Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Rèn kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho học sinh lớp 1 trường tiểu học lam sơn 1 năm học 2015 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 20 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG

Trang

Phần I. Mở đầu

01

I. Lí do chọn SKKN

01

II. Mục đích nghiên cứu

02

III. Đối tượng nghiên cứu

02

IV. Phương pháp nghiên cứu

02

Phần II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

02

I. Cơ sở lí luận của SKKN


02

II. Thực trạng của vấn đề

03

III. Giải pháp thực hiện

04

IV. Hiệu quả đạt được

15

Phần III. Kết luận, kiến nghị

17

I. Kết luận

17
19

II. Kiến nghị
1


PHẦN I. MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn sáng kiến kinh nghiệm:
Theo Nghị quyết số 29 - NQ/TW, ngày 4 tháng 11 năm 2013 về đổi mới

căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế, mục tiêu cụ thể
của giáo dục phổ thông là: Tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành
phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng
nghề nghiệp cho học sinh, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng
giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực
và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng
sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời.
Cùng với việc dạy dỗ là việc rèn luyện các kĩ năng sống bởi kĩ năng sống
có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giáo dục học sinh cùng với việc lĩnh hội tri
thức của trẻ, “ Kĩ năng sống” được coi như một nội dung của chất lượng giáo
dục; để nâng cao chất lượng giáo dục thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn nhân lực phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập
quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ thông đã và đang
được đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI, mà thực chất là
cách tiếp cận kĩ năng sống, đó là: Học để biết, Học để làm, Học để tự khẳng
định mình và Học để cùng chung sống. Mục tiêu giáo dục phổ thông đã và
đang chuyển hướng chủ yếu là trang bị kiến thức sang trang bị những năng lực
cần thiết cho các em học sinh. Việc giáo dục kĩ năng sống có ý nghĩa hết sức
quan trọng bởi: Kĩ năng sống thúc đẩy sự phát triển cá nhân và xã hội, giáo dục
kĩ năng sống là yêu cầu cấp thiết đối với thế hệ trẻ, giáo dục kĩ năng sống nhằm
thực hiện yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông, giáo dục kĩ năng sống là xu thế
chung của nhiều nước trên thế giới.
Nội dung giáo dục kĩ năng sống bao gồm 21 kĩ năng cơ bản, cần thiết
như: Kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng kiểm soát cảm xúc,
kĩ năng ứng phó căng thẳng, kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, kĩ năng thể hiện sự tự
tin, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng lắng nghe tích cực...
( Trích: Tài liệu Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở tiểu học dành cho
giáo viên - Nhà xuất bản Giáo dục tháng 8/2010)
Trong đó “Tìm kiếm sự hỗ trợ” là kĩ năng của cá nhân nhằm tìm được sự

cứu trợ và giúp đỡ của mọi người xung quanh khi gặp khó khăn trong cuộc
sống.
Thực tế, trong quá trình dạy – học ở trường Tiểu học Lam Sơn 1, thị xã
Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa, một trường mà số học sinh rất khiêm tốn ( chỉ hơn
200 em), nhiều học sinh có hoàn cảnh gia đình éo le ( gia đình là hộ nghèo, mồ
côi, hoặc có bố mẹ đi làm ăn xa, các em phải ở nhà với ông bà…), trường lại
thiếu giáo viên, số giáo viên hợp đồng mới ra trường, kinh nghiệm làm công tác
chủ nhiệm còn hạn chế, ít quan tâm đến việc giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh. Bởi vậy, có nhiều học sinh gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình học tập,

2


rèn luyện ở trường nhưng chưa được giáo viên giáo dục, rèn luyện kĩ năng tìm
kiếm sự hỗ trợ nên các em tìm kiếm sự hỗ trợ chưa tốt, chưa đáng tin cậy, chưa
đúng địa chỉ…dẫn đến không giải quyết được khó khăn, làm phức tạp các vấn
đề gặp phải, không hoàn thành chương trình lớp học…Từ đó các em bi quan,
chán nản, thậm chí có em phải nghỉ học. Vậy làm thế nào để giúp các em học
sinh luôn biết tìm kiếm sự hỗ trợ, có kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ đúng đắn khi
gặp khó khăn trong mọi hoàn cảnh, mọi lúc, mọi nơi, mọi môi trường hoạt
động…, không còn nhút nhát, sợ sệt… là vấn đề cần thiết mà mỗi giáo viên cần
chú ý trong công tác chủ nhiệm lớp của mình. Chính vì vậy mà trong quá trình
chủ nhiệm và giảng dạy, trước những khó khăn của học sinh lớp 1 năm học
2015-2016 về kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, tôi quyết định chọn đề tài “ Rèn kĩ
năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho học sinh lớp 1” để nghiên cứu và áp dụng.
II. Mục đích nghiên cứu:
Sáng kiến kinh nghiệm nhằm giúp học sinh rèn kĩ năng tìm kiếm sự hỗ
trợ.
III. Đối tượng nghiên cứu:
Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ của học sinh lớp 1- trường Tiểu học Lam Sơn

1- Thị xã Bỉm Sơn – Tỉnh Thanh Hóa.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
Để nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm, tôi đã sử dụng các phương pháp
sau:
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
- Phương pháp quan sát, nhận xét, so sánh, đối chứng.

PHẦN II. NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta gặp những vấn đề, những tình huống
cần đến sự hỗ trợ, giúp đỡ của những người khác. Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ
bao gồm các yếu tố sau:
- Ý thức được nhu cầu cần giúp đỡ
- Biết xác định được những địa chỉ hỗ trợ đáng tin cậy.
- Tự tin và biết tìm đến các địa chỉ đó.
- Biết bày tỏ nhu cầu cần giúp đỡ một cách phù hợp.
Theo Tiến sĩ Thái Lâm Toàn thuộc Viện Me Kong: Khi tìm đến các địa chỉ
hỗ trợ, chúng ta cần:
- Cư xử đúng mực và tự tin.
- Cung cấp thông tin đầy đủ, rõ ràng, ngắn gọn.
- Giữ bình tĩnh khi gặp sự đối xử thiếu thiện chí. Nếu vẫn cần sự hỗ trợ của
người thiếu thiện chí, cố gắng tỏ ra bình thường, kiên nhẫn nhưng không sợ hãi.
- Nếu bị cự tuyệt, đừng nản chí, hãy kiên trì tìm sự hỗ trợ từ các địa chỉ
khác, người khác.
Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ giúp gì cho học sinh?
Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ , giúp chúng ta có thể nhận được những lời khuyên,
3



