Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng phương pháp bàn tay nặn bột trong dạy học môn khoa học lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (592.01 KB, 26 trang )

I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng lần thứ 8 Khóa XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo”. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai đổi mới nâng cao chất lượng dạy
học sao cho nền giáo dục nước nhà đạt được kết quả ngang tầm với các nước trong
khu vực cũng như các nước tiên tiến trên thế giới. Trong đó, đổi mới môn Khoa học
ở lớp 4 cũng là một yêu cầu cần thiết góp phần đạt được những mục tiêu giáo dục
đề ra. Ở lớp 4, học sinh lần đầu làm quen với môn Khoa học thay cho bộ môn Tự
nhiên và xã hội ở các lớp dưới. Đối với lứa tuổi này, kiến thức mà môn Khoa học
mang lại cho các em vô cùng rộng lớn, khó nhớ, khó hình thành những khái niệm
ban đầu về khoa học- tự nhiên, lại có phần khô cứng. Tuy nhiên, chúng cũng khá
gần gũi với thực tế, giúp các em có thể vận dụng những kiến thức môn Khoa học
vào đời sống hàng ngày.
Kể từ năm học 2013 - 2014, các trường Tiều học trên địa bàn huyện Hậu Lộc
bắt đầu được tập huấn và triển khai áp dụng một phương pháp mới dành cho môn
Tự nhiên và xã hội ở các lớp 1,2,3 và môn Khoa học ở các lớp 4,5. Đó là phương
pháp dạy học “Bàn tay nặn bột”. Đây là một phương pháp dạy học tích cực do
Giáo sư Georger Charpak (người Pháp) sáng tạo và phát triển từ năm 1995 dựa trên
cơ sở khoa học của sự tìm tòi - nghiên cứu. Với phương pháp này, học sinh tự lĩnh
hội kiến thức mới xuất phát từ một sự vật, hiện tượng thực tế gần gũi với các em.
Tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá và say mê khoa học của học sinh. Phương
pháp bàn tay nặn bột còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kĩ năng diễn đạt thông qua
ngôn ngữ nói và viết cho học sinh.
Tôi nhận thấy việc áp dụng phương pháp Bàn tay nặn bột trong môn Khoa học
lớp 4 nói riêng và môn Khoa học cấp Tiểu học nói chung ở các trường Tiểu học
còn có những hạn chế nhất định: Một số học sinh chưa tự giác, tích cực tham gia
các hoạt động học tập. Giáo viên còn ngại sử dụng phương pháp BTNB. Vậy thực
trạng việc dạy học môn Khoa học như thế nào? Việc áp dụng phương pháp dạy học
mới khó khăn ra sao? Do đâu mà giáo viên còn lúng túng khi vận dụng phương
pháp Bàn tay nặn bột trong việc thực hiện dạy học môn Khoa học? Tại sao học sinh


chưa thực sự hứng thú với môn học? Để trả lời cho các câu hỏi đó, tôi đã tìm hiểu
thực trạng việc dạy học môn Khoa học ở lớp 4, trường Tiểu học Ngư Lộc 2.
Ở lớp 4, dung lượng kiến thức của môn Khoa học là rất lớn. Khó khăn lớn
nhất của giáo viên trong dạy học môn Khoa học đó là việc vận dụng phương pháp
Bàn tay nặn bột. Một số giáo viên còn lúng túng, chưa hiểu đúng, hiểu sâu mục tiêu
của phương pháp này nên vận dụng một cách hình thức, hời hợt. Trong khi cần chú
trọng việc hình thành cho học sinh phương pháp học tập, rèn kỹ năng và thói quen
tự tìm tòi nghiên cứu trước các sự vật, hiện tượng tự nhiên thì không ít giáo viên lại
yêu cầu học sinh đọc thuộc lòng, áp đặt kiến thức, bắt học sinh phải công nhận kiến
thức khoa học một cách miễn cưỡng. Điều đó vô tình giáo viên làm mất đi khả
1


năng sáng tạo của học sinh, không phát huy được tính tìm tòi ham hiểu biết của các
em. Dẫn đến hiệu quả giờ học chưa cao. Mặc dù các em đó biết làm việc tập thể,
biết trao đổi, trình bày ý kiến cá nhân, biết làm một số thí nghiệm thực hành đơn
giản nhưng giờ học thiếu sinh động, không khí học tập cũng nặng nề. Các em ít tò
mò, ít đặt ra những câu hỏi thắc mắc và hầu như mơ hồ về biểu tượng của những sự
vật hiện tượng mà các em được tìm hiểu, sự lập luận cßn kÐm, c¸c kỹ năng thực
hành còn vụng về, lúng túng. Việc vận dụng những kiến thức mà các em thu thập
được vào thực tiễn còn hạn chế bởi các em thiếu kỹ năng thực hành. Các em chưa
có thói quen ghi lại những gì mà các em quan sát được, chưa chủ động trong việc
xác định mục đích quan sát và thí nghiệm, chưa nắm vững và nhớ lâu kiến thức đã
học.
Những kết quả mà phương pháp bàn tay nặn bột mang lại có thể nói được
hầu hết giáo viên công nhận. Tuy nhiên, Khi áp dụng vào thực tế, dự giờ, trao đổi
cùng đồng nghiệp, tôi nhận thấy thực trạng của việc áp dụng phương pháp Bàn tay
nặn bột trong môn Khoa học của giáo viên cũng còn nhiều hạn chế. Vậy nguyên
nhân nào dẫn đến tình trạng đó? Bản thân tôi đã tìm hiểu và thấy được nguyên nhân
chủ yếu của tình trạng đó là do giáo viên chưa sử dụng tốt phương pháp Bàn tay

nặn bột trong dạy học môn Khoa học.
Từ những lí do trên, để áp dụng phương pháp Bàn tay nặn bột trong môn
Khoa học lớp 4 hiệu quả, tôi mạnh dạn lựa chọn Sáng kiến kinh nghiệm có tên gọi:
"Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột”
trong dạy học môn Khoa học lớp 4" để nghiên cứu và đã được ứng dụng thành
công trong năm học 2015-2016, tiếp tụụ̣c vận dụng trong năm học 2016 -2017.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm ra những biện pháp tối ưu nhất giúp bản thân nâng cao hiệu quả sử
dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học môn Khoa học lớp 4, giúp
học sinh hoạt động tích cực khám phá kiến thức, phát triển tư duy lôgic, trí tưởng
tượng, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo thực hành và vốn ngôn ngữ khoa học, giúp các em
vững vàng trong lập luận, khám phá tự nhiên, tiếp cận thế giới xung quanh mình.
Bước đầu các em đã biết vận dụng những điều đã học áp dụng vào trong cuộc sống
hàng ngày.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu phương pháp bàn tay nặn bột. Tìm giải pháp nâng cao hiệu quả
sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học môn Khoa học lớp 4:
Học sinh lớp 4C Trường Tiểu học Ngư Lộc II năm học 2015 - 2016
Học sinh lớp 4B Trường Tiểu học Ngư Lộc II năm học 2016 - 2017
4.Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp đọc tài liệu nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết
+ Phương pháp điều tra, thống kê số liệu.
+ Phương pháp quan sát, thực nghiệm.
+ Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm
2


II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
Phương pháp dạy học "Bàn tay nặn bột" (tiếng Pháp là La main à la pâte viết tắt là LAMAP; tiếng Anh là Hands-on, là phương pháp dạy học khoa học dựa

trên cơ sở của sự tìm tòi - nghiên cứu, áp dụng cho việc dạy học các môn khoa học
tự nhiên. Phương pháp này được khởi xướng bởi Giáo sư Georges Charpak (Giải
Nobel Vật lý năm 1992). Theo phương pháp Bàn tay nặn bột, dưới sự giúp đỡ của
giáo viên, chính học sinh tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc
sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra để
từ đó hình thành kiến thức cho mình. Đứng trước một sự vật hiện tượng, học sinh
có thể đặt ra các câu hỏi, các giả thuyết từ những hiểu biết ban đầu, tiến hành thực
nghiệm nghiên cứu để kiểm chứng và đưa ra những kết luận phù hợp thông qua
thảo luận, so sánh, phân tích, tổng hợp kiến thức.
Phương pháp Bàn tay nặn bột là tạo nên tính tỉ mỉ ham muốn khám phá và say
mê khoa học của học sinh. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, phương
pháp Bàn tay nặn bột cũng chú ý nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt thông
qua ngôn ngữ nói và viết cho học sinh.
Xác định kiến thức khoa học phù hợp với học sinh theo độ tuổi là một vấn đề
quan trọng đối với giáo viên. Giáo viên phải tự đặt ra các câu hỏi như: Có cần thiết
giới thiệu kiến thức này không? Cần thiết giới thiệu kiến thức này vào thời điểm
nào? Cần yêu cầu HS hiểu kiến thức này ở mức độ nào? Giáo viên có thể tìm câu
hỏi này thông qua việc nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa và tài liệu hỗ trợ
giáo viên (sách giáo viên, sách tham khảo, hướng dẫn thực hiện chương trình) để
xác định từ hàm lượng kiến thức tương đối với trình độ cũng như độ tuổi của học
sinh và điều kiện địa phương.
Phương pháp Bàn tay nặn bột dựa trên thực nghiệm và nghiên cứu cho phép
giáo viên hiểu rõ hơn cách thức mà học sinh tiếp thu các kiến thức khoa học.
Phương pháp Bàn tay nặn bột cho thấy cách thức học tập của học sinh là tò mò tự
nhiên giúp các em có thể tiếp cận thế giới xung quanh mình qua việc tham gia các
hoạt động nghiên cứu. Các hoạt động nghiên cứu cũng gợi ý cho Học sinh tìm kiếm
để rút ra các kiến thức cho riêng mình, qua sự tương tác với các Học sinh khác
cùng lớp để tìm phương án giải thích các hiện tượng. Các suy nghĩ ban đầu của học
sinh rất nhạy cảm ngây thơ, có tính logic theo cách suy nghĩ của học sinh tuy nhiên
thường là sai về mặt khoa học.

