MỤC LỤC
STT
1
Nội dung
Trang
Mở đầu
1
1.1
Lý do chọn đề tài
1
1.2
Mục đích nghiên cứu
2
1.3
Đối tượng nghiên cứu
2
1.4
Phương pháp nghiên cứu
3
2
Nội dung sáng sáng kiến kinh nghiệm
3
2.1
Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
3
2.2
Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng
kiến kinh nghiệm
5
2.3
Giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
7
17
2.4
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt
động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà
trường
Kết luận, kiến nghị
18
3.1
Kết luận
18
3.2
Kiến nghị
19
3
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã trở thành một nước đang phát
triển, thoát khỏi tình trạng kém phát triển. Mức thu nhập bình quân ngày càng
được nâng lên, cùng với đó là đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện.
Người dân được được sống trong một thế giới với muôn vàn tiện ích, được tiếp
xúc với những trang thiết bị công nghệ hiện đại.
Với sự phát triển của nền kinh tế- xã hội thì mỗi gia đình cũng có điều
kiện về kinh tế. Trẻ em được sinh ra luôn được quan tâm, được chiều chuộng từ
bố mẹ và người thân và có thể đáp ứng hầu hết các nhu cầu của trẻ.
Đa số các gia đình thường chú trọng đến việc học kiến thức của trẻ mà
không chú ý đến việc giáo dục tình cảm, kĩ năng xã hội đặc biệt là trang bị kĩ
năng sống cho trẻ. Luôn bao bọc, nuông chiều, làm hộ trẻ khiến trẻ ỷ lại, ích kỷ,
vô cảm với thế giới bên ngoài và các kỹ năng cần thiết trong cuộc sống. Gây khó
khăn cho trẻ trong việc giải quyết các tình huống bất ngờ xảy ra.
Mỗi đứa trẻ ngày càng cũng dần mất đi những kĩ năng đơn giản khi tiếp
xúc với mọi sự vật, hiện tượng xung quanh cũng như các kĩ năng ứng xử giữa
con người với con người. Từ đó đặt ra yêu cầu bức thiết của xã hội là phải giáo
dục và hình thành các kĩ năng cho trẻ.
Phát triển tình cảm - kĩ năng- xã hội là một trong những lĩnh vực quan
trọng có tính chất tiền đề có thể đi suốt cuộc đời của mỗi người mà đặc biệt là
trẻ em. Hình thành bị kĩ năng sống cho trẻ giúp trẻ có hành trang, kiến thức,
thực tiễn cho trẻ khi trẻ bước vào đời, nó hình thành nên một nhân cách cho mỗi
đứa trẻ.
Đó là những kĩ năng cơ bản trong giao tiếp, ứng xử giữa con người với
con người, với thiên nhiên và cách ứng sử với thiên nhiên, là cách giao tiếp các
kĩ năng xã hội giúp trẻ hoà nhập và phát triển các mối quan hệ xã hội tốt đẹp với
những người trong gia đình, các bạn trong lớp và người lạ mà trẻ tiếp xúc.
Trong chương trình giáo dục mầm non, đã có đề cập đến việc giáo dục
tình cảm- kĩ năng xã hội cho trẻ và cũng có những tài liệu nguyên cứu giáo dục
tình cảm, kĩ năng xã hội cho trẻ. Tuy nhiên các tài liệu nghiên cứu chuyên sâu về
giáo dục bị kĩ năng sống cho trẻ mà giáo viên chưa được tiếp cận, chủ yếu là tìm
hiểu qua các phóng sự, sách báo. Trong khi đó, với xã hội ngày này việc giáo
dục kĩ năng sống có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng hành nhân cách trẻ.
Giáo dục tình cảm, kĩ năng xã hội tưởng chừng rất dễ hình thành cho mỗi
đứa trẻ nhưng ở lứa tuổi mầm non đặc biệt là độ tuổi 4-5 tuổi với đặc điểm tâm
sinh lí là dễ nhớ nhưng chóng quên vì vậy phải hình thành cho trẻ ở mọi lúc, mọi
nơi để đạt được kết quả tốt nhất.
2
Giáo dục phát triển tình cảm, kĩ năng xã hội cho trẻ bao gồm rất nhiều kỹ
năng: Kỹ năng giao tiếp ứng xử, kỹ năng giữ gìn vệ sinh cá nhân, kỹ năng thích
nghi với môi trường sống, kỹ năng hợp tác chia sẻ…
Phát triển tình cảm, kĩ năng xã hội cho trẻ là truyền cho trẻ những kinh
nghiệm sống của người lớn. Nhằm giúp trẻ có những kỹ năng ứng xử trước
những tình huống sảy ra bất ngờ trong cuộc sống. Trẻ biết vận dụng, biết biến
những kiến thức của mình để giải quyết những khó khăn trong cuộc sống cho
phù hợp.
Hình thành tình cảm, kĩ năng xã hội cho trẻ còn thông qua hoạt động chơi
vì: “Vui chơi là hoạt động chủ đạo của lứa tuổi mẫu giáo”. Các đặc điểm tâm lý
mới, tính cách mới của trẻ được hình thành chủ yếu trong hoạt động chủ đạo
này. Vì vậy rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ thông qua chơi là một hình thức
giáo dục có hiệu quả.
Phát triển tình cảm, kĩ năng xã hội cho trẻ thông qua hoạt động học tập
nhằm trau dồi cho trẻ những tri thức cần thiết về cuộc sống xung quanh mà giúp
trẻ gắn bó với quê hương, biết yêu quý người lao động có những hành vi văn
minh, làm giàu vốn hiểu biết cho trẻ.
Xuất phát từ những lý do trên khẳng định vai trò quan trọng của phát triển
tình cảm, kĩ năng xã hội đặc biệt là giáo dục bị kĩ năng sống cho trẻ, giúp trang
bị cho trẻ những kiến thức, kĩ năng một cách đúng đắn. Trong quá trình hoạt
động của trẻ và nhận thấy sự cần thiết và vô cùng quan trọng trong việc phát
triển nhân cách cho trẻ. Đó chính là lý do tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp
giáo dục tình cảm, kĩ năng xã hội cho trẻ 4-5 tuổi trường mầm non Cẩm Liên”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Bản thân là một giáo viên mầm non luôn tâm huyết với nghề, tôi luôn trăn
trở làm sao để tìm ra những phương pháp để giáo dục trẻ hiệu quả nhất. Để trẻ
em khi bước ra thế giới bên ngoài, ra khỏi vòng tay yêu thương của ông bà, bố
mẹ mà trẻ tự tin, có khả năng ứng xử, giao tiếp, giúp các em có thể tự tin sánh
vai cùng với bạn bè trên khắp mọi miền đất nước, để góp một phần sức trẻ của
mình để ươm mầm tương lai cho đất nước.
Tôi đã tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu qua sách báo, công nghệ thông tin, qua
những phóng sự trên truyền hình nhằm đưa ra những biện pháp cũng như cách
thức truyền đạt phù hợp với trẻ đặc biệt với độ tuổi 4-5 tuổi.
