pháp giáo dục
học sinh yếu về mặt đạo đức góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của
nhà trường.
III.Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là những em học sinh cá biệt ở lớp 8 trường THCS
Quảng Đông, thành phố Thanh Hóa.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
- Điều tra điều tra khảo sát thực tế.
- Nghiên cứu tài liệu
- Ứng dụng thể nghiệm
PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. Cơ sở lí luận:
Ở lứa tuổi học sinh THCS - lứa tuổi đang có sự chuyển giao giữa trẻ em và

người lớn, các em luôn mong muốn trở thành người lớn và ln tưởng mình đã là
người lớn, vì vậy các em ln có sự mất cân bằng về mặt tâm sinh lý, việc các em
mong muốn trở thành người lớn trong khi các em chưa có sự hiểu biết tương ứng
cộng với hoàn cảnh sống mỗi em một khác nhau, có em may mắn nhận được sự tư
vấn kịp thời của cha mẹ có em khơng được sự quan tâm đúng mức, có em thì lại
được q chiều chuộng... Từ sự khác biệt trên nảy sinh ra những hiện tượng cá biệt
trong học sinh và chính một bộ phận học sinh này đã gây khơng ít khó khăn cho
giáo viên chủ nhiệm lớp.
Những biểu hiện cá biệt của học sinh lại rất khác nhau về mặt hình thức
cũng như mức độ nên giáo viên chủ nhiệm lớp cũng rất khó trong việc tìm biện
pháp xử lý thích hợp. Khơng ít giáo viên cho rằng việc giáo dục học sinh cá biệt
3


quả là một việc vơ cùng khó, đơi lúc cho rằng đó là bản chất của các em và suy
nghĩ ấy rất dễ dẫn đến buông tay.
Con người vốn hiền lành, Khổng Tử đã dạy: “ Nhân chi sơ tánh bổn thiện”.
Đúng vậy, khơng có ai sinh ra là hung dữ ngay nhưng do quá trình sống và lớn lên
con người chịu sự tác động của các yếu tố xung quanh như bạn bè, gia đình, xã
hội... nên mỗi người hình thành nên mỗi tính cách. Tục ngữ có câu: “ Ở bầu thì
trịn, ở ống thì dài ”, “ Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng ”. Hay sinh thời Bác Hồ
đã từng nói: “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên"
Như vậy để thấy được giáo dục có vai trị vơ cùng quan trọng trong sự hình
thành nhân cách của các em. Những em học sinh cá biệt chắc chắn điều kiện ngoại
cảnh Gia đình - Bạn bè - Xã hội đang sống là không tốt. Nhưng làm sao giúp đỡ
các em để gần mực mà không đen, ở ống mà không dài. Đó là nhiệm vụ của giáo
dục của thầy cơ của nhà trường chúng ta.
Đảng và nhà nước ta đã đề cao “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, đầu tư
cho giáo dục là đầu tư lâu dài trong tương lai. Bác Hồ đã khẳng định “Vì lợi ích

mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Sự nghiệp
trồng người là sự nghiệp vẻ vang cao cả của người giáo viên, khơng có lí do gì mà
chúng ta bất lực hay đầu hàng trước một học sinh cá biệt nào, chỉ có điều chúng ta
đã giáo dục đúng chưa? Phương pháp giáo dục của ta phù hợp chưa? Chúng ta đã
đem hết nhiệt huyết chưa?
Con người không ai là suông sẻ, không ai tự nhiên trở thành người tốt.
Những lúc các em sa ngã, ngang bướng, sống lệch lạc... là những lúc các em cần
sự quan tâm, an ủi, giáo dục và động viên của thầy cô. Nếu buông thả các em lúc
này khác nào đẩy các em vào hố sâu tội lỗi mà khơng có đường thốt; cứu các em
lúc này là nhiệm vụ và trách nhiệm của mỗi thầy cô chúng ta.
II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu:
Hiện nay tình trạng học sinh cá biệt ở trường THCS Quảng Đơng khơng cịn
hiếm, gần như lớp nào cũng có với xu thế ngày càng gia tăng, ví như trong năm
học 2014 – 2015 lớp 8B do tôi chủ nhiệm kết quả xếp loại hạnh kiểm học kỳ I có
tới 03 em hạnh kiểm yếu, học lực cũng yếu, những biểu hiện cá biệt của các em
cũng rất khác nhau. Sau nhiều năm điều tra tìm hiểu tơi nhận thấy những hiện
tượng học sinh cá biệt khơng phải là ngẫu nhiên mà có những nguyên nhân nhất
định. Có thể rút ra được một số nguyên nhân chủ quan và khách quan cơ bản sau
đây:
II.1.Nguyên nhân khách quan:
II.1.1 Ngun nhân từ phía gia đình:
Thời gian mà các em sống với gia đình là khoảng thời gian dài nhất, chính vì
thế mơi trường sống của gia đình có ảnh hưởng rất lớn đối với các em, những thái
độ, hành vi, cách cư xử trong gia đình sẽ ảnh hưởng đến sự hình thành những độ,
hành vi, cách cư xử của các em khi ra ngoài xã hội. Những em thiếu may mắn sinh
ra trong gia đình cha mẹ bất hoà, cách cư xử của cha mẹ thơ bạo, hay có những em
đã khơng cịn bố mẹ. Thậm chí có những em lại q may mắn được sống trong gia
đình giàu có q chiều chuộng và chiều chộng các em không đúng cách ...tất cả đã
ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của các em. Hơn thế nữa Quảng Đông lại là
4



