Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 2 trường tiểu học vạn hòa theo chương trình mô hình VNEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.07 KB, 19 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài:
Với mục tiêu chuyển đổi mơ hình trường học truyền thống sang mơ hình
trường học kiểu mới góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng yêu cầu
của sự phát triển. Năm học 2012-2013 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai thí
điểm mơ hình “Trường Tiểu học kiểu mới” tại 1447 trường trên 63 tỉnh/thành
phố trong cả nước. Điểm nổi bật của mơ hình “Trường Tiểu học kiểu mới” là đổi
mới các hoạt động sư phạm, hệ thống tài liệu, phương pháp học, phương pháp
giáo dục học sinh.
Mơ hình trường học kiểu mới này thay đổi hoàn toàn cách dạy và học
truyền thống: thầy giảng, trò nghe bằng phương pháp dạy học tích cực, trị là
người chủ động tiếp thu lĩnh hội các tri thức, thầy đóng vai trị là người tổ chức,
hướng dẫn. Học sinh được sử dụng tài liệu học tập mượn từ thư viện nhà trường,
được học trong một môi trường học tập thân thiện, hiện đại, có thư viện, máy
móc, đồ dùng học tập.
Theo mơ hình trường học mới (VNEN) chỉ có duy nhất một cuốn sách
HDHTV2 (hướng dẫn học Tiếng Việt 2) dành cho cả giáo viên và học sinh để
thực hiện các hoạt động trên lớp. Do đó sách này là một tài liệu tham khảo có
tác dụng hỗ trợ giáo viên về cách thức tổ chức các hoạt động học môn Tiếng
Việt cho học sinh. Sách HDHTV2 được cấu trúc theo đơn vị bài học mà không
cấu trúc theo tiết học. Nội dung của mỗi Hướng Dẫn Học trong HDHTV2 không
cấu trúc theo phân môn mà cấu trúc theo từng tổ hợp kiến thức, kĩ năng Tiếng
Việt. Bài học trong HDHTV2 gồm 3 Hướng dẫn học (HDH): HDH A, HDH B,
HDH C…
Dạy học đọc có ý nghĩa quan trọng trong chương trình giảng dạy mơn
Tiếng Việt ở bậc tiểu học nói chung và tài liệu Tiếng Việt 2 nói riêng. Tuy nhiên
trong chương trình dự án mơ hình trường học mới Việt Nam môn Tiếng Việt
không ghi rõ phân môn Tập đọc xong trong quá trình dạy học giáo viên phải
giúp học sinh nhận biết được đấy là tiết Tập đọc. Trong chương trình mơn Tiếng
Việt lớp 2, kĩ năng đọc bao gồm các nội dung chính là : Đọc thơng, đọc hiểu,
ứng dụng đọc. Ba nội dung học đọc trên có mối quan hệ bao hàm, nội dung sau


bao hàm nội dung trước, nội dung trước làm tiền đề để học nội dung sau. Học
sinh biết đọc trơn, biết đọc thầm, để hiểu văn bản, học sinh cần đọc thầm hơn là
đọc thành tiếng. Sự vắng âm thanh ở đọc thầm giúp HS tập trung hơn vào việc
hiểu ý nghĩa của bài đọc. Dạy học đọc giúp học sinh nhân rộng kiến thức, hiểu


biết rộng về mọi mặt: như đối nhân xử thế, biểu hiện cảm xúc, giao tiếp… và
học tốt các môn học khác.
Vì vậy, làm thế nào để nâng cao chất lượng đọc cho học sinh nên tôi quyết
định nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp
2A Trường Tiểu học Vạn Hòa – Học theo chương trình dự án mơ hình
trường học mới Việt Nam”.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài:
Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 2 là một việc làm vơ cùng cần thiết cịn
thể hiện ở mục tiêu, u cầu của môn học. Cụ thể là:
a) Phát triển kỹ năng đọc cho học sinh:
- Đọc thành tiếng:
+ Đọc đúng âm, đúng từ, cụm từ.
+ Đọc rõ ràng, trôi chảy, biết ngắt nghỉ hơi hợp lý, bước đầu biết nhấn
giọng ở những từ gợi tả, gợi cảm trong bài, biết đọc các đối thoại.
+ Cường độ đọc vừa phải.
+ Tốc độ đọc vừa phải (không ê a, ngắc ngứ hay đọc liến thoắng, yêu cầu
tối thiểu 50 tiếng/phút).
- Đọc thầm và hiểu nội dung:
+ Biết đọc thầm liên quan đến nội dung từng đoạn hay toàn bài đọc.
b) Trau dồi vốn Tiếng việt, vốn văn học, phát huy tư duy, mở rộng sự
hiểu biết của học sinh về cuộc sống. Cụ thể:
- Làm giàu và tích cực hóa vốn từ, vốn diễn đạt.
- Bồi dưỡng vốn văn học ban đầu, mở rộng vốn hiểu biết về cuộc sống
hình thành một kỹ năng phục vụ cho đời sống và việc học tập của học sinh.

