Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học môn khoa học lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.73 KB, 14 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

Đổi mới phương pháp dạy học nhằm giáo dục học sinh phát triển toàn
diện là cơ sở khoa học thực tiễn của thời đại, là xu hướng tất yếu của xã hội, là
vấn đề chung trong toàn ngành giáo dục. Năm học 2017-2018 vẫn được xác định
là “Năm học tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, đổi mới quản lí
giáo dục và xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”[1]. Trong những
năm gần đây, ngành giáo dục đã ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học. Đối
với ngành giáo dục đào tạo công nghệ thông tin có tác dụng mạnh mẽ, làm thay
đổi nội dung và phương pháp dạy học. Chính vì vậy, việc đưa công nghệ thông
tin vào giảng dạy là thực hiện chủ trương đổi mới trong dạy học nhằm nâng cao
chất lượng giảng dạy đáp ứng yêu cầu, mục tiêu đổi mới chương trình giáo dục
phổ thông. Ứng dụng công nghệ thông tin vào việc dạy và học cũng nhằm thực
hiện chủ trương “Cải tiến phương pháp dạy học”[3], phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh. Giáo viên chỉ là người tổ chức các hoạt động thông
qua trực quan sinh động, học sinh tư duy và tự phát hiện tìm ra kiến thức mới
của bài. Trong những năm học gần đây, tôi đã mạnh dạn ứng dụng công nghệ
thông tin vào giảng dạy nhiều môn học, đặc biệt là môn Khoa học. Đối với bộ
môn Khoa học là môn học mang tính khoa học và thực hành cao. Nếu giáo viên
không chuẩn bị kĩ đồ dùng dạy học thích hợp thì tiết học trở nên khô khan, cứng
nhắc. Vì vậy, để tạo cho học sinh hứng thú trong học tập và yêu thích môn Khoa
học đòi hỏi giáo viên phải chuẩn bị đồ dùng dạy học cho thích hợp với từng hoạt
động của bài dạy. Ngày nay, với việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng
phát huy tích cực học tập của học sinh thì các phương tiện dạy học hiện đại, ứng
dụng công nghệ thông tin vào dạy học ngày càng trở nên quan trọng trong quá
trình lĩnh hội tri thức mới. Xuất phát từ thực tế trên, khi dạy môn Khoa học 4
việc sử dụng trực quan: các hình ảnh, các thí nghiệm, bản biểu,…là một phương
tiện rất quan trọng. Nó không chỉ là phương tiện để giáo viên minh hoạ cho bài
dạy mà còn là phương tiện chứa đựng kiến thức để học sinh khai thác, vì thế
trong môn Khoa học không thể thiếu hình ảnh sinh động. Ứng dụng công nghệ


thông tin vào các tiết học môn Khoa học, ngoài chức năng trực quan, các hình
ảnh ở Sách giáo khoa và tranh ảnh sưu tầm trên mạng Internet, hình ảnh động sẽ
làm cho bài giảng hấp dẫn, tiết học sinh động, học sinh thích thú với những cái
mới lạ. Từ đó làm cho học sinh hứng thú với việc tìm tòi và khám phá hơn nữa.
Với hình thức dạy học này ta có đủ thời gian để giúp các em tiếp thu được kiến
thức mới, củng cố và mở rộng kiến thức bằng các dạng bài tập trắc nghiệm, bài
tập nối, trò chơi,... dễ dàng tạo tình huống sư phạm để thu hút sự chú ý của học

1


sinh và do tính trực quan cao nên học sinh dễ vào cuộc. Mặt khác từ việc tổ chức
thi đua giữa các nhóm qua từng hoạt động sẽ tạo không khí vui tươi hứng khởi,
giúp các em nắm được kiến thức mới và củng cố lại kiến thức một cách nhẹ
nhàng.
Xuất phát từ yêu cầu đổi mới giáo dục nhất là nâng cao chất lượng đội ngũ
nhà giáo, đặc biệt đẩy mạnh công nghệ thông tin vào dạy học. Từ yêu cầu đó,
trong quá trình giảng dạy bản thân luôn suy nghĩ làm thế nào để cho học sinh
tiếp cận các tiết dạy có ứng dụng công nghệ thông tin, đáp ứng yêu cầu đổi mới
giáo dục theo xu thế hội nhập và phát triển giáo dục theo hướng hiện đại, tôi xin
được trình bày vắn tắt một vài kinh nghiệm nhỏ với nội dung đề tài sau: “Ứng
dụng công nghệ thông tin vào dạy môn Khoa học Lớp 4”
1.2. MỤC ĐÍCH CHỌN ĐỀ TÀI:

Môn Khoa học là một môn học mang tính khoa học, thực hành và mang
ứng dụng vào thực tế cao. Dạy môn khoa học mà không chuẩn bị kĩ đồ dùng,
phương tiện dạy học thích hợp thì tiết học trở nên khô khan, cứng nhắc. Vì vậy,
để tạo cho học sinh hứng thú và yêu thích môn khoa học, đòi hỏi giáo viên phải
chuẩn bị đồ dùng dạy học cho thích hợp với từng hoạt động của bài dạy. Ngày
nay việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của

học sinh thì các phương tiện dạy học ứng dụng CNTT (Công nghệ thông tin)
vào bài dạy ngày trở nên quan trọng trong quá trình lĩnh hội kiến thức mới. Xuất
phát từ thực tế trên khi dạy môn Khoa học không thể thiếu đồ dùng trực quan.
Việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy được chú trọng. Qua quá trình giảng dạy
ở lớp 4, 5 tôi nhận thấy rằng việc giảng dạy có sử dụng CNTT là cải thiện
phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa người học, phát huy tính chủ
động, tích cực học tập, tự chiếm lĩnh kiến thức… yếu tố rất cần thiết không thể
thiếu trong quá trình giảng dạy, đặc biệt dạy học môn Khoa học. Vậy, việc dạy
học có sử dụng hình ảnh trực quan là nhằm phát huy tính tích cực học tập của
học sinh và đạt hiệu quả cao trong giảng dạy và học tập, nhất là thực hiện vai trò
tự chủ, tự chịu trách nhiệm của giáo viên, tính chủ động sáng tạo của học sinh
trong quá trình học tập. Vì vậy việc Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học
nói chung và vào môn khoa học nói riêng nhằm mục đích nâng cao chất lượng
môn học.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.

Đề tài này nghiên cứu về vấn đề:
- Môn Khoa học lớp 4.
- Các bài giảng có “Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học môn khoa
học ở lớp 4” .

2


- Phần mềm Microsoft PowerPoint và các phần mềm thiết kế bài giảng Elearning.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Phương pháp nghiên cứu là tác động trực tiếp đến đối tượng nghiên cứu, vì vậy
tôi chọn những phương pháp sau:

- Phương pháp phân tích hệ thống.

- Phương pháp thu thập tài liệu
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ:

Ở Tiểu học kênh hình là phương tiện trực quan, là nguồn tri thức quan
trọng của học sinh. Nó có khả năng cung cấp thông tin một cách đầy đủ hơn mà
kênh chữ trong sách giáo khoa chưa trình bày đến. Ứng dụng công nghệ thông
tin để đưa hình ảnh lên màn hình bằng phần mềm Microsoft PowerPoint giúp
cho giáo viên dễ dàng hơn trong việc hướng dẫn học sinh tiếp cận tri thức mới,
tăng năng suất làm việc của giáo viên và học sinh, giảm tối đa kiểu giảng dạy
mang tính thông báo một chiều.
Và việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy thì máy tính được sử dụng trong
việc cung cấp thông tin bằng hình ảnh, âm thanh, truyền thụ kiến thức, phát triển
tư duy, hướng dẫn hoạt động, rèn luyện kĩ năng, kiểm tra, đánh giá..., tạo hứng
thú cho học sinh trong học tập môn Khoa học nói riêng và trong học tập nói
chung.
Với kho tư liệu phong phú sẵn có trên Internet, giáo viên dễ dàng tìm cho
mình nhiều hình ảnh đặc sắc minh họa cho bài học, sinh động hơn nữa là các
đoạn phim mô tả. Những điều này sách giáo khoa khó có thể đáp ứng được. Bên
cạnh đó, trong môn Khoa học cần rất nhiều tranh ảnh, mô hình động mà thư viện
trường không thể cung cấp hết được. Giờ đây, giáo viên chỉ cần một cú nhấp
chuột là có thể có được các loại hình ảnh, mô hình nào cũng có. Việc thiết kế mô
hình động trên Powerpoint cũng được thực hiện nhanh chóng, dễ dàng.
Trong bài dạy, những thông tin hiện lên màn hình với các hiệu ứng gây chú ý
cũng là một cách trực quan rất hiệu quả thu hút sự chú ý tập trung của các em.
Các em cũng dễ nhớ bài hơn. Bên cạnh đó, giáo viên cũng có thể tóm lược được
những ý chính của bài hiện lên màn hình cho các em dễ nắm bài hơn, tiết kiệm
được thời gian, công sức. Ở phần củng cố bài, chúng ta có thể thiết kế trò chơi ô

chữ hoặc một số trò chơi trắc nghiệm với Violet… sẽ giúp cho giờ học được kết
thúc một cách thú vị, hấp dẫn mà lại khắc sâu vào tâm trí các em

