Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học môn toán lớp 1 ở trường tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 22 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài
Toán học là khoa học suy diễn trừu tượng nhưng Toán học ở tiểu học lại
mang tính trực quan, cụ thể bởi vì mục tiêu của môn Toán học ở tiểu học là hình
thành những biểu tượng toán học ban đầu và rèn luyện kĩ năng tính toán cho học
sinh, tạo cơ sở phát triển tư duy và phương pháp toán học cho học sinh sau này.
Mặt khác Toán học còn có tính thực tiễn. Các kiến thức Toán học đều bắt nguồn từ
cuộc sống. Mỗi mô hình toán học là khái quát từ nhiều tình huống trong cuộc sống.
Môn Toán ở Tiểu học nói chung và ở lớp 1 nói riêng có một vị trí quan trọng, nó
góp phần vào việc hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu rất quan trọng của
nhân cách con người Việt Nam. Các kiến thức, kỹ năng của môn Toán ở Tiểu học
có nhiều ứng dụng trong đời sống, chúng rất cần thiết để học các môn học khác ở
Tiểu học.
Môn Toán còn góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp
suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề. Nó góp phần phát
triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt sáng tạo, nó đóng góp vào
việc hình thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng của người lao động như: cần
cù, cẩn thận, có ý chí vượt khó khăn, làm việc có kế hoạch, có nền nếp và tác
phong khoa học. Dạy học toán học ở tiểu học là hoàn thiện những gì vốn có trong
học sinh, cho học sinh làm và ghi lại một cách chính thức các kiến thức toán học
bằng ngôn ngữ và các kí hiệu toán học. Mỗi tiết học là dịp để học sinh hình thành
những kiến thức và kĩ năng mới, vận dụng một cách sáng tạo nhất, thông minh nhất
trong việc học toán trong cuộc sống sau này.
Hiện nay, để đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại
hoá đất nước đòi hỏi phải có những lớp người lao động mới có bản lĩnh, có năng
lực, chủ động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm, thích ứng được với thực tiễn đời sống
xã hội luôn luôn phát triển. Nhu cầu này làm cho mục tiêu đào tạo của nhà trường
phải được điều chỉnh một cách thích hợp dẫn đến sự thay đồi tất yếu về nội dung và
phương pháp dạy học trong nhà trường.
Những năm vừa qua, trong phong trào đổi mới phương pháp dạy học, một số
giáo viên có tâm huyết với nghề, có hiểu biết sâu sắc về bộ môn, có tay nghề khá


và nhạy cảm trước yêu cầu của xã hội đã thực hiện nhiều giờ dạy tốt, phản ánh
được tinh thần của xu thế mới. Tuy nhiên, phổ biến hiện nay vẫn là cách dạy thông
báo kiến thức có sẵn, dạy học theo phương pháp “thuyết trình có kết hợp với đàm
thoại” là chủ yếu mà về thực chất vẫn là “thầy truyền đạt, trò tiếp nhận và ghi nhớ”.
Vì vậy nếu tiếp tục cách dạy học thụ động như thế sẽ không đáp ứng được
những yêu cầu mới của xã hội. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
và sự thách thức trước nguy cơ tụt hậu trong cạnh tranh trí tuệ đang đòi hỏi phải đổi
mới giáo dục, trong đó có sự đổi mới căn bản về phương pháp dạy học. Đây không
phải là vấn đề của riêng nước ta mà là vấn đề đang được quan tâm của mọi quốc