sự can thiệp cần thiết để tháo gỡ, giải quyết những vấn đề, tình huống của mình;
đồng thời là cơ hội để chúng ta chia sẻ, giãi bày khó khăn, giảm bớt được căng
thẳng tâm lí do bị dồn nén cảm xúc. Biết tìm kiếm sự giúp đỡ kịp thời sẽ giúp cá
nhân không cảm thấy đơn độc, bi quan, và trong nhiều trường hợp, giúp chúng
ta có cái nhìn mới và hướng đi mới.
Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, giúp đỡ rất cần thiết để giải quyết vấn đề, giải
quyết mâu thuẫn và ứng phó với căng thẳng. Đồng thời, để phát huy hiệu quả
của kĩ năng này, cần kĩ năng lắng nghe, khả năng phân tích thấu đáo ý kiến tư
vấn, kĩ năng ra quyết định lựa chọn cách giải quyết tối ưu sau khi được tư vấn.
( Trích: Tài liệu Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở tiểu học dành cho
giáo viên - Nhà xuất bản Giáo dục tháng 8/2010)
II. Thực trạng của vấn đề:
Hiện nay, trên thực tế, ở nơi cơ trú hay ở trưởng nơi tôi công tác, một số
trẻ em còn thiếu kĩ năng sống, có biểu hiện thường rụt rè, sợ sệt, thiếu tự tin,
nóng vội, thiếu bình tĩnh.
Ví dụ:
- Khi tổ dân phố tổ chức Ngày 1/6 hay Tết Trung Thu cho các cháu thiếu
nhi, các em không dám lên hát, lên múa, có em còn không dám lên nhận phần
thưởng. Tìm hiểu nguyên nhân các em quá nhút nhát là vì các em thường bị bố
mẹ nhốt trong nhà để đi làm, ít được va chạm với mọi người xung quanh.
- Khi tổ chức ngày hội làng, yêu cầu tất cả các gia đình tham gia đầy đủ
thì một số em nhỏ lại khóc vì bố mẹ bắt đi cùng do các em không muốn tham
gia chỗ đông người, sợ va chạm với người lạ, chỉ muốn ở nhà, chơi với những
người thân.
- Có nhiều em học hết lớp 7, lớp 8 nhưng khi bố mẹ bảo đi sang hàng xóm
cũng không dám đi vì sợ không dám hỏi, không biết nói chuyện...
Đặc biệt, theo dõi quá trình học tập và tham gia các hoạt động của học sinh
trong trường, nhất là các em học sinh lớp 1 trường Tiểu học Lam Sơn I, Thị xã
Bỉm Sơn, tôi thấy các em gặp rất nhiều khó khăn trong học tập, hoạt động như:
khó khăn khi đọc, viết, cầm bút, giơ bảng, khi bị bạn trêu chọc, khi quên sách,

quên vở, khi hết bút, hết mực, không có thước để kẻ, đi học chậm, không biết
làm trực nhật, không biết tập thể dục, nhiều em tỏ ra quá sợ sệt, ngại phiền, ngại
nhờ vả, không dám nói to, không dám đọc to, giờ ra chơi chỉ biết ngồi một chỗ
trong lớp, sống thu mình, không hoà đồng….khi gặp khó khăn rất ít em có kĩ
năng tìm kiếm sự hỗ trợ phù hợp, đúng đắn. Hầu hết học sinh đều chờ bố mẹ đến
để nhờ, để mách; nhiều học sinh bi quan, chán nản rồi dần dần học hành bị đi
xuống, chưa hoàn thành nhiệm vụ học tập, cụ thể là các em: Lê Nhật Anh, Trần
Văn Đức, Tống Trường Giang, Vũ Đình Quân, Trịnh Minh Nhật, Trịnh Thanh
Hoa, Trần Văn Hải, Tống Vũ Vinh, Nguyễn Chiến Thắng… Trước những biểu
hiện của các em học sinh, sau khi nhận lớp, tôi đã tiến hành khảo sát kĩ năng tìm
kiếm sự hỗ trợ của 28 học sinh lớp 1, đầu năm học 2015 -2016 và thu được kết
quả như sau:
4


Kĩ năng tìm
kiếm sự hỗ
trợ rất tốt
Số HS Tỉ lệ
5

17,8 %

Kĩ năng tìm
kiếm sự hỗ trợ
tốt
Số HS Tỉ lệ
7

25,0%


Kĩ năng tìm
kiếm sự hỗ trợ
bình thường
Số HS
Tỉ lệ
8

28,6%

Kĩ năng tìm
kiếm sự hỗ trợ
chưa tốt
Số HS
Tỉ lệ
8

28,6%

* Biểu hiện của những học sinh chưa biết tìm kiếm sự hỗ trợ:
- Hay sợ sệt, nhút nhát
- Đọc nhỏ, nói nhỏ.
- Hay khóc, hay ỉ lại, ít tham gia hoạt động cùng các bạn.
- Sợ gặp khó khăn.
- Ngại va chạm.
- Trong lớp, ít phát biểu ý kiến xây dựng bài.
- Xưng hô với bạn không đúng
- Hay mách bố, mẹ, người thân về việc ở lớp.
- Nóng nảy, mất bình tĩnh
- Hay quên sách vở, đồ dùng học tập

- Hay mắc khuyết điểm
- Thường xuyên vi phạm nội quy của lớp.
- Chưa hoàn thành nhiệm vụ học tập…
* Nguyên nhân các em có những biểu hiện trên:
- Được bố mẹ nuông chiều
- Các em chưa biết kiềm chế cảm xúc.
- Dễ bị kích động.
- Chưa chăm học.
- Nóng vội, ích kỉ.
- Thiếu tin tưởng bạn bè, thầy cô.- Hay tự ti về bản thân
- Chưa chấp hành nội quy trường lớp.
- Chưa biết tìm kiếm sự hỗ trợ…
III. Giải pháp thực hiện:
Để rèn kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho học sinh thật hiệu quả, chúng ta
cần có những giải pháp tốt, tránh sự áp đặt với các em. Một trong những giải
pháp đó là giúp học sinh:
- Ý thức được nhu cầu cần giúp đỡ
- Biết xác định được những địa chỉ hỗ trợ đáng tin cậy.
- Tự tin và biết tìm đến các địa chỉ đó.
- Biết bày tỏ nhu cầu cần giúp đỡ một cách phù hợp.
1. Giáo viên giúp học sinh ý thức được nhu cầu cần giúp đỡ khi gặp khó
khăn:

5


Học sinh lớp 1 – lớp đầu cấp ở bậc Tiểu học, các em vừa qua tuổi Mẫu
giáo, khi bước vào lớp 1, các em còn rất bỡ ngỡ, gặp thầy cô mới, bạn bè mới,
các hoạt động mới, các em gặp rất nhiều khó khăn trong các hoạt động ở trường
( cách học mới, hoạt động mới..)…Làm thế nào để các em tự tin, ý thức được