3


Đối với giáo viên, việc soạn giảng một bài giảng điện tử là con đường
giúp giáo viên chúng ta tiếp cận với công nghệ thông tin nhanh nhất. Thông qua
việc soạn giảng, những kĩ năng sử dụng phần mềm Word, Excel, PowerPoint,
violet… được nhuần nhuyễn và ngày càng tiến bộ. Đồng thời kiến thức cuộc
sống của mỗi người cũng sẽ được nâng cao. Giáo viên thấy yêu nghề hơn, sáng
tạo hơn. Hơn nữa, theo tôi, việc dạy bằng bài giảng điện tử giáo viên đỡ vất vả
hơn mà học sinh thích thú hơn nhất là với môn Khoa học.
2.2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ

Ứng dụng CNTT vào dạy môn Khoa học 4 là một biện pháp giúp học sinh
tích cực, tự giác học tập, gây hứng thú, say mê với môn học, đồng thời khắc sâu
thêm kiến thức. Chính vì thế, giáo viên phải nghiên cứu kỹ các tranh ảnh, đồ
dùng dạy học cho từng tiết học đảm bảo rõ ràng, chính xác đẹp và sắp xếp theo
thứ tự từng hoạt động. Trong từng bài, sách giáo khoa đều có tranh ảnh nhưng
chưa đáp ứng được tính cập nhật thông tin thực tế, đồng thời ở các trung tâm
sách thiết bị trường học lại không bán các tranh ảnh của từng bài. Chính vì thế,
việc dạy môn Khoa học qua việc sử dụng bài giảng điện tử là do khả năng và
nhiệt tình của giáo viên đối với giờ dạy.
Thông thường, chúng ta thường tổ chức dạy học môn Khoa học bằng
phương pháp truyền thống, cô giáo nêu kiến thức, học sinh quan sách tranh với
thời lượng 1 tiết thì ta chỉ có thể cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản
trong sách giáo khoa chứ mở rộng thêm là rất hạn chế (do không có đủ đồ dùng
trực quan và các hình ảnh). Với hình thức này thì chỉ những em tiếp thu nhanh
mới đủ khả năng tiếp nhận được, những học sinh còn lại hầu như không nắm bắt

được gì.
Trong 4 năm gần đây chúng ta có vận dụng một số phương pháp mới vào
dạy học nói chung và môn Khoa học nói riêng đó là phương pháp Bàn tay nặn
bột nhưng không phải bài nào cũng áp dụng được.
Việc giảng dạy môn Khoa học ở các trường chưa đạt yêu cầu về kiến thức
và kĩ năng cơ bản trong quá trình học tập trên lớp thực tế còn nhiều hạn chế đó
là:
- Việc sử dụng đồ dùng dạy học, thiết bị dạy học dù có nhiều cố gắng
nhưng chưa đạt hiệu quả cao. ĐDDH được cấp phát hay tự làm cũng không đủ
để làm phong phú nội dung bài học. Có những tranh ảnh được BGD cấp phát lúc
đầu còn mới thì rất đẹp, nhưng trải qua thời gian đã bị mất tính thẩm mĩ. Quá
trình thực hiện cho thấy chỉ mới dừng lại ở việc tổ chức học sinh quan sát và rút
ra kết luận cho bài học dẫn đến học sinh có thói quen học thuộc bài, không hiểu

4


rõ vấn đề nên việc áp dụng kiến thức Khoa học vào thực tế cuộc sống là rất khó
khăn.
- Khi dạy giáo viên chỉ chú trọng chuyển tải nội dung mà chưa quan tâm
đúng mức đến phần thực hành, liên hệ thực tế.
- Kiến thức các em học được không ghi nhớ lâu và hiểu sâu sắc để vận
dụng vào cuộc sống.
- Việc soạn bài của giáo viên còn nặng về hình thức, sơ sài, chưa thể hiện
được ý đồ mục tiêu của bài dạy, chưa có đủ thông tin tích cực đến với học sinh.
- Kiến thức hiểu biết của một số giáo viên còn hạn chế về tính khoa học,
tính cập nhật thực tiễn.
Trong thực tế hiện nay, ở một số đơn vị trường học nói chung, trường tiểu
học Quảng Nham 2 chúng tôi nói riêng, việc ứng dụng CNTT vào dạy học còn
nhiều lúng túng cụ thể như soạn bài bằng giáo án điện tử hay sử dụng điện thoại

