Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Một số biện pháp nâng cao khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lí, giảng dạy cho đội ngũ giáo viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (377.91 KB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GD&ĐT THỌ XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG QUẢN LÍ,
GIẢNG DẠY CHO ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TIỂU HỌC

Người thực hiện: Trịnh Thị Liệu
Chức vụ: Phó Hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Xuân Bái
SKKN thuộc lĩnh vực: Quản lí

THANH HOÁ NĂM 2019


MỤC LỤC
Mục
1

Nội dung

Trang

Mở đầu

1

1.1



Lý do chọn đề tài

1

1.2

Mục đích nghiên cứu

2

1.3

Đối tượng nghiên cứu

2

1.4

Phạm vi nghiên cứu

3

1.5

Phương pháp nghiên cứu

3

Nội dung sáng kiến kinh nghiệm


3

2.1

Cơ sở lý luận

3

2.2

Thực trạng vấn đề

5

2.3

Các biện pháp thực hiện

7

Nâng cao năng lực cho đội ngũ giáo viên

7

2

2.3.1
2.3.2
2.3.3


Quản lí chỉ đạo việc đưa ưmhs dụng công nghệ thông tin vào
nhà trường
Xây dựng đội ngũ cốt cán

8
9

2.3.4

Bồi dưỡng nâng cao trình độ tin học và kĩ năng ứng dụng công
nghệ thông tin cho đội ngũ giáo viên

10

2.3.5

Tạo môi trường và điều kiện để giáo viên trải nghiệm

14

2.3.6

Tăng cường công tác tham mưu xây dựng

15

2.3.7

Tăng cường công tác kiểm tra đánh giá, thi đua, khen thưởng


16

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

17

3

Kết luận

19

3.1

Kết luận

19

3.2

Kiến nghị

19

2.4


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.

Ngày nay với sự phát triển nhảy vọt của khoa học công nghệ, đặc biệt là
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, chúng ta đang bước vào giai đoạn của
nền tri thức và thông tin trở thành yếu tố hàng đầu, đồng thời là nguồn tài
nguyên có giá trị. Sự phát triển mạnh của công nghệ thông tin đã và đang làm
thay đổi mọi lĩnh vực hoạt động của con người, sự xuất hiện của nền kinh tế tri
thức đang đưa xã hội loài người tới kỷ nguyên mới, đồng thời nó cũng đòi hỏi
một hệ thống giáo dục với nội dung và phương pháp mới sao cho thích nghi
được với môi trường xã hội thay đổi. Chính vì vậy giáo dục và đào tạo được coi
là nhân tố hàng đầu quyết định sự phát triển nhanh và bền vững của mỗi quốc
gia. UNESCO đã chỉ rõ: “Không có một sự tiến bộ và thành đạt nào có thể tách
khỏi sự tiến bộ và thành đạt trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo của mỗi quốc gia
đó và những quốc gia nào coi nhẹ giáo dục hoặc không đủ tri thức và khả năng
làm giáo dục một cách có hiệu quả thì số phận quốc gia đó coi như đã an bài và
điều đó còn tồi tệ hơn cả sự phá sản.
Xuất phát từ vị trí, vai trò của giáo dục đối với sự nghiệp phát triển kinh tế
- xã hội, từ việc coi “giáo dục là quốc sách hàng đầu”, Đảng và Nhà nước đã đưa
ra những chủ trương, đường lối đúng đắn về đổi mới giáo dục đặc biệt là ứng
dụng Công nghệ thông tin trong giáo dục và đào tạo. Tiêu biểu như: Chỉ thị
29/2001/CT-BGD&ĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nêu rõ : “Đối
với giáo dục và đào tạo, công nghệ thông tin có tác động mạnh mẽ, làm thay đổi
phương pháp, phương thức dạy và học. Công nghệ thông tin là phương tiện để
tiến tới một xã hội học tập”. Mặt khác, giáo dục và đào tạo đóng vai trò quan
trọng bậc nhất thúc đẩy sự phát triển của công nghệ thông tin thông qua việc
cung cấp nguồn nhân lực cho công nghệ thông tin.
Chỉ thị 55/2008/CT-BGDĐT về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng
công nghệ thông tin trong ngành giáo dục giai đoạn 2008-2012 do Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo ban hành ngày 30/09/2008. Bộ trưởng khẳng định “Công
nghệ thông tin là công cụ đắc lực hỗ trợ đổi mới phương pháp giảng dạy, học
tập và hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục, góp phần nhằm nâng cao hiệu quả và
chất lượng giáo dục. Phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin và ứng

dụng công nghệ thông tin trong giáo dục là một nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa
quyết định sự phát triển công nghệ thông tin của đất nước”.
Đặc biệt ngày 25/01/2017 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Tăng
cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và hỗ trợ các hoạt động dạyhọc, nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai
đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025” (kèm theo QĐ số 117/QĐ-TTg
ngày 25/01/2017 của Thủ tướng Chính phủ). Mục tiêu chung của đề án là nhằm
tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin nhằm đẩy mạnh triển khai chính phủ
điện tử, cung cấp dịch vụ công trực tuyến trong hoạt động quản lý, điều hành
1


của cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo ở trung ương và các địa
phương; đổi mới nội dung, phương pháp dạy - học, kiểm tra, đánh giá và nghiên
cứu khoa học và công tác quản lý tại các cơ sở giáo dục đào tạo trong hệ thống
giáo dục quốc dân góp phần hiện đại hóa và nâng cao chất lượng giáo dục và
đào tạo...
Công nghệ thông tin phát triển đã mở ra những hướng đi mới cho ngành
giáo dục trong việc đổi mới phương pháp và hình thức dạy học. Công nghệ
thông tin phát triển mạnh kéo theo sự phát triển của hàng loạt các phần mềm
giáo dục và có rất nhiều những phần mềm hữu ích cho cho công tác quản lí và
dạy học, các phần mềm tiện ích và trở thành một công cụ đắc lực hỗ trợ trong
việc quản lí hay trong giảng dạy. Các phần mềm vừa tiết kiệm được thời gian
cho người giáo viên, vừa tiết kiệm được chi phí cho nhà trường mà vẫn nâng cao
được tính sinh động, hấp dẫn của giờ dạy. Nhưng để sử dụng có hiệu quả các
tính năng vượt trội của công nghệ thông tin trong nhà trường, đòi hỏi cán bộ,
giáo viên ngoài năng lực chuyên môn nghiệp vụ còn phải có năng lực ứng dụng
công nghệ thông tin để phục vụ tốt cho hoạt động nghề nghiệp của mình.
Trong những năm qua, thực hiện tinh thần chỉ đạo của các cấp, đặc biệt là
Phòng Giáo dục - Đào tạo Thọ Xuân, các nhà trường đã từng bước đưa công
nghệ thông tin vào ứng dụng để nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục. Đội ngũ

cán bộ, giáo viên là lực lượng trực tiếp tham gia và có vai trò quyết định trong
việc đảm bảo chất lượng giáo dục của nhà trường. Tuy nhiên việc ứng dụng
công nghệ thông tin của đội ngũ giáo viên còn chậm và không phải giáo viên
nào cũng có thể làm được làm tốt ngay. Nguyên nhân, việc hạn chế về trình độ
tin học đang là trở ngại lớn nhất cho giáo viên khi tiếp cận với công nghệ thông
tin. Nhiều giáo viên được học, đã có chứng chỉ nhưng do không mạnh dạn áp
dụng, thao tác trên máy tính thường xuyên nên lâu dần mai một; còn thụ động,
lo ngại khi đứng trước các phương pháp, phương tiện, thiết bị giáo dục hiện đại.
Vì vậy, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục ở nhà trường chưa
đồng đều, hiệu quả chưa cao.
Nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng và hiệu quả của ứng dụng công nghệ
thông tin trong quản lí và giảng dạy đối với các nhà trường trong giai đoạn hiện
nay, đặc biệt là giai đoạn thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Xuất phát
từ những thực tế nêu trên, tôi quyết định chọn đề tài “Một số biện pháp nâng
cao khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lí, giảng dạy cho đội
ngũ giáo viên Tiểu học”. Tôi hy vọng rằng với tâm huyết của mình sẽ góp phần
nhỏ bé nâng cao được chất lượng ứng dụng công nghệ thông tin cho giáo viên
của nhà trường.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Đưa ra những biện pháp nhằm nâng cao khả năng ứng dụng công nghệ
thông tin trong quản lí, giảng dạy cho đội ngũ giáo viên trong nhà trường.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
2


Biện pháp nhằm nâng cao khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong
quản lí, giảng dạy.
1.4. Phạm vi nghiên cứu:
- Đội ngũ giáo viên, nhân viên trường Tiểu học Xuân Bái
1.5. Phương pháp nghiên cứu:

- Phương pháp nghiên cứu lý luận.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp thực nghiệm.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lí luận.
2.1.1. Khái niệm về Công nghệ thông tin
Công nghệ thông tin là thuật ngữ dùng để chỉ các ngành khoa học và công
nghệ liên quan đến thông tin và các quá trình xử lý thông tin. Theo quan niệm
này thì công nghệ thông tin là một hệ thống các phương pháp khoa học, công
nghệ, phương tiện, công cụ, chủ yếu là máy tính, mạng truyền thông và hệ thống
các kho dữ liệu nhằm tổ chức, lưu trữ, truyền dẫn và khai thác, sử dụng có hiệu
quả các nguồn thông tin trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế, xã hội, văn hoá..
Ở Việt Nam, khái niệm Công nghệ thông tin được hiểu và định nghĩa
trong Nghị quyết Chính phủ 49/CP ký ngày 04/08/1993: "Công nghệ thông tin là
tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại
- chủ yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng
có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong
mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội".
2.1.2. Vai trò của công nghệ thông tin trong giáo dục:
Sự phát triển và bùng nổ của công nghệ thông tin có nhiều ảnh hưởng tích
cực đến mọi mặt của hoạt động đời sống, trong đó có giáo dục. Lĩnh vực này
đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của ngành giáo dục Việt Nam nói riêng và
thế giới nói chung
- Công nghệ thông tin giúp hoạt động giáo dục đạt hiệu quả cao hơn
Sự ra đời của công nghệ thông tin là sự tích hợp đồng thời các tiến bộ về
công nghệ và tổ chức thông tin, đem đến nhiều ảnh hưởng tích cực cho sự phát
triển của giáo dục.
Công nghệ thông tin và đặc biệt là sự phát triển của internet mở ra một
kho kiến thức vô cùng đa dạng và phong phú cho người học và người dạy, giúp
cho việc tìm hiểu kiến thức đơn giản hơn rất nhiều, cải thiện chất lượng học và

dạy.
- Công nghệ thông tin thúc đẩy giáo dục mở
Công nghệ thông tin thúc đẩy một nền giáo dục mở, giúp con người tiếp
cận thông tin đa chiều, rút ngắn khoảng cách, thu hẹp mọi không gian, tiết kiệm
tối ưu về thời gian. Từ đó con người phát triển nhanh hơn về kiến thức, nhận thức
3


và tư duy.
Chương trình giáo dục mở giúp con người trao đổi và tìm kiếm kiến thức
một cách hiệu quả. Đi kèm với giáo dục mở là tài nguyên học liệu mở, giúp
người học, người dạy kết nối với kiến thức hiệu quả dù họ ở đâu và trong
khoảng thời gian nào. Tài nguyên học liệu mở là một xu hướng phát triển tất yếu
của nền giáo dục hiện đaị.
- Kiến thức đa dạng và được cập nhật thường xuyên
Nếu như trước đây, việc tiếp thu kiến thức được cung cấp từ sách vở và
giáo viên thì hiện nay, nguồn kiến thức đa dạng này được cung cấp trực tuyến
qua kết nối internet. Người thầy chủ yếu là người truyền thu kiến thức. Điều này
đóng một vai trò to lớn trong quá trình đổi mới giáo dục.
Đổi mới giáo dục phải chuyển nền giáo dục từ chủ yếu là truyền thụ kiến
thức sang phát triển năng lực người học, bằng cách giúp người học phương pháp
tiếp cận và cách tự học, cách giải quyết vấn đề. Việc truyền thụ, cung cấp kiến
thức, dần dần sẽ do công nghệ thông tin đảm nhận, giải phóng người thầy khỏi
sự thiếu hụt thời gian, để người thầy có thể tập trung giúp học sinh phương pháp
tiếp cận và giải quyết vấn đề, tổ chức các hoạt động học tập gắn với thực tiễn
nhằm phát triển năng lực của học sinh.
- Công nghệ thông tin tạo không gian và thời gian học linh động. Công
nghệ thông tin tạo điều kiện cho người học có thể học tập và tiếp thu kiến thức
một cách linh động và thuận tiện. Mọi người có thể tự học ở mọi lúc, mọi nơi,
có thể tham gia thảo luận một vấn đề mà mỗi người đang ở cách xa nhua, góp

phần tạo ra xa hội học tập mà ở đó, người học có thể học tập suốt đời.
Bên cạnh đó, với sự thuận tiện cho việc học ở mọi lúc mọi nơi, công nghệ
thông tin sẽ tạo cơ hội cho người học có thể lựa chọn những vấn đề mà mình ưa
thích, phù hợp với năng khiếu của mỗi người, từ đó mà phát triển theo thế mạnh
của từng người do cấu tạo khác nhau của các tiểu vùng vỏ não. Chính điều đó sẽ
thúc đẩy sự phát triển của các tài năng.
- Công nghệ thông tin giúp nâng cao chất lượng quản lý giáo dục
Đổi mới giáo dục đòi hỏi nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác
quản lý giáo dục. Công nghệ thông tin giúp cho việc quản lý đầy đủ, minh bạch
và khoa học hơn từ quản lý học sinh, quản lý nhân lực, chương trình học tập,
kiếm tra hay quản lý tài chính...
2.1.3. Năng lực ứng dụng công nghệ thông tin.
Hiện nay, trong nền “văn minh tin học” thì các ngành khoa học như công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới... trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp, thâm nhập vào hầu hết các lĩnh vực hoạt động của con
người và đã mang lại những thành tựu rất to lớn. Do đó ở con người lại xuất
hiện thêm những năng lực mới, trong đó có năng lực ứng dụng công nghệ thông
tin.
Có thể hiểu năng lực ứng dung công nghệ thông tin là khả năng thành thạo
4


sử dụng công nghệ thông tin với tư cách là phương tiện để đạt kết quả cao trong
công việc.
Năng lực ứng dụng công nghệ thông tin được thể hiện qua khả năng lĩnh
hội, cập nhật tri thức mới, vận dụng sáng tạo những tri thức, các kĩ năng, kĩ xảo
vè sử dụng các thiết bị của công nghệ thông tin vào từng công việc cụ thể.
Trong bối cảnh công nghệ thông tin phát triển rất nhanh và có tác động
mạnh mẽ tới giáo dục - đào tạo, đặc biệt trong nhà trường đòi hỏi cán bộ, giáo
viên ngoài năng lực chuyên môn nghiệp vụ còn phải có năng lực ứng dụng công

nghệ thông tin để phục vụ tốt cho hoạt động nghề nghiệp của mình. Năng lực
ứng dụng công nghệ thông tin mà mỗi cán bộ, giáo ở các trường tiểu học cần có
là năng lực cập nhật tri thức về công nghệ thông tin, năng lực sử dụng máy tính
và sử dụng các thiết bị công nghệ thông tin và truyền thông, năng lực khai thác
và sử dụng internet, sử dụng các phần mềm chuyên môn nghiệp vụ như phần
mềm Phổ cập giáo dục, phần mềm Cơ sở dữ liệu, phần mềm sổ liên lạc điện tử
Vnedu...
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Tiểu học Xuân Bái là một trường nằm ở phía Tây huyện Thọ Xuân, địa
bàn dân cư rộng, số lượng học sinh tương đối đông. Công tác ứng dụng công
nghệ thông tin trong quản lí và giảng dạy của nhà trường có những thuận lợi và
khó khăn sau:
Thuận lợi:
Việc ứng dụng công nghệ thông tin luôn được nhà trường quan tâm và có
quan điểm tích cực trong việc chỉ đạo đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào
trong quản lý và giảng dạy nhằm thúc đẩy quá trình đổi mới phương pháp dạy
và học đạt hiệu quả. Nhà trường thường xuyên cập nhật các văn bản về quản lý,
sử dụng hệ thống thư điện tử của các cấp, đồng thời ban hành các quy định về
quản lý, sử dụng hệ thống thư điện tử, đảm bảo an toàn thông tin trong các hoạt
động để tăng cường nhận thức về ứng dụng công nghệ thông tin cho cán bộ giáo
viên, nhân viên trong điều hành và thực hiện công tác chuyên môn.
Phần lớn đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên nhà trường có ý
thức học tập và say mê với công nghệ thông tin, tâm huyết với nghề nghiệp cho
nên rất tích cực tiếp cận với khoa học, công nghệ và đã qua các lớp tập huấn bồi
dưỡng kĩ năng soạn thảo văn bản.
Nhà trường đã ký kết với VNPT, Viettel để cung cấp dịch vụ công nghệ
thông tin tốt nhất phục vụ cho công tác quản lý, điều hành và dạy - học trong
nhà trường.
Hầu hết đội ngũ giáo viên, nhân viên trong đơn vị đều có máy tính riêng,
được kết nối mạng Internet, có điện thoại thông minh có các tính năng truy cập

mạng internet. Đây là yếu tố thuận lợi giúp cho giáo viên có điều kiện tự học, tự
rèn về kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin, cách khai thác tài nguyên mạng
phục vụ cho công tác. Về cơ sở vật chất nhà trường có đủ phòng học, bàn ghế và
5