xã gần khu công nghiệp, phần đông bố mẹ các em đi làm trong khu cơng nghiệp
khơng có thời gian quan tâm, tư vấn, uốn nắn những suy nghĩ hay hành vi lệch lạc
của các em từ đó hình thành nên tính cách cá biệt trong các em.
II.1.2: Nguyên nhân từ phía nhà trường :
Đây là ngơi nhà thứ hai của các em, nơi để phụ huynh gửi gắm niềm tin vào
việc giáo dục con em của họ, từ đây các em được học tập, được hiểu biết, được lớn
lên về mọi mặt. Nhưng để đạt được đúng như những điều đó cũng khơng phải là
dễ. Trong thực tế khi gặp những học sinh có những biểu hiện cá biệt thầy cơ cũng
khun răn, phân tích đúng sai và nếu học sinh tiếp tục tái diễn sẽ dùng đến các
biện pháp nặng hơn như phê bình, khiển trách trong các buổi sinh hoạt lớp, các
buổi chào cờ đầu tuần hay đưa ra hội đồng kỉ luật...nhưng những biện pháp đó
khơng thực sự có hiệu quả với nhiều đối tượng học sinh, thậm chí cịn làm mất
lịng tin ở các em, tạo ra một khoảng cách khơng đáng có giữa thầy và trị và chính
điều này đã dẫn đến biểu hiện chống đối lại từ phía học sinh.
II.1.3: Nguyên nhân từ phía mơi trường xã hội:
Ngồi mơi trường gia đình và nhà trường ra, học sinh còn phụ thuộc rất lớn
vào môi trường xã hội. Hiện nay do sự phát triển kinh tế - xã hội, sự phát triển của
mạng lưới thông tin hiện đại, sự du nhập của nhiều loại hình văn hố khác nhau đã
ảnh hưởng khơng ít đến tầng lớp thanh thiếu niên. Các loại hình dịch vụ như
Internet, bi da đã lơi kéo khơng ít học sinh vào đam mê những trị chơi vơ bổ. Hiện
tượng học sinh trốn học để chơi điện tử, bi da, ... là chuyện thường xảy ra.
II.2: Nguyên nhân chủ quan từ phía bản thân các em:
Do đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, lứa tuổi mà nhiều người cho rằng
"Ăn chưa no, lo chưa đến", suy nghĩ còn non nớt, nhận thức chưa cao, chính vì thế
các em có những hành vi thiếu chuẩn xác là điều không thể tránh khỏi.
Những học sinh cá biệt ta thường gặp phần lớn là những em có năng lực học
tập yếu kém, điều đó cũng hồn tồn dễ hiểu bởi nhận thức của các em kém thì làm
sao có hành động tốt được. Việc hạn chế trong tiếp thu kiến thức của các em cũng