Qua đó tôi muốn gửi lại một thông điệp đó là: “Giáo dục phát triển tình
cảm, kĩ năng xã hội chính là tạo ra hành trang để trẻ bước vào đời”.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nguyên cứu sự cần thiết của việc phát triển tình cảm, kĩ năng xã
hội cho trẻ 4-5 tuổi, mà trọng tâm là giáo dục bị kĩ năng sống cho trẻ. Nhằm
3
trang bị cho trẻ các kĩ năng cần thiết khi tham gia vào tất cả các hoạt động cũng
như trong cuộc sống hàng ngày.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Phát triển tình cảm, kĩ năng xã hội có vai trò quan trọng trong quá trình
chăm sóc và giáo dục trẻ. Để đạt được hiệu quả giáo dục tốt nhất đòi hỏi người
giáo viên phải lựa chọn những nội dung, hình thức, phương pháp và biện pháp
phù hợp với độ tuổi 4-5 tuổi.
Các phương pháp nghiên cứu đề tài bao gồm:
* Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết:
Theo các nhà tâm lý học: Phát triển tình cảm, kĩ năng xã hội là những kỹ
năng cần có cho hành vi lành mạnh cho phép bạn đối mặt với những thách thức
của cuộc sống hằng ngày.
Do đó phát triển tình cảm, kĩ năng xã hội chính là giáo dục các hành vi
ứng xử trong cuộc sống hàng ngày, có quan hệ mật thiết đối với trẻ, tạo cho trẻ
có tâm thế vững vàng khi đối mặt với cuộc sống thực tiễn hàng ngày.
* Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin:
Với phương pháp này mang lại những thông tin hứu ích trong việc nghiên
cứu đề tài. Khi tham gia khảo sát thực tế trong lớp học cũng như cuộc sống xung
quanh trẻ thì phát triển tình cảm, kĩ năng xã hội cho trẻ vẫn đang còn là mối
quan tâm lớn của xã hội. Các bậc cha mẹ có những hiểu biết lệch lạc trong việc
chăm sóc giáo dục con cái mình. Vì vậy khi thu thập các thông tin đòi hỏi bản
thân mình cần tìm tòi, nghiên cứu để tìm ra những phương pháp tối ưu để giáo
dục trẻ.
*Phương pháp thống kê, xử lý số liệu:
Từ việc khảo sát số liệu tôi nhận thấy tỉ lệ trẻ có những thói quen hành vi
văn minh, khả năng ứng xử với những tình huống hàng ngày còn nhiều hạn chế,
trẻ còn rụt rè, nhút nhát, chưa tham gia hoạt động một cách tích cực. Chính vì
vậy với những số liệu khi thu thập tôi nhận thấy tầm quan trọng rất lớn của việc
chăm sóc giáo dục trẻ.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Phát triển tình cảm, kĩ năng xã hội cho trẻ là giáo dục cách sống tích cực
trong xã hội hiện đại. Phát triển tình cảm, kĩ năng xã hội đặc biệt là hình thành
“kĩ năng sống” cho trẻ là phát triển một cách toàn diện, có ý nghĩa to lớn trong
việc hình thành những phẩm chất tốt đẹp, mở ra tầm nhìn mới cho trẻ về thế giới
xung quanh. Từ đó tạo điều kiện có tính chất tiền đề giúp giáo dục và phát triển
nhân cách trẻ.
4
Trường mầm non Cẩm Liên nằm trên địa bàn xã có trên 95% là dân tộc
thiểu số, đặc biệt là vùng 135 vùng kinh tế đặc biệt khó khăn của huyện, trẻ em
sinh ra và lớn lên sống hầu như là theo bản năng, Vì vậy hình thành “kĩ năng
sống” giúp trẻ có ý nghĩa rất quan trọng đối với trẻ.
Tôi bắt đầu nghiên cứu chọn đề tài này nhằm mục đích tự tìm ra những
biện pháp tốt nhất để góp phần nâng cao hiệu quả trong việc hình thành phát
triển tình cảm kĩ năng xã hội đặc biệt là “kĩ năng sống” cho trẻ nói chung và trẻ
dân tộc thiểu số trường Mầm Non Cẩm Liên huyện Cẩm Thuỷ nói riêng. Tôi
nhận thấy giáo dục bị kĩ năng sống cho trẻ dân tộc thiểu số là hết sức quan trọng
đối với lớp trẻ vùng dân tộc hiện nay. Nhưng làm được điều này không phải việc
một sớm một chiều, nhất là trong lúc này tâm hồn trẻ đang ngây ngô trong sáng
như một trang giấy trắng. Vì vậy bậc học mầm non phải là nơi uốn nắn và giáo
dục trẻ từ ban đầu.
Ban đầu trẻ đã có một số kỹ năng tích luỹ được một số tri thức, thói quen,
kinh nghiệm sống để sử dụng trong cuộc sống hàng ngày bằng cách học lõm, bắt
trước người lớn. Trẻ được trải nghiệm, được nhìn thấy, được nghe thấy. Vì vậy
giáo viên và gia đình là người quan sát trực tiếp đến trẻ, phải gương mẫu, dạy và
tập cho trẻ những hành vi văn minh ở mọi lúc, mọi nơi nhằm hình thành những
kĩ năng ban đầu của trẻ.
Ngoài ra, trong xã hội hiện nay trẻ thường gặp phải những tai nạn thương
tích dẫn đến tỉ lệ trẻ em bị tử vong là do sự bất cẩn của người lớn.
“Tại Việt Nam, thống kê của Cục Quản lý môi trường cho thấy, mỗi năm
trung bình có hơn 370.000 trẻ bị tai nạn thương tích, trong đó nhóm 15-19 chiếm
tỷ lệ cao nhất chiếm 43%, tiếp đến nhóm tuổi 5-14 chiếm 36,9%, thấp nhất là
nhóm tuổi 0-4 chiếm 19,5%. Số trẻ em tử vong do tai nạn thương tích là 6.600
trường hợp một năm chiếm tỷ lệ 35,5% trong tổng số trẻ tử vong trong toàn
quốc do tất cả các nguyên nhân. Cứ 100.000 trẻ có 24 trẻ tử vong do tai nạn
thương tích hay tương đương 18 trẻ em tử vong do tai nạn thương tích mỗi
ngày. Các em trai có xu hướng bị thương tích thường xuyên hơn và nghiêm
trọng hơn so với các em gái. Tỷ lệ tử vong ở nam giới cao hơn 3 lần so với nữ
giới.
Trong các nguyên nhân tử vong do tai nạn thương tích ở trẻ em, thì đuối
nước là nguyên nhân hàng đầu với 3.500 trẻ em và vị thành niên từ 0-19 tuổi tử
vong mỗi năm tương đương có khoảng 10 trẻ em tử vong mỗi ngày. Trong các
nhóm tuổi, trẻ từ 0-4 tuổi chiếm tỷ lệ tử vong do đuối nước cao nhất với khoảng
36%, nhóm tuổi 15-19 chỉ chiếm khoảng 16%; từ 5-9 tuổi chiếm 25%, nhóm 1014 tuổi chiếm tỷ lệ gần tương đương với nhóm 5-9 tuổi (26%).
Tuỳ từng lứa tuổi mà trẻ có thể gặp các loại hình/nguyên nhân tai nạn thương
tích khác nhau.