2. Thực trạng trước khi áp dụng phương pháp bàn tay nặn bột
Năm học 2015 – 2016 và năm học 2016 - 2017, tôi đều được được phân công
dạy khối lớp 4, trường Tiểu học Ngư Lộc II, trong quá trình giảng dạy bản thân tôi
nhận thấy có những thuận lợi và khó khăn sau:
a/ Thuận lợi:
Qua thực tiễn dạy học, bản thân tôi nhận thấy Phương pháp Bàn tay nặn bột
là một phương pháp có tiến trình dạy rõ ràng, dễ hiểu, có thể áp dụng được trong
3


các nhà trường Tiểu học. Quá trình thử nghiệm, áp dụng phương pháp Bàn tay nặn
bột vào trong các lớp học, có thể nhận thấy sự ham thích của học sinh. Các em
hứng thú với những hoạt động tìm hiểu kiến thức mới. Điều này chứng tỏ học sinh
luôn ham thích được học tập, hăng say tìm tòi và sáng tạo.Thích khám phá những
điều mới lạ.
Việc áp dụng phương pháp Bàn tay nặn bột vào giảng dạy môn Khoa học, tôi
nhận được sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình từ Ban giám hiệu nhà trường, chuyên
môn nhà trường, đồng nghiệp, phụ huynh và đặc biệt là các em học sinh luôn giúp
đỡ và đồng hành cùng tôi.
b/Khó khăn:
b.1/ Về đội ngũ giáo viên.
- Kiến thức chuyên sâu về khoa học của một số giáo viên cũng hạn chế. Vì
vậy, giáo viên thường gặp nhiều khó khăn trong việc trả lời, giải đáp các câu hỏi
cũng như khó khăn trong việc lí giải thấu đáo các thắc mắc của HS nêu ra trong quá
trình học. Đây là một trở ngại rất lớn trong việc áp dụng các phương pháp dạy học
tích cực nói chung và phương pháp Bàn tay nặn bột nói riêng.
- Giáo viên thường gặp nhiều khó khăn trong việc nêu ra tình huống mở đầu
cho mỗi bài dạy bằng phương pháp Bàn tay nặn bột.
- Giáo viên còn lúng túng trong việc thiết kế và thực hiện tiến trình tiết dạy
môn Khoa học có áp dụng phương pháp Bàn tay nặn bột.

- Việc áp dụng phương pháp Bàn tay nặn bột máy móc, kém hiệu quả.
- Lựa chọn và sử dụng thiết bị dạy học trong phương pháp Bàn tay nặn bột
chưa phù hợp dẫn đến hiệu quả giờ dạy chưa cao.
- Làm thí nghiệm chiếu lệ, không thường xuyên.
b.2/ Về học sinh
- Các em chưa có thói quen kết hợp ghi chép trong quá trình tìm tòi, nghiên
cứu.
- Một số học sinh chưa tự giác, tích cực tham gia các hoạt động học tập.
- Một số kĩ năng của học sinh rất hạn chế : kĩ năng giao tiếp, kĩ năng thực
hành, kĩ năng tự giải quyết vấn đề, kĩ năng ra quyết đinh, kĩ năng suy nghĩ sáng
tạo... Chính vì vậy mà hiệu quả giờ học chưa cao.
B3/ Về điều kiện cơ sở vật chất.
- Các thiết bị thí nghiệm, đồ dùng dạy học của nhà trường đã cũ và thiếu
chưa được bổ sung kịp thời.
- Các lớp học hiện nay, vẫn còn nhiều lớp bàn ghế được bố trí theo dãy, nối
tiếp nhau, không thuận lợi cho việc tổ chức học theo nhóm.
- Mặt khác, số học sinh trên một lớp đông nên việc tổ chức học tập theo
nhóm rất khó khăn.
2.2 Kết quả thực trạng.
Ngư Lộc là một xã vùng biển, luôn chịu ảnh hưởng của thiên tai. Nơi đây,
đất chật, người đông. Cuộc sống của đại đa số người dân phụ thuộc vào việc đánh
4


bắt nguồn hải sản biển. Mặc dù địa phương có sự “thay da đổi thịt”. Đời sống của
nhân dân từng bước được cải thiện. Nhưng kinh tế chưa có sự đồng đều giữa các
gia đình, các khu dân cư. Tỉ lệ hộ nghèo trong toàn xã còn nhiều (trªn 50%) .
Đặc biệt là những gia đình nghèo, gia đình khó khăn, bố mẹ đi làm ăn xa việc học
tập của con cái dường như phó mặc cho thầy cô. Năm học 2015 – 2016 tôi được
phân công dạy lớp 4C. Ngay từ buổi đầu nhận lớp, tôi đã tìm hiểu hoàn cảnh của

từng học sinh. Sĩ số học sinh 32 em, trong đó: Học sinh nam: 20 em, Học sinh nữ:
12 em. Số học sinh chủ yếu ở các thôn Thắng Phúc, Thành Lập đây là những thôn
khó khăn so với mặt bằng chung của xã. Sự quan tâm của cha mẹ học sinh đến việc
học tập của con em mình còn hạn chế, việc chuẩn bị bài và soạn sách vở hàng ngày
chưa đầy đủ, bảo quản sách vở chưa tốt, ... dẫn đến kết quả học tập các môn học
nói chung và môn Khoa học nói riêng của các em chưa cao.
Cụ thể kết thúc học kì I năm học 2015 - 2016 môn Khoa học đạt kết quả như sau:

Điểm 9 – 10
Điểm 7 - 8
Điểm 5 - 6
Điểm dưới 5
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
32
5
15,6
8
25,0
12
40,6
6
18,8
Với kết quả trên cho thấy chất lượng môn Khoa học chưa cao số học sinh điểm

dưới 5 còn 6 em chiếm tỷ lệ 18,8%, số học sinh điểm 9 -10 chỉ có 5 em đạt tỷ lệ
15,6%. Đây chính là vấn đề mà mỗi giáo viên trực tiếp giảng dạy phải trăn trở làm
sao cho chất lượng môn Khoa học lớp mình dạy đạt kết quả cao.
Xuất phát từ tình hình thực tế và kết quả học tập của học sinh, bản thân tôi đã
có những suy nghĩ và tìm ra các biện pháp nhằm giúp học sinh lớp 4 học tốt môn
Khoa học và bắt đầu học kỳ II năm học 2015 -2016, tôi sử dụng phương pháp Bàn
tay nặn bột vào dạy môn Khoa học ở lớp 4C. Năm học 2016-2017, tôi được phân
công dạy lớp 4B, tôi tiếp tục vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột môn Khoa học
ở lớp 4B.
3. Các giải pháp thực hiện.
Từ thực trạng trên, bản thân tôi mạnh dạn đưa ra những giải pháp và cách tổ
chức thực hiện. Sau đây là những giải pháp tôi đã vận dụng nhằm sử dụng hiệu quả
phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học môn Khoa học lớp 4 ở trường Tiểu
học Ngư Lộc II.
Giải pháp 1: Nâng cao nhận thức của bản thân trong việc đổi mới
phương pháp dạy học, đặc biệt là vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột”
trong dạy học môn Khoa học lớp 4 .
Tôi đã chủ động tìm hiểu bản chất của phương pháp Bàn tay nặn bột.Tôi
nhận thấy rằng: Một trong những phương pháp có nhiều ưu điểm, đáp ứng được
mục tiêu yêu cầu đổi mới và vận dụng tốt vào quá trình dạy học môn Khoa học lớp
4 ở Tiểu học hiện nay đó là phương pháp Bàn tay nặn bột. Khi mà nền kinh tế tri
thức đang dần dần chiếm ưu thế tại các quốc gia trên thế giới thì việc hình thành
Tổng số HS

