Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Gián án Ứng dụng Công nghệ thông tin vào dạy học Lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.86 KB, 6 trang )

ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
VÀO DẠY-HỌC LỊCH SỬ
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
ThS Lê Tùng Lâm

Phần mở đầu
Ngày nay, thời đại công nghệ thông tin đang đến rất nhanh và có tác động mạnh mẽ đến
tất cả các mặt đời sống xã hội. Công nghệ thông tin là một trong những động lực quan trọng
nhất của sự phát triển, nó cùng với một số ngành công nghệ cao khác làm biến đổi sâu sắc đời
sống kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Do đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào lĩnh
vực giáo dục cũng được Đảng và Nhà nước quan tâm. Cụm từ “ứng dụng công nghệ thông tin
vào dạy học” ngày càng được nhiều người nhắc đến trong các trường phổ thông, cao đẳng và
đại học. Công nghệ thông tin được ứng dụng vào việc thiết kế các “giáo án điện tử” đang rất
được chú trọng trong các nhà trường cũng như trong chủ trương của các sở giáo dục và đào tạo.
Tuy nhiên, vẫn còn không ít giáo viên có những hiểu biết chưa đúng về việc sử dụng “giáo án
điện tử” để hỗ trợ trong dạy học. Giáo viên đã biến một tiết dạy “giáo án điện tử” thành một
buổi trình chiếu cho học sinh xem và ghi bài. Họ biến máy chiếu Projector thành một “bảng đen
thứ hai” để thay thế cho việc phải viết bảng cho học sinh chép bài. Vì vậy, hiệu quả của việc
ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học chưa cao. Vậy công nghệ thông tin là gì? Vai trò của
nó với dạy học nói chung và dạy học môn Lịch sử nói riêng như thế nào? Ứng dụng nó vào dạy
học Lịch Sử ra sao?…Đó là những vần đề có ý nghĩa khoa học và thực tiễn đang thu hút sự
quan tâm của giáo viên hiện nay.
Phần nội dung
1. Khái niệm “Công nghệ thông tin”
Công nghệ thông tin ( IT – Information Technology) là ngành ứng dụng công nghệ quản
lý và xử lý thông tin, là ngành sử dụng máy tính và các phần mềm của nó để chuyển đổi, lưu
trữ, bảo vệ, xử lý, truyền và thu nhập thông tin. Theo Nghị quyết 49/CP của Chính phủ ngày 4
tháng 8 năm 1993 thì “công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương
tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại- chủ yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông- nhằm tổ chức khai
thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong
mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội”


1
.
Như vậy, công nghệ thông tin là tập hợp các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại
như máy tính, máy chiếu Projector, mạng Internet… để cung cấp nguồn tài nguyên vô cùng
phong phú, đa dạng cho mọi lĩnh vực trong đời sống con người và xã hội. Đặc biệt, ngày nay
Internet với các kết nối băng tầng rộng đã đi tới tất cả các trường học đã giúp cho việc ứng
dụng các kiến thức, kĩ năng và hiểu biết về công nghệ thông tin vào dạy học đã dần trở thành
hiện thực.
2. Vai trò của công nghệ thông tin với dạy học
Ngày nay, việc đổi mới phương pháp dạy học trong trường phổ thông đang rất được nhà
nước và xã hội quan tâm. Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong
Nghị quyết Trung ương 4 Khóa VII (1.1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12.1996),
được thể chế hóa trong Luật giáo dục (2005). Đặc biệt, theo Luật Giáo dục điều 82.2 đã ghi:
“phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của
học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học,

Khoa Sư phạm Khoa học Xã hội Trường Đại học Sài Gòn
1
/>1
rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng thú học tập cho học sinh”
2
.
Như vậy, theo quy định của Luật giáo dục, giáo viên phải chuyển dần từ phương pháp
dạy học truyền thống (giáo viên giử vai trò trung tâm) sang phương pháp dạy học tích cực – lấy
học sinh làm trung tâm của hoạt động dạy và học để có thể phát huy được tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh, tạo cho học sinh hứng thú trong học tập. Ngoài ra, giáo viên còn
phải bồi dưỡng cho học sinh kĩ năng nhận biết bản chất vấn đề, có năng lực tư duy độc lập và
vận dụng sáng tạo kiến thức đã học vào thực tiễn. Để đạt mục tiêu trên, giáo viên phải tăng
cường việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong quá trình dạy học vì những lí do sau:

Thứ nhất, nó phù hợp với yêu cầu của thời đại vì “thời đại tin học thật sự đến rồi và
thời đại công nghiệp coi như kết thúc. Nền giáo dục của thời đại công nghiệp nay không còn
thích hợp với xã hội nữa”
3
. Trong hệ thống giáo dục của phương Tây, công nghệ thông tin
chính thức được đưa vào chương trình học phổ thông. Người ta nhanh chóng nhận ra rằng nội
dung về công nghệ thông tin đã có ích cho tất cả các môn học khác nhau. Do đó, việc ứng dụng
nó vào dạy học ở trường phổ thông Việt Nam là phù hợp với quy luật phát triển của thời đại.
Thứ hai, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học là phù hợp với chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước. Chiến lược phát triển giáo dục đào tạo đến năm 2010 của
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nêu rõ: “từng bước phát triển giáo dục dựa trên công nghệ thông
tin…công nghệ thông tin và đa phương tiện sẽ tạo ra thay đổi lớn trong hệ thống quản lí giáo
dục, trong chuyển tải nội dung chương trình đến người học, thúc đẩy cuộc cách mạng về
phương pháp dạy và học
4
. Như vậy, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng xác định con đường phát
triển cho giáo dục Việt Nam là “dựa trên công nghệ thông tin” và nó là phương tiện để thúc đẩy
cuộc “cách mạng về phương pháp dạy và học” – nghĩa là thay đổi phương pháp dạy học trong
nhà trường.
Thời gian gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành quyết định “cấm sử dụng
phương pháp đọc chép” trong trường phổ thông càng làm cho việc ứng dụng công nghệ thông
tin vào dạy học được đẩy mạnh hơn. Tuy nhiên, giáo viên không nên quá lạm dụng máy chiếu
để thay cho tấm bảng đen, không nên biến đọc chép thành “chiếu-chép”. Thời gian qua, nhiều
giáo viên vẫn còn quan niệm đồng nhất giữa “ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học” với
giáo án điện tử. Do đó, khi soạn một bài giảng bằng Powerpoint, giáo viên đưa tất cả những
công việc của mình (ổn định lớp, kiểm tra bài cũ, câu hỏi kiểm tra bài cũ, dặn dò…) và toàn bộ
nội dung bài giảng lên các Slides để “chiếu cho học sinh chép”. Theo chúng tôi, đây là một
quan niệm chưa thật sự chuẩn xác vì công nghệ thông tin không phải là một giáo án, nó chỉ
đóng vai trò hỗ trợ cho quá trình giảng dạy và giúp giáo viên cung cấp cho học sinh nhiều
nguồn tư liệu khác nhau về một sự vật, hiện tượng như: kênh chữ, kênh hình, phim tư liệu…để