dẫn đến sự lười biếng, chán nản, muốn phá phách, nhất là đối với học sinh nam.
Xét ở một khía cạnh khác thì cũng có thể các em vì tự ái vì bị thầy cơ nhắc nhở, vì
bạn bè xa lánh, các em muốn chứng minh cho mọi người thấy rằng mình học
khơng tốt nhưng mình có thể nổi trội hơn về mặt khác, hoặc các em muốn thầy cơ
chú ý mình hơn chẳng hạn, chính vì thế mà các em có những hành động vượt ra
khỏi những quy định chung.
Từ việc nghiên cứu những học sinh cá biệt và những ngun nhân dẫn đến
tình trạng ấy, tơi tìm ra những phương pháp tối ưu để từng bước cảm hoá giáo dục
các em. Sau đây là một vài kinh nghiệm của bản thân trong việc giáo dục học sinh
cá biệt mà tôi muốn trao đổi cùng đồng nghiệp qua đề tài này.
III. Các biện pháp thực hiện giáo dục.
III.1. Tìm hiểu kỹ từng đối tượng học sinh cá biệt: Tơi thường có riêng quyển sổ
tìm hiểu học sinh cá biệt qua nhiều kênh: Bạn bè, giáo viên bộ môn, gia đình và
các tổ chức khác.
Tìm hiểu các em nhiều mặt: Hồn cảnh sống, cá tính mỗi em sở thích mỗi
em, nhóm bạn cùng chơi, năng khiếu, kết quả học tập nhiều năm trước....
III.2. Phân nhóm đối tượng học sinh cá biệt.
5


Sau khi đã tìm hiểu kỹ từng đối tượng học sinh cá biệt, tôi phân ra từng
dạng học sinh cá biệt. Sau đó đưa ra một số phương pháp giáo dục phù hợp cho
từng đối tượng.
III.2.1. Dạng học sinh ương ngạnh do gia đình q chiều chuộng: Trên thực tế
có một số gia đình khá giả quá chiều chuộng con cái cả về vật chất lẫn tinh thần.
Nghĩa là cho các em tiêu tiền, sử dụng đồng tiền theo ý thích hoặc dễ dàng tha thứ
khi các em mắc phải những khuyết điểm. Nên ngay từ nhỏ các em đã có cá tính
ương ngạnh, muốn được mọi người chiều theo ý mình. Dạng học sinh cá biệt này
thường bỏ bê việc học hành, bị các thành phần khác lợi dụng, thường tỏ ra lối
sống vương giả, rủ rê các học sinh khác bỏ học vào quán, vào các dịch vụ vui

chơi... nên ít nghe lời thầy cơ, tỏ ra cứng đầu, khó bảo chậm tiến bộ.
III.2.2. Dạng học sinh cá biệt do gia đình bỏ rơi thiếu quan tâm:
Trong cuộc sống có nhiều gia đình chỉ biết lo làm ăn kinh tế thiếu quan tâm,
kiểm tra, đôn đốc việc học hành của con cái. Chuyện học của con được chăng hay
chớ. Có thể do q bận cơng việc, thường đi làm từ sáng sớm đến tối khơng có thời
gian quan tâm đến con, họ quan niệm rằng học cũng chẳng để làm gì, cịn nhỏ thì
cho đi học vậy thơi đủ tuổi sẽ vào làm công nhân trong các công ty cũng đủ sống.
Dạng học sinh cá biệt này thực ra do khơng có người quản lí, quan tâm nên mới hư
hỏng (hiện nay dạng học sinh này khá phổ biến ở trường tôi). Lúc đầu các em lơ là
việc học, học yếu dần rồi chán học. Khi bố mẹ phát hiện ra con mình hư hỏng mới
quan tâm rồi la mắng, đánh đập trút giận lên thân con. Nhưng thực ra gây áp lực
thêm cho con. Bởi ở trường bạn bè, thầy cơ rầy la, quở trách vì làm ảnh hưởng thi
đua của tập thể lớp, về nhà bố mẹ lại ghét gỏng giận dữ, thậm chí cịn trút lên mình
con những trận địn roi vơ cớ... cho nên đang hư hỏng trở nên lì lợm, bướm bỉnh,
quậy phá....
III.2.3. Dạng học sinh cá biệt do có hồn cảnh khá đặc biệt: Nói đến hồn cảnh
đặc biệt ở đây tơi muốn đề cập đến một số em sống và lớn lên trong một gia đình
bất hạnh như bố mẹ li dị, bố mẹ mất sớm phải ở với người thân, bố mẹ bất hoà hay
đánh đập, chửi mắng hoặc sinh ra không biết bố... Học sinh cá biệt ở dạng này
thường tỏ ra lạnh lùng, bất cần, tự ti, mặc cảm khơng muốn ai quan tâm chia sẻ đến
mình, cho rằng sự quan tâm của người khác là sự thương hại, bố thí... Chính vì vậy
các em có tâm trạng ấm ức, uất hận... đời sống tinh thần và vật chất của các em gặp
nhiều khó khăn. Đây là học sinh có cá tính mạnh, ngoan cố rất đáng lo; nếu khơng
giáo dục tốt các em thì là gánh nặng cho xã hội sau này. Việc cảm hoá được học
sinh này là một quá trình gian khổ đầy thử thách.
III.3 Tìm ra phương pháp giáo dục tối ưu nhất cho từng nhóm đối tượng:
III.3.1. Biện pháp giáo dục bằng tâm lý: Trên cơ sở tìm hiểu kỹ từng em tơi
đánh địn tâm lí vào điểm yếu mỗi em:
III.3.1.1. Dạng học sinh ương ngạnh do gia đình quá chiều chuộng:
- Đối với học sinh: Tôi tâm sự, trao đổi thuyết phục, phân tích để các em