5


cho học sinh một thế giới quan khoa học và niềm say mê khoa học, sáng tạo là rất
cần thiết.
Thực tế cho thấy, do chưa hiểu đúng, hiểu sâu về phương pháp Bàn tay nặn

bột nên khi dạy đã áp dụng một cách máy móc, kém hiệu quả. Điều đó vô tình đã
làm “méo mó”, làm mất đi tính tích cực, tính hiệu quả, tính ưu việt của phương
pháp dạy học mới này. Để khắc phục được tình trạng này, người giáo viên phải nỗ
lực trong việc tiếp cận và nắm bắt phương pháp mới.
Tôi đã nghiên cứu các tài liệu của Bộ Giáo dục, tài liệu tập huấn về phương
pháp Bàn tay nặn bột, tham khảo thông tin trên mạng Internet. Vì vậy, khi áp dụng
phương pháp này, tôi tuyệt đối tránh áp dụng một cách hình thức hoặc máy móc,
thiếu khoa học. Điều đó ảnh hưởng không tốt đến việc hình thành kiến thức cho
học sinh, nhất là Học sinh ở bậc Tiểu học.
Giải pháp 2: Nghiên cứu nội dung chương trình Khoa học lớp 4, lựa chọn
bài dạy và xác định nội dung kiến thức áp dụng phương pháp BTNB:
Phương pháp Bàn tay nặn bột là một phương pháp dạy học tích cực dựa trên
thí nghiệm nghiên cứu, áp dụng cho việc giảng dạy các môn khoa học tự nhiên.
“Bàn tay nặn bột”, chú trọng đến việc hình thành kiến thức cho học sinh bằng các
thí nghiệm tìm tòi nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề
được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu
tài liệu hay điều tra... Không phải bài nào cũng áp dụng và phát huy tốt tác dụng
của phương pháp này. Chính vì vậy lựa chọn bài để dạy và xác định nội dung kiến
thức áp dụng phương pháp Bàn tay nặn bột là vô cùng cần thiết đảm bảo cho sự
thành công của tiết dạy. Ngay từ đầu năm học, bản thân tôi đã lên kế hoạch và lập
nhật kí dạy học theo phương pháp Bàn tay nặn bột với các bài cụ thể như sau: Trao
đổi chất ở người (Tiết 2), Nước có tính chất gì (tiết 20), Không khí cần cho sự cháy
(tiết 35), Tại sao có gió(tiết 37), Vật dẫn nhiệt và vật cách nhiệt (tiết 52), Động vật
cần gì để sống(tiết 62),…(Phụ lục kèm theo)
Giải pháp 3: Thiết kế và thực hiện tiến trình tiết dạy môn Khoa học có áp
dụng phương pháp BTNB.
Khi dạy, tôi chủ động nghiên cứu chương trình, đặc biệt quan tâm đến các
bước của tiến trình dạy học môn Khoa học có áp dụng phương pháp Bàn tay nặn
bột. Khi dạy học, tôi đã vận dụng tiến trình trên theo phương pháp tích cực, sáng
tạo và linh hoạt phù hợp với từng chủ đề nghiên cứu. Việc thực hiện đúng mục tiêu

của từng bước là rất quan trọng và cần thiết.
* Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề.
Là một tình huống do giáo viên chủ động nêu ra như là một cách dẫn nhập
vào bài học. Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học phù hợp với trình độ học
sinh.
Ví dụ: Bài “Ba thể của nước”- Khoa học lớp 4.
Để thực hiện bước này, tôi chọn tình huống xuất phát ngắn gọn, dễ hiểu, gần
gũi với học sinh. Câu hỏi nêu vấn đề cần phải gây mâu thuẫn nhận thức và kích
6


thích tính tò mò, thích tìm tòi, khám phá của học sinh. Tôi luôn chọn những câu hỏi
"mở" tuyệt đối không sử dụng những câu hỏi đóng để nêu vấn đề.
- Tôi cho học sinh quan sát: đá lạnh, muối bột, nước lọc, cốc nước nóng đang bốc
hơi và đặt câu hỏi nêu vấn đề: Theo các em, trong tự nhiên nướn tồn tại ở những
dạng nào? Em biết gì về sự tồn tại của nước?
- HS của thực sự hào hứng ngay từ đầu tiết học. Các em “vào cuộc” một cách thoải
mái, bắt đầu cuộc “khám phá” thú vị.
*Bước 2: Bộc lộ biểu tượng (quan niệm) ban đầu của học sinh.
Trong bước này, tôi khuyến khích Học sinh nêu những suy nghĩ, nhận thức
ban đầu của mình về sự vật hiện tượng mới bằng nhiều cách khác nhau như bằng
cách nói, viết hay vẽ. Tôi tuyệt đối không biểu lộ thái độ không đồng tình với
những biểu tượng (quan niệm) chưa đúng của học sinh. Vì vậy, học sinh trong lớp
tôi không còn e ngại, các em dần mạnh dạn, tự tin khi trình bày những suy nghĩ
của mình. Không khí lớp học thực sự sôi nổi.
Ví dụ: Đối với bài học này, tôi giao nhiệm vụ: Theo các em, trong tự nhiên nước
tồn tại ở những dạng nào? Em biết gì về sự tồn tại của nước? Các em hãy suy nghĩ
và đưa ra ý kiến của mình về vấn đề này, ghi lại ý kiến (có thể ghi chép bằng lời,
bằng hình vẽ).
Ví dụ về một vài suy nghĩ, nhận thức ban đầu của học sinh:

+ Nước tồn tại ở dạng đông đặc.
+ Nước tồn tại ở dạng cứng.
+ Nước tồn tại ở dạng lỏng.
+ Nước tồn tại ở dạng khí.
+ Nước có thể tồn ở dạng hơi.
Thể hiện bằng hình vẽ sơ đồ về sự chuyển thể của nước nước ở thể lỏng, thể
rắn, thể khí.
Khi học sinh bộc lộ được biểu tượng ban đầu về vấn đề tìm hiểu, tôi khéo léo
hướng dẫn học sinh so sánh, phân nhóm biểu tượng ban đầu của học sinh.
Ví dụ: Với bài học trên, từ những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của học sinh như
trên, tôi hướng dẫn để học sinh phân nhóm biểu tượng như sau:
* Nước tồn tại ở thể lỏng.
+ Nước do mưa mà có.
+ Nước ở sông hồ, ao, suối, biển..
+ Không có hình dạng nhất đinh.
+ Có thể chuyển từ dạng lỏng thành dạng hơi.
+ Có thể chuyển từ thể lỏng sang thể khí và ngược lại
* Nước tồn tại ở thể rắn.
+ Nước trong tủ lạnh đông đặc thành đá.
+ Có hình dạng nhất định
+ Nước có thể chuyển từ dạng rắn sang dạng lỏng và ngược lại
* Nước ở thể khí
7


+ Trời nắng nước bốc hơi.
+ Hơi nước nóng.
+ Hơi nước nồi cơm...
+ Không có hình dạng nhất đinh.
(Phân thành 3 nhóm có ý kiến tương tự như nhau.)

* Khi so sánh, phân nhóm biểu tượng ban đầu của học sinh cần lưu ý :
- Phân nhóm biểu tượng ban đầu chỉ mang tính tương đối.
- Không nên đi quá sâu vào chi tiết vì càng chi tiết thì càng mất thời gian và các
biểu tượng ban đầu của học sinh nếu không nhìn nhau để viết (hay vẽ) chắc chắn sẽ
có những chi tiết khác nhau.
- Giáo viên nên gợi ý, định hướng cho học sinh thấy những điểm khác biệt giữa các
ý kiến liên quan đến các kiến thức chuẩn bị học.
- Giáo viên, tùy tình hình thực tế ý kiến phát biểu, nhận xét của học sinh để quyết
định phân nhóm biểu tượng ban đầu.
Đôi khi có những đặc điểm khác biệt rõ rệt nhưng lại không liên quan đến
kiến thức bài học được học sinh nêu ra thi giáo viên nên khéo léo giải thích cho học
sinh ý kiến đó rất thú vị nhưng trong khuôn khổ kiến thức của lớp mà các em đang
học chưa đề cập đến vấn đề đó bằng cách đại loại như: "ý kiến của em A rất thú vị
nhưng trong chương trình học ở lớp 4 của chúng ta chưa đề cập tới. Các em sẽ
được tìm hiểu ở các bậc học cao hơn (hay các lớp sau)". Nói như vậy nhưng giáo
viên cũng nên ghi chú lên bảng để khuyến khích học sinh phát biểu ý kiến và không
quên đánh dấu đây là câu hỏi tạm thời chưa xét đến ở bài học này.
*Bước 3: Đề xuất câu hỏi và phương án thực nghiệm nghiên cứu.
Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu của học sinh, tôi
khéo léo lựa chọn những biểu tượng ban đầu khác biệt trong lớp để giúp học sinh
so sánh, từ đó giúp học sinh đặt câu hỏi liên quan đến nội dung bài học. Theo tôi,
đây là bước khá khó khăn vì giáo viên phải lựa chọn các biểu tượng ban đầu tiêu
biểu trong hàng chục biểu tượng của học sinh một cách nhanh chóng theo mục đích
dạy học, đồng thời linh hoạt điều khiển thảo luận của học sinh nhằm giúp học sinh
đề xuất câu hỏi từ những khác biệt đó theo ý đồ dạy học. Thực tế cho thấy, các biểu
tượng ban đầu càng khác nhau thì học sinh càng bị kích thích ham muốn tìm tòi
kiến thức.
Ví dụ: Ở bài học trên, học sinh có đặt ra nhiều câu hỏi thắc mắc khác nhau như:
+ Khi nào nước có hình dạng khói?
+ Vì sao nước đông thành cục ?