cho học sinh tự tìm ra tri thức cho mình. Từ đó, phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng
tạo của học sinh trong học tập.
Thứ ba, công nghệ thông tin đã góp phần hiện đại hóa các phương tiện dạy học, các
phần mềm dạy học như Activestudio, Powerpoint…sẽ giúp giáo viên tạo bài giảng phù hợp nhu
cầu của học sinh, giúp học sinh có nhiều phương pháp tiếp thu kiến thức. Đặc biệt, nó sẽ giúp
cho giáo viên tạo ra một lớp học mang tính tương tác hai chiều: giáo viên – học sinh và ngược
lại. Điều này phù hợp với quan điểm của Bộ Giáo dục và Đào tạo vì “học là quá trình thu nhận
thông tin có định hướng, có sự tái tạo và phát triển thông tin; dạy là quá trình phát thông tin và
giúp người học thực hiện quá trình trên một cách có hiệu quả”
5
. Do đó, ứng dụng công nghệ
2
Bộ GD&ĐT, Tài liệu bồi dưỡng giáo viên, Lịch sử 10, NXB GD.2006, tr-32.
3
Huỳnh Minh Trí, Nguyễn Đăng Quang…(2006), Giáo trình Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học, tài
liệu lưu hành nội bộ, Khoa Tin học trường CĐSP Thành phố Hồ Chí Minh, tr 2.
4
Huỳnh Minh Trí, Nguyễn Đăng Quang…(2006), Giáo trình Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học, tài
liệu lưu hành nội bộ, Khoa Tin học trường CĐSP Thành phố Hồ Chí Minh, tr 3
5
Bộ GD&ĐT, Tài liệu Bồi dưỡng giáo viên, Thực hiện chương trình Sách giáo khoa Lịch sử 11, NXB GD,
2007, tr 25.
2
thông tin sẽ giúp học sinh tiếp nhận thông tin bài học hiệu quả hơn và sẽ biến những thông tin
đó thành kiến thức của mình. Đồng thời, nó cũng phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của học sinh, khai thác nhiều giác quan của người học để lĩnh hội tri thức.
Thứ tư, ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học cũng giúp giáo viên rút ngắn thời
gian giảng dạy, có thời gian đầu tư cho quá trình dẫn dắt, tạo tình huống có vấn đề để kích thích
tư duy sáng tạo của học sinh. Học sinh có thể dễ dàng hình dung và có khái niệm chính xác về
các hình ảnh, sự vật, hiện tượng khi tiếp xúc với chúng bằng những hình ảnh trực quan (hình tư

liệu, bản đồ, những đoạn phim tư liệu …)
Như vậy, ngày nay việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học là một nhu cầu cấp
thiết đối với hệ thống giáo dục Việt Nam vì nó giúp giáo viên có nhiều thời gian hơn để dẫn dắt
học sinh nắm bắt vấn đề, tạo tình huống có vấn đề để kích thích sự tư duy sáng tạo của học
sinh. Mặt khác, nó cũng sẽ giúp học sinh chủ động hơn trong quá trình lĩnh hội tri thức khi
được tiếp xúc với nhiều nguồn tư liệu khác nhau. Từ đó, hình thành cho người học kĩ năng tự
tiếp thu tri thức, độc lập trong tư duy và hứng thú, hăng say trong học tập. Do đó, công nghệ
thông tin ngày chiếm giử vị trí quan trọng trong dạy học và nó càng có vai trò quan trọng hơn
đối với việc dạy và học môn Lịch Sử.
3. Vai trò của công nghệ thông tin với việc dạy học Lịch Sử
Lịch sử là những gì đã diễn ra theo thời gian trong toàn bộ quá trình phát sinh, phát triển
của con người và xã hội loài người, là bản thân đời sống xã hội qua các giai đoạn tiến triển
khác nhau và cả giới tự nhiên trong phạm vi những gì có liên quan đến con người
6
. Hay nói
cách khác, Lịch sử là những gì đã diễn ra trong quá khứ của xã hội loài người. Nó đã tồn tại
cách chúng ta hàng chục năm, hàng trăm năm, thậm chí hàng triệu năm. Do đó, việc tiếp cận và
tái hiện lại lịch sử gần giống như nó đã từng tồn tại là một việc rất khó khăn. Vì vậy, nếu giáo
viên sử dụng những tư liệu như: hình ảnh, bản đồ, biểu đồ và đặc biệt là phim tư liệu vào
giảng dạy thì sẽ góp phần rất lớn giúp học sinh có thể tái hiện lại được sự kiện lịch sử gần
giống như nó đã từng tồn tại – đây là điều cực kì quan trọng với môn Lịch Sử. Do đó, việc ứng
dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy Lịch sử là vừa mang tính lịch sử, vừa mang tính thời
đại.
Nó mang tính lịch sử vì đáp ứng được yêu cầu của dạy học: truyền đạt những kiến thức
cơ bản nhất, cần thiết nhất và đáp ứng được yêu cầu của môn học. Nó mang tính thời đại vì phù
hợp với yêu cầu thực tại. Ngày nay, thời đại tin học đã thực sự đến và việc ứng dụng tin học
vào dạy học đang là xu hướng của tất cả các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới.
Ngoài ra, xét về góc độ tâm lí lứa tuổi, học sinh trung học phổ thông đang trong giai
đoạn phát triển của nhận thức và con đường nhận thức của các em cũng không thoát khỏi quy
luật: từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và thực tiễn. Do đó, việc sử dụng công nghệ