5
Đối với trẻ 1-4 tuổi: đuối nước vẫn là nguyên nhân hàng đầu, tiếp theo là
bỏng, các nguyên nhân thường gặp khác như ngã, tai nạn giao thông, động vật
cắn, ngộ độc cũng có thể gặp nhưng tỷ lệ không cao”[1]
Từ những số liệu trên khẳng định sự quan trọng của việc giáo dục tình
cảm kĩ năng xã hội cho trẻ. Đó là lí do đã thúc đẩy tôi bắt đầu triển khai áp dụng
đề tài: “Một số biện pháp giáo dục tình cảm, kĩ năng xã hội cho trẻ 4-5 tuổi
trường mầm non Cẩm Liên” nhằm hình thành và phát triển các kĩ năng cơ bản
cho trẻ.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Thuận lợi
Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tân giúp đỡ tạo điều kiện về môi
trường tổ chức và được đi tham gia tập huấn ở các chuyên đề do Phòng giáo dục
tổ chức.
Ban giám hiệu, tổ chuyên môn thường xuyên xây dựng các tiết thực hành
cho giáo viên học tập kinh nghiệm.
Giáo viên là người sinh sống tại địa phương, biết được hoàn cảnh gia đình
của từng trẻ.
Về đội ngũ giáo viên: Trình độ chuyên môn đã đạt chuẩn và trên chuẩn.
Các đồng chí giáo viên đã có thu nhập ổn đinh, an tâm công tác và đều có tâm
huyết với nghề. Có đạo đức lối sống trong sáng, lành mạnh, gương mẫu trong
mọi hoạt động chăm sóc và giáo dục trẻ. Luôn "Yêu nghề mến trẻ" và xứng đáng
là người mẹ thứ hai của trẻ .
Đồ dùng, đồ chơi, trang thiết bị dạy học phục vụ cho các hoạt động tương
đối đầy đủ. Trẻ trong lớp đều có chung một độ tuổi, tất cả trẻ trong lớp ngoan
nghe lời cô giáo.
2.2.2. Khó khăn
Đa số trẻ chưa có nề nếp, thói quen văn minh. Trẻ đến trường còn khóc
nhè, không muốn ở trường, không muốn tham gia các hoạt động cùng cô giáo và
các bạn.
Hầu hết bố mẹ trẻ đều làm nghề nông nghiệp, kinh tế còn gặp nhiều khó
khăn. Một số phụ huynh còn chưa quan tâm tới việc học hành của con em mình.
Nhiều trẻ còn nói ngọng nói lắp, nói và giao tiếp với các bạn bằng tiếng dân tộc.
Phần lớn phụ huynh còn xem nhẹ việc giáo dục tình cảm, kĩ năng xã hội
cho con cái mình, thường bao bọc, nuông chiều và làm hộ trẻ dẫn đến trẻ ỉ lại,
không tự giác trong mọi hoạt động
Khả năng nhận thức trẻ không đồng đều, tư duy còn chậm, trẻ còn hỏi và
trả lời cô bằng tiếng dân tộc, có trẻ lại trả lời cô bằng những trống không. Trẻ ra
vào lớp một cách tự nhiên trong khi học cũng như trong khi chơi.
6
Do đời sống kinh tế khó khăn đa số cha mẹ trẻ điều đi làm ăn xa để con
lại cho ông bà chăm sóc, ông bà thường nuông chiều trẻ dẫn đến trẻ ỉ lại.
Đứng trước tình hình như vậy tôi lo lắng phải giáo dục trẻ như thế nào? và
bằng những phương pháp gì? Tôi đã nghiên cứu và áp dụng có hiệu quả các biện
pháp mà tôi đưa ra ngay trong lớp mình phụ trách.
2.2.3. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Qua một thời gian trải qua quá trình tiến hành thực nghiệm, khảo sát ban
đầu trên trẻ cho thấy kết quả đầu năm của trẻ trên lớp được như sau:
STT
Nội dung
1
Trẻ mạnh dạn, tự tin khi
tham gia các hoạt động.
2
3
4
6
Trẻ biết giữ gìn vệ sinh môi
trường: Không vứt rác bừa
bãi.
Trẻ biết một số quy tắc đơn
giản trong gia đình (Chào
hỏi lễ phép, xin lỗi khi mắc
lỗi, cất đồ dùng, đồ chơi
đúng nơi quy định).
Trẻ thực hiện được một số
quy định ở lớp: Sau khi chơi
xếp cất đồ chơi, không tranh
giành đồ chơi, vâng lời cô
giáo.
Trẻ nhận biết một số nơi
nguy hiểm: Đường làng, ao
hồ, khe suối...
Trước khi chưa sử dụng các biện
pháp
Tổng
số trẻ
Trẻ
đạt
Tỉ lệ
%
Chưa
đạt
Tỉ lệ
%
23
9
36%
14
64%
23
7
29%
16
71%
23
8
37%
15
63%
23
9
34%
14
66%
23
10
40%
13
60%
Qua bảng số liệu trên tôi nhận thấy tỉ lệ trẻ đạt theo yêu cầu con rất thấp
mà tỉ lệ trẻ chưa đạt rất cao thể hiện được rằng phát triển tình cảm, kĩ năng xã
hội đang là một vấn đề cấp bách cần phải hình thành và giáo dục cho trẻ. Khi mà
mỗi đứa trẻ không có những kĩ năng tối thiểu thì khi bước ra ngoài xã hội đứa
trẻ sẽ mất đi sự tự tin và sẽ cản trở khả năng, năng lực của trẻ.
Các kĩ năng cần thiết của trẻ vẫn còn hạn chế. Chính vì vậy tôi đã mạnh
dạn tìm tòi, nghiên cứu qua bạn bè đồng nghiệp, qua sách báo, các phóng sự trên
7
truyền hình để tìm ra phương pháp, hình thức phù hợp với khả năng, năng lực
của trẻ.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Biện pháp 1: Phát triển tình cảm, kĩ năng xã hội cho trẻ mẫu giáo 4-5
tuổi
Việc phát triển tình cảm, kĩ năng xã hội cho trẻ cần giáo dục cho trẻ ở mọi
lúc mọi nơi để nhằm mục đích giúp trẻ khắc sâu vào tâm hồn trẻ.
Để đưa trẻ vào nền nếp trước tiên phải giáo dục vào thời điểm đón trẻ và
trả trẻ. Trẻ dân tộc vùng cao đến trường chưa có nề nếp, đa số trẻ là trẻ dân tộc
thiểu số, trẻ giao tiếp với cô đang con nói tiếng dân tộc. Do vậy trẻ còn nhút
nhát, rụt rè khi giao tiếp với cô giáo. Đặc biệt những ngày đầu tiên khi trẻ tới
trường, bằng các biện pháp, kĩ năng sư phạm tôi đưa ra những hình thức giáo
dục như: gần gũi, trò chuyện với trẻ để tạo sự gần gũi giữa cô và trẻ. Nhờ vậy trẻ
mạnh dạn, hứng thú tham gia vào các hoạt động cùng cô. Ngoài tra tôi còn phải
trao đổi với phụ huynh về tình hình của trẻ trong ngày, giúp cho mỗi quan hệ
giữa cô giáo và phụ huynh thêm thân thiện và đạt được kết quả chăm sóc giáo
dục được tốt, cô thường xuyên nhắc trẻ chào cô, chào bạn khi tới lớp và khi ra
về.