nhu cầu cần giúp đỡ khi gặp khó khăn là một việc làm rất khó. Vì vậy, giáo viên
chủ nhiệm cần:
a. Tạo môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, bảo vệ về thể chất và
tinh thần cho học sinh, hỗ trợ và tạo cảm giác thân thiện, an tâm, hứng thú
học tập và thoải mái vui chơi sinh hoạt.
- Tổ chức các tiết Giáo dục kĩ năng ban đầu cho học sinh: Hoạt động này đã
được tổ chức trong chuyên đề đầu năm học để các em hình thành một số kĩ năng
cơ bản.
- Giáo viên cần giao tiếp với học sinh một cách thân thiện, gần gũi để các em
cảm thấy cô giáo giống như mẹ của mình, từ đó các em có hứng thú học tập và
tích cực tham gia các hoạt động một cách tự giác.
- Giáo viên tạo cơ hội cho học sinh tự tin giao tiếp, bộc lộ suy nghĩ, ý thức nhu
cầu cần giúp đỡ từ cô giáo của mình mỗi khi gặp khó khăn( vì cô giáo cũng như
mẹ của mình).
b. Xây dựng tốt môi trường tinh thần trong lớp:
Môi trường tinh thần chính là thái độ ứng xử giữa người với người được thể
hiện cụ thể trong mối quan hệ giữa học sinh với giáo viên, giữa học sinh với học
sinh…
Để xây dựng được môi trường tinh thần, tôi đã tiến hành theo các bước cụ thể
sau:
- Tìm hiểu hoàn cảnh, thói quen, sở thích, đặc điểm tâm lí của từng học sinh
ngay từ đầu năm học và trong suốt quá trình làm công tác chủ nhiệm và giảng
dạy bằng việc gặp gỡ, trao đổi trực tiếp với phụ huynh học sinh hoặc điện thoại
để trao đổi; giữ liên hệ chặt chẽ với gia đình học sinh, trao đổi kịp thời những
biểu hiện tích cực cũng như chưa tích cực với phụ huynh học sinh để cùng bàn
biện pháp phối kết hợp giáo dục các em.
- Bản thân giáo viên nắm vững nội dung chương trình, nội dung và địa
chỉ giáo dục kĩ năng sống của các môn học lớp 1; nghiên cứu phương pháp dạy học tích cực, hình thức dạy học phù hợp linh hoạt…; Rút kinh nghiệm kịp thời
khi thấy phương pháp dạy học hoặc hình thức tổ chức dạy học chưa hiệu quả.
- Giáo viên biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến của học sinh dù ý kiến đó

chưa thật sự đúng đắn để các em thấy tự tin, mạnh dạn bộc lộ nhu cầu cần hỗ trợ
của bản thân ở những lần tiếp theo.
c. Tổ chức trò chơi để các em bộc lộ ý thức về nhu cầu cần giúp đỡ, hỗ
trợ:
Giáo viên có thể tổ chức cho các em chơi trò chơi: “ Bạn cần điều gì?”.
Thông qua trò chơi, các em nói lên những nhu cầu mình cần được giúp đỡ, cần
hỗ trợ. Cụ thể: Các em thường nói những điều sau:
- Tôi cần biết múa bài Pháp lạ hằng ngày.
6


- Tôi cần học thuộc lòng bảng chữ cái.
- Tôi cần thuộc bảng cộng ( bảng trừ) 7,8...
- Tôi cần biết hút mực.
- Tôi cần biết giải toán.
- Tôi cần biết vẽ tranh.
- Tôi cần biết gấp quạt giấy.
- Tôi cần thuộc bài thể dục phát triển chung....
Như vậy, giáo viên đã giúp từng học sinh bộc lộ được nhu cầu cần hỗ trợ.
2. Giáo viên giúp học sinh biết xác định được những địa chỉ hỗ trợ
đáng tin cậy:
Địa chỉ hỗ trợ ( giúp đỡ) tin cậy chính là những địa chỉ đưa ra những lời
khuyên, sự can thiệp kịp thời và đúng đắn. Với các em học sinh địa chỉ tin cậy
nhất chính là thầy cô, gia đình, bạn bè, người thân. Làm thế nào để các em nhận
ra điều đó? Để học sinh nhận thấy thầy cô gia đình, và bạn bè chính là những địa
chỉ hỗ trợ tin cậy cho các em khi gặp khó khăn thì thầy cô, gia đình, bạn bè
cần:
a. Đối với giáo viên:
- Làm tốt công tác chủ nhiệm lớp: Hiện nay, giáo viên chủ nhiệm là
người quản lí học sinh cả ngày học và hoạt động ở trường, là người cố vấn định

hướng cho các bậc cha mẹ thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện, đánh giá toàn
diện chất lượng giáo dục học sinh trong đó cần đánh giá về các kĩ năng...Vì thế
giáo viên chủ nhiệm cần làm tốt công việc của mình, quản lí tốt học sinh, có như
vậy học sinh mới tin tưởng cô giáo.
- Phải thực hiện tốt cuộc vận động “ Kỷ cương – Tình thương – Trách
nhiệm”: Giáo viên phải thương yêu học sinh như con của mình, phải tận tụy với
học sinh.
- Phải luôn trau dồi phẩm chất đạo đức, lối sống để mãi là “ Tấm gương sáng
cho học sinh noi theo”:
- Gương mẫu thực hiện cuộc vận động “ Mỗi thầy cô giáo là một tấm
gương đạo đức tự học và sáng tạo”: gương mẫu về đạo đức, tác phong, cử chỉ,
lời nói…Gương mẫu trong công tác tự học, tự bồi dưỡng, tự sáng tạo…Có như
vậy học sinh mới thực hiện tốt 5 điều Bác Hồ dạy và 10 quy định đối với học
sinh và tin tưởng ở thầy cô.
- Tiếp tục học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh: Hơn
ai hết, giáo viên phải là người gương mẫu đi đầu trong việc thực chỉ thị 03. Theo
nội dung chuyên đề mỗi năm, giáo viên đăng kí những việc làm cụ thể để thực
hiện, có đánh giá, nhận xét của bản thân và chi bộ. Như vậy, giáo viên đã thường
xuyên trau dồi phẩm chất, tính cách để hoàn thiện bản thân, làm gương cho học
sinh noi theo.
- Thực hiện nghiêm túc thông tư 30 của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm
2014:
Giáo viên phải thực sự thương yêu học sinh, luôn chăm sóc, dạy dỗ tận
tuỵ, tận tình, quan tâm đến từng cử chỉ dù là nhỏ nhất của các em như: việc ăn
7


mặc, đầu tóc, nói năng, đi đứng, khả năng tự học, hoạt động nhóm, tình cảm bạn
bè, tình yêu thương bố, mẹ, ông, bà… của các em để các em thấy thầy cô như
người thân của mình,….lúc đó các em cảm thấy thầy cô là chỗ dựa tinh thần của