gia trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực con người phục vụ các mục tiêu
kinh tế - xã hội.
Với mong muốn nâng cao chất lượng dạy học môn Toán nói chung và môn
toán lớp 1 nói riêng bằng con đường cải tiến và đổi mới phương pháp dạy học sao
cho mỗi học sinh thực sự được tham gia vào quá trình học Toán với các hoạt động
nhẹ nhàng, tự nhiên, mang lại hứng thú và say mê học tập nên tôi đã chọn nghiên
cứu sáng kiến “Một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học môn toán lớp 1
ở trường Tiểu học ".
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nâng cao hiệu quả giờ dạy, phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng
tạo của học sinh; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho
học sinh.
Giúp các em có điều kiện tiếp cận và nắm bắt môn học, hiểu các dạng toán
và chiếm lĩnh được các tri thức nhằm góp phần hình thành trí tuệ con người Việt
Nam hiện đại, phát triển toàn diện về mọi mặt Đức - Trí- Thể - Mĩ cho học sinh.
Nâng cao nghiệp vụ công tác của bản thân, trao đổi kinh nghiệm giảng dạy
cùng đồng nghiệp.
1.3. Đối tượng nghiên cứu

Là những biện pháp đổi mới phương pháp dạy học môn toán lớp 1 trong
trường Tiểu học.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp sử dụng trò chơi toán học.
- Phương pháp dạy học và phát hiện vấn đề.
- Phương pháp trực quan.
- Phương pháp dạy học kiến tạo
- Phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm để đưa ra các kết luận cần thiết.
- Phương pháp xử lí số liệu
1.5.Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Chương trình toán lớp 1, được áp dụng ở lớp 1 tại trường Tiểu học nơi tôi
công tác trong năm học 2018 -2019


2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận
Đổi mới phương pháp dạy học là vấn đề then chốt của chính sách đổi mới
giáo dục Việt nam trong giai đoạn hiện nay.Tại hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành
TW Đảng Cộng sản Việt Nam lần VIII đã chỉ rõ nhiệm vụ quan trọng của ngành
Giáo dục và Đào tạo là “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo khắc
phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thói quen tích cực, tự giác và tư duy sáng
tạo của học sinh”.
Trong luật giáo dục khoản 2, điều 24 có ghi: “ Phương pháp giáo dục phổ
thông phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với
đặc điểm từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ nặng
vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng
thú học tập cho học sinh.”
Đổi mới phương pháp dạy học không phải là thay toàn bộ các phương pháp
truyền thống bằng những phương pháp hiện đại mà phải biết kết hợp một cách linh

hoạt, hài hòa giữa các phương pháp đó làm sao để phát huy được tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của người học.
Cũng như các môn học khác trong hệ thống chương tình giáo dục tiểu học,
môn Toán đã thiết thực góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục tiểu học. Vì vậy việc
hướng dẫn học sinh tự tìm tòi, chiểm lĩnh kiến thức mới có vai trò quan trọng trong
quá trình hình thành và phát triển tư duy toán học của học sinh.
* Nhiệm vụ của người giáo viên
Thực hiện giảng dạy, giáo dục đảm bảo chất lượng theo chương trình giáo
dục, kế hoạch dạy học; soạn bài lên lớp kiểm tra, đánh giá, xếp loại học sinh; quản
lý học sinh trong các hoạt động giáo dục do nhà trường tổ chức; tham gia các hoạt
động chuyên môn; chịu trách nhiệm về chất lượng, hiệu quả giảng dạy và giáo dục.
* Chương trình và mục tiêu chương trình toán lớp 1:
Chương trình gồm 35 tuần (4 tiết / 1 tuần x 35 = 140 tiết)
Số học: học sinh biết đọc viết đếm các số đến 100, làm tính cộng, tính trừ
không nhớ trong phạm vi 100.
Đại lượng, đo đại lượng: học sinh biết đo độ dài trong phạm vi 20.
Yếu tố hình học: Học sinh nắm được về điểm, đoạn thẳng, hình vuông, hình
tam giác, hình tròn.
Giải bài toán có lời văn: Biết giải bài toán đơn về cộng, trừ.
Yêu cầu với mức độ tư duy còn thấp, quá trình nhận thức môn toán phải đi từ
cụ thể, kỹ năng phân tích tổng hợp còn yếu hầu như chỉ dựa vào hình ảnh có sẵn
trước mắt. Vì thế chương trình toán lớp 1 chỉ tập trung:
+ Học xong toán lớp 1 học sinh bước đầu có kiến thức cơ bản, đơn giản thiết
thực về phép đếm, về số lượng, về số tự nhiên trong phạm vi 100, về phép cộng và
phép trừ không nhớ trong phạm vi 100, về độ dài, đo độ dài trong phạm vi 20, tuần