Ví dụ: Cô chào con! Và ngay sau đó trong đầu trẻ đã nảy ra suy nghĩ về lí
do đó, kết quả của ngày hôm sau khi nghe cô chào: Cô chào con! Thì ngay lập
tức trẻ đã chào cô. Tôi phải khen ngợi và khuyến khích để trẻ thích thú sau đó là
nhắc trẻ chào các bạn của mình và chào tạm biệt người đưa mình đến trường.
Hoặc khi trẻ làm sai một việc gì đó trẻ biết xin lỗi và cảm ơn khi được người
khác giúp đỡ.
Đặc biệt khi đón trẻ tôi ân cần trò chuyện với trẻ và phải nghiêm túc trong
việc xưng hô với trẻ và bố mẹ trẻ, tập cho trẻ đến lớp chào cô sau đó là chào tạm
biệt người thân, chào các bạn, trẻ cất đồ dùng rồi vào lớp theo đúng nội quy. Đó
là việc rèn nề nếp khi trẻ đến lớp.
Từ đó tập cho trẻ thói quen văn minh ở trường lớp, Giáo dục trẻ tinh thần
tự lực tự giác ý thức kỷ luật trật tự trong sinh hoạt hành vi văn minh, giữ gìn vệ
sinh chung.
Giáo dục trẻ quan hệ đoàn kết nhân ái với bạn bè biết yêu mến và tôn
trọng người lớn. Có ý thức giữ gìn tài sản chung và tài sản riêng. Để giáo dục nề
nếp thói quen cho trẻ tôi thường xuyên nhắc nhở, kiểm tra, để giúp trẻ có ý thức
bảo vệ môt trường, giữ gìn vệ sinh chung. Không vứt rác bừa bãi, bỏ rác vào
đúng nơi quy định.
Tôi thường xuyên giáo dục trẻ biết lễ phép, từ tốn và cần giữ gìn vệ sinh
chung. Khi cho trẻ ăn bất cứ thứ gì tôi cũng giáo dục trẻ bỏ rác đúng nơi quy
định.
8
Giáo dục trẻ biết xin lỗi, cảm ơn: khi trẻ chơi tự do hay trong bất kỳ các
hoạt động nếu trẻ làm gì sai đối với bạn. Với bản thân tôi việc phải làm ngay là
phải giúp trẻ nhận ra lỗi của mình và sửa sai, sau đó việc tiếp theo nên làm là
phải xin lỗi cô, xin lỗi bạn. Nếu ai cho gì thì phải biết xin và nói lời cảm ơn, nếu
người lớn cho quà thì phải nhận bằng 2 tay và biết cảm ơn.
Từ những việc làm đó diễn ra hàng ngày và thường xuyên sẽ giúp trẻ hình
thành một nề nếp thói quen tốt đẹp hơn khi ở trường. Từ sự tác động của cô giáo
hằng ngày đã giúp trẻ tích luỹ được những đức tính tốt trong sinh hoạt.
Để trẻ có ý thức chăm sóc cây xanh và bảo vệ môt trường tôi giúp trẻ
hiểu:
Tầm quan trọng của cây xanh đối với sự sống? Cách chăm sóc cây xanh
như nào? Muốn có nhiều cây xanh phải làm gì? Cô giúp trẻ biết cách chăm sóc,
biết yêu thiên nhiên cảnh đẹp, giáo dục trẻ không ngắt lá bẻ cành.
Trước khi ăn tôi nhắc trẻ phải biết mời cô, mời bạn trước khi ăn, có khách
đến phải biết chào mời. Tôi nhắc trẻ giữ gìn vệ sinh trước khi ăn và sau khi ăn,
biết giữ gìn thân thể sạch sẽ. Qua đó tạo cho trẻ có ý thức tự giác trong mọi hoạt
động.
Giáo dục trẻ nhận biết tránh xa những nơi nguy hiểm và những tình huống
nguy hiểm có thể gây thương tích cho trẻ. Tai nạn thương tích ở trẻ nhỏ là vấn
đề nhức nhối của xã hội
Qua các hoạt động giáo dục, cô giáo dục trẻ, trang bị cho trẻ cách tự bảo
vệ bản thân như: Tránh xa nơi có phích nước nóng, điện lưới, ao hồ, khe suối…
để nhằm hạn chế tối đa những tai nạn thương tích cho trẻ.
2.3.2. Biện pháp 2: Phát triển tình cảm, kĩ năng xã hội qua hoạt động học có
chủ định
Để sử dụng các biện pháp giáo dục tình cảm, kĩ năng xã hội cho trẻ mang
lại hiệu quả cao đó là giáo dục thông qua việc tổ chức các hoạt động học có chủ
định, các nội dung giáo dục phát triển tình cảm, kĩ năng xã hội cho trẻ 4-5 tuổi
được tích hợp trong nhiều hình thức tổ chức các hoạt động chủ định.
Khi lồng ghép các hoạt động trong hoạt động chủ định nhằm rèn luyện
cho trẻ kiến thức cần thiết về cuộc sống xung quanh giúp trẻ biết yêu quê hương,
yêu quý con người lao động, có ý thức bảo vệ thiên nhiên, có hành vi văn minh
trong ứng xử.
Xây dựng những kiến thức và kinh nghiệm về kĩ năng sống giúp trẻ nhận
biết được điều tốt, việc xấu. Bên cạnh đó thông qua hoạt động chủ định, thông
qua giờ học tôi rèn cho trẻ nề nếp thói quen khi cô giáo đang giảng bài thì trẻ
phải trật tự chú ý và cùng lắng nghe, cô hỏi gì nếu trẻ biết và muốn nói thì phải
giơ tay được sự đồng ý của cô trẻ mới được trả lời. Tránh trường hợp trẻ nói leo,
nói ồ ạt để rèn cho trẻ một nề nếp, thói quen tốt.
9
Ví dụ: Hình ảnh minh hoạ khi cô đang cùng trẻ hoạt động chủ đích cô có
câu hỏi với trẻ, lúc này trẻ muốn nói lên ý kiến của mình trẻ sẽ làm gì?
Hình ảnh 1: Giờ hoạt động có chủ định
Để hình thành thói quen hành vi có văn hoá thì việc lồng ghép giáo dục
phát triển tình cảm, kĩ năng xã hội cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi qua hoạt động học
có chủ đích là rất có hiệu quả. Một trong những kỹ năng đó là kỹ năng phòng
chống tai nạn thương tích, biết tự bảo vệ mình vô cùng cần thiết . Ngay từ nhỏ,
trẻ cần được giáo dục kỹ năng ứng biến khi gặp các tình huống khó khăn. Đó
chính là những kỹ năng mà trẻ cần được trang bị để đề phòng những tình huống
bất trắc xảy ra.
Với trẻ mẫu giáo bé, trẻ còn nhỏ tuổi, kinh nghiệm sống chưa có nên kỹ
năng phòng chống tai nạn ở trẻ còn hạn chế. Trẻ chưa nhận thức được mối nguy
hiểm xảy ra xung quanh trẻ và cách nhận biết. Thông qua hoạt động có chủ định
tôi giáo dục trẻ có những hành vi đúng đắn giúp trẻ hình thành những kĩ năng
ứng xử với tất cả sự vật, hiện tượng xung quanh trẻ
Ví dụ: Chủ đề: “Gia đình”
Đề tài: truyện: “Hai anh em nhà thỏ”
Cô đưa ra câu hỏi về câu chuyện:
+ Trước khi đi thỏ mẹ làm gì?