mình và có thể chia sẻ những khó khăn trong học tập, hoạt động.
- Thường xuyên động viên, khen ngợi các em dù đó là những tiến bộ nhỏ nhất
để các em luôn tự tin vào chính mình. Khi các em gặp bài khó, giáo viên phải
biết quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ, tránh để các em có cảm giác chán nản bằng hình
thức khuyến khích học sinh dám hỏi cô, hỏi bạn khi mình suy nghĩ không ra,
phân công nhóm học tập ở lớp cũng như ở nhà để tạo điều kiện cho các em giúp
đỡ nhau.
- Không chỉ thế, giáo viên cần hướng dẫn học sinh học tốt các bài đạo đức, vận
dụng và thực hành theo chuẩn mực bài học…
- Thường xuyên chú ý đến lời phê trong vở của các em để các em không cảm
thấy bi quan, chán nản. Đó chính là thực hiện tốt thông tư 30.
- Gương mẫu thực hiện nếp sống văn hóa ở khu dân cư và Nghị
quyết 12 của Thị ủy Bỉm Sơn, khóa IX về Lãnh đạo xây dựng nếp sống văn
minh đô thị và phát triển con người Bỉm Sơn: Nếu giáo viên chỉ gương mẫu ở
nơi công tác, ở trường học mà không thực hiện tốt nghĩa vụ ở tổ dân phố, nơi gia
đình mình cư trú cùng bà con lối xóm thì thực sự chỉ mới gương mẫu nửa vời.
Vì thế ở trường cũng như ở nhà, giáo viên phải luôn gương mẫu thực hiện tốt
mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, đồng thời động
viên bà con lối xóm, gia đình và người thân cùng thực hiện tốt. Có như vậy giáo
viên mới thực sự là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Từ đó, học sinh cảm
nhận được sự mẫu mực của cô giáo, các em thấy cô giáo thực sự đáng tin cậy để
hỗ trợ mình.
Như vậy, để các em tìm được địa chỉ tin cậy hỗ trợ mình khi gặp khó
khăn, trước tiên bản thân giáo viên chủ nhiệm phải thực sự gương mẫu về mọi
mặt nhất là trong giao tiếp, ứng xử, trong giải quyết mâu thuẫn, xung đột trong
cuộc sống với đồng nghiệp, phụ huynh, học sinh và mọi người.
- Phối kết hợp chặt chẽ với giáo viên bộ môn: Giúp học sinh nhận thấy
ngoài giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn cũng là những địa chỉ hỗ trợ tin
cậy của các em. Giáo viên bộ môn cần:
+ Gương mẫu

+ Công bằng, khách quan.
+ Sẵn sàng giúp đỡ khi các em cần sự hỗ trợ.
- Phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh: Để nắm bắt kịp thời
thông tin của học sinh, giáo viên cần sử dụng điện thoại để liên lạc thường
xuyên mỗi khi cần sự phối hợp của gia đình. Phụ huynh học sinh cần:
+ Chia sẻ, trao đổi kịp thời với giáo viên chủ nhiệm về những khó khăn
của con em mình.
+ Cùng giáo viên tìm biện pháp giúp đỡ tốt nhất cho các em.
b. Đối với gia đình:
Ngoài thời gian ở trên lớp, các em còn sinh hoạt cùng gia đình, khi ấy
8


các em cũng gặp khó khăn. Vậy gia đình cần làm thế nào để con trẻ cảm nhận
được bố mẹ là chỗ dựa đáng tin cậy của mình? Khi ấy gia đình phải thực sự là:
- Gia đình hòa thuận, êm ấm: Ở nhà, bố mẹ luôn là tấm gương cho con
cái noi theo. Nếu bố mẹ xây dựng được tổ ấm hòa thuận…thì chắc chắn con cái
cũng có niềm tin vào bố và mẹ. Còn nếu gia đình hay cãi vã, mất đoàn kết thì
con sẽ chẳng có chỗ dựa để tìm kiếm sự hỗ trợ từ gia đình.
- Gia đình luôn quan tâm đến con em mình: Thực tế chứng minh, học
sinh nào nhận được sự quan tâm, khích lệ của bố mẹ thì học sinh đó sẽ có kĩ
năng tốt ( em Tống Nhật mai, Biện Thị Hà Chi, Đào Mạnh Dũng, Thiều Văn
Dũng, Trần Minh Quang). Ngược lại, học sinh chưa được gia đình quan tâm các
em thường sợ sệt, nhút nhát, kĩ năng sống chưa tốt ( em Nguyễn Chiến Thắng,
Tống Vũ Vinh, ống Trường Giang).
- Làm bạn cùng con: Hiện nay, một số phụ huynh học sinh chẳng hay
biết một chút gì cả những sự việc xảy ra ở trường của con. Đến khi nhà trường
mời đến trường phụ huynh mới biết. Điều này vô cùng tai hại. Nếu cha mẹ luôn
quan tâm, thường xuyên tâm sự để biết mọi việc xảy ra với con, cha mẹ cũng sẽ
biết khi nào con cần được giúp đỡ. Khi ấy với sự giúp đỡ đúng đắn của cha mẹ,

các con sẽ vượt qua khó khăn.
Như vậy, giáo viên cần phối kết hợp với gia đình học sinh cùng tạo cho
học sinh nhận thấy địa chỉ hỗ trợ tin cậy khi các em gặp khó khăn không chỉ
riêng ở trường, ở lớp.
c. Đối với bạn bè: Không phải lúc nào thầy cô, gia đình cũng bên cạnh để
giúp đỡ, hỗ trợ các em. Vì thế các em còn có sự hỗ trợ từ bạn bè, các anh chị lớp
trên ở trong trường. Vậy bạn bè đáng tin cậy cần phải thế nào?
- Bạn bè phải chân tình, biết giữ bí mật và không có sự phán xét.
- Cùng tham gia các hoạt động Đội, hoạt động tập thể.
- Biết quan tâm, chia sẻ niềm vui, nỗi buồn cùng bạn.
- Cùng học, cùng chơi với bạn.
- Luôn đoàn kết, có trách nhiệm, thực hiện tốt 5 điều Bác Hồ dạy và 10
quy định đối với học sinh.
- Anh chị cờ đỏ phải thực sự gương mẫu, công bằng, quan tâm, yêu quý
các em.
- Các anh chị trong trường phải thường xuyên quan tâm các em lớp dưới
mà nhất là lớp 1.
Như vậy, ngoài địa chỉ tin cậy là thầy cô và gia đình, các em học sinh còn
có một địa chỉ tin cậy nữa chính là bạn bè, các anh chị lớp trên.
3. Giáo viên giúp học sinh tự tin, biết tìm đến các địa chỉ hỗ trợ tin cậy
và bày tỏ nhu cầu cần giúp đỡ một cách phù hợp:
a. Sự hỗ trợ từ cô giáo: Khi các em nhận thấy cô giáo thực sự như người
mẹ thứ hai của em lúc ở trường, là địa chỉ hỗ trợ tin cậy thì các em sẽ tự tin nhờ
cô giáo giúp đỡ, hỗ trợ khi gặp khó khăn trong các tình huống sau:
- Khi đọc, viết những chữ cái: Hoạt động làm quen với các chữ cái là hoạt động
rất khó với các em khi vừa vào lớp 1. Trong hoạt động này, nhiều học sinh gặp
9