- Phát triển một số thao tác tư duy cơ bản (phân tích, tổng hợp, phán
đốn, so sánh, lựa chọn,..).
c) Bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và tâm hồn lành mạnh, trong sáng,
tình yêu cái đẹp, cái thiện và thái độ ứng xử đúng trong cuộc sống; hứng thú
đọc sách và yêu Tiếng việt.
Vì vậy để thực hiện được những mục tiêu, yêu cầu nêu trên người giáo
viên cần biết vận dụng nó theo tinh thần tích hợp trong các hoạt động lên lớp khi
dạy môn Tiếng việt.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
a. Đối tượng nghiên cứu:- Đối với việc rèn kỹ năng đọc thì đối tượng dạy học
chủ yếu tập trung ở học sinh tiểu học. Vì vậy đối tượng nghiên cứu tập trung ở
học sinh đầu cấp tiểu học - lớp 2 theo mơ hình VNEN.


b. Phạm vi nghiên cứu:Tại lớp 2A, Trường tiểu học Vạn Hịa huyện nơng Cống
tỉnh Thanh Hóa
4. Phương pháp nghiên cứu:
Tôi sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
- Phương pháp luyện tập theo mẫu.
- Phương pháp đàm thoại.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận.
Qua nhiều năm dạy lớp 2, tôi nhận thấy học sinh yếu các môn do đọc
yếu. Để đọc tốt và học tốt tất cả các môn học khác, ngay từ đầu giáo viên phải
hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ các kỹ năng
“đọc”, nhằm hoàn thiện yêu cầu về chất lượng đảm bảo chuẩn mức độ cần đạt
cho học sinh lớp 2. Học sinh không những đọc được nội dung văn bản, mà cũng

phải đọc hay, đọc diễn cảm, đây là mục tiêu mà các thầy cô giáo dạy lớp 2 cần
phải rèn và là đích để đạt tới. Trong thực tế hiện nay, dạy Tiếng Việt ở bậc Tiểu
học nói chung và dạy học đọc ở lớp 2 nói riêng tơi nhận thấy đa số các em đó
đọc to, rõ ràng song cũng còn một số em đọc chưa lưu loát, chưa biết ngắt nghỉ
đúng dấu chấm, dấu phẩy, nhiều em phát âm chưa rõ phụ âm đầu s/x, tr/ch, đặc
biệt là dấu hỏi/ dấu ngã; kỹ thuật đọc đa số các em đọc chưa hiểu được tình cảm
nội dung văn bản, các em chưa biết nhấn giọng ở từ ngữ gợi tả, những từ ngữ
trọng tâm, từ chìa khóa; khi sắm vai, đọc đối thoại các em cũng lúng túng, các
em thiếu tự tin trong việc thể hiện giọng đọc của mình…
Học tập theo mơ hình trường học mới (VNEN), cách “thầy giảng – trò
nghe, thầy đọc – trò chép” thường gặp ở các lớp học truyền thống khơng cịn
xuất hiện, thay vào đó giáo viên đến từng nhóm hướng dẫn các em đọc tài liệu,
rồi đặt câu hỏi và các em tự trao đổi, tìm nội dung bài học. Chỗ nào không hiểu
các em sẽ “cứu trợ” và được giáo viên giải đáp, hướng dẫn. Vì thế, sách giáo
khoa cũng được đổi mới về hình thức, giáo viên không cần phải soạn giáo án
như trước đây mà phải đầu tư nghiên cứu, sáng tạo và chuẩn bị nhiều đồ dùng
theo yêu cầu cơ bản của tiết học.
Về phía học sinh các em hồn tồn chủ động trong giờ học để khám phá
và tìm ra nội dung bài học bằng cách trao đổi, tranh luận, biết nêu vấn đề và giải


quyết vấn đề thơng qua học tập theo nhóm, theo cặp. Các tiết học không tạo áp
lực đối với các em, từ đó kích thích sự sáng tạo, tự tin trong giao tiếp và biết hợp
tác khi tham gia các hoạt động tập thể, giúp các em hiểu bài tốt hơn, sâu hơn.
Điều đặc biệt của mơ hình VNEN (mơ hình trường học mới Việt Nam) là
trong nội dung bài học có hoạt động ứng dụng yêu cầu sự giúp đỡ của bố mẹ,
người thân trong gia đình. Vì thế, phụ huynh có thể học cùng con, hướng dẫn
con trong mỗi tiết học ngay tại lớp nếu cần thiết. Từ đó, phụ huynh thấy được
lực học thực chất của con em mình để phối hợp với nhà trường giúp đỡ các em
đạt hiệu quả cao nhất trong học tập.