đồ dùng dạy học, có mạng wifi phủ sóng toàn bộ khu vực trường; có 2 máy
chiếu đa năng, 2 máy tính xách tay, 3 máy bàn, 2 tivi kết nối mạng...
Học sinh rất thích được học với các phương tiện dạy học hiện đại, qua đó
các em hào hứng, tự tin tham gia các hoạt động học tập, nắm bắt và ghi nhớ kiến
thức một cách hiệu quả hơn.
Khó khăn
Bản thân là Phó Hiệu trưởng mới được điều động về công tác tại trường
hơn 1 năm. Qua tiếp xúc, làm việc và tìm hiểu thực tế ban đầu, tôi nhận thấy
một số khó khăn lớn trong việc ứng dụng công nghệ thông tin ở nhà trường là:
Thứ nhất, trình độ, năng lực ứng dụng công nghệ thông tin của nhiều giáo
viên, nhân viên còn hạn chế. Ngoài trở ngại về tâm lí thì hạn chế lớn nhất ở đội
ngũ giáo nhà trường là:
Kĩ năng sử dụng phần mềm Excel trên máy tính. Đa số giáo viên sử dụng
thành thạo phần Word để soạn thảo văn bản, nhưng Excel thì hoàn toàn không
biết hoặc biết rất ít.
Việc khai thác và sử dụng các phần mềm quản lí và giảng dạy hiện đang
sử dụng như phần mềm Phổ cập giáo dục, phần mềm Cơ sở dữ liệu, phần mềm
sổ liên lạc điện tử Vnedu,... còn gặp nhiều khó khăn; chủ yếu do một số giáo
viên có khả năng sử dụng thành thạo máy tính trong trường đảm nhiệm. Có
những giáo viên hầu như không biết làm gì.
Với phần mềm soạn giáo án điện tử Powerpoint, phần mềm hỗ trợ soạn
giảng tương tác thông minh, sử dụng máy chiếu đa năng...., một số giáo viên chỉ
biết tải bài trên mạng về và nhờ người khác điều chỉnh qua theo ý mình sau đó
dạy, nên khi có vấn đề gì bất cập thì không biết cách xử lí. Chưa biết kết nối

máy chiếu nên thường nhờ người khác giúp. Vì vậy không thể chủ động trong
giảng dạy, làm ảnh hưởng ít nhiều đến tâm lí và hiệu quả giờ dạy.
Thứ hai, cơ sở vật chất phục vụ cho ứng dụng công nghệ thông tin tuy
được quan tâm đầu tư nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu thực tế. Hiện nhà
trường chưa có phòng máy, hệ thống máy tính, thiết bị dạy hiện đại tuy có
nhưng phần lớn đã cũ và còn thiếu nhiều. Do đó việc khai thác, sử dụng đôi lúc
gặp khó khăn và ít nhiều ảnh hưởng đến việc nâng cao chất lượng ứng dụng
công nghệ thông tin của cán bộ, giáo viên.
Thứ ba, nhà trường chưa có giáo viên Tin học để giảng dạy và hỗ trợ nhà
trường trong việc bồi dưỡng nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ thông tin
cho đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường từ đó nâng cao chất lượng
ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lí và giảng dạy.
Nguyên nhân: Tất cả những tồn tại, hạn chế trên đây do các nguyên nhân
chủ yếu như:
Về đội ngũ giáo viên: Trình độ tin học và khả năng ứng dụng công nghệ
thông tin của nhiều giáo viên còn hạn chế. Tính nhạy bén về công nghệ của đại
đa số giáo viên chưa cao. Mặt khác, về tâm lí, nhiều giáo viên chưa mạnh dạn,
6


tự tin, thậm chí luôn lo sợ làm hỏng máy khi sử dụng nên không dám làm và
luôn tìm biện pháp an toàn là nhờ người giúp - Đây chính là tâm lí an bài, ổn
định còn nặng nề của nhiều giáo viên.
Về cơ sở vật chất: Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho dạy học, đặc
biệt là phục vụ cho việc dạy tin học và ứng dụng công nghệ thông tin của nhà
trường mặc dù đã được quan tâm nhưng vẫn còn nhiều hạn chế: Thiếu các
phòng học chức năng, chưa có phòng máy tính; số máy tính phục vụ cho giảng
dạy và học tập còn ít (chỉ có 2 máy tính bàn, 2 máy xách tay - trong đó có 1 máy
quá cũ; 2 máy chiếu đa năng và 2 tivi có kết nối internet).
Bên cạnh đó, những năm trước đây, việc tổ chức đưa công nghệ thông tin

trong quản lí và giảng dạy cho đội ngũ giáo viên ở nhà trường chưa được quan
tâm đúng mức; chưa tạo được trường môi làm việc khoa học, nghiêm túc về ứng
dụng công nghệ thông tin để giáo viên được trải nghiệm và dần dần hình thành
các kĩ năng. Chẳng hạn khi triển khai một phần mềm mới, để đảm bảo nhanh
gọn, và độ chính xác cao, có trường vẫn tổ chức chuyên đề triển khai đến tất cả
giáo viên nhưng lại giao cho một hoặc một số giáo viên vững về lĩnh vực này
đảm nhiệm, các giáo viên khác chỉ cung cấp thông tin, số liệu. Hoặc làm lơ để
cá nhân giáo viên tự nhờ đồng nghiệp hoặc người khác làm hộ, miễn xong việc
là được. Như vậy đã vô tình làm mất đi cơ hội được tự nghiên cứu, học hỏi, trải
nghiệm để nâng cao kiến thức và kĩ năng tin học của mỗi cá nhân nên nhiều giáo
viên không biết làm.
Còn những hạn chế về sử dụng Excel là do hầu hết giáo viên chỉ được học
qua lớp bồi dưỡng tin học văn phòng 100 tiết chỉ tập trung vào soạn thảo văn
bản bên Word nên đương nhiên giáo viên không biết nhà trường không tổ chức
bồi dưỡng và giáo viên không tự học. Mặt khác, do nhà trường vẫn để giáo viên
nộp các danh sách, bảng biểu số liệu báo cáo làm bên Word, thậm chí là kẻ và
viết tay chứ không biết làm bên Execl ...
2.3. Các biện pháp giải quyết vấn đề
Từ những thực trạng nêu trên, tôi đã đi sâu nghiên cứu và đã áp dụng
thành công tại trường bằng một số biện pháp cơ bản sau:
2.3.1. Nâng cao nhận thức cho đội ngũ giáo viên
Muốn đưa công nghệ thông tin vào các nhà trường một cách đồng bộ và
hiệu quả trước hết phải nâng cao nhận thức cho đội ngũ giáo viên, bởi đây là lực
lượng chủ đạo trong mỗi nhà trường trực tiếp thực hiện nhiệm vụ ứng dụng công
nghệ thông tin trong quản lí và giảng dạy. Chính vì vậy tôi đã thường xuyên
tuyên truyền cho giáo viên thấy rõ hiệu quả và yêu cầu mang tính tất yếu của
ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lí và đổi mới phương pháp giảng dạy
thông qua nhiều hình thức như:
Trực tiếp triển khai nghiêm túc các văn bản chỉ đạo, các hướng dẫn sử
dụng các phần mềm ứng dụng của bộ, ngành về ứng dụng công nghệ thông tin

7


trong quản lí, giảng dạy; thông qua các buổi họp hội đồng sư phạm, sinh hoạt
chuyên môn tổ khối, tổ chức chuyên đề, hội thảo có liên quan.
Không chỉ dừng lại ở việc tuyên truyền, động viên, tôi còn gián tiếp thông
qua các hoạt động cụ thể như dự giờ thăm lớp - các tiết dạy có ứng dụng công
nghệ thông tin; qua việc triển khai các cuộc thi, giao lưu cấp trường, các hoạt
động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt động Đội.. có ứng dụng công nghệ thông
tin để nâng cao nhận thức cho đội ngũ giáo viên.
Cũng chính việc đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động
thường xuyên của nhà trường đã là minh chứng cụ thể, sinh động giúp giáo viên
ý thức và nhận rõ được vị trí, vai trò và hiệu quả của ứng dụng công nghệ thông
tin trong công tác giáo dục ở nhà trường giai đoạn hiện nay.
2.3.2. Quản lí, chỉ đạo việc đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào nhà
trường.
Để nâng cao hiệu quả quản lí, chỉ đạo việc ứng dụng công nghệ thông tin
trong nhà trường, ngay từ đầu năm học, tôi đã tham mưu với hiệu trưởng thống
nhất quy định về ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lí và giảng dạy ở nhà
trường một cách cụ thể như:
Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả các lĩnh vực hoạt
động của nhà trường từ quản lí, giảng dạy, chế độ thông tin hai chiều đến các
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt động Đội... Chẳng hạn, công tác trao
đổi thông tin báo cáo trong trường được duy trì và thực hiện thường xuyên trên
hộp thư (Email) nội bộ của nhà trường, các thông báo đột xuất được thực hiện
trên phần mềm VNEDU (mục Tin nhắn điều hành). Các loại kế hoạch đầu năm,
báo cáo sơ kết, tổng kết của các tổ chức, các bộ phận sẽ được gửi vào hộp thư
nội bộ để duyệt, bổ sung sau đó mới chỉnh sửa, in ấn. Các văn bản báo cáo, bảng
điểm, danh sách học sinh... phải làm trên máy tính, không viết tay; khi cần phải
nộp cả bản mềm và bản in có chữ kí của giáo viên và đặc biệt khuyến khích và

tạo cơ hội để giáo viên soạn thảo các loại bảng biểu trên Excel thay cho Word
bởi đây đang là điểm yếu của nhiều giáo viên... Phân công cán bộ và nhân viên
phụ trách việc hàng ngày truy cập vào các trang web của cấp trên để lấy thông
tin và xử lí thông tin kịp thời.
Nhà trường yêu cầu mỗi cán bộ, giáo viên, nhân viên phải có hộp thư cá
nhân. Ban giám hiệu sẽ thông báo công khai hộp thư cá nhân hoặc hộp thư riêng
của ban giám hiệu để giáo viên gửi các thông tin cẩn độ bảo mật cao như để
kiểm tra hoặc sáng kiến kinh nghiệm... của giáo viên.
Phát động sâu rộng phong trào sử dụng công nghệ thông tin trong giảng
dạy và đề ra chỉ tiêu cụ thể về số tiết dạy học có ứng dụng công nghệ thông tin
đối với mỗi giáo viên để chính họ có kế hoạch bồi dưỡng, tự bồi dưỡng nhằm
nâng cao hiệu quả của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, đặc
biệt là đối với đổi mới phương pháp dạy học trong giai đoạn hiện nay… Cụ thể,
nhà trường yêu cầu tất cả các tiết thao giảng, kiến tập của giáo viên đều soạn dạy
8