khó khăn khi đọc, viết, các em Đàm Thu Thảo, Tống Nhật Mai, Thiều Văn

Dũng, Nguyễn Thị Huế, Nguyễn Chiến Thắng…đã mạnh dạn tìm kiếm sự hỗ trợ
từ cô, các em hỏi: “ Thưa cô, chữ này đọc thế nào ạ?”, “ Chữ này khó viết lắm,
cô cầm tay giúp em viết nhé?”, “ Cô ơi, chữ này viết cao mấy li ạ?; “ Em thưa
cô, viết thứ ngày cách vào mấy ô ạ!”, “ Cô ơi, trình bày bài thơ này như thế nào
ạ!”, “ Em đang còn dòng, có phải xuống dòng không cô?”…
- Khi làm toán: Trong quá trình làm bài, mặc dù cô giáo đã giúp đỡ nhưng một
số em vẫn gặp khó khăn khi làm bài. Ví dụ, khi học về “ Giải toán có lời văn” ở
tuần 22, các em còn lúng túng khi viết lời giải cho bài toán, khi đó các em đã tự
mình hỏi cô: “ Cô ơi! Bài này viết lời giải thế nào ạ?”, “ Em chưa biết viết lời
giải cho bài toán này, cô giúp em với!”. Khi học về vẽ đoạn thẳng có độ dài cho
trước ( Tuần 23), em Trịnh Minh Quang, Vũ Quang Linh còn lúng túng khi vẽ
và đặt tên cho đoạn thẳng, đã sẵn sàng nhờ cô giúp đỡ: “ Cô ơi, vẽ đoạn thẳng
này như thế nào ạ?”, “ Viết tên đoạn thẳng này bằng chữ cái gì ạ?”…
- Khi học thủ công, Gấp cái quạt ở tuần 15, 16. Em Bùi Thị Hoàng Yến đã hỏi: “
Cô ơi, gấp thế nào ạ, em chưa gấp được cô ạ!”
- Khi sinh hoạt cá nhân: Với học sinh lớp , ngoài thời gian học tập, các em còn
tham gia bán trú, thời gian ăn trưa, ngủ trưa, các em gặp rất nhiều khó khăn.
Chẳng hạn như: khi thay quần áo ngủ, khi giặt khăn mặt, khi uống thuốc,…lúc
ấy chính giáo viên chủ nhiệm, giáo viên trực là người đã giúp đỡ, hỗ trợ các em.
- Các hoạt động khác: Với học sinh lớp 1, các em thường gặp khó khăn dù đó là
những việc nhỏ nhất như việc gọt bút chì khi các em viết bút chì ở đầu năm học
hay việc hút mực khi các em chuyển sang dùng bút mực, cách cầm thước để kẻ,
cầm kéo để cắt thủ công, cách bọc vở, dán nhãn vở, không có bút, không có
thước… đều rất khó. Mỗi lúc như thế, các em đã tự tin nhờ cô giáo, nhờ bạn bè
giúp đỡ mình. Khi ấy, tôi đã hướng dẫn các em. Sau một vài lần như thế, các em
đã biết tự làm.
Tóm lại, với học sinh lớp một, hầu hết cái gì các em cũng không biết, các
em cần sự hỗ trợ, giúp đỡ từ những việc nhỏ nhặt nhất. Nếu không có sự hỗ trợ
và các em không biết tìm kiếm sự hỗ trợ thì các em sẽ gặp vô vàn khó khăn. Còn
nếu các em biết tìm kiếm sự hỗ trợ thì mọi khó khăn sẽ được giải quyết. Tuy

nhiên, mỗi giáo viên chúng ta cần giúp cho học sinh thấy được những tình
huống thực sự khó khăn mới cần tìm kiếm sự hỗ trợ, giúp đỡ,…chứ không phải
lúc nào cũng tìm kiếm sự hỗ trợ thì các em sẽ trở thành những con người ỷ lại,
lười suy nghĩ.
b. Sự hỗ trợ từ gia đình: Ngoài sự hỗ trợ của thầy giáo, cô giáo, các em
còn cần sự hỗ trợ từ gia đình trong một số công việc sau:
- Khi học bài: Có khi con mình quên cách đọc, viết, cách làm toán…Lúc
ấy các em sẽ nhờ bố, mẹ hoặc anh chị giúp đỡ. Thực tế, rất nhiều phụ huynh
trong lớp đã điện thoại hỏi cô khi con mình gặp khó khăn cần hỗ trợ về một nội
dung học tập nào đó.

10


- Khi thực hành thủ công, khi vẽ bài Mĩ thuật: Cô giáo dặn nộp sản phẩm
vào ngày mai nhưng tối hôm ấy, các em lại không có giấy, không có màu để vẽ.
Các em đã nhờ sự hỗ trợ từ bố mẹ để bố mẹ mua giấy, mua màu vẽ cho con.
- Khi có mâu thuẫn với bạn: Có lần, trên đường đi học về, do hiểu nhầm,
em Thiều Văn Dũng bị em Tống Trường Giang trêu trọc rồi gây gổ với nhau. Về
nhà em Dũng đã tâm sự cùng bố mẹ, bố mẹ của em đã điện thoại trao đổi để cô
giáo chủ nhiệm biết và cùng giúp em giải quyết tốt mâu thuẫn với bạn. Từ đó,
các em luôn luôn đoàn kết với nhau.
c. Sự hỗ trợ từ bạn bè: Thầy cô và gia đình là những địa chỉ luôn giúp
đỡ, hỗ trợ học sinh khi các em gặp khó khăn. Những lúc gặp khó khăn mà chưa
có cô giáo ở bên cạnh, các em sẽ tìm kiếm sự hỗ trợ từ các bạn, các anh chị lớp
trên.
- Khi tham gia các hoạt động ngoài giờ lên lớp:
Giáo viên cần phối kết hợp với Đội TNTP Hồ Chí Minh tham mưu, đóng
góp ý kiến với nhà trường tạo nhiều sân chơi để học sinh được tham gia, giúp
các em có cơ hội cùng chơi, cùng hoạt động, hỗ trợ nhau. Trong năm học này,

nhà trường, Liên đội đã tổ chức được nhiều sân chơi để học sinh được tham gia
như: Đêm hội trăng rằm, Hội diễn văn nghệ chào mừng 20-11, Thi Kể chuyện về
giáo dục đạo đức, tôi đã khéo léo động viên để các em tích cực tham gia các
hoạt động. Cụ thể là:
- Hoạt động chào mừng ngày 20/11: 100% học sinh tham gia thi văn nghệ,
đồng diễn dân vũ. Kết quả: Lớp đạt giải Nhất đơn ca, Giải Ba Dân vũ. Sau hội
thi, giáo viên chủ nhiệm đã có phần thưởng động viên những học sinh tham gia
các hoạt động, các em có tinh thần tập thể, biết giúp đỡ bạn. Nhờ vậy mà các em
ngày càng tích cực, thân thiện, đoàn kết với nhau hơn.

Học sinh thi giới thiệu về “Đêm hội trăng rằm”