thông minh hỗ trợ giảng dạy, chèn một đoạn âm thanh, mở một đường link... là
rất vất vả, máy móc, nàm chiếu còn thiếu thốn, cả trường chỉ có một bộ. Xuất
phát từ thực tế đó, tôi đã nhận thức rằng trong quá trình giảng dạy nói chung và
môn Khoa học nói riêng muốn đạt hiệu quả và chất lượng cần phải sử dụng trực
quan các hình ảnh và nhất là việc sử dụng CNTT vào giảng dạy thì học sinh dễ
hiểu, dễ tiếp thu bài và nắm chắc được kiến thức trọng tâm, đồng thời kích thích
được sự say mê, hứng thú, tìm tòi và khai thác những cái mới, phát huy tính tích
cực, chủ động sáng tạo của học sinh.
Để nắm vững được từng đối tượng học sinh trong lớp, trước khi áp dụng
đề tài, tôi đã tiến hành kiểm tra khảo sát chất lượng tại lớp 4A trường Tiểu học
Quảng Nham 2 do tôi chủ nhiệm và thu được kết quả như sau:
HT Tốt
Hoàn thành
Chưa HT
Lớp Sĩ số
SL
TL
SL
TL
SL
TL
4A
35
4
11,4
19
54,2
12
34,4
2.3. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN


Tổ chức dạy học môn Khoa học lớp 4 thông qua việc sử dụng CNTT vào
giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng học tập của học sinh, phù hợp theo nhóm
đối tượng học sinh trong lớp để mọi đối tượng được tham gia học tập và tiếp thu
bài tốt. Để vận dụng có hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy,
đặc biệt là môn Khoa học lớp 4 rất đa dạng và phong phú. Nếu được sắp xếp
một cách hợp lí, chuyển tải nội dung tranh ảnh phù hợp, các trò chơi đơn giản
nhưng lôi cuốn học sinh thì sẽ giải quyết nhiệm vụ học tập một cách nhẹ nhàng,
thoải mái. Nội dung học tập được đưa vào trò chơi làm trẻ tích cực hơn trong
việc tiếp nhận nội dung học tập.
5


2.3.1 Cách tiến hành ứng dụng CNTT vào giảng dạy môn Khoa học
lớp 4.
Để tiến hành việc ứng dụng CNTT thông qua việc áp dụng phần mềm
Power point để soạn giáo án, sử dụng điện thoại thông minh vào dạy các môn
học nói chung và môn Khoa học 4 nói riêng có kết quả cao, tôi đã tiến hành theo
như sau:
2.3.1.1 Các bước soạn giáo án điện tử:
Khi soạn giáo án điện tử, GV cần các bước:
Bước 1: Tạo nhận thức cho bản thân về sử dụng CNTT thông qua việc sử
dụng phần mềm PowerPoint vào giảng dạy nhằm mục đích gì và để làm gì? Bản
thân thấy được tầm quan trọng trong việc Sử dụng CNTT vào giảng dạy là nhằm
đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giảng dạy, tiếp cận nền giáo dục tiên tiến.
Bước 2: Bản thân phải tự học hỏi trên mạng, làm quen và soạn giáo án
trên Word và trên PowerPoint, biết cách sử dụng hiệu quả của ứng dụng công
nghệ thông tin trong dạy học là phải khai thác triệt để các nội dung tư liệu, đặc
biệt là các tư liệu multimedia (âm thanh, hình ảnh, phim, Flash…) đạt theo
chuẩn kiến thức kĩ năng của từng tiết dạy.