nhận thấy rằng: Ơng bà, cha mẹ nào cũng giàu lịng thương con nhưng tình thương
ấy bị các em lạm dụng, đòi hỏi ở cha mẹ q nhiều thì mình trở thành người có tội
và phụ lại tấm lịng u thương của cha mẹ, ơng bà. Tiền bạc của cha mẹ làm ra xét
cho cùng cũng là mồ hôi nước mắt, sự vất vả lăn lộn trong cuộc sống mới có được.
Việc tiêu tiền đúng mục đích, phù hợp với cơng việc thì đồng tiền ấy mới có ý
6


nghĩa, mới là con ngoan trong gia đình. Cịn chi phí vào việc ăn chơi đua địi khác
nào chà đạp nên công sức lao động của cha mẹ
- Đối với phụ huynh: Tôi trực tiếp gặp gỡ trao đổi, phân tích cho họ thấy
khơng nên cho tiền các em một cách thoải mái, không nên nuông chiều các em quá
mức, phải theo dõi sự chi tiêu của các em, sự kết bạn vui chơi của các em ở nhà, ở
trường...Nếu thoải mái, lỏng lẻo việc cho tiền các em và không nghiêm khắc khi
các em mắc phải khuyết điểm khác nào đưa con mình vào vịng tội lỗi...
Qua việc trao đổi phân tích với học sinh và phụ huynh, nhiều em đã tiến bộ
rất nhanh, ngăn chặng được nhiều em có chiều hướng xấu. Một số phụ huynh đã
sớm nhận ra những sai lầm của mình. Họ càng lo lắng quan tâm theo dõi các em và
phối hợp tốt với nhà trường để giáo dục.
III.3.1.2. Dạng học sinh cá biệt do gia đình thiếu quan tâm:
- Đối với học sinh: Bản thân tôi trực tiếp gặp gỡ trao đổi, tâm sự phân tích
việc sai trái của các em; chỉ rõ cho các em thấy việc bố mẹ bận rộn lo làm ăn kinh
tế để xây dựng gia đình mà mình lơ là việc học tập là sai trái, thiếu trách nhiệm với
gia đình, là những người con bất hiếu.... phần lớn các em nhận ra điều đó rồi sửa
chữa
- Đối với phụ huynh: Bản thân tôi gặp gỡ trao đổi phân tích từng cá tính học
sinh và chỉ ra cho phụ huynh thấy được việc con mình hư hỏng là hậu quả của việc
thờ ơ vô trách nhiệm, thiếu quan tâm chu đáo, khoán trắng việc học hành cho các
em, cho nhà trường. Giúp họ nhận ra việc thiếu sót của mình và định hướng cho họ
cần phải phối hợp với nhà trường để theo dõi và giáo dục các em. Cần tránh dùng