bằng giáo án điện tử (trừ môn Thể dục). Vì vậy khi lựa chọn tiết dạy thao giảng,
kiến tập tất cả quản lí, khối trưởng hay giáo viên đều phải chú ý đến yêu cầu
này. Hàng năm, mỗi giáo viên phải soạn dạy được ít nhất 3 tiết bằng giáo án
điện tử. Riêng giáo viên Tiếng Anh phải thường xuyên sử dụng Sách mềm và
thiết bị công nghệ thông tin hiện đại như ti vi kết nối mạng, điện thoại thông
minh để dạy học hàng ngày.
Tôi thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, đồng hành cùng với giáo viên trong
việc ứng dụng công nghệ thông tin để nắm bắt kịp thời những hạn chế, vướng
mắc, khó khăn của họ từ đó giúp họ tìm cách tháo gỡ. Phân công, chỉ đạo đội
ngũ cốt cán, thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ của mình trong quá trình thực hiện
từng phần việc.
Đặc biệt, để triển khai và thực hiện thành công việc đưa công nghệ thông
tin vào nhà trường thì trước hết, lãnh đạo nhà trường phải là người gương mẫu

đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động thường xuyên
của chuyên môn, quản lí nhà trường. Mặt khác, hạn chế tình trạng việc gì cũng
giao cho cấp dưới (những người vững tin học) giúp việc, làm thay. Bản thân là
Phó hiệu trưởng nhà trường nên tôi rất chú trọng thực hiện nói đi đôi với làm và
thường xuyên đưa ứng dụng của công nghệ thông tin vào các hoạt động chuyên
môn khi có thể. Các buổi tổ chức chuyên đề, hội thảo hay triển khai kế hoạch,
nhiệm vụ, triển khai các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên..., tôi thường chủ động
chuẩn bị và trình chiếu qua máy chiếu để giáo viên tiện theo dõi và dễ dàng nắm
bắt vấn đề. Cũng chính từ những việc làm cụ thể và thường xuyên của người
quản lí sẽ có sức ảnh hưởng, lan tỏa rộng rãi, không chỉ góp phần thay đổi nhận
thức mà còn tạo động lực cho giáo viên một cách chân thật và hiệu quả nhất.
2.3.3. Xây dựng đội ngũ cốt cán.
Xây dựng đội ngũ cốt cán: Để công tác bồi dưỡng nâng cao năng lực ứng
dụng công nghệ thông tin trong quản lí và giảng dạy cho đội ngũ giáo viên của
nhà trường đạt hiệu quả, đồng thời nâng cao chất lượng ứng dụng công nghệ
thông tin, từng bước đáp ứng yêu cầu của xã hội, tôi đã xây dựng và huy động
lực lượng nòng cốt cùng tham gia. Đó là các khối trưởng và những giáo viên cốt
cán trong từng lĩnh vực tin học. Biện pháp này tiến hành theo một quy trình sau:
Thứ nhất, dựa trên năng lực và uy tín, nhà trường đã chọn và phân công
một giáo viên có đủ năng lực và tâm huyết phụ trách ứng dụng công nghệ thông
tin, sẵn sàng tạo điều kiện cho giáo viên học tập và tham gia các lớp tập huấn để
nâng cao năng lực. Ngoài ra tôi còn chú trọng bồi dưỡng và chọn cử mỗi khối
một giáo viên có trình độ và kĩ năng tin học vững nhất chịu trách nhiệm chính để
được tập huấn và hỗ trợ đồng nghiệp trong khối công tác soạn giảng và ứng
dụng công nghệ thông tin. Hiện nay nhà trường đã có 1 giáo viên phụ trách ứng
dụng công nghệ thông tin, các khối trưởng và một số giáo viên có kĩ năng vi tính
thành thạo. Sau khi chọn được lực lượng nòng cốt, tôi đã trao đổi, định hướng,
thống nhất kế hoạch bồi dưỡng cho họ, giúp họ có thêm kinh nghiệm, tự tin
9



trong việc truyền kinh nghiệm, giúp đỡ đồng nghiệp nâng cao kiến thức, năng
lực chuyên môn. Thường xuyên theo dõi, giúp đỡ kịp thời khi họ gặp khó khăn.
Thứ hai, giao trách nhiệm: Ban giám hiệu giao trách nhiệm cho khối
trưởng chịu trách nhiệm chỉ đạo toàn diện các hoạt động của khối trong đó có
công tác bồi dưỡng giáo viên nói chung và bồi dưỡng nâng cao năng lực ứng
dụng công nghệ thông tin nói riêng. Còn các giáo viên cốt cán khác giỏi về lĩnh
vực tin học thì tập trung hỗ trợ giáo viên trong khối, nâng cao kĩ năng ứng dụng
công nghệ thông tin vào thực tế. Tùy theo thế mạnh và thời gian của mỗi người
mà chủ động, tự giác và tích cực trong việc hướng dẫn, giúp đỡ đồng nghiệp
trong khối khi cần sao cho linh hoạt, hiệu quả và kịp thời. Tuy nhiên, với
phương pháp này đòi hỏi khối trưởng, giáo viên cốt cán phải có sự khéo léo, tế
nhị, chân thành khi giúp đỡ; đối với giáo viên được giúp đỡ phải cởi mở, ham
học hỏi.
Thứ ba, tiến hành bồi dưỡng: Để tiến hành bồi dưỡng ở khồi đạt hiệu quả,
các khối trưởng luôn phải tổ chức nghiêm túc các buổi sinh hoạt chuyên môn
khối; nội dung sinh hoạt phải linh hoạt sát với thực tế của giáo viên, học sinh
trong khối và bám vào kế hoạch hoạt động của nhà trường. Các buổi sinh hoạt
khối hãy là dịp để giáo viên trong khối cùng làm, cùng trao đổi những kinh
nghiệm, những khó khăn, hạn chế trong học tập và thực hiện nhiệm vụ chuyên
môn đặc biệt là tháo gỡ hạn chế, vướng mắc trong lĩnh vực tin học; là dịp để
giáo viên được học hỏi lẫn nhau. Chính vì vậy, nâng cao chất lượng các buổi
sinh hoạt chuyên môn sát với yêu cầu thực tế luôn là nhiệm vụ quan trọng mà
người quản lí chuyên môn và các khối trưởng quan tâm, thực hiện. Các khối
phải quan tâm nhiều hơn đến những giáo viên còn hạn chế về kĩ năng ứng dụng
công nghệ thông tin để tạo điều kiện động viên, giúp đỡ kịp thời.
Qua triển khai trên thực tế, có khối đã làm tốt công tác tự bồi dưỡng nâng
cao năng lực ứng dụng công nghệ thông tin, giáo viên đã tự tin, năng động; kiến
thức, kĩ năng sử dụng máy tính từng bước được nâng lên; hiệu quả công việc và
chất lượng soạn giảng bằng giáo án điện tử có nhiều chuyển biến.

2.3.4. Bồi dưỡng nâng cao trình độ tin học và kỹ năng ứng dụng công
nghệ thông tin cho đội ngũ giáo viên.
Như đã trình bày, ngoài trở ngại về tâm lí thì hạn chế lớn nhất ở phần lớn
đội ngũ giáo viên nhà trường là kĩ năng sử dụng phần mềm Excel trên máy tính,
việc khai thác và sử dụng các phần mềm quản lí và giảng dạy hiện đang sử
dụng. Xác định được điều đó, tôi đã từng bước giúp giáo viên tháo gỡ những
khó khăn, vướng mắc thông qua một số việc làm cụ thể sau:
2.3.4.1. Bồi dưỡng một số kĩ năng tin học cơ bản Excel trên máy tính.
Với nội dung này, phần lớn giáo viên trong trường chưa biết sử dụng hoặc
sử dụng còn hạn chế. Trong khi đó các phần mềm quản lí, phổ cập và chuyên
môn hiện nay đều phải xuất, nhập dữ liệu bằng excel, nếu giáo viên không thành
thạo thì sẽ gặp khó khăn khi sử dụng. Chính vì vậy, tôi đã tổ chức thành chuyên
10


đề riêng để hướng dẫn trực tiếp trên máy tính - kết nối với máy chiếu. Giáo viên
có máy tính cá nhân để vừa ghi chép đến đâu vừa thực hành luôn đến đó. Nội
dung hướng dẫn chủ yếu là tập trung vào các thao tác cơ bản tối thiểu trong xử lí
bảng biểu như:
Mở file mới để tạo bảng (nhấp vào nút công cụ New hoặc và thực đơn
File
New;
Trình bày trang giấy, khổ giấy, lề (vào thực đơn File
Page Setup
Margins hoặc nhấp vào biểu tượng kính lúp - Print Preview trên thanh công cụ
chọn Setup vào Page để chon kiểu trang, vào Margins để căn lề)
Định dạng số (đặc biệt là ngày, tháng, năm sinh), phông chữ; định dạng
viền (vào thực đơn Format
Cells
...);