11


Học sinh tham gia “ Hội thi kể chuyện”
– Tổ chức lao động tập thể:
Với học sinh tiểu học nói chung, học sinh lớp 1 nói riêng, lao động vừa sức là
một trong những nội dung cần giáo dục các em để các em biết lao động tự phục
vụ mình và giúp gia đình. Cụ thể như: Nhặt rác, tưới hoa, chăm sóc vườn hoa,
làm vệ sinh lớp học…Trong mỗi buổi lao động, giáo viên cần phân công công
việc theo tổ và đánh giá mức độ hoàn thành của các tổ. Vì thế thông qua buổi lao
động giáo viên đã rèn cho học sinh tính thân thiện, hợp tác, gần gũi, hỗ trợ lẫn
nhau, biết lao động để giúp đỡ gia đình, ý nghĩa của mỗi buổi lao động, cần lao
động để làm cho trường lớp xanh-sạch - đẹp.... Các em biết được lao động là
vinh quang, từ đó các em sẽ tham gia lao động một cách tích cực hơn, các em sẽ
tự giác và cùng giúp đỡ, hỗ trợ nhau hoàn thành tốt công việc được giao.
Các em làm trực nhật, nhổ

cỏ, chăm sóc bồn hoa


12


Các em đang chăm sóc vườn hoa
- Tổ chức các hoạt động giữa giờ:
Hoạt động tập thể là một hoạt động đòi hỏi mỗi học sinh phải thực hiện
theo tập thể, theo cái chung, cái đúng, không thể theo ý muốn chủ quan của bản
thân. Vì thế thông qua các hoạt động tập thể, giáo viên có thể rèn cho học sinh
sự thích ứng, tính thân thiện, sự hỗ trợ, giúp đỡ nhau.
Ví dụ: Múa hát tập thể bài Dân vũ, yêu cầu học sinh phải múa đôi một nam và
một nữ, trong lớp chỉ có 8 học sinh nữ, 20 học sinh nam, nhưng các em nữ
chẳng những không rụt rè mà đã chủ động múa cùng các bạn nam. Qua bài múa,
rèn cho học sinh tự tin, biết tìm kiếm sự hỗ trợ từ bạn, tự giác hoàn thành yêu
cầu của hoạt động đề ra.

Các em hoạt động trong giờ ra chơi
- Tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động học tập nhóm:
- Trong năm học các em được tham gia thử sức: Vẽ tranh chiếc ô tô mơ
ước, Thử sức với Toán mạng. Mỗi khi gặp bài toán khó, nghĩ mãi không ra, các
em cần sự hỗ trợ từ bạn đó là nhờ bạn giảng cho mình hiểu và làm được bài khó
ấy. …Qua đó giúp các em vừa học, vừa chơi, thể hiện được ước mơ, năng khiếu
của mình; Bồi đắp kiến thức; nuôi dưỡng tình yêu thương, gần gũi, tìm kiếm sự
hỗ trợ khi gặp bài toán khó, cùng giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ.
Ví dụ: Để động viên, khuyến khích các em tham gia thi: “Thử sức với toán
mạng”, tôi đã tranh thủ thời gian ngoài giờ, hướng dẫn các em thi. Những ngày
13


đầu, lớp chỉ có một vài em tham gia, sau khi được cô động viên bằng việc treo

giải thưởng nếu học sinh nào hoàn thành tất cả các vòng thi, các em đã tham gia
đông hơn và đến nay đã có 28/28 học sinh tham gia gồm các em: Tống Nhật
Mai, Thiều Văn Dũng, Đào Mạnh Dũng, Lã Đình Dáp, Lê Quang Đức, Trần Văn
Đức, Nguyễn Đức Anh, Trịnh Minh Quang, Bùi Ngọc Minh,…Các em đã rủ
nhau cùng thi theo nhóm, theo tổ. Từ đó sự thân thiện, gần gũi, sự hỗ trợ, giúp
đỡ cho nhau ngày một tốt hơn.

Các em đamg cùng nhau thảo luận nhóm
Như vậy, ngoài tấm gương mẫu mực của giáo viên, cần tạo cho học sinh
có cơ hội được chia sẻ, gần gũi, thân thiện, biết giúp đỡ, hỗ trợ nhau thông qua
hoạt động nhóm, hoạt động tập thể.
4. Rèn kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho học sinh: Để rèn cho học sinh có
kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, giáo viên cần:
a. Nêu tình huống khó khăn cần giúp đỡ: Thông qua bài tập thực hành
kĩ năng sống lớp 1, chủ để 4: Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ khi khó khăn ( trang 20
– 22), giáo viên nêu các tình huống trong sách và các tình huống do giáo viên
chuẩn bị:
- Tình huống 1: Em đang ngồi chơi ở nhà thì bị đau bụng. Khi đó mẹ đang
ở trong bếp.
- Tình huống 2: Em đang nghe cô giáo giảng bài, bỗng thấy mặt nóng
bừng, người bị sốt.
- Tình huống 3: Em bị ngã ở sân trường, chân bị thương, chảy máu.
- Tình huống 4: Khi em gọt vỏ trái cây, bị đứt tay, chảy máu.
- Tình huống 5: Khi ra chơi, em bị đau bụng.
- Tình huống 6: Trên đường đi học về, có một người lạ bảo em ngồi lên xe
để chở em về nhà.
14


- Tình huống 7: Một người lạ vào trường, cho em kẹo và bảo em đi theo

người đó để về nhà có việc.
- Tình huống 8: Giờ ra chơi em thấy hai bạn trong lớp đánh nhau….
b. Yêu cầu học sinh giải quyết tình huống: Sau khi học sinh nêu cách
giải quyết từng tình huống, chọn cách giải quyết hay, giáo viên chốt lại cách giải
quyết hay mà các em đã chọn như sau:
- Tình huống 1: Em có thể gọi thật to để mẹ biết và giúp đỡ mình.
- Tình huống 2: Em có thể xin phép cô để nói cho cô biết là em bị sốt để
được cô giúp đỡ.
- Tình huống 3: Em nhờ bạn báo với cô giáo để giúp em xử lí vết thương.
- Tình huống 4: Em nói để mẹ biết và giúp đỡ..
- Tình huống 5: Nhờ bạn báo để cô biết và giúp đỡ..
- Tình huống 6: Nói nhỏ với bạn cùng đi về để bạn giúp đỡ hoặc vào nhà
một người quen gần nhất nhờ giúp đỡ
- Tình huống 7: Nhờ bạn giúp đỡ, báo với cô giáo.
- Tình huống 8: Nói để anh chị lớp trên biết báo với cô giáo
Giải quyết tốt các tình huống khó khăn trên, các em đã rèn được kĩ năng
tìm kiếm sự hỗ trợ đúng địa chỉ, đạt hiệu quả.
c. Tạo tình huống trong học tập: Trong lớp học, các em gặp rất nhiều
tình huống khó khăn, cần sự giúp đỡ, những lúc ấy, giáo viên cần để học sinh
tìm kiếm sự hỗ trợ.
Tình huống 1: Một hôm đang viết bài, em Hoàng Anh Tuấn bị hết mực,
em định không viết bài mà ngồi chơi. Lúc ấy, tôi đã yêu cầu em tiếp tục viết bài,
em nghĩ mãi không biết làm thế nào để có bút viết tiếp bài. Sau đó, em đã hỏi
mượn bút bạn Biện Thị Hà Chi. Như vậy, em Hoàng Anh Tuấn đã biết tìm kiếm
sự hỗ trợ từ bạn của mình.