+ Nước có tồn tại ở dạng bong bóng không?
+ Vì sao nước lạnh lại bốc hơi ?
+ Tại sao nước khi sôi lại bốc khói ?
+ Vì sao nước chỉ tồn tại ở 3 thể ?
+vì sao nước đá khi gặp nóng thì tan chảy ?
+....
8


Những câu hỏi trên là những nghi vấn từ những điểm khác biệt của các biểu
tượng ban đầu. Từ những câu hỏi đề xuất, tôi tổng hợp và lựa chọn câu hỏi phự hợp
với nội dung tìm hiểu của bài.
Ví dụ: Ở bài học này, tôi có thể tổng hợp các câu hỏi:
+ Nước tồn tại ở những thể nào ?
Sau đó tôi đề nghị các em đề xuất phương án tìm tòi, nghiên cứu bằng cách
đặt câu hỏi như:
- Theo các em, làm thế nào để chúng ta tìm được câu trả lời cho câu hỏi nói trên ?
- Bây giờ, các em hãy suy nghĩ để tìm phương án giải quyết các băn khoăn, thắc
mắc mà lớp minh đặt ra ? ...
Ở bước này, học sinh có thể đưa ra nhiều phương án thực nghiệm khác nhau,
có những phương án học sinh đề xuất phức tạp và không thể thực hiện được hoặc
có những đề xuất rất “ngây thơ” song tôi luôn bình tĩnh, khéo léo lựa chọn phương
án thích hợp nhất để giải quyết vấn đề. Tuyệt đối tránh nhận xét tiêu cực hoặc có
thái độ nóng nảy khiến các em ngại phát biểu. Với học sinh nêu ý đúng nhưng ngôn
từ chưa chuẩn xác hoặc diễn đạt chưa rõ, tụi giúp các em dần hoàn thiện diễn đạt.
Đây chính là cách rèn luyện ngôn ngữ cho các em.
Ví dụ 1: Ở bài học trên, tôi thấy lựa chọn phương pháp trực quan, đọc tìm hiểu tài
liệu là thích hợp nhất. Vì những kiến thức của bài học rất gần gũi, thực tế với đời
sống hàng ngày của các em.
Ví dụ 2: Bài “Nước có những tính chất gì?” - Khoa học lớp 4

Để biết nước có hình dạng nhất định hay không, học sinh đưa các phương án
như xem thông tin trong SGK; thực hành với các chai, lọ, với các hình dạng, kích
thước khác nhau. Tôi giúp các em lựa chọn phương án: Thực hành với các chai lọ,
cốc, với các hình dạng, kích thước khác nhau.
*Bước 4: Tiến hành thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu.
Những phương án thực nghiệm tìm tòi và nghiên cứu mà HS nêu ra, tôi khéo
léo nhận xét và lựa chọn dụng cụ thí nghiệm hay các thiết bị dạy học thích hợp để
HS tiến hành nghiên cứu. Tôi luôn ưu tiên lựa chọn phương án thực hiện thí
nghiệm trực tiếp trên vật thật. Nếu không thí nghiệm trên vật thật có thể làm trên
mô hình hoặc cho HS quan sát tranh.
Sự khác biệt của môn Khoa học so với các môn học khác là tìm ṭòi, nghiên
cứu để có được kiến thức dựa trên cơ sở khoa học. Trong đó phương án làm thí
nghiệm là chủ yếu. Tiến hành làm thí nghiệm phải đảm bảo an toàn và thành công.
Vì vậy, khi tiến hành thực hiện thí nghiệm, giáo viên nêu rõ yêu cầu và mục đích
thí nghiệm hoặc yêu cầu học sinh cho biết mục đích thí nghiệm chuẩn bị tiến hành
để làm gì ? Lúc này giáo viên mới hướng dẫn học sinh lựa chọn các dụng cụ và vật
liệu thí nghiệm tương ứng với hoạt động. Sở dĩ như vậy là vì, nếu để các vật dụng
thí nghiệm sẵn trên bàn, học sinh sẽ nghịch các đồ vật mà không chú ý đến các đồ
vật kháá́c trong lớp; hoặc học sinh tự ý thực hiện thí nghiệm trước khi thực hiện lệnh
của giáo viên ban ra; hoặc học sinh sẽ dựa vào đó để đoán các thí nghiệm cần phải
9


làm (trường hợp này mặc dù học sinh có thể đề xuất thí nghiệm đúng nhưng ý đồ
dạy học của giáo viên không đạt). Không quên nhắc nhở học sinh đảm bảo an toàn
khi tiến hành thí nghiệm. Bên cạnh đó, tôi hướng dẫn các em có thói quen ghi lại
kết quả thí nghiệm vào vở thực hành. Phần ghi chép này tôi để học học sinh chép tự
do, không gò bó, khuôn mẫu máy móc, nhất là đối với những lớp mới làm quen với
phương pháp Bàn tay nặn bột.
Trong thời gian học sinh làm thí nghiệm, giáo viên bao quát lớp, quan sát

từng nhóm. Nếu thấy nhóm hoặc học sinh nào làm sai theo yêu cầu thì giáo viên chỉ
nhắc nhỏ trong nhóm đó hoặc với riêng học sinh đó, không nên thông báo lớn tiếng
chung cho cả lớp vì làm như vậy sẽ phân tán tư tưởng và ảnh hưởng đến công việc
của các nhóm học sinh khác. Học sinh hoặc nhóm bị nhắc cảm thấy xấu hổ, mất tự
tin.
Yêu cầu học sinh thực hiện độc lập các thí nghiệm trong trường hợp các thí
nghiệm được thực hiện theo từng cá nhân. Nếu thực hiện theo nhóm thì cũng yêu
cầu tương tự như vậy. Thực hiện độc lập theo cá nhân hay nhóm để tránh việc học
sinh nhìn và làm theo cách của nhau, thụ động trong suy nghĩ và cũng tiện lợi cho
giáo viên phát hiện các nhóm hay các cá nhân xuất sắc trong thực hiện thí nghiệm
nghiên cứu, đặc biệt là các thí nghiệm được thực hiện với các dụng cụ, vật liệu thí
nghiệm giống nhau nhưng nếu bố trí thí nghiệm không hợp lý sẽ không thu được
kết quả.
Ví dụ: Bài “ Không khí gồm những thành phần nào”- Khoa học lớp 4.
Để chứng minh Không khí gồm có 2 thành phần chính khí ô- xi duy trì sự
cháy và khí ni-tơ không duy trì sự cháy. Học sinh sẽ tiến hành làm thí nghiệm như
sau: Đốt cháy một cây nến gắn vào một đĩa thủy tinh rồi rót nước vào đĩa lấy một lọ
thủy tinh úp lên cây nến đang cháy.
HS làm thí nghiệm,
quan sát hiện tượng
xảy ra, nghiên cứu
thêm tài liệu (mục bạn
cần biết SGK/66) để
tìm kết quả, sau đó
ghi vào cột kết quả
trên phiếu.

Kết quả thu được là: cây nến sẽ cháy nhỏ dần và tắt. Thí nghiệm trên cho
thấy, nến cháy đã lấy đi toàn bộ khí cần cho sự cháy có chứa trong lọ. Khí còn lại
trong lọ là khí không duy trì sự cháy.

10


Thí nghiệm trên sẽ không thành công nếu học sinh không rót nước vào đĩa và
lấy một lọ thủy tinh úp lên cây nến đang cháy vì khí ô xi vẫn còn và nó vẫn duy trì
được sự cháy. Như vậy, nếu bố trí thí nghiệm không hợp lý sẽ không thu được kết
quả.
*Bước 5: Kết luận và hợp thức hóa kiến thức.
Ở bước cuối cùng này, tôi kết luận và hệ thống lại kiến thức của bài. Trước
khi kết luận, tôi yêu cầu một vài học sinh nêu lại kết luận sau khi thực nghiệm. Tùy
từng bài, tôi khắc sâu kiến thức cho học sinh bằng cách cho học sinh nhìn lại, đối
chiếu lại với những ý kiến ban đầu. Như vậy, tự học sinh sẽ phát hiện mình sai hay
đúng để tự điều chỉnh kiến thức một cách chủ động. Đó cũng là cách giúp học sinh
nhớ lâu và khắc sâu kiến thức.
Như vậy, áp dụng phương pháp Bàn tay nặn bột thành công là phụ thuộc
nhiều vào việc thiết kế và thực hiện các bước lên lớp như đã nêu trên. Trong thực
tế, có những bài học hoặc những hoạt động trong bài có kiến thức gần gũi với học
sinh, chúng ta nên vận dụng các phương pháp dạy học linh hoạt, tránh gò ép việc
vận dụng phương pháp Bàn tay nặn bột để tìm hiểu kiến thức đó. Bởi vì với môn
Khoa học lớp 4 không phải bài nào cũng áp dụng được phương pháp BTNB.
Theo tôi, dạy học theo phương pháp bàn tay nặn bột bắt buộc giáo viên phải
năng động, không theo một khuôn mẫu (một giáo án) nhất định nào. Giáo viên
được quyền chủ động thiết kế tiến trình bài dạy của mình phù hợp với từng bài dạy,
lớp học và đối tượng học sinh của lớp. Vì vậy, không nhất thiết bài soạn, tiết dạy
nào cũng phải có đủ cả 5 bước như đã trình bày ở trên.
Giải pháp 4: Lựa chọn và sử dụng thiết bị dạy học hiệu quả trong phương
pháp Bàn tay nặn bột.
Cần phải khẳng định rằng thiết bị dạy học là một phần không thể thiếu của
quá trình dạy học. Đặc biệt là đối với phương pháp Bàn tay nặn bột, trong bước thí
nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, Thiết bị dạy học làm cho tiết học trở nên sinh động và

dễ hiểu. Học sinh được tri giác trực tiếp đối tượng, được tự mình kiểm chứng
những hiện tượng khoa học xảy ra. Thiết bị dạy học giúp nâng cao hứng thú học
tập, nâng cao lòng tin của học sinh vào khoa học.Trong phương pháp Bàn tay nặn
bột, Thiết bị dạy học tôi sử dụng bao gồm cả Thiết bị dạy học truyền thống (bảng
đen, phấn trắng, mô hình, vật thật, tranh ảnh, dụng cụ thí nghiệm,...) và các Thiết bị
dạy học hiện đại (như máy tính, máy chiếu, băng đĩa, …). Việc kết hợp hài hòa
giữa các loại Thiết bị dạy học sẽ tạo được hứng thú, tăng hiệu quả học tập cho học
sinh. Tuy nhiên, chúng ta cần phải sử dụng Thiết bị dạy học phù hợp, đúng lúc,
đúng chỗ để tạo được hiệu quả cao nhất. Chẳng hạn ở bước “Tình huống xuất phát
và câu hỏi nêu vấn đề”, tôi thường sử dụng tranh ảnh hay video khoa học để kích
thích hứng thú nhận thức và khơi dậy những quan niệm ban đầu vốn có của các em
về chủ đề nghiên cứu. Như vậy chuẩn bị đồ dùng dạy học, dự kiến phương án tìm
tòi và thực hiện các thí nghiệm đảm bảo thành công trước khi tổ chức dạy học:
Bước đề xuất thí nghiệm nghiên cứu hay các giải pháp tìm câu trả lời của học sinh
11