+ Mẹ đi rồi hai anh em thương mẹ lắm. Chúng làm gì để giúp mẹ?
+ Thỏ anh ăn hết củ cà rốt còn thỏ em thì như thế nào?
10
+ Thỏ em để một nửa để làm gì?
+ Khi mẹ về thì hai anh em thỏ làm gì?
+ Hai anh em nhà thỏ rất thương mẹ. Vậy các con có yêu thương mẹ mình
không? Vì sao?
Từ câu chuyện “Hai anh em nhà thỏ” cô giáo dục trẻ phải biết kính trọng,
nghe lời của bố mẹ. Anh em trong gia đình phải biết yêu thương nhau.
Ví dụ: Lĩnh vực phát triển nhận thức
Môn: Khám phá hoa học
Đề tài: Trò chuyện về những người thân trong gia đình
Với đề tài này cô đưa ra những câu hỏi:
Trước khi ăn cơm con phải làm gì?
Khi người lớn ăn xong con phải làm gì?...
Qua đó cô giáo dục trẻ có những hành vi ứng xử đúng đắn và cách cư xử
với người lớn.
Phát triển tình cảm kĩ năng xã hội hình thành cho trẻ những kĩ năng sống
giúp cho trẻ trang bị những kiến thức về cách ứng xử giữa con người với con
người. Ngoài ra với những tình huống bất trắc trong xã hội cũng có thể dẫn đến
những tình huống nguy hiểm cho trẻ.
Với những tình huống dưới dây giúp trẻ có những cách để bảo vệ bản thân
của mình trước những kẻ xấu.
*Tình huống 1: “Trẻ bị lạc”
Với tình huống này, chúng ta thấy với độ tuổi trẻ 4-5 tuổi thì trẻ còn nhỏ,
việc bị lạc đường khi đến một nơi lạ bị lạc sẽ dẫn đến sự nguy hiểm cho trẻ.
Chính vì vậy chúng ta phải trang bị cho trẻ những kiến thức, kĩ năng khi trẻ gặp
phải những tình huống bất trắc như: Bắt cóc, buôn bán người,…gây nên hoảng
loạn cho trẻ.
Tôi đã cho trẻ suy nghĩ và tìm ra những phương pháp để giúp trẻ đưa ra
một cách giải quyết của riêng, lắng nghe ý kiến của trẻ, cho trẻ suy nghĩ và trả
lời ý kiến của mình, gợi mở cho trẻ bằng các câu hỏi:
Khi bị lạc đường con sẽ làm gì?
Theo con có nên đi theo người lạ không? Vì sao?
Con sẽ nhờ ai để được giúp đỡ?
Sau đó cô giáo dục trẻ:
Khi đi chơi xa thì con phải đi theo người lớn, không tự đi một mình. Nếu
như bị lạc, con hãy bình tĩnh, không khóc và chạy lung tung mà hãy đứng yên
tại chỗ chờ vì bố, mẹ sẽ quay lại chỗ đó để tìm con. Nếu thấy chú công an, bộ
11
đội hay bảo về con cũng có thể nhờ được giúp đỡ. Tuyệt đối không đi theo
người lạ dù người đó có hứa sẽ đưa về với bố mẹ. Vì có thể đó sẽ là kẻ xấu lợi
dụng cơ hội đó bắt cóc hoặc làm hại con. Hoặc là thường xuyên giáo dục trẻ cần
thuộc số điện thoại, tên bố mẹ, địa chỉ nhà của bố hoặc mẹ để trẻ được sự giúp
đỡ.
Với tình hình phức tạp trong xã hội hiện nay, nhiều tình huống bất trắc có
thể xảy ra đối với trẻ như bị bắt cóc, xâm hại... Tôi đã đưa ra những tình huống
để dạy trẻ như:
*Tình huống 2: “Nếu có người lạ cho quà - Con sẽ làm như thế nào?
Đặc điểm tâm lý của trẻ rất thích nhận quà và sẵn sàng làm theo người
khác khi được cho quà. Vì vậy lợi dụng những đặc điểm tâm sinh lý này nhiều
kẻ xấu đã lợi dụng, dụ dỗ trẻ nhằm thực hiện các hành vi như: Bắt cóc trẻ, xâm
hại và có thể buôn bán trẻ.
Giáo dục trẻ tuyệt đối không được nhận quà, ăn bánh kẹo của người lạ vì
có thể bị kẻ xấu tẩm thuốc mê để bắt cóc và thực hiện các hành vi buôn bán
người vì vậy tuyệt đối không nhận quà của người lạ.
Vì vậy tôi đưa ra tình huống để trẻ thảo luận, tôi đưa ra những giả thiết,
những tình huống xấu. Nếu đó là kẻ xấu thì sẽ rất nguy hiểm cho bé. Tôi phân
tích, giải thích cho trẻ để giúp trẻ biết: Khi gặp những trường hợp này bé nên
nói: “Cháu cám ơn, nhưng bố mẹ cháu không cho nhận quà của người lạ”. Do
đó giúp trẻ hiểu và tránh được những mỗi nguy hiểm rình rập trẻ.
Hình ảnh 2: Trẻ được người lạ cho quà
*Tình huống 3: Trẻ đi tắm biển hoặc chơi gần ao hồ.
12
Trong những năm gần đây, các vụ đuối nước thương tâm diễn ra thường
xuyên, gây nên những mất mát đau thương cho nhiều gia đình mà nguyên nhân
hầu hết chính là sự bất cẩn của con người. Chính vì vậy qua tình huống đó giúp
trẻ trang bị cho mình những kĩ năng như:
Khi đi tắm biển, sông suối phải có bố mẹ đi cùng, không được tự ý đi tắm
một mình sẽ gây nguy hiểm. Khi đi tắm biển, sông suối tắm phải mặc áo phao.
Từ những tình huống cụ thể mà rất dễ xảy ra đối với trẻ, bằng cách cho trẻ
thảo luận, yêu cầu trẻ suy nghĩ, vận dụng vốn hiểu biết của mình đã có để tìm
cách giải quyết vấn đề. Thông qua hoạt động đó cũng giúp trẻ có sự tư duy
lôgíc, biết cách diễn đạt suy nghĩ của mình và giúp trẻ có thêm kinh nghiệm
trong cuộc sống.
Ngoài ra cô giáo dục trẻ khi chơi không được chơi dưới lòng đường, khi
tham gia giao thông phải chấp hành các quy định và luật lên an toàn giao thông
như: Đội mũ bảo hiểm, đi bên phải, không tự ý qua đường…và giáo dục trẻ
tránh xa những nơi có điện lưới, có phích nước nóng, có ao hồ… để tránh sảy ra
những tai nạn thương tích cho trẻ.