thông tin vào dạy học để có thể cung cấp cho các em những tư liệu trực quan sinh động (Tranh
ảnh, bản đồ, phim tư liệu…), giúp các em biết và hiểu được bản chất của vấn đề lịch sử là hoàn
toàn phù hợp với các em.
Mặt khác, Việt Nam cũng đang trên đường đổi mới và hội nhập nên không thể không
tiếp nhận những tiến bộ của khoa học kĩ thuật. Vì vậy, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào
dạy học ở nước ta cũng là vấn đề cần thiết.
4. Ứng dụng công nghệ thông tin vào thiết kế một bài giảng Lịch Sử
Xuất phát từ những yêu cầu trên, chúng tôi xin giới thiệu về việc ứng dụng công nghệ
thông tin vào thiết kế bài học số 20: CUỘC KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC CHỐNG THỰC
DÂN PHÁP KẾT THÚC (1953-1954) trong chương trình Lịch Sử 12, Ban cơ bản. NXB Giáo
Dục, 2008. Mục tiêu: học sinh nắm được những vấn đề cơ bản sau:
1. Âm mưu mới của Pháp- Mĩ ở Đông Dương: Kế hoạch Nava
6
Nguyễn Thế Kim, Nhập môn Sử học, Tập Bài giảng, khoa Lịch Sử, trường ĐHSPTPHCM, 1999, tr7.
3
Để giúp học sinh có cái nhìn tổng thể về cục diện của chiến tranh Việt Nam của Pháp từ
sau năm 1950 và nội dung cơ bản của Kế hoạch Nava, giáo viên dùng phần mềm Powerpoint để
thiết kế 2 Slides bản đồ Việt Nam. Slide 1 trình bày bước thứ nhất trong kế hoạch Nava và
Slide 2 thể hiện bước thứ hai trong mưu của Pháp khi thực hiện kế hoạch Nava để giúp học sinh
nhận thấy được sự nguy hiểm của kế hoạch này với cách mạng
Việt Nam.
2. Cuộc tiến cơng chiến lược Đơng - Xn 1953 – 1954
Nhằm giúp học sinh nắm được kế hoạch đối phó của ta
với kế hoạch Nava: ta chủ động đánh vào những nơi quan trọng
mà lực lượng kẻ thù yếu để phân tán lực lượng của chúng, giáo
viên sử dụng 5 Slides bản đồ để giúp học sinh xác định được vị
trí 5 điểm đóng qn của Pháp (ngược với ý đồ ban đầu của
chúng). Từ đó, học sinh tự hiểu được vì sao kế hoạch Nava bị phá
sản.
3. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ 1954

Nhằm giúp học sinh nắm được: ngun nhân, diễn biến và
kết quả của chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ 1954, giáo viên sử
dụng 3 Lược đồ thể hiện 3 đợt tấn cơng của ta vào Điện Biên Phủ
để giúp học sinh nhận thức được cụ thể và rõ ràng hơn về diễn
biến của chiến dịch. Mặt khác, giáo viên sử dụng phần mềm Ultra
Video Splitter để cắt, đưa vào bài giảng
thêm 5 đoạn phim như:
- Âm mưu của Pháp để học sinh
biết được cấu trúc, vị trí, vai trò của Điện
Biên Phủ trong chính sách của Pháp-Mĩ.
Từ đó, học sinh lí giải ngun nhân ta mở
chiến dịch Điện Biên Phủ.
- Chủ trương của ta để cho học
sinh nắm được kế hoạch và quyết tâm của
ta khi chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết
chiến lược với Pháp.
- Đào hào để cho học sinh thấy
được những vất vả, hiểm nguy mà cha ơng
ta đã phải chịu đựng, hi sinh để giành thắng
lợi trong chiến dịch Điện Biên Phủ.
- Him Lam để học sinh hình dung
lại trận đánh quyết liệt ở căn cứ Him Lam
trong đợt tiến cơng lần thứ nhất.
- Bại trận sẽ giúp học sinh nhận
thức đúng và khá đầy đủ về sự thất bại của
Pháp. Nếu giáo viên chỉ nói là “ta tiêu diệt
và bắt sống được 16200 tên địch” thì học
sinh khó có thể hình dung ra nó nhiều như thế nào. Tuy nhiên, khi xem đoạn phim này thì chắc
chắn các em sẽ nhận thấy được sự vĩ đại của chiến dịch Điện Biên Phủ. Từ đó, giáo dục thêm
lòng u nước, tự hào dân tộc cho học sinh .