cũng là một bước khá phức tạp, đòi hỏi giáo viên phải có kỹ năng sư phạm để điều
khiển tiết học, tránh để học sinh đi quá xa yêu cầu nội dung của bài học. Chính vì
vậy mà giáo viên phải có sự chuẩn bị chu đáo về các vật dụng để làm thí nghiệm,
dự kiến phương án tìm tòi và thực hiện trước các thí nghiệm để đảm bảo tiết dạy
thành công bởi vì có nhiều thí nghiệm phải làm đi làm lại nhiều lần mới cho ra kết
quả. - Đối với ý kiến hay vấn đề đặt ra đơn giản, ít phương án hay thí nghiệm
chứng minh thì giáo viên có thể cho học sinh trả lời trực tiếp phương án mà học
sinh đề xuất.
Ví dụ 1:
Bài “Sơ đồ về vòng tuần hoàn của nước trong tự nhiên” –Khoa học lớp 4.
Ở tình huống xuất phát, tôi mô tả vòng tuần hoàn của nước trong tự nhiên
theo sơ đồ:


Nước trong tự nhiên - bay hơi- hơi nước- ngưng tụ- mây trắng- mây đenmưa. Sau đó, tôi đưa ra câu hỏi: Theo các em, mây được hình thành như thế nào ?
Mưa từ đâu ra ? Đôi khi trong bước “Thực nghiệm tìm tòi, nghiên cứu”, tôi cho các
em sử dụng tranh ảnh khoa học, vật thật, mô hình,… để giúp học sinh tìm ra được
đặc điểm, tính chất của đối tượng cần nghiên cứu.
Ví dụ 2: Bài “Nước có những tính chất gì ?” – Khoa học 4
Tôi sử dụng vật thật là nước (nước sạch ở thể lỏng) và nước cam (để học
sinh quan sát, so sánh với nước) rồi hướng dẫn các em quan sát bằng nhiều giác
quan như thị giác, khướu giác, vị giác để từ đó rút ra tính chất: nước trong suốt,
không màu, không mùi, không vị.
Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy: việc sử dụng Thiết bị dạy học trong
phương pháp Bàn tay nặn bột có những yêu cầu khác xa so với các phương pháp
dạy học khác. Trong các phương pháp dạy học thông thường, việc sử dụng tranh
ảnh, bảng biểu, mô hình, vật thật,…nhiều khi chỉ mang tính minh họa, kiểm chứng
kiến thức giáo viên đưa ra. Còn đối với phương pháp Bàn tay nặn bột, tôi chỉ đưa
12


cho học sinh tìm hiểu tranh vẽ khoa học, mô hình, vật thật,…khi học sinh đã đề
xuất được các phương án tìm tòi, nghiên cứu.
Khi khai thác tranh ảnh khoa học, vật thật,…trong phương pháp Bàn tay nặn
bột, tôi lưu ý sử dụng chúng trong bước “Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn
đề” sao cho không lộ ra kiến thức của bài học cũng như các thí nghiệm của các
bước tiếp theo vì điều đó sẽ làm mất đi tính đặc trưng của phương pháp Bàn tay
nặn bột.
Với các bài có sử dụng thí nghiệm trực tiếp, trước khi lên lớp, tôi chủ động
làm thử các thí nghiệm với các thiết bị có sẵn để không lúng túng trong quá trình
thực hiện trên lớp, đồng thời chủ động kiểm tra kết quả thí nghiệm xem có đảm bảo
yêu cầu đề ra không. Sau khi đó kiểm soát được sự an toàn và thành công của các
thí nghiệm, khi lên lớp, tôi mới cho học sinh thực hành thí nghiệm đó trên cơ sở
học sinh đề xuất phương án thí nghiệm.

Việc chủ động làm thử các thí nghiệm với các thiết bị có sẵn còn giúp tôi lựa
chọn, chuẩn bị vật liệu để học sinh làm thí nghiệm sao cho hợp lí và hiệu quả nhất.
Ví dụ: Bài “ Vật dẫn nhiệt và vật cách nhiệt” - Khoa học lớp 4.
Trước khi lên lớp, tôi làm thử thí nghiệm: Dùng một li thuỷ tinh, đổ nước sôi
vào rồ thả vào li nước đó 2 cái muỗng. Một cái bằng nhựa, một cái bằng kim loại.
Để một lúc, ta sẽ nhận thấy cái muỗng bằng kim loại nóng hơn so với cái muỗng
nhựa. Điều đó dẫn đến kết luận: Vật dẫn nhiệt là kim loại; Vật cách nhiệt là nhựa.
Trường hợp này, nếu lựa chọn vật liệu là những cái muỗng bằng kim loại loại dày
thì thời gian để cái muỗng nóng sẽ lâu hơn nếu là một cái muỗng bằng kim loại
loại mỏng. Mà học sinh Tiểu học thì các em hiếu động, thích tìm ṭòi, khám phá
ngay nên các em ít khi chờ đợi lâu. Điều này dẫn đến, khi dùng tay sờ vào cán của
2 cái muỗng, các em không nhận thấy cái nào nóng hơn, các em khó đưa ra được
kết luận kim loại hay nhựa là vật dẫn nhiệt. Chính vì vậy, tôi lựa chọn những cái
muỗng kim loại loại mỏng cho các em làm thí nghiệm.
Có thể khẳng định rằng: Thiết bị dạy học góp phần không nhỏ trong việc
giúp học sinh khám phá tìm tòi kiến thức mới. Thiết bị dạy học cũng giúp học sinh
phát triển năng lực nhận thức, đặc biệt là khả năng quan sát và tư duy tốt. Từ đó
giúp học sinh hiểu sâu và nhớ lâu kiến thức khoa học.
Giải pháp 5: Coi trọng kỹ thuật dạy học và rèn kỹ năng cho học sinh
trong phương pháp Bàn tay nặn bột.
5.1- Quan tâm đến khâu tổ chức lớp học.
Đây là một trong các điều kiện giúp cho việc áp dụng phương pháp Bàn tay
nặn bột có thành công hay không. Để thuận tiện cho việc tổ chức thảo luận nhóm,
hoạt động nhóm, tôi đã chủ động sắp xếp lại bàn ghế trong lớp học theo số lượng
học sinh một cách hài hòa, đặc biệt chú ý đến hướng ngồi của của học sinh sao cho
tất cả học sinh đều nhìn rõ thông tin trên bảng. Chú ý đến vị trí ngồi của học sinh bị
cận thị, loạn thị, khoảng cách giữa các nhóm không quá chật đảm bảo học sinh di
chuyển dễ dàng,…
13



Tôi quan tâm đến không khí làm việc trong lớp học. Để lớp học có bầu
không khí học tập sôi nổi, tôi khuyến khích các em bày tỏ ý kiến dựa trên mối quan
hệ bình đẳng, tôn trọng và đối xử công bằng. Tránh khen ngợi quá mức một vài học
sinh nào đó hoặc để một vài em học tốt làm thay công việc của cả nhóm. Tôi luôn
bao quát lớp, khuyến khích tất cả các em phát biểu ý kiến, động viên kịp thời các
em có ý tưởng tốt nhưng rụt rè không dám trình bày.
Sau một thời gian ngắn, lớp học do tôi giảng dạy đã có được một không khí
làm việc tốt. Các em thực sự thoải mái trong giờ học, việc học không còn là áp lực
đối với các em. Các em đều có thể trực tiếp được tham gia các hoạt động trong giờ
học môn Khoa học như: thực hiện thí nghiệm, suy nghĩ, thảo luận, trình bày. Hơn
thế nữa, các em được thoải mái bày tỏ, bộc lộ những suy nghĩ (bằng lời nói, viết,
vẽ,… ), những ý tưởng, quan niệm ban đầu của mình mà không “sợ” đúng, sai.
Điều đó là một trong những thành công của tôi khi áp dụng phương pháp Bàn tay
nặn bột.
5.2- Giáo viên cần tổ chức tốt hoạt động thảo luận nhóm cho học sinh.
Với tôi, thảo luận nhóm của học sinh được thực hiện ở nhiều thời điểm trong
dạy học bằng phương pháp Bàn tay nặn bột. Có thể thảo luận để đề xuất câu hỏi, đề
xuất phương án thí nghiệm hay có thể để rút ra kết luận sau một thí nghiệm hay rút
ra kiến thức cho bài học.
Khi áp dụng hoạt động thảo luận nhóm trong phương pháp Bàn tay nặn bột,
tôi luôn chú ý một số nội dung sau:
- Thực hiện tốt công tác tổ chức nhóm và hoạt động nhóm cho học sinh.
- Hình thành cho học sinh thói quen học tập theo nhóm.
- Các em tự điều hành trong nhóm.
- Biết chia sẻ với bạn, biết đánh giá dự kiến của bạn, biết thống nhất và đi đến kết
luận.
- Tự tin, tŕnh bày ý kiến cá nhân cũng như thống nhất ý kiến của cả nhóm rõ ràng.
- Nhóm trưởng có năng lực điều hành nhóm tốt, có uy tín với các bạn trong nhóm.
- Chỉ rõ nội dung thảo luận; mục đích thảo luận.