những biện pháp mạnh thô bạo như đánh đập, chửi mắng mà nên mềm mỏng, lấy
tình cảm và sự quan tâm để cảm hoá giáo dục các em trở lại người tốt. Chớ vội thất
vọng, chán nản mà buông thả các em. Nhiều phụ huynh đã nhận ra và kết hợp với
nhà trường làm rất tốt nên các em tiến bộ rất rõ.
III.3.1.3. Dạng học sinh cá biệt có hồn cảnh gia đình khá đặc biệt:
-Đối với học sinh: Đối với dạng học sinh này chúng ta cần lấy tấm lịng chân
thật, tìm cách gần gũi để chia sẻ tình cảm với các em. Điều tế nhị là khơng nên
động chạm đến tình cảm đau thương của các em. Tránh dùng những hình thức kỉ
luật nặng gây tổn thương tình cảm dẫn đến các em dể hiểu nhầm trên đời này
khơng có ai thương mình hoặc mình là thứ bỏ đi... Phải làm sao cho các em tin
tưởng ở mình và cảm thấy mình là chỗ dựa tinh thần duy nhất của các em. Cần
phân tích, định hướng cho các em phải có nghị lực phấn đấu vượt lên trên số phận.
Gieo vào lòng các em suy nghĩ và hành động đúng đắn tránh buông xuôi, chán
chường vì hồn cảnh, yếu hèn nhút nhát là đáng chê trách.
-Đối với phụ huynh: Tuỳ thuộc vào hoàn cảnh của mỗi em tơi tìm cách tiếp
xúc đến phụ huynh. Đối với những phụ huynh là người đỡ đầu (ông bà, chú,
bác....) tôi động viên họ cố gắng quan tâm giáo dục các em thật nhiều, đem hết trái
tim yêu thương để quản lí dạy bảo các em; tránh đừng để các em đau lịng qua lời
nói vì trong lịng các em đã sẵn nỗi đau rồi. Riêng đối với học sinh chỉ cịn cha
hoặc mẹ hay vì lí do nào đó cha mẹ khơng chung sống với nhau thì tơi khuyên phụ
huynh nên quan tâm chăm sóc tinh thần cho các em; hãy phân tích cho các em hiểu
để chia sẻ hoặc nhờ người thân trong gia đình khuyên nhủ động viên các em.
7


III.3.2. Giao nhiệm vụ và kiểm tra kết quả công việc: Đối với học sinh cá biệt
tuy ngỗ nghịch nhưng khi giao cơng việc các em rất thích và hồn thành tốt nhiệm
vụ. Những công việc khi giao cho các em cần phải lựa chọn cho phù hợp và
thường xuyên kiểm tra, động viên khen thưởng kịp thời để khích lệ tinh thần. Cụ
thể như sau:

Tôi giao cho các em nhiệm vụ theo dõi những học sinh vi phạm kỉ luật (ăn
quà vặt, gây gỗ nhau...) trong lớp. Các em có trách nhiệm phân tích, tun truyền,
vận động những học sinh hay lười học, ngỗ nghịch, đua đòi... trở nên siêng năng,
ngoan ngỗn. Cơng việc giao tưởng như vơ lí bởi bản thân các em là người chưa
tốt. Nhưng khi các em nhận nhiệm vụ này thì bản thân các em phải biết tự đổi thay,
tự vươn lên thì mới nói được các bạn khác.
Giao làm nhiệm vụ đội trật tự trong các buổi hoạt động giáo dục ngoài giờ
lên lớp, các buổi sinh hoạt tập thể.... để các em có dịp đóng góp cơng sức vào sự
thành cơng của các hoạt động và ý thức được trách nhiệm gắn bó vào tập thể. Mỗi
khi giao việc tơi thường mời các em lên trao đổi và quán triệt rất kĩ lưỡng.
Qua mỗi lần giao công việc cho các em tôi thường kiểm tra nhắc nhở, động
viên các em hoàn thành. Xem tinh thần ý thức kỉ luật các em tới đâu để điều chỉnh.
Những em nào hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và có tiến bộ nhanh tơi tán thưởng
khen ngợi đồng thời chấm điểm tốt để làm cơ sở cuối học kì, cuối năm xếp loại
hạnh kiểm cho phù hợp.
Giao nhiệm vụ cho học sinh là vừa quản lí các em vừa đưa các em vào
khuôn phép biết tự rèn luyện mình. Đồng thời đây là cơ hội để các em chứng tỏ
khả năng mình với bạn bè, thấy mình được thầy cơ tin tưởng. Những lời động viên
tán thưởng các em sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ là hết sức cần thiết, bổ ích giúp
các em phấn chấn tinh thần trong học tập. Kinh nghiệm này đã đem lại hiệu quả 2
mặt, vừa thành công trong các buổi sinh hoạt, văn nghệ vừa có tính giáo dục tốt
cho các em.
III.3.3.Yêu cầu các em viết nhật kí hằng ngày: Đối với các em học sinh cá biệt
chậm tiến vẫn cịn vi phạm thì tơi đưa ra cách cho các em viết nhật kí hằng ngày;
ghi cụ thể những việc làm trong ngày từ việc tốt (như: giúp đỡ cha mẹ, giúp đỡ bạn
bè, giúp đỡ người khác...), đến việc chưa tốt ( như: không vâng lời cha mẹ, thầy cơ,
gây gỗ với bạn bè, nói tục, ham chơi lười học...) yêu cầu ghi cụ thể rõ ràng từng
ngày. Quy định sau một tuần, vào ngày thứ 7 tiết sinh hoạt của lớp nộp sổ và gặp
gỡ giáo viên chủ nhiệm để trao đổi. Nếu trong tuần tiến bộ làm được nhiều việc tốt
nhiều hơn việc xấu thì tơi khen ngợi và động viên em. Nếu trong tuần vẫn cịn làm