Căn chỉnh dữ liệu trong ô (vào thực đơn Format
Cells
Alignment... chú
ý sử dụng Wrap text khi chiều dài dữ liệu trong ô lớn hơn chiều rộng cột);
Chèn, xóa, ẩn, gộp hàng, cột; chỉnh khoảng cách các hàng, cột
Đánh số thứ tự tự động; sắp xếp họ tên theo thứ tự A, B, C; cách sử dụng
bộ lọc để tìm kiếm nhanh thông tin...
Tất cả các nội dung triển khai đến đâu tôi đều thao tác minh họa cụ thể để
giáo viên hiểu, ghi chép và thực hành theo trên máy cá nhân đến đó.
Ngoài việc tổ chức chuyên đề, tôi và đội ngũ cốt cán còn thường xuyên
hướng dẫn tháo gỡ, giải đáp các vướng mắc của giáo viên bất cứ lúc nào có thể
khi giáo viên cần.
Để giáo viên thường xuyên thực hành trên máy tính thì tất cả các bảng
biểu như danh sách học sinh, bảng điểm, các bảng số liệu báo cáo tôi thường yêu
cầu giáo viên soạn trên excel. Ban đầu, tôi thường soạn sẵn mẫu báo cáo hoặc
danh sách trên excel và yêu cầu giáo viên nhập trực tiếp thông tin, số liệu vào.
Khi thấy giáo viên đã thao tác ổn thì tôi chỉ thống nhất mẫu rồi yêu cầu giáo
viên tự thiết kế và hoàn thiện. Chính vì vậy, giáo viên đã nhanh chóng nâng cao
dần kĩ năng sử dụng Excel.
2.3.4.2. Bồi dưỡng kĩ năng sử dụng các phần mềm quản lí.
Để khắc phục tình trạng một hoặc một số giáo viên phụ trách gần như làm
thay tất thảy, dẫn đến nhiều giáo viên không biết làm, nên khi tiếp thu một
chuyên đề về sử dụng một phần mềm mới (như phần mềm cơ sở dữ liệu), tôi đã
chủ động tổ chức tập huấn tại trường cho tất cả đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân
viên một cách nghiêm túc, cẩn thận. Triển khai đến đâu, cho giáo viên thực hành
đến đấy, giáo viên phải tự vào để cập nhật thông tin của cá nhân và của học sinh.
Tôi luôn chú ý quan tâm giải đáp kịp thời những vướng mắc của giáo viên khi
thực hiện.
Với các phần mềm đã triển khai sử dụng từ trước (như phần mềm Phổ cập
giáo dục) thì tôi tổ chức chuyên đề “hâm nóng lại” (bởi vì còn nhiều giáo viên

lúng túng, khó khăn khi sử dụng). Tôi hướng dẫn lại cách sử dụng, đặc biệt lưu ý
giáo viên cách kiểm tra, đối chiếu và chỉnh sửa thông tin, số liệu hiện có (nếu sai
11


lệch hoặc có thay đổi); cách cập nhật, bổ sung thông tin mới ngay trước khi tổ
chức cho giáo viên truy cập vào hệ thống để cập nhật thông tin của năm học, kì
học mới.
Điều quan trọng là sau các chuyên đề đó, tôi giao nhiệm vụ trực tiếp đến
từng giáo viên để giáo viên được tự làm phần việc của lớp (thôn) mình phụ trách
dưới sự hỗ trợ của quản lí và đội ngũ cốt cán; trên tinh thần hướng dẫn, chỉ việc
chứ không làm thay, làm hộ. Và để đạt được chất lượng thực, tôi thường xuyên
kiểm tra đôn đốc; dành thời gian đối chiếu số liệu trực tiếp với từng giáo viên
nếu cần. Trường hợp có sai sót thì yêu cầu giáo viên chỉnh sửa, cập nhật ngay tại
chỗ. Điều này, vừa tạo cho giáo viên cơ hội trải nghiệm, học tập vừa giúp giáo
viên hiểu và nâng cao được ý thức, trách nhiệm, kĩ năng của bản thân trong từng
công việc; đồng thời buộc giáo viên phải trực tiếp học hỏi để tự mình hoàn thành
nhiệm vụ được giao, chứ không thể do dự, ỷ lại vào người khác.
Từ cách làm chặt chẽ và kiên quyết trên, đến nay hầu hết giáo viên đã tự
tin, mạnh dạn và có chuyển biến hơn trong việc khai thác, sử dụng các phần
mềm.
2.3.4.3. Bồi dưỡng nâng cao kĩ năng soạn giáo án điện tử.
Với các phần mềm hỗ trợ soạn giáo án điện tử, dựa vào khả năng hiện có
của giáo viên trong trường, tôi chỉ tập trung hướng dẫn những kĩ năng cơ bản
nhất. Chẳng hạn như cách chuyển đổi phông chữ, cách lựa chọn, thay đổi hiệu
ứng, thay đổi màu chữ, màu nền; cách vẽ hình; cách chèn hình ảnh do chính
giáo viên chụp từ sách giáo khoa hoặc từ thực tế ở lớp, trường, địa phương... vào
bài; cách chèn âm thanh…
Chỉ rõ cho giáo viên thấy một số vấn đề mà giáo viên thường mắc khi
soạn giáo án điện tử như: lạm dụng công nghệ thông tin. Chẳng hạn, sử dụng

hiệu ứng quá rối làm học sinh mất tập trung; có quá nhiều màu sắc và có màu
sắc không phù hợp dẫn đến mờ khi trình chiếu lên màu chữ mờ nhạt, khó đọc.
Đưa quá nhiều thông tin liên quan, hình ảnh minh họa vào bài làm bài giảng dàn
trải, không nổi bật trọng tâm và học sinh khó nắm bắt kiến thức. Hay giáo viên
sử dụng song song cả hai bảng mà không xác định bảng chính và và bảng phụ để
trình bày bảng khoa học...
Hướng dẫn cách kết nối máy tính với máy chiếu và sử dụng một số thao
tác trên máy chiếu như phóng to, thu nhỏ, chỉnh độ nét, chỉnh sáng tối, chỉnh độ
vuông vắn của màn hình... Tôi hướng dẫn giáo viên thức hành tại chỗ theo nhóm
và chỉ đạo hướng dẫn khi chuẩn bị giờ dạy trên lớp trong thời gian đầu sau đó để
giáo viên tự làm.
Một vấn đề quan trọng, cần thiết trong ứng dụng công nghệ thông tin vào
giảng dạy là bên cạnh đòi hỏi năng lực của người thầy khi sử dụng còn là sự
sáng tạo linh hoạt để biến công nghệ thông tin thành lợi thế hiệu quả thay vì
cứng nhắc, hoặc sử dụng cho đủ. Để xây dựng một giáo án điện tử mất thời gian,
đòi hỏi giáo viên phải có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin thành thạo,
12


phải đầu tư ý tưởng… nhưng thời gian một tiết học theo quy định chung sẽ khó
khăn về mặt thời gian để vừa lắp đặt máy móc lẫn truyền tải nội dung đầy đủ. Vì
vậy, nhà trường luôn động viên khuyến khích giáo viên có sự tìm tòi đổi mới
phương pháp dạy học… thay vì buộc giáo viên phải triển khai giáo án điện tử
thường xuyên nhưng lại không kiểm định về chất lượng thu được sau mỗi giờ
dạy. Nhà trường chỉ đề ra chỉ tiêu mỗi giáo viên phải soạn dạy tối thiểu 3 - 4 tiết
bằng giáo án điện tử/năm. Do đó, giáo viên phải biết tùy nội dung, khối lượng
kiến thức của từng bài cụ thể mà lựa chọn cách đổi mới phương pháp dạy học
này. Sử dụng ra sao, khi nào cần thiết… đòi hỏi giáo viên linh động, sáng tạo,
chứ không nên quá phụ thuộc để trở nên bị động, chạy theo công nghệ.
2.3.4.4. Khuyến khích giáo viên tự học, tự bồi dưỡng.

Các nội dung bồi dưỡng nêu trên không thể chỉ tổ chức qua một vài
chuyên đề là giáo viên làm tốt được mà chủ yếu là do giáo viên phải thực sự say
mê, và tự học, tự bồi dưỡng thêm. Mỗi giáo viên phải tự biết được mình yếu ở
điểm nào, mình cần gì để đáp ứng được yêu cầu thực tế, từ đó chủ động có kế
hoạch tự học, tự bồi dưỡng. Vì vậy tôi luôn khuyến khích, động viên giáo viên
tự học, tự bồi dưỡng qua trao đổi học hỏi đồng nghiệp, học qua tài liệu, sách
báo; đặc biệt học qua internet...
Để giúp giáo viên làm được điều này, tôi luôn chú ý phát huy tốt vai trò
của đội ngũ cốt cán. Họ luôn là người đồng hành và sẵn sàng hỗ trợ kịp thời khi
giáo viên gặp khó khăn. Bản thân tôi cũng luôn quan tâm sâu sát, cùng làm với
giáo viên. Qua đó mới hiểu được họ yếu ở điểm nào, gặp khó khăn ở khâu nào,
cần giúp đỡ gì; sẵn sàng giải đáp, hướng dẫn những vướng mắc của giáo viên kể
cả trực tiếp trên máy tính hoặc gián tiếp qua điện thoại. Tôi luôn tạo cho giáo
viên cảm giác thoải mái, nhẹ nhàng, thân thiện khi trao đổi tập thể hoặc cá nhân.
Khuyến khích giáo viên mạnh dạn trao đổi học hỏi lẫn nhau mọi lúc, mọi nơi;
người biết nhiều chỉ cho người biết ít.
Trong công tác chỉ đạo tổ chức bồi dưỡng thường xuyên giáo viên Tiểu
học hàng năm luôn được nhà trường quan tâm, chỉ đạo sát sao và kiểm tra, đánh
giá nghiêm túc. Trong năm học 2018 - 2019, tôi đã triển khai và chỉ đạo thực
hiện nghiêm túc Công văn số 220 /PGDĐT ngày 20 tháng 9 năm 2018 của Phòng
Giáo dục và Đào tạo Thọ Xuân về việc Hướng dẫn công tác bồi dưỡng thường
xuyên giáo viên năm học 2018-2019. Trong Nội dung 2 nhà trường đã lựa chọn
cho tất cả cán bộ, giáo viên trong nhà trường nghiên cứu Chỉ thị số 16/CP-TTg
của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc CMCN 4.0; Kế
hoạch số 164/KH-UBND ngày 25/9/2017 của UBND tỉnh về thực hiện Chỉ thị
số 16/CP-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường năng lực tiếp cận
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4; Tham khảo trên sách, báo, mạng
Internet…về Cách mạng công nghiệp 4.0, qua đó giáo viên đưa ra "Những cơ
hội, thách thức của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với ngành giáo dục",
để từ đó đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin, khoa học công nghệ vào