- Lệnh yêu cầu của giáo viên cần rõ ràng, chi tiết để học sinh hiểu rõ và thực hiện
đúng yêu cầu.
- Tạo không khí lớp học sôi nổi nhưng tránh lộn xộn, quá ồn ào ảnh hưởng nhóm
học khác
- Bao quát lớp, động viên, khuyến khích tất cả học sinh tham gia thảo luận và chủ
động trình bày ý kiến trước nhóm.
- Không chê bai hoặc nhận xét tiêu cực về ý kiến của cá nhân, của nhóm để học
sinh mạnh dạn bày tỏ ý kiến cá nhân, ý kiến của nhóm trước lớp.
- Khi học sinh bế tắc trong thảo luận, có thể sử dụng các câu hỏi gợi ý hoặc những
câu khẳng định mang tính chất dẫn dắt để học sinh chú ý đến dữ liệu, thông tin, …
liên quan đến việc tìm ra câu trả lời như : “Chúng ta hãy nhìn vào số liệu này….”;
“Các em để ý ở ….”; “Các em hãy thử …”, …
14


Khi học sinh thảo luận nhóm, tôi chủ động di chuyển đến các nhóm, quan
sát, bao quát lớp, phát hiện các nhóm thực hiện lệnh thảo luận sai để điều chỉnh kịp
thời. Đồng thời nắm bắt được các ý kiến thảo luận của các nhóm để lựa chọn nhóm
có ý kiến thiếu chính xác nhất trình bày trước, sau đó lần lượt đến các nhóm khác
và cuối cùng thường là nhóm có ý kiến tốt nhất.
5.3- Coi việc “đặt câu hỏi” khi áp dụng phương pháp Bàn tay nặn bột như một
“nghệ thuật”.
Tôi luôn xác định: Trong dạy học môn Khoa học lớp 4 theo phương pháp
Bàn tay nặn bột, câu hỏi của giáo viên đóng một vai trò quan trọng trong sự thành
công của phương pháp. Câu hỏi “tốt” có thể giúp học sinh xác định rõ phần trả lời
của mình và làm cho tiến trình dạy học theo đúng hướng. Một câu hỏi "tốt" là một
câu hỏi kích thích sự tìm tòi và khám phá của học sinh. Đó là câu hỏi “mở” vì nó
kích thích một “hành động mở”. Nên hạn chế dùng những câu hỏi “đóng”.
Ví dụ: Câu hỏi “mở”:
- Theo các em, không khí gồm những thành phần nào?

- Lớp bao quanh trái đất gọi là gì ?
- Theo các em, vì sao có hiện tượng ngày và đêm trên Trái đất?
Câu hỏi “đóng”:
- Có phải khí ô- xi duy trì sự cháy không?
- Có phải nước tồn tại ở ba thể: rắn, lỏng và khí ?
Trong dạy học môn Khoa học áp dụng phương pháp Bàn tay nặn bột, tôi lưu
ý đến hai dạng câu hỏi. Đó là câu hỏi nêu vấn đề và câu hỏi gợi ý. Đối với câu hỏi
nêu vấn đề, đây là câu hỏi nhằm mục đích làm bộc lộ quan niệm ban đầu của học
sinh. Vì vậy, tôi thật sự thận trọng trong việc lựa chọn câu hỏi nêu vấn đề vì chất
lượng câu hỏi sẽ ảnh hưởng rất lớn đến ý đồ dạy học ở các bước tiếp theo, nó quyết
định đến sự thành công của bài học. Còn câu hỏi gợi ý là những câu hỏi tôi thường
đặt ra trong quá trình làm việc của học sinh. Câu hỏi gợi ý có thể là câu hỏi “ít mở”
hoặc có thể là câu hỏi “đóng”. Đó là những câu hỏi nhằm gợi ý hoặc định hướng
cho HS rõ hơn hoặc kích thích một suy nghĩ mới của HS.
Ví dụ: - Theo em kết quả của thí nghiệm này sẽ như thế nào?
- Thí nghiệm này có gì khác với thí nghiệm trước ?
- Theo ý em đâu là sự khác nhau giữa những sự vật này ? ...
Khi đặt câu hỏi gợi ý, tôi thường dùng các cụm từ như “Theo các em,…”, “Em
nghĩ gi …”, “Theo ý em,…” vì các cụm từ này cho thấy giáo viên không yêu cầu
học sinh đưa ra một câu trả lời chính xác mà chỉ yêu cầu học sinh giải thích ý kiến,
đưa ra nhận định của các em mà thôi.
Qua thực tế giảng dạy, để có được những câu hỏi “tốt”, đặc biệt là những câu
hỏi nêu vấn đề, tôi đã rất thận trọng, chuẩn bị kỹ những câu hỏi có thể đề xuất cho
học sinh. Tôi đã thảo luận, trao đổi cùng giáo viên khác hoặc đồng nghiệp khác
trường nhưng dạy cùng khối lớp để tham khảo cách đặt câu hỏi. Làm như vậy sẽ tốt
hơn việc tự mình đặt câu hỏi vì có thể do chủ quan mà tôi chưa đánh giá đúng chất
15


lượng câu hỏi mình đặt ra. Khi có sự góp ý của đồng nghiệp, tôi sẽ tham khảo và

điều chỉnh câu hỏi cho phù hợp và hay hơn. Cứ như vậy, tôi dần rút ra cho mình
kinh nghiệm trong việc đặt câu hỏi. Nhờ vậy mà những tiết dạy môn Khoa học có
áp dụng phương pháp BTNB của tôi trở nên sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn học sinh
và đạt hiệu quả như mong muốn.
+ Một số lưu ý khi đặt câu hỏi cho học sinh:
- Tuyệt đối không được gọi tên học sinh sau đó mới đặt câu hỏi.
- Khi nêu câu hỏi, giáo viên cần nói to, rõ.
- Câu hỏi không nên quá dài vì như vậy học sinh sẽ không thể nắm bắt yêu cầu của
câu hỏi.
- Đối với các câu hỏi gợi ý, giáo viên nên đặt câu hỏi ngắn, yêu cầu trong một
phạm vi hẹp mà mình muốn gợi ý cho học sinh. Nếu là những câu hỏi gợi ý cho
một nhóm khi các học sinh đang thảo luận thì chỉ nên hỏi với một âm lượng vừa
đủ cho nhóm này nghe để tránh phân tán suy nghĩ của các nhóm khác không liên
quan.
- Trong khi điều khiển tiết học, nếu giáo viên đặt câu hỏi mà học sinh không hiểu,
hiểu sai ý hoặc câu hỏi dẫn đến nhiều cách nghĩ khác nhau, giáo viên nhất thiết phải
đặt lại câu hỏi cho phù hợp. Tuyệt đối không được cố chấp tiến tới vì làm như vậy
sẽ phá vỡ hoàn toàn ý đồ dạy học ở các bước tiếp theo.
Giải pháp 6: Rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh thông qua dạy học theo
phương pháp Bàn tay nặn bột.
Bên cạnh hoạt động khám phá kiến thức, học sinh cần được rèn ngôn ngữ nói
và viết. Đây chính là đặc điểm quan trọng của phương pháp Bàn tay nặn bột và
cũng là nhiệm vụ quan trọng trong dạy học ở bậc tiểu học khi mà học sinh đang
trong quá trình phát triển ngôn ngữ.
Thông qua học môn Khoa học với phương pháp Bàn tay nặn bột, học sinh
được rèn luyện ngôn ngữ nói và viết. Để tổ chức trong lớp học một sự giao tiếp
bằng lời bổ ích, tôi luôn tạo điều kiện thuận lợi cho các cuộc trao đổi và những
cuộc tiếp xúc tập thể mà ở đó học sinh có thể thảo luận với nhau dễ dàng. Các em
được diễn đạt các ý kiến hay quan niệm của mình, từ đặt câu hỏi đề xuất băn
khoăn, thắc mắc; dùng lời nói miêu tả lại các quan sát của mình; trao đổi thông tin

cùng các bạn trong nhóm, lớp; tranh luận để bảo vệ các ý kiến của mình. Bên cạnh
đó, ngôn ngữ viết cũng được chú trọng. Học sinh diễn đạt lại suy nghĩ của mình
thông qua ngôn ngữ viết. Khi sử dụng ngôn ngữ này, các em có thể viết cho bản
thân mình nhằm định hướng hành động, ghi nhớ và khắc sâu kiến thức. Các em có
thể viết cho người khác nhằm mục đích truyền đạt, giải thích, đặt câu hỏi và tổng
hợp ý kiến.
Thực tế chứng minh, trong lớp tôi dạy đầu năm có một số em có khó khăn về
ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, qua các tiết học có áp dụng phương pháp Bàn tay
nặn bột, được sự khuyến khích của cô, các em đó phát biểu và tự ghi lại ý kiến của
mình một cách tự giác hơn, mạnh dạn hơn, việc sử dụng từ ngữ cũng từ đó mà chắt
16


lọc và chính xác hơn. Cuối năm học, khả năng sử dụng ngôn ngữ nói và viết của
các em tiến bộ rõ rệt. Điều đó ảnh hưởng rất tích cực đến việc tiếp thu kiến thức
môn Khoa học nói riêng và các môn học khác nói chung.
* Hướng dẫn học sinh có thói quen sử dụng vở thực hành.
Lý thuyết và thực tế dạy học đó chứng minh vở thực hành là một đặc trưng
quan trọng trong phương pháp Bàn tay nặn bột. Vì vậy, tôi luôn quan tâm đến việc
sử dụng vở thực hành của học sinh trong lớp. Thông qua việc ghi chép trong vở
thực hành, tôi giúp các em được rèn ngôn ngữ viết, đồng thời thông qua đó các em
được tập làm quen với công tác nghiên cứu khoa học. Vở thực hành không phải là
vở nháp, cũng không phải vở ghi chép thông thường, càng không phải là quyển vở
giáo viên dùng để sửa lỗi của học sinh mà nhằm mục đích chính là để học sinh tự
do diễn đạt suy nghĩ, ý kiến của mình thông qua ngôn ngữ viết. Vở thực hành của
học sinh được học sinh lưu giữ. Tôi luôn coi đó là như là một phần biểu hiện sự
tiếp thu kiến thức, thái độ học tập và làm việc của học sinh. Thông qua vở thực
hành, tôi có thể nhận xét và đánh giá quá trình tiến bộ của học sinh trong học tập.
Qua vở thực hành, phụ huynh cũng có thể đánh giá được tình hình học tập của con
em mình.