nhiều việc xấu thì tiếp tục góp ý nhắc nhở động viên em tiếp tục sửa đổi. Cho em
tự rút ra những điều sai trái của mình, tự phê bình và tự vạch ra hướng sửa chữa
trong thời gian đến.
III.4. Kết hợp giáo dục qua giáo viên bộ môn:
Giáo viên chủ nhiệm phải thực hiện chức năng là cầu nối giữa giáo viên bộ
môn và học sinh. Cần trao đổi thường xuyên với giáo viên bộ môn để nắm bắt về
tình hình lớp, đặc biệt là những biểu hiện cá biệt của các em trong các giờ học khác
đồng thời trao đổi với giáo viên bộ môn về điều kiện, hoàn cảnh cũng như nguyên
nhân tạo nên sự cá biệt của học sinh, tâm tư, nguyện vọng của các em, đề nghị giáo
viên giao khối lượng bài tập và định thời gian các em hoàn thành lượng kiến thức
8


đó...Từ đó cùng nhau giáo dục các em trên tinh thần “dạy dỗ” khen để động viên
các em hơn là trừng phạt các em. Việc nhắc nhở những khuyết điểm chỉ nên lồng
vào từng chút một để các em sửa dần dần.
III.5 Kết hợp với các ban ngành, các tổ chức trong và ngoài nhà trường
III.5.1: Kết hợp với tổ chức Đội thiếu niên:
Đây là tổ chức chuyên về mảng giáo dục hạnh kiểm cũng như các hoạt động
bề nổi cho học sinh. Thường thì giáo viên chủ nhiệm lớp vẫn e dè trong việc khai
báo những sai phạm của học sinh lớp mình vì sợ ảnh hưởng đến kết quả thi đua của
lớp, nhưng với tôi việc kết hợp với tổ chức Đội là một biện pháp giáo dục có hiệu
quả rất cao trong cơng tác giáo dục hạnh kiểm học sinh.
Đối với đội cờ đỏ: tôi yêu cầu các em ghi lại tên của tất cả những em vi
phạm, có như vậy thì tơi mới kịp thời có được thông tin và xử lý dứt điểm những vi
phạm đựơc.
Đối với các em ban chỉ huy liên chi đội - đội phát thanh măng non: Tôi
thường xuyên cung cấp những cá nhân điển hình của lớp đưa vào các bản tin hằng
ngày để tuyên dương khen ngợi, khích lệ tinh thần các em.
Với tổng phụ trách Đội: tôi thường xuyên giữ mối quan hệ chặt chẽ. Tôi