Bước 3: Chọn bài hoặc phần bài dạy thích hợp để sử dụng phần mềm
PowerPoint: Giáo viên cần xác định bài giảng đó có thích hợp để dạy có ứng
dụng CNTT hay không, hoặc phần bài giảng nào cần sử dụng công nghệ thông
tin để chuyển tải nội dung bài dạy và mang lại hiệu quả giáo dục cao. Nếu bài
dạy nào sử dụng các phương pháp khác vẫn tốt thì không nên lạm dụng quá
nhiều bài giảng điện tử.
Bước 4: Lập dàn ý cho bài dạy:
Giáo viên cần xác định bài dạy có mấy phần (mấy hoạt động). Mỗi phần
cần chuyển tải những nội dung gì trọng tâm. Sử dụng âm thanh, hiệu ứng, hình
ảnh, đoạn phim, trò chơi… gì cho phù hợp và hiệu quả.
Bước 5: Chọn nguồn tư liệu:
Khi soạn bài giảng điện tử, chắc chắn giáo viên nào cũng đều cần tư liệu
minh họa, dẫn dắt hoặc làm phong phú bài giảng. Một nguồn tư liệu phong phú
đó là tìm trên mạng Internet. Ngoài ra giáo viên có thể tìm từ nhiều nguồn khác
như: sách báo, tạp chí rồi đưa vào bài dạy bằng cách scan, dùng máy ảnh kĩ
thuật số chụp rồi copy vào máy, dùng phần mềm để cắt đoạn phim, ráp hình ảnh,
chuyển đổi đuôi cho đoạn phim như phần mềm Total Video Converter….
2.3.1.2: Sử dụng điện thoại thông minh hỗ trợ quá trình giảng dạy
Hiện nay CNTT phát triển mạnh mẽ, các nhà sản xuất cho ra đời các sản
phẩm điện tử đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người trong đó điện thoại

6


thông minh là một trong những sản phẩm được ưa chuộng. Trong quá trình dạy
học ngoài việc biết sử dụng đài đĩa, đầu đĩa... thì GV ai cũng có thể dùng điện
thoại thông minh để quay, chụp ảnh, ghi âm, truy cập mạng Internet để hỗ trợ
trong quá trình giảng dạy.
2.3.2 Những chú ý khi lên lớp:
Trước khi lên lớp giáo viên cần nắm vững giáo án, chú ý ghi nhớ tiến

trình, những lời dẫn dắt để chuyển từ hoạt động này qua hoạt động khác, kết hợp
lời giảng với thao tác máy cần nhịp nhàng cho tiết dạy sinh động. Cần tính
toán sao cho thời gian của tiến trình dự định phải gần như trùng khớp với thời
gian thực dạy trên lớp.
2.3.3. Các ví dụ minh họa :
2.3.3.1 Các ví dụ minh họa về ứng dụng CNTT thông qua soạn giáo
án điện tử
Ví dụ 1: Bài 3: “Trao đổi chất ở người” (tiếp theo)
Khi học xong bài này học sinh có khả năng: Kể tên một số cơ quan trực
tiếp tham gia quá trình trao đổi chất ở người: tiêu hóa, hô hấp, tuần hoàn, bài
tiết. Biết được một trong các cơ quan ngừng hoạt động thì cơ thể sẽ chết.
Nên khi dạy bài này tôi đã thiết kế bài giảng như sau:
Ở slide thứ nhất tôi cho học sinh quan sát các tranh vẽ các cơ quan trong
cơ thể người tham gia vào quá trình trao đổi chất. Sau đó đến các slide tiếp theo
tôi dùng hiệu ứng để biểu diễn quá trình trao đổi chất diễn ra ở từng cơ quan
một. Sau khi học sinh theo dõi quá trình đó thì các em đễ dàng nhận ra được
chức năng của từng cơ quan.
[2]

[2]

[2]
Sau khi học sinh nắm được quá trình trao đổi chất ở các cơ quan trong cơ
thể tôi tiến hành cho học sinh hoàn thành sơ đồ mối liên hệ giữa một số cơ quan
trong quá trình trao đổi chất ở người.

7


Phần này tôi có thể tổ chức cho học chơi trò chơi chọn thẻ số ghép với ô

tương ứng.
Cách chơi: Chia lớp thành hai nhóm. Giáo viên nêu luật chơi. Mỗi đội cử
đại diện trả lời. Đội này đọc nội dung trong thẻ thì đội kia phải nêu được số cần
điền. Sau đó lại ngược lại. Ví dụ: Đội 1 đọc: Các chất dinh dương thì đội 2 phải
nêu được ô số 1....
Sau khi hai đội trả lời thì giáo viên dùng hiệu ứng để đưa ra đáp án.