Đặc biệt tôi còn tích hợp giáo dục tình cảm, kĩ năng xã hội qua các bài
thơ, câu truyện. Qua đó tôi giáo dục trẻ biết thương yêu, chăm sóc người thân
trong gia đình, khi trong gia đình có người bị ốm. Giáo dục trẻ yêu thương kính
trọng người già, biết nghe lời và biết thể hiện tình thương của mình với ông bà,
bố mẹ. Chính từ những hành động của các nhân vật trong bài thơ câu chuyện tôi
giúp trẻ chuyển thành hành động trong sinh hoạt hàng ngày. Tôi rèn cho trẻ cách
nói cách hỏi, biết cảm ơn, xin lỗi, biết giúp đỡ mọi người. Qua hoạt động văn
học còn giáo dục trẻ lòng thật thà chăm lao động, dạy trẻ yêu cái thiện, ghét cái
ác, hình thành cho trẻ lòng nhân ái đối với những người xung quanh.
2.3.3. Biện pháp 3: Lồng ghép giáo dục tình cảm kĩ năng xã hội thông qua
hoạt động góc.
Đối với trẻ mẫu giáo “Hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ
mầm non”. Đây là một trong những hoạt động hữu hiệu đối với việc giáo dục
tình cảm, kĩ năng xã hội cho trẻ mầm non đặc biệt là trẻ 4-5 tuổi. Chúng ta có
thể giáo dục trẻ những hành vi đạo đức văn minh từ việc thấy được nhiều gương
tốt, những hành vi đẹp của bạn bè người khác qua tranh ảnh, qua bài thơ câu
chuyện. Vì vậy trong việc hình thành kĩ năng sống cho trẻ mầm non vào hoạt
động đóng vai theo chủ đề là cách giúp trẻ được trải nghiệm, được tích lũy
những kinh nghiệm cho bản thân là một cách có hiệu quả.
Ví dụ: Trong quá trình chơi khi sảy ra tình huống trẻ tranh đồ chơi của
bạn. Cô giáo chính là trọng tài để hoà giải những mâu thuẫn này. Cô giải thích
cho trẻ biết hành động tranh đồ chơi của bạn là không ngoan. Nếu con muốn con
sẽ cùng chơi với bạn hoặc con phải mượn bạn trước, con muốn đồ chơi trên tay
13
bạn thì phải có sự đồng ý của bạn. Sau đó cô sẽ ân cần nhắc trẻ lần sau chơi nếu
con muốn chơi các đồ chơi của bạn con phải làm thế nào?
Trong các góc chơi: Trò chơi đóng vai theo các chủ đề có vị trí quan
trọng, thông qua trò chơi tôi có thể quan sát kỹ hoạt động, thái độ ứng xử của
trẻ, đặc biệt khi đó tôi luôn có tác động lớn về mặt đạo đức đến trẻ.
Đối với góc học tập: Cô cho trẻ xem tranh, ảnh về các tình huống nên làm
và không nên làm. Trẻ đọc thơ, kể truyện về những nhân vật làm việc tốt và
chưa tốt để qua đó giáo dục trẻ.
Ví dụ: Chủ đề: Bản thân
Câu bài thơ: “Lời chào” thông qua những hình ảnh, những hành vi tốt để
khắc sâu vào tâm hồn trẻ qua đó giáo dục trẻ biết vâng lời, lễ phép với người
lớn…
Ở góc phân vai: Ở góc phân vai diễn ra nhiều mối quan hệ khăng khít đó
là quan hệ giữa trẻ với nhau và quan hệ giữa các vai chơi trong góc. Qua góc
chơi này trẻ được tham gia thỏa thuận, bàn bạc để tiến hành các vai chơi một
cách tuần tự. Giúp cho trẻ thỏa mãn nhu cầu chơi chủa mình.
Đối với người mua hàng cần biết tôn trọng người bán hàng nếu làm hỏng
hàng cần phải xin lỗi. Khi mua phải trả tiền cho người bán, khi nhận tiền thì phải
nói cảm ơn.
Ví dụ: Khi đóng vai người bán hàng và người mua hàng, trước tiên tôi
phải giúp trẻ hiểu được mục đích của người bán hàng sẽ làm gì? Cách giao tiếp,
hành vi của người bán hàng với khách như thế nào? Và người đi mua phải làm
thế nào? Để giúp trẻ hiểu được hoạt động thực sự của người lớn trong việc trao
đổi mua bán hàng hoá. Đối với người bán hàng phải niền nở chào hỏi người
khách đến mua hàng, đối với khách hàng hơn tuổi phải dạ, thưa lễ phép.
Hình ảnh 3: Trẻ chơi ở góc phân vai
14
Khi tham gia chơi đóng vai trẻ bộc lộ hết thái độ chơi và sự hợp tác giữa
các vai chơi.Tôi phải hướng dẫn để trẻ biết nhập vai chơi thực sự, đặc biệt cần
chú trọng đến cách giao tiếp để uốn nắn trẻ Khi tham gia chơi đóng vai trẻ bộc
lộ hết thái độ chơi và sự hợp tác giữa các vai chơi.Tôi phải hướng dẫn để trẻ biết
nhập vai chơi thực sự, đặc biệt cần chú trọng đến cách giao tiếp để uốn nắn trẻ
Trong hình ảnh là trò chơi bán hàng, người bán hàng phải đưa hàng bằng
hai tay, phải niềm nở với khách hàng và nói lời cảm ơn, còn người mua cũng
phải nhận hàng bằng 2 tay và biết nói lời cảm ơn. Nếu như trẻ còn lúng túng cô
cùng tham gia chơi với trẻ giúp trẻ nhận biết được cách ứng xử giữa con người
với con người.
Góc xây dựng: ở góc xây dựng luôn thu hút được rất nhiều trẻ chơi. ở đây
trẻ tự giác làm những công việc mà mình nhập vai. Qua đó giáo dục trẻ biết
được sự vật vả của những chú công nhân xây dựng
VD: Góc xây dựng: Giúp trẻ biết những người kỹ sư xây dựng, cách giao tiếp
xưng hô với nhau trong góc chơi, biết sắp xếp bố trí công việc hợp lý, biết lễ
phép với những người lớn tuổi trong nhóm chơi như:
Hôm nay chúng ta xây dựng công viên cây xanh
Bác đi mua gạch, cát, si nhé!...
Từ góc xây dựng tôi giúp trẻ mối liên hệ giữa các góc chơi một cách lô
dích. Hình thành cho trẻ mối quan hệ giao tiếp một cách có nề nếp.
Góc nghệ thuật: Qua góc nghệ thuật tôi giúp trẻ biết yêu cái đẹp, biết lợi
ích cái đẹp với con người và luôn muốn tạo ra cái đẹp để góp phần làm cho xã
hội ngày càng tốt đẹp hơn
Thông qua các hoạt động của trẻ ở các góc chơi giúp tôi thấy được trẻ
ngày một mạnh dạn hơn. Đặc biệt với trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số, các cháu có
quy tắc hơn trong nề nếp, biết chào hỏi, biết xin phép, biết cảm ơn khi được
nhận quà và đặc biệt biểu đạt tình cảm của mình mạnh dạn hơn với cô giáo và
mọi người. Sự nhút nhát và rụt rè đã mờ dần, trẻ đã vui tươi hơn trên khuôn mặt
ngây ngô ban đầu.