Hướng dẫn học Tiếng Việt 2 đã được biên soạn theo đúng chương trình
phần đọc thơng gồm đọc thành tiếng và đọc thầm. Dạy học đọc thành tiếng và
đọc thầm theo Chuẩn cần được hiểu là một quá trình dạy học trong cả năm học
để tiến tới đạt Chuẩn
vào cuối năm.
Dạy học đọc là tạo cho học sinh có nền tảng vững chắc để học tốt môn
Tiếng Việt và tất cả các phân mơn khác. Có đọc đúng, đọc trơi chảy mới cảm thụ
được bài văn, bài thơ, viết được bài chính tả, làm được bài văn và đọc đúng sẽ
hiểu tất cả các môn học khác.
Dạy học đọc cho học sinh lớp 2 là dạy cho học sinh đọc đúng, nhanh, lưu
lốt, ngắt nghỉ hơi đúng, cịn rèn cho học sinh đọc thành tiếng, đọc thầm, đọc
hiểu, đọc diễn cảm để cảm thụ bài văn, bài thơ, hay nói khái quát hơn là cảm thụ
về văn học. Cho nên việc rèn kĩ năng đọc là rất cần thiết trong quá trình giảng
dạy.
Vì vậy Dạy học đọc ở lớp 2 rất quan trọng vì nó tích hợp tất cả các mơn
học đồng thời là nên tảng cho phân môn Tiếng Việt ở lớp trên.
2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
2.1. Thực trạng việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh – Học theo chương
trình dự án mơ hình trường học mới Việt Nam” tại Trường tiểu học Vạn
Hòa.
Trường Tiểu học Vạn Hòa nằm ngay trung tâm xã Vạn Hòa và gần trung
tâm huyện Nông Cống, giao thông đi lại thuận tiện . Cơ sở vật chất nhà trường
tương đối đầy đủ đáp ứng cho nhu cầu dạy và học. Trường có đội ngũ giáo viên
vững tay nghề, nhiệt tình, yêu nghề, ln có ý thức tự học, tự nâng cao trình độ
chuyên môn. Ban giám hiệu nhà trường rất quan tâm đến tập thể giáo viên và
học sinh, tạo mọi điều kiện để giáo viên và học sinh hoàn thành tốt nhiệm vụ
năm học. Học sinh được học 2 buổi / ngày, được cấp sách học theo dự án VNEN


đầy đủ,các em học sinh chăm ngoan, có nhiều cố gắng trong học tập và tu dưỡng

đạo đức. Phần lớn phụ huynh học sinh rất quan tâm đến việc học tập của con em
mình.Đặc biệt có sự hỗ trợ của dự án mơ hình trường học mới Việt NamVNEN.
Đây là năm thứ 5 Trường tiểu học Vạn Hòa thực hiên dạy học theo mơ
hình VNEN. Ngay từ đầu năm học, Ban giám hiệu nhà trường đã triển khai tập
huấn cho giáo viên, trao đổi thêm về cách dạy và học từng phân mơn, trong đó
rất chú trọng phân mơn Tiếng việt lớp 2 bởi đây là lớp học lần đầu tiếp cận với
mơ hình VNEN. Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh học theo các bước học
tập, chủ động hợp tác nhóm, tiếp thu kiến thức và quan trọng nhất là phải rèn kĩ
năng đọc cho học sinh khi học theo mơ hình mới để học sinh có thể học tốt môn
Tiếng Việt cũng như các môn học khác.
2.2. Thực trạng việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh – Học theo chương trình
dự án mơ hình trường học mới Việt Nam” tại lớp 2A - Trường tiểu học Vạn Hịa.
Năm học 2016 – 2017 tơi được phân cơng dạy lớp 2A Trường Tiểu học
Vạn Hòa ( Là lớp dạy học theo chương trình dự án mơ hình Trường học mới
Việt Nam). Lớp 2A với tổng số là 29 em.
Trong đó: Nam: 14 em
Nữ: 15 em
Hộ nghèo: 2 em
Hộ cận nghèo : 1em
Các em ở rải rác ở các thơn trong xóm.Hầu hết các em đều ngoan, lễ phếp
,đồn kết. Nhìn chung các em có ý thức học tập cao, có tinh thần xây dựng tập
thể, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.Các em được cấp sách vở đầy đủ, được mang về
nhà phục vụ cho việc học tập.Cha mẹ các em tương đối quan tâm, thường xuyên
trao đổi vơi giáo viên. Phụ huynh ủng hộ giáo viên trong quá trình tham gia học
tập theo mơ hình VNEN.
Qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy và cụ thể ngay đầu năm học nhận lớp
2A, tôi đã nhận thấy do tiếp cận cách học mới nên vẫn cịn tình trạng một số học
sinh còn lười học, ý thức trong học tập chưa cao, các em này đều đọc chậm, vấp
lỗi nhiều và đọc vẹt chưa hiểu nội dung văn bản. Sự kết nối với cha mẹ các em
còn hạn chế.

Tất cả các học sinh lớp 2A rất cần sự hướng dẫn nhiệt tình của giáo viên chủ
nhiệm. Dạy học đọc khơng phải là khó mà nó cần sự kiên trì. Đối với những em
lười học sẽ mau quên mặt chữ.Vì vậy bằng mọi hình thức giáo viên chủ nhiệm
phải giúp học sinh đọc thông, đọc hiểu, đọc thuộc một số đoạn bài thơ ngắn.