[2]
Với việc tổ chức trò chơi này, chúng ta đã giúp học sinh hứng thú học tập
và nắm bài một cách dễ dàng. Mọi học sinh có thể tham gia được.
Ví dụ 2: Bài 43: Âm thanh trong cuộc sống.
Đối với bài này giáo viên giúp học sinh nêu được ví dụ về ích lợi của âm
thanh trong cuộc sống: Âm thanh dùng để giao tiếp trong sinh hoạt, học tập, lao
động, giải trí; dùng để báo hiệu (còi tàu, xe, trống trường, …)
Xuất phát từ mục tiêu của bài học tôi đã thiết kế bài giảng như sau:
Hoạt động 1: Trò chơi khởi động.
Trước hết tôi cho học sinh chơi trò chơi: “Tìm từ diễn tả âm thanh”.
Cách chơi: Giáo viên cho học sinh nghe các âm thanh như: tiếng các con
vật, tiếng các độn cơ, phương tiện giao thông, tiếng vỗ tay, tiếng hát... Học sinh
phải tìm từ ngữ thích hợp để diễn tả âm thanh vừa nghe được.
[2]
Hoạt động 2: Vai trò của âm thanh:
- Giáo viên cho học sinh quan sát và nghe các âm thanh, ghi lại vai trò của
từng âm thanh.
- GV có thể sưu tâm thêm một số âm thanh khác ngoài trong sách giáo
khoa.
- Từ việc các em quan sát kết hợp với nghe các âm thanh các em thảo luận
và nêu được vai trò của từng âm thanh. Ví dụ: tiếng cô giáo giảng bài; tiếng trao
đổi với nhau; tiếng trống trường; tiếng vỗ tay; tiếng cồng chiêng.
[2]

[2]
Hoạt động 3: Ích lợi của việc ghi lại được âm thanh.

8


Giáo viên cho học sinh nghe một bài hát, lời nói của Bác Hồ đọc Tuyên
ngôn đọc lập.
[2]
[2]
Sau khi học sinh được nghe một bài hát, lời nói của Bác Hồ, giáo viên yêu
cầu học sinh thảo luận để đưa ra lợi ích của việc ghi lại âm thanh.
Giáo viên có thể cho một hoặc hai học sinh lên nói hoặc hát. Giáo viên
ghi vào điện thoại thông minh để phát lại cho học sinh nghe.
Ví dụ 3: Bài 55 – 56:
Ôn tập: Vật chất và năng lượng
Đối với bài này cần củng cố cho học sinh kiến thức về vật chất và năng
lượng; các kĩ năng quan sát, thí nghiệm.
Củng cố kĩ năng về bảo vệ môi trường, giữ gìn sức khoẻ liên quan tới nội
dung phần vật chất và năng lượng.
Giúp học sinh biết yêu thiên nhiên và có thái độ trân trọng với các thành
tựu khoa học kĩ thuật.
Từ những nội dung kiến thức cần đạt như trên tôi đã thiết kế bài giảng
như sau:
Ở tiết 1, để củng cố những kiến thức học sinh đã học, tôi thiết kế trò chơi
“Ô chữ”. Với nội dung trò chơi này giúp học sinh củng cố và hệ thống được nội
dung kiến thức trong phần: Vật chất và năng lượng, thông qua các thông tin ở
từng ô chữ.
Cách chơi: Chia lớp thành ba nhóm, mỗi nhóm khoảng 5 em đại diện
tham gia cuộc chơi. Mỗi một nhóm được chọn ô chữ một lần và cứ lần lượt các

nhóm chọn đến hết các ô chữ. Nếu trả lời đúng sẽ được 10 điểm, sai không được
điểm. Tìm được từ khoá trước khi gợi ý được 40 điểm. Tìm được từ khoá sau
khi gợi ý được 20 điểm. Mỗi một ô chữ có chứa nội dung một gợi ý. Khi học
sinh chọn ngẫu nhiên một ô chữ giáo viên nhấn chuột vào ô số gợi ý sẽ hiện lên.
Học sinh dựa vào gợi ý để tìm ra ô chữ. Trong quá trình có thể các em tìm được
từ khoá của trò chơi. Nếu các ô chữ đã lật hết mà các em không tìm được thì
giáo viên có thể gợi ý.