Em Tuấn mượn bút của em Hà Chi
Tình huống 2: Có một lần, em Thiều Văn Dũng làm bài tập toán trong vở
ghi toán xong đầu tiên trong lớp nhưng em không mang lên nộp để cô chấm
nhận xét vào vở, tìm hiểu ra tôi biết em chưa gạch chân các đề mục vì không có

thước; em cứ loay hoay mãi trong khi cô giáo quy định phải làm đủ bài, gạch
chân đúng quy định mới được nộp vở ( tôi lại muốn em phải biết tìm sự hỗ trợ từ
15


bạn nên cứ để em tự giải quyết). Lúc ấy, nhiều bạn đã kịp xong và lên nộp vở
cho cô, không biết làm thế nào, em đành phải nhờ bạn Đàm Thu Thảo cho mượn
thước để gạch rồi mang lên nộp. Từ đó, khi gặp khó khăn, em đã biết tìm sự hỗ
trợ ở bạn mình.
Tình huống 3: Tiết chào cờ đã đến, do đi chậm, em Trịnh Minh Hiếu
không có ghế ngồi, cô giáo lại đi vắng. Em đã nhờ chị Nguyễn Thu Uyên – phụ
trách sao tìm ghế cho em. Như vậy em đã biết tìm kiếm sự hỗ trợ từ anh chị lớp
trên khi gặp khó khăn.
Tình huống 4: Thứ 6 ( tuần 20), em Trường Giang không mặc đúng đồng
phục của nhà trường ( nhà trường quy định thứ 2, thứ 6 hàng tuần, học sinh mặc
đồng phục), tiết sinh hoạt lớp, các bạn trong lớp đã nhắc nhở Giang, các bạn nói:
“ Giang đã vi phạm nội quy, giờ phải làm gì?”. Lúc ấy, ngập ngừng mãi rồi em
cũng hứa được trước lớp: “ Tôi hứa với các bạn, từ nay tôi sẽ không vi phạm
nữa”
Tóm lại, giáo viên cần tạo các tình huống khó khăn để học sinh tìm kiếm
sự hỗ trợ. Có như vậy mới rèn được kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho các em.
IV. Hiệu quả đạt được:
Việc rèn kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho học sinh đã mang lại hiệu quả
thiết thực hơn. Nếu như đầu năm học các em học sinh luôn sợ sệt, nhút nhát,
luôn trông chờ, ỷ lại vào bố mẹ, người thân khi gặp khó khăn thì sau khi được
rèn kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, khả năng tìm kiếm sự hỗ trợ của các em trong
học tập, trong lao động, trong hoạt động Đội, hoạt động ngoại khóa, trong mọi
hoạt động...được nâng lên một cách rõ rệt.
- Trong học tập: Nhiều học sinh có kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ rất nhanh
nhất như: Tống Nhật Mai, Thiều Văn Dũng, Biện Thị Hà Chi, Lã Đình Dáp, Bùi

Thị Hoàng Yến, Đàm Thu Thảo, Nguyễn Chiến Thắng ...Đây cũng chính là
những học sinh có năng khiếu, hoàn thành tốt cả ba lĩnh vực được đánh giá theo
Thông tư 30, không còn biểu hiện trông chờ, ỷ lại vào thầy cô, gia đình như
trước nữa.
- Trong lao động: Các em đã biết hỗ trợ nhau cùng làm trực nhật, cùng
chăm sóc bồn hoa, vườn hoa, khi dọn vệ sinh. Điển hình như các em: Tống Nhật
Mai, Biện Thị Hà Chi, Đàm Thu Thảo, Nguyễn Thị Huế, Lã Đình Dáp...các em
không còn phụ thuộc hoàn toàn vào cô giáo như ngày đầu năm học.
- Trong hoạt động Đội: Các em cùng nhau tham gia tích cực, mang lại kết
quả cao hơn so với các lớp khác trong khối, trong trường.
- Trong hoạt động của trường, lớp: Các em đều hỗ trợ nhau tham gia nhiệt
tình, tích cực mọi hoạt động do trường, lớp tổ chức và kết quả luôn tốt hơn các
lớp trong khối, trong trường. Lớp luôn dẫn đầu về mọi phong trào hoạt động do
nhà trường tổ chức.
- Trong hoạt động bán trú: Sau giờ nghỉ trưa, các em đã biết tự hổ trợ
nhau cùng thu dọn chăn, gối, làm vệ sinh phòng ăn, phòng ngủ, chải tóc giúp
bạn, làm vệ sinh cá nhân, rất ít em còn trông chờ vào cô giáo trực.

16


Không chỉ ở trong lớp, các em thể hiện tốt kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ mà
kĩ năng này còn được các em thể hiện rất tốt ở các lớp trong khối, trong trường.
Cụ thể là: Các em đã biết giúp các bạn lớp 1 trong khối tìm kiếm nhanh sự hỗ
trợ. Đầu năm, em Dương học chưa tốt, đọc, viết rất chậm, khi được các em
hướng dẫn, giúp đỡ đến cuối năm học em Dương đã hoàn thành cả ba lĩnh vực
và được lên lớp 2.
Với các anh chị trong trường: Khi các anh chị cần sự hỗ trợ, các em sẵn
sàng giúp đỡ một cách nhiệt tình, hiệu quả.
Vì thế, đến cuối năm học 2015 - 2016, kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ của 28

học sinh trong lớp đạt được là:
Kĩ năng tìm
kiếm sự hỗ trợ
rất tốt

Kĩ năng tìm
kiếm sự hỗ trợ
tốt

Số HS

Số HS

14

Tỉ lệ
50,0%

10

Tỉ lệ
35,7%

Kĩ năng tìm
kiếm sự hỗ trợ
bình thường
Số HS
4

Tỉ lệ

14,3%

Kĩ năng tìm
kiếm sự hỗ trợ
chưa tốt
Số HS
0

Tỉ lệ
0%

Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ của các em ngày được nâng lên rõ rệt, những em
biết tìm kiếm một cách tích cực sự hỗ trợ luôn tự giác tham gia các hoạt động
của trường, của lớp, thích hoạt động nhóm, các em đọc to, 28/28 em đọc thông,
viết thạo, 100% học sinh hoàn thành cả ba lĩnh vực theo Thông tư 30, các em
dám nói thẳng, nói thật, vượt qua mọi khó khăn, thử thách kể cả những khi thất
bại; các tiết học, các buổi lao động hay buổi sinh hoạt ngoại khoá, giờ ra chơi,
tiết sinh hoạt lớp, sinh hoạt đội... diễn ra một cách nhẹ nhàng, thoải mái. Các em
thực sự mạnh dạn, tự tin, chủ động hơn. Khi tham gia các hoạt động tập thể, các
em đều đạt kết quả cao. Ngoài ra, các em còn biết giúp đỡ cá bạn trong khối,
trong trường cùng tìm kiếm sự hỗ trợ tốt nhất.
Cụ thể: Các em tham gia “Đêm hội trăng rằm” đạt giải khuyến khích; Thi
văn nghệ chào mừng ngày 20/11 đạt một giải Nhất, một giải Ba, Em Tống Nhật
Mai tham gia hội thi “ Kể chuyện và tiếng hát bậc Tiểu học” đạt giải Ba cấp Thị
xã ( toàn trường chỉ 2 em đạt giải tiếng hát), tham gia phụ họa tiết mục của em
Mai Phương Thảo đạt giải Ba cấp Tỉnh.