Qua khảo sát đầu năm chất lượng đọc như sau:
Tổng số
học sinh

29

Mức độ

Số lượng

Hoàn thành tốt

10

Hoàn thành

13

Cần bồi dưỡng để hồn thành

6

Tỷ lệ %
34,4

44,8
20,8

Với kết quả trên có 6 học sinh đọc chưa tốt. Nếu thực trạng này kéo dài
thì chất lượng đọc khơng cao, học sinh sẽ gặp khó khăn trong việc học môn
Tiếng Việt và ảnh hưởng không nhỏ tới các môn học khác. Đây là nỗi trăn trở
và tơi đã tìm ra ngun nhân của thực trạng đó là:
* Đối với học sinh:
- Học sinh chưa nhớ một số âm, vần đã học (đầu năm học lớp 2 )
- Học sinh ít đọc sách ở nhà, lười học, nếu có thì cũng chưa biết cách đọc,
chỉ đọc một cách qua loa chiếu lệ, lười tìm hiểu.
- Học sinh đọc chậm, còn đánh vần, phát âm sai. Đọc chưa đúng tốc độ
quy định.
- Chưa ý thức được đọc thầm để tìm hiểu bài học. Đọc chưa hiểu được văn
bản.
- Học sinh phát âm chưa chuẩn, chưa biết ngắt nghỉ hơi khi đọc, quen đọc
theo tiếng địa phương.
- Đối với chương trình VNEN học sinh chưa nhớ và hiểu được 10 bước
học tập (đầu năm học lớp 2).
* Đối với giáo viên:
- Chưa chuẩn bị bài bám sát HDHTV2, bài dạy mang tính áp đặt, đơn
điệu, chưa phù hợp với từng đối tượng. Giáo viên vận dụng chưa linh hoạt các
phương pháp trong giờ dạy Tiếng Việt. Kỹ năng đặt câu hỏi, hướng dẫn học sinh
tìm hiểu bài cịn hạn chế.
- Giáo viên đọc bài chưa diễn cảm, chưa thu hút sự chú ý của học sinh.
- Giáo viên chưa chú ý đến học sinh yếu, sợ cháy thời gian.
Sau đây là bảng thống kê phân loại đối tượng học sinh đọc chưa tốt
môn Tiếng Việt.



Học sinh đọc
Đọc phát
Ngắt nghỉ
Đọc
Đọc vẹt chưa hiểu nội
chưa tốt, đọc
âm chưa
hơi chưa
chậm
dung
cịn đánh vần
đúng
hợp lí
6
3
4
4
2
* Đối với phụ huynh:
Do trình độ dân trí chưa cao, kinh tế chưa ổn định, dẫn đến nhiều phụ
huynh lo buôn bán, làm ăn, chưa quan tâm nhiều đến việc học của con em mình
nên việc kết hợp với nhà trường trong việc giáo dục học sinh còn hạn chế.
* Đối với cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học:
Thư viện chưa phong phú về tranh ảnh và một số đồ dùng cần thiết phục
vụ dạy học đọc ở HDHTV lớp 2.
3. Các biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2A - Học theo
chương trình dự án mơ hình trường học mới Việt Nam” tại Trường tiểu
học Vạn Hòa.
* Căn cứ vào các nguyên nhân của thực trạng tôi mạnh dạn đưa ra các
biện pháp sau:

3.1. Chuẩn bị của giáo viên.
- Giáo viên xây dựng nề nếp cho học sinh ngay từ đầu năm học, chỉ cho
học sinh thấy được tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng đọc.
- Giáo viên cần phải đọc bài nhiều lần, từ việc đọc hiểu đến đọc diễn cảm
và cảm thụ bài đọc.
- Tham khảo thêm tài liệu có liên quan đến bài dạy.
- Khi giải nghĩa từ khó, giáo viên cần tận dụng tối đa đồ dùng dạy học và
kết hợp các phương pháp để các em hiểu một cách dễ dàng.
- Cần chuẩn bị bài thật kỹ trước khi đến lớp: câu hỏi phụ, từ mới cần giải
nghĩa, từ cần luyện đọc, dự đốn tình huống xảy ra,…. Xác định đúng mục tiêu,
yêu cầu trọng tâm của từng bài dạy.
- Hướng dẫn cho các em thực hiện học theo 10 bước học tập của chương
trình VNEN.
Tăng cường cơng tác làm đồ dùng dạy học phục vụ cho môn Tiếng Việt là
tranh, ảnh, các thẻ từ, phiếu học, bảng phụ…
Qua thực tế giảng dạy tôi đã tiến hành các biện pháp theo thứ tự sau:
+ Biện pháp 1: Giáo viên đọc mẫu diễn cảm:
- Giáo viên đọc mẫu một cách chính xác, phù hợp với từng văn bản. Biết
hướng dẫn học sinh về cách đọc, sử dụng các biện pháp, hình thức tổ chức dạy


học thích hợp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong các hoạt động rèn
kỹ năng đọc (đọc thành tiếng, đọc thầm để tìm hiểu nội dung bài, tham gia các
trò chơi luyện đọc,…) phát triển kỹ năng đọc cho học sinh.
- Tôi luôn chú trọng cách đọc mẫu làm thế nào cho hấp dẫn, lôi cuốn được
các em bắt chước cách đọc diễn cảm.
Giáo viên đọc mẫu trong giờ Tiếng việt
Ví dụ: Bài: “Bà cháu”
Đọc mẫu giọng to, rõ ràng, thong thả, phân biệt giọng đọc ở các nhân vật.
Giọng cô tiên trầm ấm, hiền từ. Nhấn giọng ở các từ “Gieo hạt đào, giàu sang,