thường xuyên kết hợp các biện pháp giáo dục theo kiểu vừa đấm vừa xoa: đối với
những đối tượng học sinh cá biệt tơi sử dụng biện pháp cứng rắn bên cạnh đó tôi
nhờ tổng phụ trách đội động viên, những em tôi dùng biện pháp mềm mỏng thuyết
phục tôi lại nhờ tổng phụ trách Đội có biện pháp cứng rắn hơn, cũng có lúc kết hợp
cả hai cùng chung biện pháp, ở những lúc này thì chúng tơi kết hợp chặt chẽ hơn
về khâu theo dõi và các luồng thông tin về đối tượng học sinh cá biệt.
Đặc biệt những học sinh cá biệt lại thường có khả năng về các hoạt động thể
dục, thể thao hay lao động tích cực. Tơi tham mưu cho Đội TNTP tổ chức các hoạt
động giáo dục ngồi giờ lên lớp có liên quan đến các hoạt động thể dục thể thao,
văn nghệ....Khi Đội thiếu niên tổ chức các hoạt động này tôi thường động viên các
em tham gia, khi cơ trị cùng tham gia các hoạt động mà các em yêu thích và các
em lại có vai trị chính, các em cảm nhận được mình cũng “quan trọng” lại được
Đội trao thưởng, khen ngợi...làm cho các em thêm gắn bó với tập thể, muốn phấn
đấu vì tập thể, thậm chí nỗ lực vì tập thể.
III.5.2.Kết hợp với bộ phận chuyên môn:
Tôi đề nghị nhà trường thành lập lớp phụ đạo cho HS yếu, GVCN có trách
nhiệm vận động để các em tham gia hoc, thường xuyên theo dõi, động viên. Bộ
phận chuyên môn theo dõi và có đề nghị xử lý những em khơng tham gia đầy đủ
các buổi học cũng như vô kỷ luật trong khi tham gia học.
III.5.3.Kết hợp với hội khuyến học, hội phụ nữ xã:
Giáo viên chủ nhiệm cũng cần phối hợp với tổ chức hội khuyến học, hội phụ
nữ ở cơ sở để quan tâm nhiều hơn đến con mình, vận động các em, tăng cường
quản lí thời gian, nhắc nhỏ các em. Sau mỗi học kỳ hay kết thúc năm học các tổ
chức có thể khen thưởng cho các em có sự tiến bộ. Ngồi ra các tổ chức này cịn
có thể giúp chúng ta trong việc thu nhận những thơng tin mới về các em để chúng
ta có biện pháp kết hợp giáo dục tốt.
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục
9



Qua sự cố gắng nỗ lực của bản thân, nhiều năm qua trong công tác chủ
nhiệm tôi luôn vận dụng linh hoạt các biện pháp trên và cũng đã thu được kết quả
rất khả quan:
- Các lớp được tôi chủ nhiệm các em đều tham gia tốt các hoạt động của
trường của Liên đội và luôn được đánh giá cao, nhiều năm lớp đạt danh hiệu xuất
sắc và bản thân tôi được hội đồng thi đua nhà trường công nhận là giáo viên chủ
nhiệm giỏi
- Khơng có hiện tượng học sinh phải đưa ra hội đồng kỷ luật nhà trường.
- Quan hệ thầy trò, bạn bè ngày càng được thắt chặt.
- Uy tín nhà giáo được nâng cao, tạo được niềm tin trong phụ huynh học
sinh.
Trong năm học: 2014-2015, đầu năm khi nhận lớp chủ nhiệm, lớp tơi có 05
em trong đối tượng học sinh cá biệt, lớp tôi là một lớp có phong trào học tập yếu.
Qua áp dụng các biện pháp giáo dục trên, kết thúc năm học lớp tơi đã có
những tiến bộ có thể thống kê trên số học sinh 35 em như sau:

Đầu năm
Cuối năm

Tổng số
học sinh
35
35

Hạnh kiểm
Tốt Khá TB
18
12
5
28

7
0

Giỏi
3
5

Học lực
Khá TB
7
20
12
17

Yêú
5
1

PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I.Kết luận:
Bằng trách nhiệm và lòng yêu nghề thương trẻ của nhà giáo, mỗi thầy cô
giáo chúng ta phải ra sức giáo dục các em trở thành người tốt. Việc giáo dục học
sinh cá biệt tuy khó khăn vất vả nhưng khơng phải khơng làm được. Có thể liên
tưởng hình ảnh thầy cơ giáo dục học sinh cá biệt giống như một chiến binh kỵ mã
chinh phục những con ngựa chướng; khi đã chinh phục được rồi thì đây là những
con ngựa hay. Niềm vui lớn nhất, hạnh phúc khó tả của người thầy là thấy các em
trưởng thành trong cuộc sống. Trên thực tế nhiều giáo viên cịn tỏ ra ngại tiếp xúc,
ít đầu tư giáo dục học sinh cá biệt. Thậm chí cịn thờ ơ, giải quyết sự việc qua loa
lấy lệ, không đến nơi đến chốn. Mỗi khi các em có vi phạm điều gì thì tỏ ra cáu
giận, la mắng, gắt gỏng hoặc đánh vài roi cho xong sự việc... có khi nói quá nặng