Các câu hỏi gợi ý.
[2]

9


Qua trò chơi này giúp các em hứng thú học tập hơn và khắc sâu kiến thức
hơn. Mọi học sinh có thể tham gia được.
2.3.3.2 Ví dụ minh họa về sử dụng điện thoại thông minh, máy chiếu
hỗ trợ quá trình giảng dạy.
Ví dụ 1: bài 40: Bảo vệ bầu không khí trong sạch
Sau khi các hoạt động tìm hiểu bài đã xong, để liên hệ củng cố kiến thức
cho học sinh GV có thể truy cập Internet để cho học sinh nghe bài hát: Điều đó
tùy thuộc hành động của bạn.
Ví dụ 2: bài 10: ăn nhiều rau và quả chín. Sử dụng thực phẩm sạch
và an toàn.
Trong quá trình dạy, GV dùng điện thoại để truy cập mạng Internet để cho
học sinh nhận biết thực phẩm sạch. Cho học sinh xem các clip ngắn mà mình đã
chuẩn bị sẵn về thực phẩm mất an toàn từ đó khuyến cáo cho học sinh...
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục
- Trong năm học gần đây và năm học 2017- 2018 tôi thực hiện đề tài này
đối với lớp 4A trường Tiểu học Quảng Nham2 do tôi chủ nhiệm, bước đầu đã

tạo cho các em hứng thú học tập. Theo cách ứng dụng CNTT vào dạy môn
Khoa học lớp 4” đã thu hút toàn bộ các đối tượng học sinh trong lớp được học
tập, các hình ảnh minh họa, các hình ảnh động, các trò chơi ô chữ, các bài tập
trắc nghiệm trên Power point, … giáo viên đưa ra để các em xử lí phù hợp theo
các đối tượng nên các em dễ tiếp thu bài. Hiệu quả sau mỗi bài học là học sinh
nắm được kiến thức trọng tâm của bài, tích cực hơn trong học tập. Ở đợt kiểm
tra định kì lần 4 kết quả như sau:
Lớp

Sĩ số

4A

35

HT Tốt
SL
7

Hoàn thành
SL
TL
28
80,0

TL
20,0

Chưa HT
SL

TL
00
00

Qua kết quả khảo sát tôi thấy được học sinh hoàn thành tăng dần, không
có học sinh chưa hoàn thành, năng lực tư duy của các em tốt, phát huy được tính
tích cực của học sinh trong học tập.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. KẾT LUẬN

Từ thực tế giảng dạy bằng việc ứng dụng CNTT thông qua việc soạn giáo
án điện tử hay sử dụng phần mềm Power point để thiết kế một vài slide, điện

10


thoại thông minh để dạy môn khoa học lớp 4 và kết quả học tập của lớp 4A, bản
thân tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm sau:
- Đối giáo viên, trước khi lên lớp cần phải chuẩn bị bài chu đáo, nghiên
cứu kĩ nội dung bài để thiết kế các hoạt động, các hình ảnh phù hợp với bài tập.
- Yêu cầu học sinh phải chuẩn bị bài đầy đủ trước khi lên lớp.
- Giúp học sinh làm quen dần với công nghệ thông tin để theo đà phát
triển của xã hội.
- Phát huy tinh thần tự giác, sự ham tìm tòi học hỏi của học sinh.
- Giáo viên phải kết hợp linh hoạt các phương pháp giảng dạy với việc
lồng ghép các hình ảnh để kích thích lòng ham hiểu biết của các em.
- Giáo viên phải quan tâm đến từng đối tượng học sinh đề ra phương pháp
phù hợp lôi cuốn tất cả các em tham gia học tập.
- Giáo viên cần động viên, tuyên dương kịp thời những học sinh có tinh
thần, thái độ học tập tốt để khơi dậy tính tự giác và tinh thần hăng say học tập ở

từng em.
Trên đây là đề tài ứng dụng CNTT thông qua bài giảng điện tử, sử dụng
điện thoại thông minh vào dạy học môn Khoa học 4 mà tôi đã thực hiện và đạt
được một số kết quả nhất định trong phạm vi mình giảng dạy. Đề tài gồm một số
cách thức giúp giáo viên nắm được qui trình thiết kế một bài giảng điện tử và
một số bài dạy hoặc phần bài dạy ở môn môn Khoa học thích hợp... dùng công
nghệ thông tin để khai thác nội dung bài một cách hiệu quả. Đặc điểm học sinh
tiểu học thời nay là năng động, sáng tạo, ưa thích cái mới nên việc ứng dụng
công nghệ thông tin vào soạn giảng môn khoa học đã mang lại hứng thú cho học
sinh, giúp các em chủ động, tích cực khai thác và nắm vững kiến thức.
Tóm lại, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy, có những ưu
điểm so với phương pháp truyền thống như sau:
- Trong giờ học giáo viên có thể thực hiện được nhiều bài tập trắc nghiệm
để củng cố và khắc sâu kiến thức.
- Đối với việc dạy học bằng bài giảng điện tử thì nội dung, hình thức tiết
dạy phong phú, đưa được nhiều hình ảnh động, từ đó, tạo được sự kích thích
hứng thú học tập của học sinh, tạo được không khí vui tươi và thi đua trong học
tập qua hoạt động thi đua giữa các nhóm.
- Khi dạy học ứng dụng CNTT thì nó có tính trực quan cao, nên giúp HS
dễ tham gia và tạo cảm hứng ham mê môn học.