sung sướng”.
Giọng hai anh em: cảm động, tha thiết. Nhấn giọng ở các từ, cụm từ “nhớ
bà, xin bà sống lại”.
+ Biện pháp 2: Luyện phát âm:
Yêu cầu đầu tiên đối với khả năng đọc chính xác, luyện đọc chính xác
thực chất là rèn luyện ngữ âm cho học sinh, phải rèn cho học sinh luyện phát âm
đúng, chú ý các từ ngữ, luyện đọc những từ ngữ học sinh phát âm sai ngày lúc
đó nhiều lần.
+ Biện pháp 3: Cho học sinh luyện đọc:
Đọc rành mạch, đọc lưu loát cả văn xuôi, văn vần. Đọc đúng các nhịp thơ,
thể hiện ngắt nghỉ đúng chỗ, nhấn giọng các từ ngữ, biết thay đổi giọng đọc theo
đúng ngữ cảnh và tình cảm của câu.
+ Biện pháp 4: Cho học sinh luyện đọc, đọc diễn cảm:
Theo hình thức phân vai, đọc biết kết hợp giảng giải của giáo viên, kết
hợp việc tóm tắt ý của từng đoạn và nội dung cả bài. Đọc diễn có nhiều mức độ
nhưng ở lớp 2 tơi chỉ dừng lại ở mức độ biết phân biệt lời tác giả, lời nhân vật
đọc văn đối thoại, đọc phân vai.

Các nhóm đang thực hành đọc phân vai trong giờ tiếng Việt
+ Biện pháp 5: Rèn kỹ năng đọc thầm cho học sinh:
Trước hết phải cho học sinh biết được đọc như thế nào được gọi là đọc
thầm: Đọc thầm là đọc không thành tiếng, đọc bằng mắt. Đây là việc làm quan
trọng để hình thành và phát triển kỹ năng đọc thầm và nó ln theo ta trong suốt
cuộc đời. Đọc thầm giúp các em chuẩn bị tốt cho khâu đọc thành tiếng, tìm hiểu
bài và nắm bắt nội dung bài học tốt hơn. Vì vậy chúng ta khơng nên bỏ qua bước
này. Đối với học sinh lớp 2 đọc thầm khó hơn đọc thành tiếng do các em chưa
có sức tập chung cao để theo dõi bài đọc. Thường các em dễ bị sót chữ, bỏ dịng.


Để hướng dẫn học sinh đọc thầm đạt kết quả, khi dạy tôi yêu cầu học sinh tập

chung vào bài đọc thầm kết hợp với việc tham gia đặt câu hỏi nhận biết nhiệm
vụ học tập hoặc kiểm tra đọc thầm bằng cách hỏi học sinh đó đọc đến đâu và
định hướng nội dung cần tìm. Có như vậy các em mới chú ý, tập chung trong khi
đọc thầm và kích thích tinh thần học tập của học sinh. Học sinh đọc thầm có thể
dưới nhiều hình thức, cả lớp đọc thầm, đọc thầm theo bạn, học sinh đọc cá nhân
hoặc theo cô (đọc mẫu) và giáo viên đưa ra những định hướng sau: Tự phát hiện
ra tiếng, từ phải tìm dễ lẫn? Tìm những từ cần nhấn giọng, hạ giọng, lên giọng,
chỗ ngắt, nghỉ hơi. Bài văn, bài thơ nói về ai? Trong bài có những nhân vật nào?
Ai đang trò chuyện? Phát hiện giọng đọc của từng đoạn, từng bài, từng nhân vật.
* Trong quá trình dạy học, học sinh là nhân tố quan trọng nhất. Chính vì
vậy các chiến lược dạy học đều hướng đến người học, hay lấy lợi ích của các em
làm đích. Phương pháp dạy học mới, hình thức dạy học mới theo chương trình
VNEN tạo điều kiện tối đa để học sinh chiếm lĩnh kiến thức và đặc biệt gây
hứng thú học tập. Điều quan trọng giáo viên cần tổ chức cho các em thi đua đọc
đúng, đọc hay trong các cặp, các nhóm và trong lớp. Từ đó kích thích các em
học ngày càng tốt hơn.
Giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng tài liệu Hướng dẫn học Tiếng Việt
2 để tự học, tự đánh giá, tổ chức cho học sinh hoạt động khám phá, phát hiện
kiến thức, kỹ năng mới thông qua q trình học tập mang tính hợp tác. Giáo viên
chỉ hỗ trợ và hướng dẫn học sinh khi cần thiết.

Học sinh lớp 2A- đọc thầm bài Tập đọc trong giờ Tiếng việt
3.2. Phương pháp phù hợp với đối tượng học sinh
a. Học sinh đọc chậm, phát âm chưa đúng, đọc còn đánh vần:
- Giáo viên viết bảng chữ cái không theo thứ tự, yêu cầu các em ôn lại để
nhớ mặt chữ.
- Giáo viên viết các vần ra bảng phụ ôn lại cho các em.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc theo hình thức cá nhân, luyện đọc từ
khó, tiếng khó nhiều lần để học sinh đọc đúng.
b. Học sinh ngắt nghỉ hơi chưa hợp lí:

- Giáo viên sử dụng phương pháp luyện tập theo mẫu, hướng dẫn cho học
sinh ngắt nghỉ hơi theo dấu câu, trong những câu dài. Nếu là dấu phẩy thì phải


ngắt hơi, nếu là dấu chấm thì phải nghỉ hơi. Giọng đọc rõ ràng, phát âm chuẩn.
Cách nhấn giọng ở các câu, các từ, vì sao cần đọc nhanh, chậm, cao giọng, thấp
giọng. Hoạt động này thường được tổ chức ở hoạt động HS tương tác toàn lớp,
nghe GV đọc mẫu và nhìn GV chỉ trên bảng phụ theo dấu hướng dẫn ngắt hơi
rồi HS đọc theo.
c. Đối với học sinh đọc vẹt, chưa hiểu nội dung:
Đọc từ ngữ và lời giải nghĩa từ: Mục đích của hoạt động này là luyện đọc
đúng các từ ngữ mới trong bài và biết nghĩa của những từ này tạo cơ sở cho việc
hiểu nội dung bài đọc. Đọc các từ có nguy cơ đọc sai là luyện cho HS đọc đúng
các từ dễ đọc sai do ảnh hưởng của phát âm tiếng địa phương.
Giáo viên bước đầu rèn cho học sinh kỹ năng đọc thầm. Đây là hình thức
đọc hiểu mà địi hỏi học sinh phải có tính tự giác. Do đó, trước khi học sinh đọc
thầm giáo viên cần giao nhiệm vụ cụ thể cho học sinh, nhằm định hướng rõ việc
đọc hiểu (đoạn văn hay, khổ thơ hay, đọc để biết, hiểu, nhớ hay suy nghĩ và trao
đổi về điều gì…). Giáo viên kết hợp quan sát, theo dõi từng học sinh để biết học
sinh đọc đến đâu có như vậy mới nâng cao được chất lượng đọc thầm. Nhằm
giúp các em hiểu được nội dung bài đọc. Học sinh rèn kỹ năng đọc thầm và tìm
hiểu bài đọc.
d. Đối với học sinh đọc đúng.
Giáo viên xây dựng cho học sinh đọc tiếp sức cả đoạn và tự giác học tập,
phát huy tính tích cực học tập. Học sinh được giáo viên tạo mọi điều kiện để
tham gia vào tiết học tập (trả lời câu hỏi, phát biểu ý kiến…)
Giáo viên sử dụng phương pháp đàm thoại: Là phương pháp trao đổi giữa
thầy và trị, trong đó giáo viên nêu ra gợi ý học sinh tự nhận ra phương pháp đọc
phát triển tư duy cho học sinh.
e. Đối với học sinh đọc hay.

Giáo viên cần cho học sinh đọc tốt đọc mẫu để phát huy năng lực đọc cho
các em.
Minh Tâm đọc mẫu trong giờ Tiếng Việt
Luyện đọc bằng phương pháp tổ chức các trò chơi. Để hỗ trợ cho việc rèn
đọc tơi cịn sử dụng phương pháp trị chơi luyện đọc. Tổ chức các trò chơi đơn


giản, không mất nhiều thời gian, không cần chuẩn bị cơng phu. Trị chơi luyện đọc
tạo khơng khó vui tươi, hồn nhiên, tiết học nhẹ nhàng. Các em tham gia trị chơi sẽ
phát triển trí thơng minh, khả năng sáng tạo để đáp ứng yêu cầu giao tiếp hằng
ngày và phục vụ cho việc học tập tốt. Các em tham gia trò chơi còn rèn tinh thần
tập thể và sự hỗ trợ lẫn nhau trong học tập. Cách tổ chức trị chơi: Có nhiều hình
thức tổ chức trị chơi luyện đọc. Giáo viên có thể lựa chọn trị chơi sao cho phù hợp
với nội dung yêu cầu bài học và quỹ thời gian cho phép của tiết học. Ví dụ: Trò
chơi: “Ai nhập vai tốt” (Thời gian 5 phút). Sau khi học xong bài: “Mẫu giấy vụn”
TLHDTV2 – Tập 1B . Cuối tiết học tơi tổ chức trị chơi như sau:
Yêu cầu: Đọc thầm đoạn 4 của bài và thể hiện vai bạn gái trong bài. Với
trị chơi này. Tơi đã phát huy được cho học sinh các kỹ năng: đọc thầm, rèn trí
nhớ, đọc diễn cảm, nói lưu lốt, mạnh dạn, tự tin,…
Giáo viên cần khuyến khích cách đọc sáng tạo của học sinh, tránh áp đặt
đọc theo khuôn mẫu.
Sau khi tìm hiểu nội dung bài, giáo viên cần mở rộng nội dung bài, đặt câu
hỏi mở rộng phù hợp với nội dung bài để học sinh suy nghĩ, phán đốn, tạo cho
học sinh có cơ hội phát huy năng lực tìm tịi, sáng tạo trong học tập.
Giáo viên cho học sinh đóng vai nhân vật thể hiện qua giọng đọc.
Cô giáo tuyên dương những bạn đọc tốt, đọc hay trong giờ Tiếng Việt
* Bên cạnh việc luyện đọc thành tiếng trong các hoạt động đọc bài khoá,
việc luyện đọc còn được luyện tập ở những hoạt động luyện nói, luyện viết
chính tả, luyện viết đoạn văn hoặc viết văn bản ngăn thông thường, luyện dùng
từ và đặt câu. Để thực hiện hoạt động đọc thành tiếng một cách hấp dẫn, tránh

sự nhàm chán ở học sinh, giáo viên cần tổ chức các trò chơi xen vào các hoạt
động tự học. Cụ thể là các hình thức sau: đọc truyền điện, bắt thăm bài đọc, thi
đọc. Hoạt động đọc thầm trong sách HDHTV2 phần lớn được diễn ra cùng với
hoạt động đọc hiểu. Tuy nhiên, lớp 2 là lớp bắt đầu có nội dung đọc thầm nên
hoạt động đọc thầm được phát triển thường xuyên, có hệ thống ở tất cả các bài.
Học sinh phải tự đọc thầm nhiệm vụ ở từng hoạt động (nhiệm vụ xem, nghe,
nói, đọc, viết, chọn từ, đặt câu…). Để đẩy nhanh tốc độ đọc thầm của học sinh,
giáo viên nên có chỉ dẫn cho các em khi đọc thầm từng nhiệm vụ, qua đó học
sinh biết chọn đúng đoạn đọc thầm, biết tập trung vào từng địa chỉ để đọc thầm
và nhiệm vụ đọc thầm ở từng địa chỉ đó.
3.3. Theo dõi giám sát học sinh.