công tác quản lý, dạy học trên phạm vi toàn Ngành, góp phần nâng cao chất
13


lượng giáo dục và đào tạo. Cuối năm, tôi đã yêu cầu tất cả cán bộ, giáo viên
trong trường đều phải viết bài về "Những cơ hội và thách thức của cuộc Cách
mạng công nghiệp 4.0 đối với ngành giáo dục". Có chấm phân loại các bài viết
của giáo viên; lựa chọn một bài viết có chất lượng tốt nhất gửi về Phòng Giáo
dục và Đào tạo để tổng hợp, lựa chọn phổ biến cho toàn thể cán bộ, giáo viên
của ngành giáo dục.
Ngoài ra, trong năm học 2018 - 2019, nhà trường đã động viên và tạo điều
kiện cho 8 giáo viên tham gia học bồi dưỡng để nâng cao trình độ Tin học và
tiếng Anh.
2.3.5. Tạo môi trường và điều kiện để giáo viên có cơ hội trải nghiệm.
Môi trưòng làm việc có ảnh hưởng rất nhiều đến ý thức, thái độ và hiệu
quả công việc. Chẳng hạn việc trao đổi thông tin báo cáo trong nhà trường
thường sử dụng là viết thông báo trên bảng, các văn bản viết tay thì sản phẩm
tạo ra là các sản phẩm “thủ công” là chính. Nhưng nếu nhà trường tạo ra môi
trường trao đổi thông tin chủ yếu bằng hộp thư điện tử, các trang web, và các
văn bản đánh máy, in thì sản phẩm tạo ra sẽ phải sử dụng công nghệ thông tin. Ý
thức được điều đó, tôi đã tham mưu với Ban Giám hiệu nhà trường thay việc
viết thông báo trên bảng (như trước đây) bằng việc thường xuyên trao đổi thông
tin, báo cáo thông qua hộp thư điện tử của nhà trường hay tin nhắn điều hành
VNEDU. Các loại báo cáo, bảng biểu, danh sách học sinh... nộp về chuyên môn,
nhà trường phải là bản đánh máy chứ không phải viết tay. Mặt khác, các loại
danh sách, bảng biểu thống kê, báo cáo số liệu tôi thường soạn mẫu trên excel và
yêu cầu giáo viên làm bằng excel và nộp 1 bản mềm qua hộp thư nhà trường và
1 bản in. Từ đó kĩ năng sử dụng máy tính, mạng internet của giáo viên được
nâng lên rõ rệt.
Không dừng lại ở đó, tất cả các phần mềm giáo dục tôi đều phân công cụ

thể đến từng giáo viên, giáo viên phụ trách lớp (môn hoặc thôn) nào thì chịu
trách nhiệm cập nhật lớp (môn hoặc thôn) đó, không được ỷ lại vào giáo viên
phụ trách công nghệ thông tin hoặc cốt cán trong khối; không nhờ làm thay, làm
giúp.
Chẳng hạn phần mềm cơ sở dữ liệu, tôi hướng dẫn và yêu cấu tất cả cán
bộ, giáo viên, nhân viên tự cập nhật thông tin ban đầu của giáo viên, của học
sinh vào phần mềm, tự cập nhật kết quả kiểm tra đánh giá của học sinh lớp
(môn) mình phụ trách, bổ sung thông cá nhân hàng năm (như khen thưởng, tăng
bậc lương, phụ cấp thâm niên...) vào đúng thời điểm theo lịch của cấp trên. Tôi
cùng với đội ngũ cốt cán thường xuyên kiểm tra đôn đốc và giúp đỡ kịp thời trên
tinh thần hướng dẫn cách làm, cùng tháo gỡ chứ không làm thay. Bởi tôi thấy
rằng, một số quản lí chỉ vì để đảm bảo an toàn, chính xác, đúng tiến độ và nhẹ
nhàng trong công tác tổ chức thực hiện nên đã giao việc phụ trách và cập nhật
các phần mềm cho giáo viên tin học hoặc giáo viên cốt cán, các giáo viên khác
chỉ có nhiệm vụ cung cấp thông tin, số liệu theo yêu cầu là xong. Làm như vậy,
14


đã vô tình làm mất đi cơ hội trải nghiệm, thực hành của giáo viên ngay tại nhà
trường và mãi mãi giáo viên không biết làm.
Luôn khuyến khích, chỉ đạo và tạo điều kiện cho giáo viên tổ chức các hoạt
động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt động Đội, sinh hoạt Câu lạc bộ, bồi dưỡng học
sinh năng khiếu... với chương trình và phương tiện hiện đại như “Rung chuông
vàng”, “Vườn hoa kiến thức”, Hội thi “Tìm hiểu kiến thức An toàn giao thông”... có
ứng dụng công nghệ thông tin. Từ khai thác, tìm hiểu các thông tin, kiến thức từ
internet; tham khảo các đề thi, câu hỏi từ các ngân hàng đề trên mạng, đến việc thiết
kế nội dung chương trình, các đề thi và tổ chức thi, giao lưu...
Ngoài ra, bản thân tôi luôn có ý thức sưu tầm và chụp lại các hình ảnh về
các hoạt động của nhà trường, sau đó sử dụng phần mềm làm phim đơn giản,
lồng ghép kênh chữ và âm thanh vào để giới thiệu về nhà trường trong các dịp tổ

chức đại hội hay sự kiện lớn.
Năm học 2018 - 2019, tôi đã tham mưu với nhà trường đưa phần mềm Sổ
liên lạc điện tử Vnedu vào sử dụng trong nhà trường và tôi là người trực tiếp phụ
trách từ việc triển khai hướng dẫn GV sử dụng đến duy trì, điều hành hoạt động
thường xuyên của phần mềm. Mặc dù là năm đầu tiên thực hiện nhưng nhà
trường đã tuyên truyền, vận động được gần 3/4 số cha mẹ học sinh đăng kí tham
gia sử dụng sổ liên lạc điện tử. Hiện nay phần mềm vẫn được khai thác sử dụng
thường xuyên, hiệu quả. Cuối tháng 1 năm 2019, được sự quan tâm của ủy ban
nhân dân huyện đã hỗ trợ kinh phí để các nhà trường được tập huấn và triển khai
sử dụng phần mềm soan giáo án thông minh. Đây là cơ hội, là nguồn tài nguyên
mới để giáo viên khai thác và sử dụng trong quá trình dạy học.
Bên cạnh đó, nhà trường luôn tạo điều kiện thuận lợi về thời gian, trang
thiết bị, tài liệu và cơ sở vật chất tốt nhất (có thể) để giáo viên có điều kiện, môi
trường tự học, tự bồi dưỡng. Hướng dẫn và khuyến khích giáo viên sử dụng
nguồn tài nguyên tri thức vô cùng đa dạng, phong phú và tiện lợi đó là mạng
internet, các trang web của Phòng, Sở, violet... Giới thiệu và khuyến khích giáo
viên, học sinh tìm hiểu, tham khảo thêm các video, các phần mềm dạy học trực
tuyến theo lớp, theo môn trên internet. Từ đó tập cho giáo viên thói quen khai
thác thông tin và tự học hỏi nâng cao kiến thức, kĩ năng thông qua kênh thông
tin này. Riêng môn Tiếng Anh, từ cuối năm học 2017 - 2018, nhà trường đã lắp
đặt tivi kết nối internet tại phòng học, giáo viên sử dụng sách mềm và phương
tiện dạy học như điện thoại thông minh, kết nối với tivi và loa để dạy hàng ngày.
Chính môi trường và điều kiện làm việc thay đổi đã tạo được sự chuyển
biến rõ rệt về tâm lí và kĩ năng ứng dụng công nghệ thông tin trong đội ngũ giáo
viên. Tất cả giáo viên ai cũng phải tham gia học và tự học hỏi để có thể hoàn
thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
2.3.6. Tăng cường công tác tham mưu xây dựng cơ sở vật chất, trang
thiết bị
15