17



Em Tống Nhật Mai cùng đội múa phụ họa tiết mục đạt giải Ba cấp tỉnh

PHẦN III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I. Kết luận:
Rèn kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cũng như các kĩ năng khác cho học sinh
thông qua công tác chủ nhiệm và giảng dạy là một việc làm rất quan trọng. Bởi
kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ là một kĩ năng sống rất cơ bản của con người, là nền
tảng để con người giải quyết vấn đề, giải quyết mâu thuẫn, ứng phó với căng
thẳng, để ứng xử phù hợp, hiệu quả. Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
được tiến hành song song với quá trình chủ nhiệm và giảng dạy. Nếu chỉ quan
tâm đến việc khám phá tri thức mà bỏ qua kĩ năng sống các em sẽ khó thích ứng
được với môi trường xung quanh, khi ra xã hội các em sẽ cảm thấy mình bị lạc
lõng, cái gì cũng không biết vì kĩ năng sống thực chất chính là những kĩ năng xã
hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nó
là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với
những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống
khó khăn của cuộc sống.
Giáo viên cần làm thật tốt tốt công tác chủ nhiệm lớp của mình, cần chú
trọng đến việc rèn kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho học sinh sẽ giúp các em tự tin,
mạnh dạn, dám đương đầu với mọi khó khăn, thách thức trong cuộc sống. Từ đó
mà hiệu quả hoạt động cao hơn.
- Việc rèn kĩ năng sống nói chung, kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ nói riêng
không chỉ trong ngày một ngày hai mà là cả một quá trình. Vì vậy mỗi giáo viên
cần kiên trì, nhẫn nại rèn luyện để các em từng bước tiếp cận và hình thành cho
mình kĩ năng này.

18


- Việc rèn kĩ năng sống nói chung, kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ phải được

duy trì thường xuyên, liên tục, đồng nhât, đồng bộ trong quá trình giáo dục phổ
thông. Có như vậy các em mới vận dụng tốt trong cuộc sống sau này.
- Khi các em đã tiếp cận được kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ thì các tiết học
trở nên nhẹ nhàng hơn, khi tham gia các hoạt động sẽ thoải mái hơn, hiện tượng
trông chờ hay ỷ lại vào cô giáo, vào bố mẹ sẽ không còn nữa, phong trào học tập
và mọi phong trào khác của lớp, của trường sẽ sôi nổi hơn, tính tự giác của các
em được khơi dậy một cách mạnh mẽ ....Và kết quả học tập, tu dưỡng đạt cao
hơn.
- Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ của các em tốt sẽ giúp các em giao tiếp, ứng
xử thân thiện, biết tìm kiếm được các địa chỉ tin cậy ddeeer hỗ trợ bản thân
trong mọi hoạt động, biết “Nói lời hay, làm việc tốt”, biết “ Gọi bạn, xưng tôi”,
biết chia sẻ, giúp đỡ nhau trong học tập, lao động, trong sinh hoạt, vui chơi,
thích được hoạt động, được thể hiện bản thân, biết chấp nhận thất bại …Khi đó
lớp học mới thực sự thân thiện, đoàn kết, các em coi lớp học cũng như gia đình
của mình mà ở đó thầy cô, bạn bè chính là những người thân trong gia đình.
- Rèn kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ không chỉ giúp các em trong học tập, rèn
luyện ở trường mà chính là chúng ta đã trang bị cho các em kĩ năng tìm kiếm sự
hỗ trợ trong các hoạt động ngoại khoá, hoạt động tập thể, trong cuộc sống ngoài
đời, ngoài xã hội, góp phần hình thành nhân cách cho học sinh.
- Giáo viên cần chú ý đến từng đối tượng học sinh trong lớp để có các giải
pháp, biện pháp hữu hiệu trong việc rèn kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho học sinh.
Có như thế việc rèn kĩ năng mới đạt hiệu quả cao.
- Giáo viên chủ nhiệm cần phối kết hợp chặt chẽ với giáo viên bộ môn,
các giáo viên trong trường, phụ huynh học sinh cùng tham gia quá trình rèn kĩ
năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho học sinh cùng các kĩ năng khác trong hệ thống.
- Mục tiêu của việc rèn kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho học sinh chính là
rèn cho các em ý thức được nhu cầu cần hỗ trợ, biết xác định được những địa chỉ
hỗ trợ đáng tin cậy, tự tin và biết tìm đến địa chỉ tin cậy để bày tỏ nhu cầu cần
giúp đỡ một cách phù hợp.
- Rèn kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ một cách tích cực, không nên thái quá,

không nên biến các em thành những người luôn nhờ vả người khác.
- Giáo dục kỹ năng sống là giáo dục cách sống tích cực trong xã hội hiện
đại, xây dựng những hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen
tiêu cực trên cơ sở giúp học sinh có thái độ, kiến thức, kỹ năng, giá trị cá nhân
thích hợp với thực tế xã hội. Mục tiêu cơ bản của giáo dục kỹ năng sống là làm
thay đổi hành vi của học sinh, chuyển từ thói quen thụ động, có thể gây rủi ro,
dẫn đến hậu quả tiêu cực thành những hành vi mang tính xây dựng tích cực và
có hiệu quả để nâng cao chất lượng cuộc sống cá nhân và góp phần phát triển xã
hội bền vững.
Qua quá trình rèn kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho học sinh lớp 1, tôi thấy
các em ngày một chủ động, mạnh dạn tìm sự giúp đỡ hiệu quả, phù hợp, không
còn sự trông chờ hay ỷ lại vào thầy cô hoặc gia đình, bạn bè. Các em biết cư xử
19


đúng mực, tự tin, nói năng rõ ràng, ngắn gọn, bình tĩnh khi gặp sự cố, luôn kiên
trì tìm kiếm sự hỗ trợ để giải quyết, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc mình
gặp phải. Từ đó, kết quả học tập được nâng lên một cách rõ rệt. Vì vậy giáo viên
cần chú trọng việc giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh, góp phần giúp các
em trở thành những chủ nhân tương lai của đất nước, những con người “vừa
hồng vừa chuyên” đáp ứng yêu cầu đặt ra của mục tiêu giáo dục thế hệ trẻ trong
sự nghiệp đổi mới hiện nay.
II. Kiến nghị:
- Việc giáo dục kỹ năng sống cần phải đồng bộ và đồng tâm bởi đặc thù
của học sinh Tiểu học.
- Tổ chức thật nhiều hơn nữa các tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp.
- Nhà trường cần tổ chức nhiều hơn những buổi chuyên đề về giáo dục kỹ
năng sống, tạo nhiều sân chơi lành mạnh cho các em như trò chơi dân gian, các
trò chơi mang tính cộng đồng cao.
Bản thân đã cố gắng áp dụng những kinh nghiệm, sáng tạo thêm những

phương pháp mới nhằm rèn kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho học sinh từ môi
trường giáo dục ở nhà trường, giáo dục và xây dựng cho các em có năng lực tốt,
lối sống lành mạnh để các em có thể tự lập, tự tin hơn trong cuộc sống, đem lại
niềm vui, hạnh phúc cho các em, gia đình và xã hội. Trên đây là những suy nghĩ
của bản thân về việc nghiên cứu rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 1.
Tôi rất mong nhận được sự góp ý của hội đồng khoa học nhà trường và
cấp trên để sáng kiến kinh nghiệm ngày càng hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 3 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép
nội dung của người khác.
Người viết

Tạ Thị Ngợi

. XÁC NHẬN CỦA TRƯỞNG PHÒNG GD&ĐT BỈM SƠN

20



×