- Giáo viên cần chú trọng hình thức đọc cá nhân để rèn luyện, uốn nắn
cho từng học sinh, kết hợp với hình thức đọc theo nhóm để nhiều học sinh tham
gia đọc nhiều lần trong một tiết học, tạo khơng khí lơi cuốn học sinh yếu tham
gia đọc.
- Giáo viên chuẩn bị về việc nhận xét, đánh giá học sinh sau khi đọc. Với
việc đánh giá học sinh bằng nhận xét theo Thông tư 30 kết hợp Thông tư 22, coi
trọng việc động viên, khuyến khích tích cực và vượt khó trong học tập, rèn
luyện của học sinh, giúp học sinh phát huy tất cả khả năng, đảm bảo kịp thời,
công bằng, khách quan không gây áp lực, tạo hứng thú cho học sinh, làm cho
học sinh không cảm thấy ngại học sẽ giúp cho hình thức dạy học theo mơ hình
trường học mới (VNEN) hiệu quả hơn. Góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục
Tiểu học.
Giáo viên theo dõi, quan sát học sinh trong giờ Tiếng việt
Sau khi học sinh đọc bài xong, học sinh trong nhóm hoặc nhóm khác sẽ
nhận xét bạn đọc. Lời nhận xét giúp cho em học sinh đó cố gắng vươn lên trong
các lần đọc sau.
- Hướng dẫn học Tiếng Việt 2 mở ra nhiều khoảng trống cho sự sáng tạo

của giáo viên trong hoạt động dạy học. Với hoạt động đọc hiểu dù lơ gơ của bài
tập là làm việc nhóm thì giáo viên vẫn có thể cho kết hợp làm việc chung cả lớp
khi cần giúp học sinh cả lớp hiểu đúng yêu cầu của bài tập phức tạp. Giáo viên
cần chú ý kết hợp đúng lúc, đúng chỗ giữa phương pháp làm việc nhóm với làm
việc cá nhân và làm việc chung cả lớp phù hợp với trình độ của đối tượng.
Theo dõi sự chuyển biến trong từng tiết học hàng ngày, hàng tuần của học sinh.
3.4 Tăng cường sự phối kết hợp với phụ huynh.
Tăng cường sự kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình bằng cách
họp phụ huynh và thông qua sổ liên lạc để phụ huynh nắm bắt được tình hình
học tập của con em mình, hỗ trợ kịp thời thơng qua hoạt động ứng dụng sau mỗi
tiết học. Việc làm này sẽ giúp phụ huynh hiểu rõ về cách học theo mơ hình mới
đồng thời giúp học sinh có nhiều trải nghiệm sau giừ học trên lớp. Từ đó kết quả
học tập sẽ được nâng cao.
Phụ huynh cùng con thực hiện hoạt động ứng dụng
4. Hiệu quả sau khi áp dụng các giải pháp trên.


* Sau khi áp dụng sáng kiến trên vào lớp 2A năm học 2016 – 2017, kết
quả dạy học đọc đạt được như sau:
Kết quả cụ thể: * Đối với Hoạt động giáo dục:

Tổng

Mức độ

số HS

Hoàn thành
29


tốt
Hoàn thành

Đầu năm

Giữa

Cuối

Giữa

Cuối

học kỳ I

học kỳ I

học kỳ II

học kỳ II

SL

TL%

SL

TL%

SL


TL%

SL

TL%

10

34,4

15

51,7

20

68,8

25

86,2

13

44,8

10

34,4


7

24,1

4

13,8

6

20,8

4

13,9

2

7,1

0

0

SL

TL%

Cần bồi

dưỡng để
hoàn thành

* Đối với bản thân:
Bản thân tôi thấy tự tin hơn khi tham gia áp dụng mơ hình trường học mới
Việt Nam VNEN vào giảng dạy.
+ Hồ sơ xếp loại tốt
+ Giờ dạy xếp loại giỏi
+ Đạt giáo viên có giờ dạy giỏi theo mơ hình VNEN cấp huyện năm học
2015-2016.
* Đối với đồng nghiệp và nhà trường:
Bản thân đã góp một phần nào đó cùng với đồng nghiệp làm tốt công tác
giảng dạy. Thông qua các buổi sinh hoạt chuyên mơn, bản thân tơi đã góp ý và
mạnh dạn đưa ra những sáng kiến đã áp dụng và được đồng nghiệp và nhà
trường đánh giá cao.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
1. Kết luận.
- Để đạt được kết quả rèn kĩ năng đọc cho học sinh thì nguời giáo viên
cần chú ý năng lực cần đạt của học sinh trong chương trình học. Cần phân bố
thời gian hợp lí để học sinh đọc đúng, nhanh và phát huy được nét riêng sáng tạo
của học sinh về cách đọc.
- Bên cạnh đó người giáo viên cần đạt được các yêu cầu sau:
+ Phải kiên trì, tỉ mỉ, cẩn thận, tận tình.
+ Mẫu mực trong mọi hoạt động.