Tính đến nay, nhà trường vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn về cơ sở vật
chất nhưng được sự quan tâm của lãnh đạo các cấp cùng với sự tích cực tham
mưu của ban giám hiệu nhà trường nên cơ sở vật chất về tin học và công nghệ
thông tin của nhà trường đã và đang từng bước được cải thiện. Năm 2018 nhà
trường đã trang bị thêm 1 máy chiếu đa năng, 1 ti vi 49 in, 1 laptop, 1 bộ tăng
âm loa đài. Hiện tại nhà trường đã có 2 máy chiếu, 2 ti vi kết nối mạng, 5 máy
tính (trong đó có 2 máy xách tay của quản lí) và một số phương tiện khác; hệ
thống mạng wifi phủ sóng khắp các khu vực trường và hệ thống dây cáp mạng
đến từng phòng làm việc của khu hành chính và các phòng chức năng, các khu
phòng học. Ban giám hiệu nhà trường đang có kế hoạch huy động, và tiết kiệm
các nguồn kinh phí để thay mới hệ thống đường điện; trang bị thêm máy tính
xách tay cho các tổ khối chuyên môn vào đầu năm học mới 2019 - 2020 để phục
vụ giáo viên tra cứu thông tin phục vụ nghiên cứu và soạn giảng nhằm nâng cao
chất lượng dạy và học.
Ngoài việc quan tâm tham mưu đầu tư cơ sở vật chất nhà trường, tôi còn
chú ý tư vấn, khuyến khích và động viên giáo viên mua máy tính xách tay vừa
gọn nhẹ, vừa tiện lợi cho việc sử dụng. Mặt khác, hệ thống máy tính bàn của
nhiều giáo viên mua từ lâu cũng đã đến lúc hư hỏng nhiều phải thay thế hoặc
cấu hình máy thấp nên hạn chế khi sử dụng. Trong năm học 2018 - 2019 đã có
thêm 3 giáo viên mua được máy tính xách tay.
2.3.7. Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá, thi đua, khen thưởng.
Kiểm tra, đánh giá là khâu quan trọng trong quá trình tiến hành tổ chức
các hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin. Kiểm tra, đánh giá thường xuyên,
liên tục và nghiêm túc sẽ giúp giáo viên và học sinh điều chỉnh, bổ sung kịp thời
những mặt còn hạn chế. Từ đó sẽ góp phần thúc đẩy việc nâng cao kĩ năng ứng
dụng công nghệ thông tin cho đội ngũ.
Thường xuyên kiểm tra ý thức và hiệu quả làm việc của giáo viên trong
tất cả các khâu của quá trình tổ chức hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin.
Qua kiểm tra, quản lí có thể nắm bắt được những khó khăn, vướng mắc để cùng

tháo gỡ đồng thời điều chỉnh những lệch lạc về tư tưởng về kết quả công việc
một các kịp thời, hiệu quả (nếu có), từ đó rút kinh nghiệm cho cán bộ, giáo viên.
Cũng thông qua việc kiểm tra, giám sát, quản lí đánh giá được chính xác năng
lực của mỗi giáo viên trong từng công việc, từ đó có biện pháp phát huy hoặc
bồi dưỡng phù hợp.
Việc kiểm tra đánh giá kết quả ứng dụng công nghệ thông tin của giáo
viên, nhân viên được thực hiện lồng ghép thường xuyên thông qua các hoạt
động chuyên môn như việc cập nhật thông tin số liệu phổ cập; cập nhật thông tin
kết quả đánh giá học sinh trong phần mềm cơ sở dữ liệu và VNEDU; qua dự giờ
thăm lớp; qua việc thực hiện chế độ thông tin báo cáo hai chiều trong nhà
trường...
16


Việc kiểm tra đánh giá được thực hiện công khai, khách quan và công
bằng góp phần thúc đẩy, nâng cao hiệu quả của hoạt động ứng dụng công nghệ
thông tin trong nhà trường. Gắn kết quả hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin
vào tiêu chí để bình xét đánh giá xếp loại thi đua hàng tháng, kì, năm của giáo
viên. Đề nghị tuyên dương, khen thưởng những giáo viên có thành tích xuất sắc
trong tất cả các lĩnh vực hoạt động trong đó có việc ứng dụng công nghệ thông
tin trong quản lí và giảng dạy một cách tích cực và hiệu quả. Nhân rộng các điển
hình tiên tiến trong đơn vị, khích lệ và xây dựng phong trào đưa công nghệ
thông tin vào nhà trường một cách nhẹ nhàng, hào hứng và hiệu quả.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Từ việc áp dụng các biện pháp nêu trên, công tác bồi dưỡng nâng cao kĩ
năng ứng dụng công nghệ thông tin cho đội ngũ giáo viên của nhà trường trong
2 năm gần đây đã có nhiều chuyển biến. Cụ thể:
Về tâm lí: Hầu hết giáo viên trong trường đã xóa bỏ được rào cản tâm lí
khi đứng trước sự đa dạng, phong phú và hiện đại của công nghệ thông tin. Họ

đã hiểu được sự cần thiết phải đưa các ứng dụng của công nghệ thông tin vào
quản lí và giảng dạy trong các nhà trường. Ý thức tự giác, tích cực, chủ động và
sáng tạo trong công việc cũng như trong công tác tự học tự bồi dưỡng được nâng
lên nhiều. Từ những ngại khó, sợ mới ban đầu, đến này giáo viên đã thực hiện
các bài giảng điện tử, các tiết học có ứng dụng công nghệ thông tin một cách tự
giác và hiệu quả chứ không hề có tính áp đặt, chỉ tiêu. Ban giám hiệu cũng như
giáo viên đều ý thức rõ việc đầu tư mua sắm máy tính xách tay và các trang thiết
bị dạy học hiện đại là thật sự cần thiết. Vì vậy cả tập thể và cá nhân đều đã có ý
thức và kế hoạch đầu tư cơ sở vật chất hợp lí.
Về kĩ năng ứng dụng công nghệ thông tin của nhiều giáo viên đã chuyển
biến rõ rệt. Từ chỗ phần lớn giáo viên không biết sử dụng excel, đến nay phần
lớn đã biết các thao tác cơ bản cần thiết với các bảng biểu trên phần mềm Excel
của máy tính; Các phần mềm giáo dục đang sử dụng hiện nay đã được giáo viên
sử dụng thành thạo hơn, đã tự chủ động cập nhật theo đúng nội dung và thời
gian quy định. Công tác soạn giảng bằng giáo án điện tử cũng được nâng cao về
cả nội dung, hình thức và phương tiện sử dụng. Giáo viên khai thác có hiệu quả
phần mềm Powerpoint, khắc phục được các lỗi thường gặp trong quá trình soạn
giảng; có kỹ năng tra cứu thông tin phục vụ công tác nghiên cứu, nâng cao kiến
thức chuyên môn và lấy tư liệu hỗ trợ soạn giảng; sử dụng các phần mềm hỗ trợ
làm đề thi/kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của học sinh giúp công việc
được tiến hành khoa học và tiết kiệm được nhiều thời gian. Nhà trường cũng đã
nhận rộng được phong trào tự học hỏi, nâng cao khả năng ứng dụng công nghệ
thông tin trong mọi hoạt động.
Về chuyên môn: Qua kiểm tra, dự giờ thăm lớp, qua các hội thi cho thấy
việc đổi mới phương pháp, chất lượng dạy học của đội ngũ giáo viên được nâng
17


lên. Khả năng hiểu biết và ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học ngày
một chuyên sâu hơn, 100% giáo viên đã biết ứng dụng công nghệ thông tin trong

công việc, đặc biệt là soạn dạy bằng giáo án điện tử. Hầu hết các tiết thao giảng,
thanh tra, kiểm tra, giáo viên đều sử dụng giáo án điện tử. Trong các tiết dạy,
giáo viên đã khắc phục được tình trạng lạm dụng công nghệ thông tin trong soạn
dạy.
Học sinh cũng rất hào hứng và tích cực tham gia các hoạt động học tập, tự
tin và mạnh dạn hơn khi học với các phương tiện dạy học hiện đại. Từ đó các em
nắm bài tốt hơn, chất lượng học tập cũng được cải thiện.
Kết quả thanh tra của Phòng Giáo dục - Đào tạo năm 2017 - 2018: thanh
tra 18 giáo viên: về hồ sơ 14/18 bộ hồ sơ xếp loại tốt; 4 bộ xếp khá; dự 18 giờ
trong đó có 15 giờ giỏi, 3 giờ khá, 17/18 giờ dạy bằng giáo án điện tử (trừ 1 giờ
thể dục); không có hồ sơ và giờ dạy trung bình. Năm học 2018 - 2019, nhà
trường đã có khoảng trên 60 tiết dạy bằng giáo án điện tử, bình quân 3 tiết/1
giáo viên. Riêng môn Tiếng Anh, từ cuối năm học 2017 - 2018, giáo viên sử
dụng sách mềm và phương tiện dạy học chủ yếu là điện thoại thông minh, kết
nối với tivi và loa. Chính vì vậy mà học sinh rất thích được học tiếng Anh và
chất lượng dạy học có nhiều chuyển biến.
Năm học 2018 - 2019, phong trào ứng dụng công nghệ thông tin không chỉ
lan tỏa trong đội ngũ giáo viên mà còn có sức lan tỏa rộng rãi đến cha mẹ học sinh
nhà trường. Với 3/4 số cha mẹ học sinh tham gia sử dụng sổ liên lạc điện tử (trong
năm đầu tiên triển khai) đã giúp thông tin của nhà trường, giáo viên đến với cha mẹ
học nhanh gọn, tiện lợi và tiết kiệm được rất nhiều thời gian. Giáo viên hoàn toàn
chủ động, linh hoạt về nội dung và thời gian liên lạc với một hoặc nhiều học sinh.
Chình vì vậy việc phối kết hợp giữa nhà trường và gia đình đã thường xuyên và
hiệu quả hơn rất nhiều so với những năm trước đây.
Tính đến cuối tháng 5 năm 2019 nhà trường đã có thêm 8 giáo viên hoàn
thành các khóa học bồi dưỡng tin học và đã được cấp chứng chỉ Tin học cơ bản.
Việc tổ chức cho cán bộ, giáo viên tham gia viết bài thu hoạch về "Những cơ hội
và thách thức của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với ngành giáo dục".
Kết quả: có 23 bài/23 cán bộ, giáo viên tham gia viết bài. Trong đó số bài đạt Tốt là
10 bài, Khá 13 bài và chọn được một bài xuất sắc để nộp về Phòng Giáo dục.