Đối với vở thực hành của học sinh, tôi luôn tôn trọng cái “tôi” của các em.
Nếu kết luận của bài học khác với những biểu tượng, quan niệm ban đầu của học
sinh, tôi hướng dẫn các em tự nhận thấy, tự ghi chép lại bằng bút khác màu kiến
thức đúng chứ không sửa lỗi trong vở của các em. Việc không sửa lỗi trong vở thực
hành của học sinh giúp các em tự tin hơn, mạnh dạn hơn trong giao tiếp, trong việc
bày tỏ ý kiến cá nhân mà không sợ bị chê bai, đánh giá.
Tuy nhiên, tôi luôn nhắc nhở các em giữ gìn vở thực hành cẩn thận như các
loại vở ghi chép khác. Đối với học sinh trong lớp, tôi yêu cầu các em chuẩn bị vở
thực hành là loại vở có kẻ ô li. Điều đó giúp các em dễ dàng hơn trong việc ghi
chép, vẽ hình hay kẻ bảng. Bên cạnh đó, tôi có một số các lưu ý sau:
+ Cần sử dụng ít nhất hai màu mực để ghi chép. (một màu mực dùng để ghi
chép ý kiến cá nhân và thảo luận nhóm, một màu mực dựng để ghi chộp kiến thức
của bài sau khi thảo luận cả lớp).
+ Nên sử dụng bút chì khi vẽ hình để dễ tẩy xóa, sửa chữa khi cần thiết.
+ Tạo thói quen ghi chép ngày, tháng vào đầu trang vở khi bắt đầu tiết học.
Tuy nhiên, vở thực hành chỉ hữu ích thực sự đối với học sinh khi các em sử
dụng thuần thục việc ghi chép trong các hoạt động học tập của mình. Từ thực tế
dạy học, tôi nhận thấy để tạo được thói quen sử dụng vở thực hành để ghi chép của
học sinh không thể thực hiện một sớm một chiều được mà cần phải có thời gian
nhất định. Nó đòi hỏi ở người thầy dạy sự kiên nhẫn, khéo léo và linh hoạt trong
giảng dạy.
Nói tóm lại, việc sử dụng vở thực hành đối với học sinh trong dạy học theo
phương pháp Bàn tay nặn bột là một vấn đề không dễ. Theo tôi, tùy theo đối tượng
học sinh mà giáo viên nên quyết định hình thức làm việc với vở thực hành cho học
17


sinh để đạt được mục đích sư phạm của phương pháp và hiệu quả dạy học của
mình.
4. Hiệu quả của sáng kiến

Qua việc áp dụng phương pháp Bàn tay nặn bột vào thực hiện giảng dạy môn
Khoa học lớp 4 trong học kỳ II năm học 2015-2016 và năm học 2016-2017 với các
biện pháp như đã trình bày ở trên, tôi đã thu được những kết quả như sau:
- Chất lượng dạy - học môn Khoa học đạt kết quả rõ rệt.
- Giáo viên đã tích cực học tập bồi dưỡng, vững vàng hơn về chuyên môn,
nắm chắc quy trình, áp dụng phương pháp Bàn tay nặn bột vào thực hiện giảng dạy
môn Khoa học lớp 4.
- Học sinh tự giác trong học tập, biết cách tự học, tìm tòi nghiên cứu, chủ
động chiếm lĩnh kiến thức.
- Trong các tiết học có sử dụng phương pháp Bàn tay nặn bột, các em hoạt
động tích cực khám phá kiến thức đầy say mê và sáng tạo hệt như những “Nhà
khoa học” nhí. Phương pháp này giúp cho học sinh khả năng phát triển tư duy
lôgic, trí tưởng tượng, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo thực hành và vốn ngôn ngữ khoa
học, kèm theo sự vững vàng trong lập luận. Không khí lớp học sôi nổi, đa số học
sinh yêu thích học môn Khoa học, say mê tìm tòi, khám phá tự nhiên, tiếp cận thế
giới xung quanh mình. Bước đầu các em đã biết vận dụng những điều đã học áp
dụng vào trong cuộc sống hàng ngày.
- Bên cạnh đó, nhờ thường xuyên được học tập theo phương pháp mới, được
chủ động trao đổi ý kiến cùng bạn bè, cùng cô giáo nên nhiều em học sinh đã trở
nên mạnh dạn, tự tin hơn trong học tập. Các em có khả năng sử dụng ngôn ngữ nói
và viết tốt hơn. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến việc học tập các môn học khác trong
nhà trường.
Phương pháp Bàn tay nặn bột là một trong những phương pháp dạy học tiên
tiến. Phương pháp này giúp học sinh tự phát hiện được vấn đề. Điều đó có nghĩa là
nhu cầu học sẽ xuất phát từ do chính các em. Các em có thể sáng tạo trong hiện tại
và trong tương lai. Phương pháp này phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý và đặc điểm
nhận thức của học sinh Tiểu học.
Kết quả cụ thể cuối năm học 2015-2016 và kết quả cuối học kì I năm học
2016-2017 đạt được như sau:
Năm học Lớp Sĩ số

Điểm
Điểm
9

10
Điểm
7
8
Điểm
5
6
dạy
dưới 5
2015-2016
2016-2017
(Kì 1)

4C
4B

SL

TL

SL

TL

SL


TL

SL

TL

32

9

28.0

10

31.0

13

41.0

0

0

32

16

50.0


12

37.0

4

12.5

0

0

Nhìn vào kết quả học tập của lớp 4C cuối năm học 2015-2016 và lớp 4B cuối
học kì I, cuối kì II năm học 2016-2017 cho thấy chất lượng môn Khoa học được
nâng lên rõ rệt. So với kết quả học kì I, năm học 2015-2016, lớp 4C có số học sinh
18


điểm dưới 5 còn 6 em chiếm tỷ lệ 18,8%, số học sinh điểm 9 -10 chỉ có 5 em đạt tỷ
lệ 15,6%. Cuối năm học 2015-2016 lớp 4C có 100% đạt điểm 5 trở lên trong đó số
học sinh đạt điểm 9-10 là 9 em tỷ lệ 28% và năm học 2016-2017, tôi tiếp tục áp
dụng các biện pháp nêu trên vào giảng dạy môn Khoa học lớp 4B, kết quả của học
kỳ I của lớp 4B có 32/32 đạt điểm 5 trở lên trong đó học sinh đạt điểm 9-10 là 16
em đạt tỷ lệ 50%. Với kết quả đạt được, ta nhận thấy chất lượng môn Khoa học đã
tăng lên rõ rệt.
Qua kết quả trên cho thấy, việc sử dụng các biện pháp đã nêu đem lại kết quả
đáng kể trong giảng dạy môn Khoa học. Tôi tin tưởng rằng, với biện pháp nêu trên
sẽ cho hiệu quả giảng dạy môn Khoa học ngày một nâng cao và có thể áp dụng
rộng rãi trong việc dạy học môn Khoa học ở lớp 4, 5.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

1. Kết luận
Qua việc nhận thức, vận dụng và sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột”
trong dạy học môn Khoa học lớp 4" để đạt hiệu quả cao người giáo viên cần:
- Tham gia đầy đủ các chuyên đề do Nhà trường, Phòng Giáo dục tổ chức.
- Đảm bảo dạy đúng thời khoá biểu, không cắt xén chương trình, không bớt
xén thời gian.
- Bản thân luôn tự bồi dưỡng kiến thức, Nâng cao nhận thức, năng lực
chuyên môn của bản thân thông qua nghiên cứu tài liệu để truyền tải nội dung bài
tới học sinh một cách dễ hiểu, dễ nhớ, nhẹ nhàng mà sâu sắc.
- Luôn nhận thức đúng đắn về môn học, kiên trì chịu khó đầu tư trí tuệ, tìm
tòi học hỏi, nhiệt tình tâm huyết với nghề, với trẻ để đem lại kết quả cao.
- Nâng cao nhận thức của bản thân trong việc đổi mới phương pháp dạy học,
đặc biệt là vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học môn Khoa học
lớp 4 thông qua nghiên cứu tài liệu.
- Thiết kế và thực hiện có hiệu quả tiến trình tiết dạy môn Khoa học có áp
dụng phương pháp BTNB.
- Lựa chọn và sử dụng thiết bị dạy học hiệu quả trong phương pháp Bàn tay
nặn bột.
- Coi trọng kỹ thuật dạy học và rèn kỹ năng cho học sinh trong phương pháp
Bàn tay nặn bột.
- Rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh thông qua dạy học theo phương pháp Bàn
tay nặn bột.
2. Kiến nghị
Từ thực tế công tác giảng dạy, tôi xin đưa ra kiến nghị, đề xuất như sau:
+ Đối với Nhà trường: Nhà trường tăng cường cơ sở vật chất, đồ dùng dạy
học cho môn Khoa học, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đổi mới phương pháp dạy
học, giúp đỡ giáo viên và học sinh khi áp dụng phương pháp BTNB.