Từ đó khẳng định vai trò quan trọng của biện pháp hình thành kĩ năng
sống vào hoạt động góc. Vì vậy cô cần sử dụng triệt để hoạt động góc vào việc
hình thành kĩ năng sống cho trẻ.
2.3.4. Biện pháp 4: Giáo dục tình cảm, kĩ năng xã hội thông qua hoạt động
ngoài trời
Đối với đặc điểm tâm sinh lí của trẻ mầm non là ưa thích hoạt động “học
mà chơi, chơi mà học”, trẻ hứng thú được tham gia trải nghiệm với thế giới
xung quanh qua đó cô đưa ra những giải pháp hữu hiệu để từng bước hình thành
các kĩ năng cần thiết cho trẻ.
15
Ví dụ: Cô cho trẻ được tham gia hoạt động trải ngiệm như: Chăm sóc
vườn rau, tưới cây, nhổ cỏ…từ đó giáo dục trẻ phải biết yêu lao động và ích lợi
của những việc mình làm đối với xã hội.
Hình ảnh 4: Trẻ chăm sóc hoa
Trẻ mầm non đặc biệt là độ tuổi 4-5 tuổi chưa hình thành được ý thức tự
giác trong mọi hoạt động, như vứt rác không đúng nơi quy định, thấy bạn vứt
rác trẻ không tỏ thái độ phản ứng. Do đó việc hình thành thói quen, hành vi văn
minh nơi công cộng ở trẻ là việc làm vô cùng quan trọng, yêu cầu giáo viên phải
luôn sát sao ở mọi tình huống để giúp trẻ hình thành thói quen tốt.
Ví dụ: Khi trẻ thấy rác trên sân trường trẻ có ý thức nhặt rác vào thùng rác
hoặc khi thấy các bạn tranh nhau chơi không biết chờ đến lượt trẻ giao tiếp với
bạn từ đó cô giáo dục trẻ phải biết chờ đợi và phảỉ tôn trọng bạn cùng chơi.
Thông qua hoạt động ngoài trời, trẻ tham gia trải nghiệm cùng cô giáo như
quan sát sự phát triển của cây từ hạt, hằng ngày cô cho trẻ quan sát sự phát triển
của cây, trẻ được tham gia chăm sóc cây. Từ đó giáo dục trẻ biết yêu và bảo vệ
thiên nhiên
Ví dụ: Khi trẻ hay ngắt lá, bẻ cành, dẫm lên hoa...thì cô giúp trẻ biết ích
lợi của cây xanh với con người và mọi sự vật xung quanh. Vì vậy cô giáo dục trẻ
có ý thức giữ gìn và bảo vệ cây xanh.
Khi trẻ tham gia hoạt động ngoài trời trẻ được tham gia trải nghiệm với
môi trường thiên nhiên, cô dạy trẻ biết lau lá, tưới cây chăm sóc cho cây, biết
không được ngắt lá, bẻ cành, rèn cho trẻ thói quen biết bảo vệ các loại cây và
cảm nhận được sự đau đớn của cây khi bị bẻ cành, ngắt lá. Nhằm mục đích giúp
trẻ cảm nhận được tình yêu của con người với thiên nhiên xung quanh mình
16
Qua hoạt động ngoài trời, cô giáo dục cách ứng xử với thiên nhiên và các
sự vật hiện tượng xung quanh trẻ, giúp trẻ hình thành được các thói quen, hành
vi văn minh nơi công cộng.
2.3.5. Biện pháp 5: Giáo dục tình cảm, kĩ năng xã hội thông qua việc giáo
viên tuyên truyền với phụ huynh.
Bên cạnh việc dạy trẻ ở trường, tôi cũng chú trọng đến việc trao đổi với
phụ huynh để cùng phối hợp dạy “kỹ năng sống” cho trẻ. Tuyên truyền cho phụ
huynh hiểu là không nên làm hộ con, phải dạy trẻ tính tự lập từ bé.
Tôi xây dựng góc tuyên truyền với phụ huynh ở chỗ dễ nhìn, dễ quan sát
và dễ đọc nhất. Đặc biệt những phụ huynh không biết chữ thì bằng những hình
ảnh minh hoạ về những hành vi giúp phụ huynh dễ hiểu hơn..
Hình ảnh 5: Bảng tuyên truyền với phụ huynh
Thường xuyên tuyên truyền vận động phụ huynh tiếp cận với công nghệ
thông tin, cập nhật những bài viết, phóng sự về những cách chăm sóc giáo dục
17
con khoa học cũng như các mối nguy hiểm đang rình rập con em mình. Từ đó
quan tâm nhiều hơn đến con
Trong gia đình mọi người phải thực sự gương mẫu về đạo đức, lối sống
hành vi ứng xử để trẻ noi gương và giáo dục dạy dỗ trẻ những hành vi tốt. Chính
vì vậy việc tuyên truyền với phụ huynh là điều không thể thiếu trong giáo dục kĩ
năng sống cho trẻ.
Trẻ càng được hướng dẫn sớm về cách tự vệ, nhận biết những mối nguy
hiểm từ xung quanh và cách xử lý thì sẽ vững vàng vượt qua những thử thách
trong mọi tình huống. Chính vì vậy, cách bảo vệ trẻ tốt nhất chính là dạy trẻ biết
cách tự bảo vệ bản thân.Thường xuyên khích lệ trẻ trẻ sẽ thấy mình tự tin và có
ích góp phần quan trọng trong gia đình hơn, giáo viên và phụ huynh cần động
viên sự cố gắng của trẻ và khích lệ để trẻ hoạt động giúp trẻ hình thành đạo đức
và nhân cách tốt vì vậy mỗi gia đình phải có trách nhiệm chăm sóc giáo dục trẻ
và là tấm gương để trẻ noi theo .
Qua các biện pháp tuyên truyền vận động các bậc phụ huynh luôn quan
tâm đến con em mình, không để trẻ chơi những nơi có ổ điện, phích nước nóng,
sông suối, ao hồ. Tuyên truyền với các bậc phụ huynh cho trẻ đội mũ bảo hiểm
khi tham gia giao thông, không cho trẻ chơi ngoài lòng đường để tránh gây tai
nạn cho trẻ.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Qua quá trình triển khai những biện pháp áp dụng vào công tác giảng dạy
tôi đã nhận thấy những tiến bộ rõ nét trên trẻ. Đa số trẻ đã mạnh dạn, tự tin sử lý
các tình huống trong cược sống hằng ngày. Đã trang bị cho trẻ những kiến thức
cần thiết trong cuộc sống để khi trẻ bước ra khỏi vòng tay yêu thương của ông
bà trẻ cảm thấy mạnh dạn, tự tin.
Một số biện pháp giáo dục tình cảm, kĩ năng xã hội cho trẻ đã mang lại
hiệu quả tích cực trong việc giáo dục trẻ và giúp cho các bậc phụ huynh có thêm
những hiểu biết trong việc chăm sóc con em mình và làm cho xã hội ngày càng
tốt hơn.
Khi bản thân tôi thực hiện các biện pháp giáo dục tình cảm, kĩ năng xã hội
cho trẻ thì bản thân tôi nhận thấy sự tiến bộ rõ nét của trẻ trong mọi hoạt động.