Cuối cùng, giáo viên cung cấp thêm một số hình ảnh về Thành phố Điện Biên ngày nay
để học sinh thấy được sự lao động miệt mài, sáng tạo của nhân dân Điện Biên năm nào đã biến
từ một vùng chiến trận tàn khốc thành một thành phố hiện đại như hơm nay.
Như vậy, nếu giáo viên khơng sử cơng nghệ thơng tin vào thiết kế bài giảng trên thì
khơng thể nào lột tả được hết nội dung của bài học. Học sinh khơng thể nào hình dung được
chiến dịch Điện Biên Phủ 1954 và khó lòng cảm phục được những hi sinh anh dũng của cha
4
TRU
NG
QU
ỐC
S
à
i
G
ò
n
Sơ đồ chiến dòch Điện Biên Phủ 1954
Ta tấn công đợt 1
Ta tấn công đợt 2
Ta tấn công đợt 3
Vòng vây sau đợt 1
Vòng vây sau đợt 2
Sở chỉ huy của đòch
Sân bay
Đòch phản kích
Cứ điểm của đòch
Đòch rút chạy
ông ta. Do đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin tin vào dạy học Lịch sử là một điều cấp thiết
hiện nay.

Để thiết kế bài giảng trên, giáo viên có thể sử dụng phần mềm Powerpoint hoặc
Activestudio (phải có bảng thông minh - Activeboard) kết hợp cùng các tính năng hỗ trợ như
Hiệu ứng, âm thanh, hình ảnh… Bên cạnh đó, giáo viên cần sử dụng phần mềm Ultra Video
Splitter hoặc Herosoft 3000 để cắt những đoạn phim cần thiết cho bài giảng. Ngoài ra, giáo viên
cũng cần có phần mềm Jet Audio hoặc Media Player Classic hoặc Herosoft 3000 để có thể đọc
được những đoạn phim trên. Như vậy, do đặc thù của bộ môn Lịch sử cần phải có những tư liệu
trực quan, sinh động để giúp học sinh tái hiện lại lịch sử nên việc ứng dụng công nghệ thông tin
vào dạy học Lịch sử là cấp thiết ớ các trường phổ thông hiện nay.
Phần kết luận
Tóm lại, công nghệ thông tin hiện nay được sử dụng phổ biến và có tác động mạnh mẽ
đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy
học đang ngày càng trở nên cấp thiết. Nếu chúng ta biết khai thác tốt và ứng dụng hiệu quả
công nghệ thông tin vào việc thiết kế bài giảng thì việc tiếp thu kiến thức của học sinh sẽ trở
nên dễ dàng hơn. Đối với môn Lịch sử, sự ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học càng
quan trọng hơn vì giáo viên có thể cung cấp cho học sinh nhiều nguồn sử liệu khác nhau về một
vấn đề lịch sử để học sinh tự rút ra tri thức cho mình. Điều này rất cần thiết và phù hợp với mục
tiêu của nền giáo dục nước ta là “phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của
học sinh; phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp
học; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kĩ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách
nhiệm học tập cho học sinh”
7
. Đó cũng là niềm mong mỏi và hi vọng của tất cả những người
làm công tác giáo dục. Hi vọng tương lai không xa, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy
học sẽ trở nên phổ biến để góp phần nâng cao chất lượng của nền giáo dục Việt Nam.
7
Phan Ngọc Liên (cb), Hướng dẫn thực hiện chương trình Sách giáo khoa lớp 12, môn Lịch sử, NXB GD,
2008, tr-9.
5

×