Về phía nhà trường, cuối tháng 12/2018, nhà trường đã được kiểm tra công
nhận Chuẩn Quốc gia mức độ 1 sau 5 năm, được UBND Tỉnh và Sở Giáo dục
đánh giá cao; trường đạt Chuẩn Phổ cập Tiểu học Mức độ 3; được xét là một
trong bốn trường Tiểu học đầu tiên của huyện đủ tiêu chuẩn xét “Cơ quan Kiểu
mẫu”. Chi Hội khuyến học trường Tiểu học Xuân Bái cũng là chi hội trường
Tiểu học duy nhất trong huyện được huyện hội khuyến học tặng giấy khen trong
năm học 2018 - 2019.
Về phía bản thân, qua thời gian nghiên cứu và thực hiện đề tài sáng kiến
kinh nghiệm trên, tôi cũng đã phải tự học hỏi nâng cao hơn kiến thức tin học, kĩ
18


năng ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lí, giảng dạy. Việc ứng dụng
công nghệ thông tin đã giúp tôi làm việc khoa học, nhanh gọn, hiệu quả và tiết
kiệm thời gian hơn. Qua triển khai đề tài cũng đã trang bị thêm cho bản thân
những kinh nghiệm để tổ chức, thực hiện tốt nhiệm vụ ứng dụng công nghệ
thông tin trong quá trình quản lí, chỉ đạo; cách khơi dậy ở đội ngũ giáo niềm tin
đến thói quen và sự hứng thú, say mê học hỏi và ứng dụng công nghệ thông tin
không chỉ trong công tác giáo dục mà trong tất cả mọi kĩnh vực của cuộc sống.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Với việc áp dụng các biện pháp nâng cao khả năng ứng dụng công nghệ
thông tin trong quản lí và giảng dạy cho đội ngũ giáo viên bước đầu đã tạo
những chuyển biến rõ nét trong nhận thức và việc làm của mỗi giáo viên và của
cả cha mẹ học sinh. Chính từ thực tế đó, bản thân tôi đã rút ra những bài học
kinh nghiệm sau:
Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lí, giảng dạy góp phần đổi
mới phương pháp, nâng cao hiệu quả quản lí và giảng dạy. Đây là một công việc
khó khăn, lâu dài, đòi hỏi rất nhiều điều kiện về cơ sở vật chất và năng lực của
đội ngũ giáo viên. Do đó, để đẩy mạnh việc ứng dụng và phát triển công nghệ

thông tin trong quản lí và giảng dạy có hiệu quả cần có sự quan tâm đầu tư về cơ
sở vật chất của các cấp, sự chỉ đạo đồng bộ của ngành - của mỗi nhà trường, và
đặc biệt là sự nỗ lực học hỏi, rút kinh nghiệm của bản thân mỗi giáo viên.
Để xây dựng được phong trào “Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin”
trong nhà trường thì trước hết người quản lí phải luôn gương mẫu, đi đầu trong
việc ứng dụng công nghệ thông tin; có biện pháp quản lí, chỉ đạo đồng bộ,
nghiêm túc việc ứng dụng công nghệ thông tin trong từng lĩnh vực hoạt động
của nhà trường; linh hoạt, chủ động và kiên quyết trong việc đưa ứng dụng công
nghệ thông tin vào trong quản lí và tổ chức các hoạt động giáo dục của nhà
trường một cách đồng bộ và hiệu quả.
Luôn tạo môi trường và điều kiện làm việc tốt nhất (có thể) để giáo viên
phát huy hết được năng lực của bản thân và có cơ hội được học tập, nâng cao
năng lực của bản thân về chuyên môn nghiệp vụ nói chung và lĩnh vực Tin học
nói riêng ngay tại trường.
Ứng dụng của công nghệ thông tin trong giáo dục và đời sống là vô cùng
phong phú và không ngừng phát triển, vì vậy mỗi cán bộ quản lí và giáo viên
phải không ngừng tự học, tự bồi dưỡng và cập nhật thường xuyên những tiến bộ
và tác dụng vượt trội của công nghệ thông tin trong giáo dục nhằm nâng cao
kiến thức và khả năng ứng dụng công nghệ thông tin, từ đó từng bước nâng cao
chất lượng giáo dục và góp phần đào tạo nguồn nhân lực thời đại công nghiệp
4.0. Đây là nhiệm vụ quan trọng và nặng nề mà mỗi cán bộ, giáo viên trong mỗi
nhà trường phải ý thức được.
3.2. Kiến nghị
19


Chúng ta đều nhận thức rõ vai trò của công nghệ thông tin trong mọi lĩnh
vực của cuộc sống và hơn ai hết chúng ta cũng nhận thức rõ lợi ích của việc ứng
dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy và học tập. Vì vậy, để triển khai việc
ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lí và giảng dạy của nhà trường

được hiệu quả hơn trong thời gian tới, tôi xin có một số đề xuất sau:
Đối với cấp trường:
Làm tốt công tác tham mưu, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm các
trong thiết bị tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ, giáo viên nâng cao trình độ, kỹ
năng ứng dụng công nghệ thông tin. Tổ chức bồi dưỡng nâng cao trình độ tin
học và kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin cho toàn thể giáo viên ít nhất mỗi
năm một lần. Tuyên dương, khuyến khích những cá nhân xuất sắc.
Đối với Phòng và Sở Giáo dục:
Tiếp tục quan tâm tạo điều kiện để các nhà trường tiếp cận tốt với các ứng
dụng của công nghệ thông tin, các phần mềm về dạy và học. Tổ chức thêm các
chuyên đề bồi dưỡng kĩ năng ứng dụng công nghệ thông tin cho đội ngũ giáo
viên
Tăng cường tham mưu, tạo điều kiện để các nhà trường có thêm kinh phí
tu bổ, mua sắm thêm cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học hiện đại nhằm đáp
ứng được nhu cầu ứng dụng công nghệ thông tin của cán bộ, giáo viên, nhân
viên và học sinh trong nhà trường.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 27 tháng 5 năm 2019

HT

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.

Người thực hiện

Đỗ Đình Mậu


Trịnh Thị Liệu

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chỉ thị 29/2001/CT-BGD&ĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
ngày 30 tháng 7 năm 2001.
2. Chỉ thị 55/2008/CT-BGDĐT về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng
dụng công nghệ thông tin trong ngành giáo dục giai đoạn 2008-2012 do Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành ngày 30/09/2008.
3. Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và hỗ
trợ các hoạt động dạy-học, nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục và đào tạo giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025” (kèm theo
QĐ số 117/QĐ-TTg ngày 25/01/2017 của Thủ tướng Chính phủ).

21


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Trịnh Thị Liệu
Chức vụ và đơn vị công tác: Phó Hiệu trưởng trường Tiểu học Xuân Bái - Thọ Xuân
Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
Năm học

giá xếp loại
TT
Tên đề tài SKKN
xếp loại đánh giá xếp
(Phòng, Sở,
(A, B,
loại
Tỉnh...)
hoặc C)
Phương pháp dạy vẽ tranh đề
1.
Phòng
C
1997-1998
tài cho học sinh lớp 1
Đổi mới phương pháp, khắc
phục một số hạn chế của
2.
Phòng
C
2000-2001
SGK ở một số bài Từ ngữNgữ pháp lớp 4
Thiết kế trò chơi góp phần
đổi mới phương pháp dạy học
3.
Phòng
B
2003-2004
trong giờ học toán lớp 2 chương trình 2000
Một số biện pháp giúp giáo

4. viên vận dụng tính chất của
Sở
C
2007-2008
các phép tính vào tính nhanh
Một số biện pháp chỉ đạo
nhằm đổi mới, nâng cao chất
5.
Phòng
C
2009-2010
lượng Hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp
Một số biện pháp hướng dẫn,
6 chỉ đạo soạn, dạy bằng giáo
Phòng
C
2012-2013
án điện tử.
Một số biện pháp bồi dưỡng
nâng cao chất lượng chuyên
7
Phòng
C
2014-2015
môn cho đội ngũ giáo viên ở
trường tiểu học
Một số BP giúp HS lớp 5 học
8 tốt dạng toán Tính nhanh dãy
Phòng

C
2016-2017
PS
Một số BP nâng cao khả năng
ứng dụng công nghệ thông tin
9
Phòng
B
2018-2019
trong quản lí, giảng dạy cho
đội ngũ giáo viên Tiểu học
22



×