+ Mềm dẻo trong giảng dạy, ln có ý thức khuyến khích động viên học
sinh kịp thời.
+ Nêu gương tốt để học sinh noi theo và học tập.
+ Hướng dẫn cách học ở nhà: giờ học, giờ chơi hợp lý để các em học đủ,

chơi khỏe có ích.
- Có kế hoạch theo dõi sự tiến bộ, tồn tại hàng tuần, hàng tháng của từng
cá nhân học sinh, để kịp thời có biện pháp phù hợp với từng đối tượng.
- Phối hợp với nhà trường, với tổ chuyên môn, thường xuyên báo cáo về
sự chuyển biến của học sinh để có kế hoạch chỉ đạo và sự giúp đỡ về cả phương
pháp dạy học và thời lượng.
- Giáo viên phải kết hợp nhiều phương pháp qua nhiều môn học theo quan điểm
tích hợp nhằm nâng cao chất lượng rèn kĩ năng đọc.
- Giáo viên phải có kế hoạch để rèn đọc cho từng học sinh lớp mình sao cho học
sinh thấy luyện đọc là quyền lợi đồng thời cũng là nghĩa vụ trong tiết Tiếng Việt.
- Giáo viên phải nhiệt tình, năng nổ trong công tác giảng dạy. Nắm được
chuẩn kiến thức HDHTV lớp 2, đồng thời nắm được đối tượng học sinh một
cách cụ thể.
- Thường xuyên liên lạc với gia đình học sinh để phản hồi và nhận sự hỗ
trợ của gia đình học sinh về việc học tập, rèn luyện nói chung.
2. Kiến nghị .
Để có chất lượng dạy và học như hiện nay, tôi nhận thấy là cả một q
trình rèn luyện và phấn đấu khơng mệt mỏi. Sự nhiệt tình, chu đáo của giáo viên
là một trong những yếu tố đảm bảo sự thành công của giờ dạy. Không những
thế việc rèn kĩ năng đọc phải được diễn ra thường xuyên và ở mọi môn học. Với
học sinh Tiểu học, sự nghiêm khắc của giáo viên về rèn kĩ năng đọc ở tất cả các
môn học. Có như thế việc rèn kĩ năng đọc mới được củng cố thường xuyên,
việc làm này đòi hỏi người giáo viên ngồi hiểu biết về chun mơn cần có sự
kiên trì, cẩn thận và lịng u nghề mến trẻ.
Trên đây là một số kinh nghiệm về phương pháp rèn kỹ năng đọc cho học
sinh lớp 2 nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy, đã được đúc rút qua nghiên cứu và
thực tế giảng dạy. Trong quá trình viết Sáng kiến kinh nghiệm này khơng tránh
khỏi những sai sót. Tơi rất mong được sự góp ý của Hội đồng khoa học và các
đồng nghiệp để ý kiến tôi đưa ra được hồn thiện hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!



XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Vạn Hòa, ngày 25 tháng 3 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung của
người khác

Trần Lệ Thủy


TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tham khảo các tài liệu sau:
- Hướng dẫn học Tiếng Việt 2 (Gồm 4 tập: 1A, 1B, 2A, 2B)
- Tài liệu hướng dẫn Giáo viên môn Tiếng Việt lớp 2.
- Tài liệu tập huấn dạy học theo mơ hình Trường học mới Việt Nam lớp 2
(Tập 1 + 2).
- Tổ chức lớp học theo mơ hình trường học mới tại Việt Nam.


MỤC LỤC

TT

Tên mục

Trang


1.

I. MỞ ĐẦU

1

2.

1. Lý do chọn đề tài

1

3.

2. Mục đích nghiên cứu đề tài

2

4.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

2

5.

4. Phương pháp nghiên cứu

2


6.

II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

3

7.

1. Cơ sở lý luận

3

8.

2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu

3

9.

3. Các biện pháp để tổ chức thực hiện

7

10. 3.1. Chuẩn bị của giáo viên

7

11. 3.2. Phương pháp phù hợp với đối tượng học sinh


10

12. 3.3. Theo dõi giám sát học sinh

13

13. 3.4.Tăng cường sự phối kết hợp với phụ huynh

14

14. 4. Hiệu quả của sáng kiến

15

15. III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

16

16. 1. Kết luận

16

17. 2. Kiến nghị

17


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HĨA
PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN NÔNG CỐNG


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG ĐỌC CHO HỌC SINH
LỚP 2A -TRƯỜNG TIỂU HỌC VẠN HỊA - HỌC THEO CHƯƠNG
TRÌNH DỰ ÁN MƠ HÌNH TRƯỜNG HỌC MỚI VIỆT NAM

Người thực hiện: Trần Lệ Thủy
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Vạn Hịa
Nơng Cống - Thanh hóa
SKKN thuộc mơn: Tiếng Việt

NÔNG CỐNG NĂM 2017




×