11


- Đối với việc dạy học bằng bài giảng điện tử thì giáo viên có thể tiết kiệm
được thời gian ghi bảng và một số thao tác khác để giành thời gian cho việc rèn
luyện kĩ năng, theo dõi và quản lí lớp, học sinh khuyết tật hòa nhập.
3.2.KIẾN NGHỊ

- Tổ chức các lớp tập huấn về quy trình ứng dụng công nghệ thông tin,

soạn giáo án điện tử nhất là những vùng chưa có điều kiện như trường tôi.
- Cần trang bị thêm thiết bị trình chiếu và bố trí phòng học có sẵn thiết bị
trình chiếu, để đảm bảo thời gian lên lớp.Vì thiết bị trình chiếu mà di chuyển từ
phòng này sang phòng khác thì phải mất thời gian từ 10 đến 15 phút (kể cả lắp
ráp hiệu chỉnh). Hơn nữa thao tác lắp ráp nhiều lần thì thiết bị mau hỏng, các cô
giáo thì thực hiện điều này là rất hạn chế.
Trên đây là sự cố gắng của bản thân đã đúc kết một vài kinh nghiệm nhỏ
để vận dụng vào giảng dạy. Chắc chắn sẽ không sao tránh khỏi những thiếu sót.
Rất mong sự góp ý của các cấp lãnh đạo và các bạn đồng nghiệp để đề tài kinh
nghiệm sớm được hoàn thiện và có tính khả thi hơn.
Thanh Hóa, ngày 06 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Văn Thị Hinh

12


MỤC LỤC
Nội dung
1.MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài
1.2 Mục đích chọn đề tài
1.3 Đối tượng nghiên cứu
1.4 Phương pháp nghiên cứu
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề.
2.2 Thực trạng của vấn đề

2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
2.3.1. Cách tiến hành ứng dụng CNTT
2.3.1.1 Các bước soạn giáo án điện tử
2.3.1.2 Sử dụng điện thoại thông minh hỗ trợ
giảng dạy
2.3.2 Những chú ý khi lên lớp
2.3.3. Các ví dụ minh họa
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với
hoạt động giáo dục
3.KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1 Kết luận
3.2 Kiến nghị

13

Trang
1
2
2
2
3
3
4
5
5
5
6
6
7->16
16

17
17
18


TÀI LIỆU THAM KHẢO:
[1]. Văn bản số 4116/BGDĐT, ngày 8/9/2017 về hướng dẫn nhiệm vụ CNTT
năm học 2017 – 2018.
[2]. Một số hình ảnh tìm kiếm trên mạng Internet (có thể vào những trang
Website: />n/…). Chèn hình ảnh (tranh ảnh, hình ảnh động của thực vật, động vật,…), chèn
âm thanh (ca khúc ,tiếng động, tiếng vỗ tay …), chèn video clip (đoạn phim tài
liệu…) và tạo hiệu ứng (những hiệu ứng đơn giản, chính xác, không rườm rà,…)
[3].Tài liệu Đổi mới phương pháp dạy học: Ứng dụng công nghệ thông tin trong
việc dạy và học ở trường Tiểu học
Tác giả: Nguyễn Đình Quốc Hùng ( Trường TH Chu Văn An, Châu Đức, Bà
Rịa, Vũng Tàu )
[4].Tài liệu của Viện chiến lược và Chương trình giáo dục
Tác giả: PGS.TS Đào Thái Lai
[5]. Tác giả: Bùi Phương Nga (Chủ biên ) - Lương Việt Thái
Sách giáo viên môn Khoa học lớp 4
Nhà xuất bản giáo dục - Mã số: 1G504M6 - Số xuất bản: 1517/127-05
[6].Tác giả: Bùi Phương Nga (Chủ biên ) - Lương Việt Thái
Sách giáo khoa môn Khoa học lớp 4
Nhà xuất bản giáo dục - Mã số: 1H504N7
- Số xuất bản: 692-2006/CXB/108-1530/GD
[7]. Tạp chí giáo dục & thời đại

14




×