19



- Chỉ đạo các tổ chuyên môn, trao đổi về kinh nghiệm giảng dạy các môn
học, các phương pháp dạy học trong đó có phương pháp Bàn tay nặn bột.
+ Đối với tổ chuyên môn:
- Tăng cường thao giảng, dự giờ về phương pháp Bàn tay nặn bột để rút kinh
nghiệm, góp ý của đồng nghiệp, hoàn thiện bài dạy ngày một đạt kết quả cao hơn
- Chỉ đạo giáo viên trong tổ thực hiện và vận dụng có hiệu quả phương pháp
Bàn tay nặn bột trong giảng dạy.
Trên đây là những kinh nghiệm của bản thân tôi đã trải nghiệm và đúc rút
trong quá trình giảng dạy. Bước đầu đã có những chuyển biến và hiệu quả thiết
thực. Hi vọng những kinh nghiệm này sẽ góp phần nhỏ bé vào việc nâng cao hiệu
quả sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học môn Khoa học lớp 4
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu nhưng đề tài không tránh
khỏi những khiếm khuyết. Tôi kính mong được sự chỉ dẫn, góp ý chân thành của
các đồng nghiệp, của Hội đồng Khoa học các cấp để đề tài của tôi được hoàn thiện
hơn!
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Xác nhận
của Thủ trưởng đơn vị

Hậu Lộc, ngày 15 tháng 3 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người thực hiện

Nguyễn Thị
Hồng

20



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương pháp “ Bàn tay nặn bột” trong dạy học các môn Khoa học cấp Tiểu học
và cấp Trung học cơ sở (Tài liệu tập huấn thí điểm – lưu hành nội bộ ) của Bộ giáo
dục và đào tạo.
2. Phương pháp Bàn tay nặn bột trong dạy học môn Tự nhiên xã hội, môn Khoa
học ở trường Tiểu học của Bộ giáo dục và đào tạo.
3. Tài liệu hỏi đáp về phương pháp Bàn tay nặn bột của Bộ giáo dục và đào tạo.
4. Sách giáo khoa môn Khoa học lớp 4 - Nhà xuất bản Giáo dục.
5. Sách giáo viên môn Khoa học lớp 4 - Nhà xuất bản Giáo dục.

21


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SKKN ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI
CẤP PHÒNG GDVÀ ĐT, CẤP SỞ GD VÀ ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN
XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ tên tác giả: Nguyễn Thị Hồng
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên Trường Tiểu học Ngư Lộc 2 – Hậu Lộc
TT

1

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá
xếp loại


Một số biện pháp giúp
HS học tốt phân môn Phòng GD&ĐT
Tập đọc lớp 4

Kết quả
đánh giá
xếp loại
B

Năm học đánh
giá xếp loại
2013- 2014

22


MỤC LỤC
TÊN MỤC

NỘI DUNG

TRANG

I
1
2
3
4
II
1

2
3

Mở đầu
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung
Cơ sở lý luận
Thực trạng trước khi áp dụng sáng kiến
Các giải pháp thực hiện
Giải pháp 1: Nâng cao nhận thức của bản thân trong
việc đổi mới PPDH
Giải pháp 2: Nghiên cứu nội dung chương trình Khoa
học lớp 4, lựa chọn bài dạy và xác định nội dung kiến
thức áp dụng phương pháp Bàn tay nặn bột
Giải pháp 3. Thiết kế và thực hiện tiến trình dạy học
môn Khoa học có áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn
bột”
Giải pháp 4: Lựa chọn và sử dụng thiết bị dạy học hiệu
quả trong phương pháp “Bàn tay nặn bột”
Giải pháp 5: Coi trọng kĩ thuật dạy học và rèn kĩ năng
cho học sinh trong phương pháp “Bàn tay nặn bột”
Giải pháp 6: Rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh thông
qua phương pháp “Bàn tay nặn bột”
Hiệu quả của Sáng kiến kinh nghiệm
Phần kết luận, kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị


1
1
2
2
2
3
3
3
5
5

4
III
1
2

6
6
11
13
16
18
19
19
19

23



Phụ lục
DANH SÁCH NHỮNG BÀI KHOA HỌC LỚP 4
SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP BÀN TAY NẶN BỘT
TT

Môn

Bài

Tiết theo
PPCT

1

Khoa học

Trao đổi chất ở
Tiết 2
người (T1)

2

Khoa học

Trao đổi chất ở
Tiết 3
người (T2)

3


Khoa học

Nước có tính
chất gì?

Tiết 20

4

Khoa học

Ba thể của
nước

Tiết 21

5

Khoa học

Mây được
hình thành như
Tiết 22
thế nào? Mưa
từ đâu ra?

6

Khoa học


Sơ đồ vòng
tuần hoàn của
nước trong TN

Tiết 23

7

Khoa học

Nước bị ô
nhiễm

Tiết 25

8

Khoa học

9

Khoa học

Một số cách
làm
sạch nước
Làm thế nào
để biết có

Tiết 27

Tiết 30

Mức độ sử dụng

Đồ dùng dạy học tối
thiểu cần có

Những thứ con
Sơ đồ sự trao đổi chất
người nhận và
giữa cơ thể người với
thải
ra
môi
môi trường.
trường
Tranh về các cơ quan
tham gia quá trình
Những thứ con trao đổi chất (trang 8người nhận và sgk)
thải
ra
môi Sơ đồ mối liên hệ
trường
giữa các cơ quan
trong quá trình trao
đổi chất
Cốc, thìa, một số dụng
cụ đựng nước có hình
dạng khác nhau, tấm
Cả bài

kính, khăn bông, khay
đựng nước, muối,
đường, cát.
Đá lạnh, muối, nước
lọc, nước sôi, ống
Cả bài
nghiệm, cốc, đĩa,
nhiệt kế
Tranh SGK(Không có
phần ghi chú dưới
tranh), Tranh bầu trời
Cả bài
có mây đen và mưa,
Tài liệu nói về sự hình
thành mây, mưa.
Tranh phóng to trang
48, sơ đồ vòng tuần
HĐ1và HĐ3
hoàn của nước(không
có phần chú thích)
Kính hiển vi, chai
Thế nào là nước
đựng nước, bông,
bị ô nhiễm
phễu
Nước đục, một số chai
HĐ1và HĐ2
nhựa trong, giấy lọc,
cát, than bột.
Cả bài

Túi ni lông,chai rỗng,
miếng bọt biển, chậu
24


không khí?
10
11

12

Khoa học

Khoa học
Khoa học

Không khí có
những tính
chất gì?
Không khí
gồm những TP
nào?
Không khí cần
cho
sự cháy.

Tiết 31

Cả bài


Tiết 32

Cả bài

Tiết 35

Cả bài

Khoa học

Không khí cần
cho
sự sống

14

Khoa học

Tại sao có gió? Tiết 37

15

Khoa học

Âm thanh

Tiết 41

16


Khoa học

Sự lan truyền
âm thanh

Tiết 42

17

Khoa học

Ánh sáng

Tiết 45

18

Khoa học

Bóng tối

Tiết 46

19

Khoa học

Ánh sáng cần
cho
sự sống


Tiết 47

13

20

Khoa học

21

Khoa học

22

Khoa học

23

Khoa học

Nóng lạnh và
nhiệt độ
Vật dẫn nhiệt
và vật cách
nhiệt
Ôn tập: Vật
chất và năng
lượng.
Thực vật cần

gì để sống?

Tiết 36

HĐ4

Cả bài

Tiết 55+56 HĐ2,3
Tiết 57

Lọ thủy tinh, nến,đế
của lọ thủy tinh.

Lọ thủy tinh, một con
dế, hai cây nhỏ trồng
Cả bài
trong chậu, dụng cụ
để bơm không khí vào
bể cá.
Sự chuyển động Chong chóng, hộp đối
của không khí
lưu
ống bơ, thước kẻ,
Cả bài
sỏi,trống, dùi nhỏ.
Trống, dùi nhỏ, bao
Âm thanh truyền bóng, điện thoại, lọ
qua một số chất
thủy tinh đựng nước,

vụn gấy
Đèn bin, tấm bìa, hộp
Cả bài
đen, ni lông, tấm gỗ,
Đèn bin, vỏ hộp bằng
Cả bài
sắt, cốc thủy tinh,
quyển sách.

Tiết 50+51 Cả bài

Tiết 52

đựng nước, quả địa
cầu.
Cốc thủy tinh rỗng,
thìa,bóng bóng có
hình dạng khác nhau,
bơm tiêm, quả bóng.
Lọ thủy tinh, nến, đế
kê lọ, nước vôi trong,
chậu thủy tinh.

Cả bài

Tranh phóng to trang
94,95
Cốc thủy tinh, nước
sôi, nước nguội, nước
đá, nhiệt kế đo nhiệt

độ cơ thể, nhiệt kế đo
nhiệt độ không khí,
chậu đựng nước.
Cốc, thìa, soong, giấy
báo, nhiệt kế, nước
nóng .
Tranh trang 111, cốc
thủy tinh, nước lạnh,
khăn bông.
Các tranh ở trang
114,115
25


×