Bằng tất cả các nội dung phương pháp đã triển khai trên trẻ và kết quả đã thu
được cụ thể:
Trước khi chưa sử
dụng các biện pháp
TT
Nội dung
Tổng
số
Trẻ
đạt
Tỉ lệ
%
Sau khi sử dụng các
biện pháp
Tổng
số
Trẻ
đạt
Tỉ lệ
%
18
1
2
Trẻ mạnh dạn, tự tin khi
tham gia các hoạt động.
Trẻ có thói quen vệ sinh,
hành vi vệ sinh văn
minh nơi công cộng
23
9
36%
23
18
78%
23
7
29%
23
18
78%
3
Trẻ biết cảm ơn, xin lỗi.
23
8
37%
23
19
83%
4
Trẻ biết sử dụng đồ dùng
đồ chơi, cất đúng nơi
quy định.
23
9
34%
23
19
83%
5
Trẻ biết những gì nên
làm và không nên làm.
23
10
40%
23
19
83%
6
Biết tránh xa những nơi
nguy hiểm
23
9
36%
23
23
100%
Trên đây là bản đánh giá sự tiến bộ của trẻ trước và sau khi thực hiện đề
tài. Thể hiện rõ nét những thay đổi tích cực của trẻ. Do đó khẳng định vai trò của
giáo dục tình cảm kĩ năng xã hội cho trẻ.
Để góp phần xây dựng nên những chủ nhân tương lai của đất nước chỉ có
thể hình thành những kĩ năng xã hội cho trẻ. Do vậy ngay từ tuổi mẫu giáo
chúng ta phải biết phát huy thế mạnh của trẻ để bổ xung ngay những lỗ hổng
đúng lúc, kịp thời sẽ thúc đẩy ý thức, năng lực cho trẻ.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Qua những phương pháp tôi đã rút ra được những bài học, kinh nghiệm bổ
ích đó là:
Bản thân giáo viên phải biết biết lắng nghe, tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý
của trẻ.
Phải sưu tầm nhiều tranh ảnh, sách báo, thơ truyện, đặc biệt là sử dụng
giáo án điện tử trong giảng dạy giúp trẻ hứng thú hơn khi tham gia vào các hoạt
động.
Luôn học hỏi bạn bè đồng nghiệp, đặc biệt là những người đi trước có
kinh nghiệm trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ.
Thường xuyên thực hiện việc nêu gương để khích lệ vào các buổi chiều
và chiều thứ 6.
Giáo dục tình cảm, kĩ năng xã hội cho trẻ trong xuất mọi hoạt động trong
ngày, bên cạnh đó việc lồng ghép trong các hoạt động phải thực hiện một cách
19
khéo léo, thường xuyên. Đặc biệt sự kết hợp quan trọng nhất là sự phát triển
nhận thức của trẻ vào việc chăm sóc giáo dục trẻ.
Thường xuyên tuyên truyền, vận động tới các bậc phụ huynh trong việc
giáo dục kĩ năng sống cho trẻ. Ông, bà, bố, mẹ phải luôn gương mẫu, luôn là
tấm gương người tốt cho trẻ học tập và noi theo, các gia đình cần tìm hiểu kiến
thức, kỷ năng nuôi dạy con một cách khoa học.
Đồng thời với việc giáo dục tình cảm kĩ năng, xã hội cho trẻ, thì người
giáo viên phải là người gương mẫu trong mọi hoạt động, là một tấm gương mẫu
mực để trẻ noi theo. Do đó giao viên phải thường xuyên quan sát, tìm hiểu
những đặc điểm tâm lý của trẻ để đưa ra những giải pháp phù hợp để giáo dục
trẻ đạt hiệu quả cao nhất.
Tóm lại, giáo dục tình cảm, kĩ năng xã hội cho trẻ là một trong những
nhiệm vụ quan trọng trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ. Hình thành nên
nhân cách tốt đẹp của con người Việt Nam.
3.2. Kiến nghị
Để phát huy hơn nữa mặt tích cực và khắc phục những tồn tại hạn chế góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục giáo dục tình cảm, kĩ năng xã hội cho trẻ
mẫu giáo 4-5 tuổi tôi mạnh dạn có những kiến nghị như sau:
Rất mong chính quyền địa phương luôn quan tâm tạo điều kiện về cơ sở
vật chất để giáo viên thực hiện tốt những biện pháp giáo dục tình cảm, kĩ năng
xã hội cho trẻ.
Đối với giáo viên cần nắm được những đặc điểm riêng của trẻ để có
những biện pháp giáo dục tình cảm, kĩ năng xã hội phù hợp, lấy những câu
chuyện, những tấm gương tốt, gần gũi giúp trẻ cảm nhận và tiếp thu một cách có
hiệu quả.
Với Ban giám hiệu nhà trường, cần tạo ra môi trường trong và ngoài
trường một cách gần gũi, thân thiện với trẻ.
Đối lới lớp lớp cần tổ chức cho trẻ tham quan, tham gia các hoạt động tập
thể để giúp trẻ mạnh dạn hơn, trẻ có cơ hội thể hiện phẩm chất của mình để giáo
viên nắm bắt được và có biện pháp giáo dục hợp lý.
Trên đây là một số kinh nghiệm được rút ra trong quá trình chăm sóc và
giáo dục trẻ. Để có thêm kinh nghiệm và phương pháp hiệu quả hơn tôi rất mong
được sự đóng góp ý kiến của Ban giám hiệu, các cấp lãnh đạo và bạn bè đồng
nghiệp để tôi rút ra được kinh nghiệm sâu sắc hơn khi triển khai phương pháp
của mình để đạt kết quả tốt hơn nữa trong quá trình giáo dục tình cảm, kĩ năng
xã hội cho trẻ 4-5 tuổi trường mầm non Cẩm Liên vùng cao Cẩm Thủy.
Xin chân thành cảm ơn!
20
Cẩm thủy, ngày 15 tháng 3 năm 2019
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Hiệu trưởng
Người viết
Phạm Thị Công
Lê Thị Thơ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non cho trẻ 4-5 tuổi
(theo thông tư 28/2016/TT-BGDĐT)
- Thống kê của Cục Quản lý môi trường Việt Nam về tai nạn thương tích [1]
- Qua mạng Internet, phóng sự, You tube…
21
DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Lê Thị Thơ
Chức vụ và đơn vị công tác: Gáo viên; Trường Mầm non Cẩm Liên
TT
1.
Tên đề tài SKKN
Cấp đánh giá
xếp loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh...)
Một số biện pháp giáo dục kĩ Phòng GD &ĐT
Huyện Cẩm
năng sống cho trẻ 4-5 tuổi
Thủy
Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B, hoặc C)
C
Năm học
đánh giá
xếp loại
2015-2016
22
ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI SKKN CỦA HĐKG NHÀ TRƯỜNG
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………….
Xếp loại:…………………………………………………………..
TM.HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG
23
ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI SKKN CỦA HĐKG
PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO HUYỆN CẨM THỦY
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………….
Xếp loại:…………………………………………………………..
TM. HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GD&ĐT
Chủ tịch
24
ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI SKKN CỦA HĐKG
SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TỈNH THANH HÓA
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………….
Xếp loại:…………………………………………………………..
TM. HỘI ĐỒNG KHOA HỌC SỞ GD&ĐT
Chủ tịch
25