lời. Tất cả những điều ấy chỉ làm tăng thêm cá tính bướng bỉnh của các em mà
thơi! Trong thực tiễn qua nhiều năm công tác bản thân tôi rút được nhiều điều.
Nhưng điều quan trọng nhất là lấy tình u thương của mình để cảm hố các em.
Phải thực sự yêu thương các em, xem các em như là con là em của mình. Khi các
em có thiện cảm với mình, tơn trọng và tin tưởng ở mình thì lúc đó mình giáo dục
các em rất dễ. Tình u thương và tinh thần trách nhiệm luôn luôn là phương châm
sống và làm việc của nhà giáo chúng ta. Tôi thiết nghĩ rằng những học sinh cá biệt
tính cách có sự sàng lọc tình cảm rất kỹ; gieo vào lịng các em tình u thương q
trọng là rất khó nhưng chính các em là người cất giữ tình cảm lâu nhất, bền chặt
10


nhất... cũng từ đây giá trị, vị thế nhà giáo được nâng cao, được tôn vinh trong cuộc
sống nhân dân.
Hiện nay Đảng và nhà nước ta đang có chủ trương chỉ đạo ngành giáo dục
tăng cường công tác giáo dục đạo đức cho học sinh; “xây dưng trường học thân
thiện, học sinh tích cực”. Đây là chủ trương đúng, cần thiết và khẩn tương. Hãy
nhớ từ lâu ông cha ta đã dạy: “Tiên học lễ, hậu học văn” Điều đầu tiên người học
phải học lễ phép, đạo lí, cách làm người; sau đó mới học hỏi, tìm tịi kiến thức, mở
rộng tri thức. Hình như, ngày nay người dạy chỉ lo dạy chữ mà quên đầu tư dạy
người; người học cũng chỉ lo học chữ, tìm thầy học cho đầy túi kiến thức chứ ít
đầu tư học ăn, học nói, học lễ nghĩa, học đạo lí. Đâu cịn có cảnh “Tầm sư học
đạo” như xưa.
Tôi nghĩ rằng giáo dục đạo đức học sinh không chỉ riêng trong ngành giáo
dục, trong trường học mà địi hỏi cả một hệ thống chính trị từ địa phương đến trung
ương. Từ bậc làm cha mẹ đến thầy cơ, từ gia đình đến nhà trường - xã hội và tất cả
mọi người. Hãy tạo cho các em sống - học tập trong một môi trường thật tốt. Hãy
quan tâm giáo dục đạo đức các em thật nhiều, mọi nơi, mọi lúc, mọi lĩnh vực. Để
các em khôn lớn trưởng thành, để số lượng học sinh cá biệt ngày càng giảm đi. Để
đất nước có một thế hệ tương lai tốt đẹp “Tài - Đức vẹn toàn”

Trên đây là một vài kinh nghiệm của bản thân trong q trình làm cơng tác
chủ nhiệm lớp. Trong phần trình bày chắc hẳn khơng tránh khỏi sai sót, rất mong
nhận được sự góp ý của các bạn đồng nghiệp. Xin chân thành cám ơn.
II. Kiến nghị:
- Lãnh đạo các cấp chính quyền có hướng tích cực hơn về mặt giáo dục
học sinh cá biệt .
- Tăng cường tiết ngoại khóa về giáo dục đạo đức học sinh
- Nhà trường kết hợp với chính quyền để giáo dục học sinh cá biệt
- Tổng phụ trách đội, Ban giám hiệu, phụ huynh kết hợp với giáo viên chủ
nhiệm để cùng giáo dục các em .
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Báo thiếu niên tiền phong
- Báo giáo dục thời đại
- Tài liệu từ internet
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG Thanh Hóa, ngày 24 tháng 3 năm 2017
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết SKKN

Trịnh Thị Hân
11


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH
GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP
CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả:Trịnh Thị Hân
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường THCS Quảng Đông

Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
giá xếp loại
TT
Tên đề tài SKKN
xếp loại
(Phòng, Sở,
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)
1.
Rèn kỹ năng giải bài tập dạng
Phòng
B

Năm học
đánh giá xếp
loại
2013 - 2014

oxit axit phản ứng với dung
dịch bazơ nhằm nâng cao kết
quả học tập cho học sinh lớp
2.

9 trường THCS Quảng Đơng.
Rèn kỹ năng giảng dạy dạng

Phịng


B

2015 - 2016

bài tập tính theo phương trình
hóa học nhằm nâng cao chất
lượng đại trà cho học sinh lớp
8 trường THCS Quảng Đông.
3.
4.
5.

...
* Liệt kê tên đề tài theo thứ tự năm học, kể từ khi tác giả được tuyển dụng vào
Ngành cho đến thời điểm hiện tại.
----------------------------------------------------

12



×