lễ, ngày trong tuần, đọc giờ đúng trên mặt đồng hồ, về một số hình học (đoạn
thẳng, điểm, hình vuông, tròn, hình tam giác) giải bài toán có lời văn.
+ Hình thành và rèn luyện kĩ năng thực hành: đọc, viết, đếm, so sánh các số

trong phạm vi 100, cộng trừ không nhớ trong phạm vi 100, đo ước lượng độ dài các
đoạn thẳng (với các số tự nhiên trong phạm vi 20), nhận biết hình vuông, hình tròn,
hình tam giác, điểm đoạn thẳng, giải các bài toán đơn về cộng, trừ. Bước đầu biết
diễn đạt bài toán bằng lời, bằng kí hiệu một số nội dung đơn giản của bài học và bài
tập thực hành, tập dượt so sánh, phân tích tổng hợp trừu tượng hoá, khái quát hoá
trong phạm vi của những nội dung có nhiều quan hệ với đời sống thực tế học sinh.
2.2. Thực trạng việc dạy – học môn Toán :
2.2.1. Thực trạng công tác dạy – học môn Toán lớp 1 I trường Tiểu học
Nguyễn Văn Trỗi hiện nay.
Qua thực tiễn dạy học, dự giờ, trao đổi chuyên môn với đồng nghiệp, đặc
biệt là qua việc đánh giá, nhận xét bài làm của học sinh, tôi thấy:
2.2.1.1. Về phía giáo viên:
Trong thực tế đã có không ít thầy, cô giáo tâm huyết với nghề, luôn tìm cách
truyền đạt tri thức mới mẻ, dễ hiểu, tạo nên sự yêu thích, say mê học tập cho học
sinh. Lòng yêu nghề, mến trẻ chính là động lực để các thầy cô giáo đó không
ngừng cải tiến PPDH. Trong số “chưa bắt kịp yêu cầu của đổi mới giáo dục”, bên
cạnh số bảo thủ, trì trệ, vẫn có không ít giáo viên cầu thị đổi mới, nhưng chính họ
lúng túng trước một khối lý luận về đổi mới PPDH đồ sộ hiện có. Họ muốn, nhưng
khả năng không tự tìm cho mình một cách đi riêng, một cách giải quyết vấn đề
trước từng thực tiễn cụ thể của từng lứa học sinh, từng lớp học trò, từng cá nhân
người học ở từng hoàn cảnh cụ thể.
2.2.1.2. Về phía học sinh
Trí tưởng tượng của học sinh lớp 1 đã phát triển phong phú hơn so với trẻ
mầm non. Tuy nhiên, tưởng tượng của các em vẫn còn đơn giản, chưa bền vững.
Như vậy cần phát triển tư duy và trí tưởng tượng của các em bằng cách biến các
kiến thức “khô khan” thành những hình ảnh có cảm xúc, đặt ra câu hỏi mang tính
gợi mở, thu hút các em vào các hoạt động nhóm, hoạt động tập thể để quá trình
nhận thức phát triển. Trong giai đoạn lớp 1, lớp 2 ghi nhớ máy móc phát triển khá
tốt và chiếm ưu thế hơn so với ghi nhớ có ý nghĩa. Nhiều HS chưa biết tổ chức việc
ghi nhớ, đặc biệt các em chưa đủ ý chí để thực hiện đến cùng mục đích đã đề ra nếu

gặp khó khăn.
Trong quá trình giảng dạy ở Tiểu học, đặc biệt dạy lớp 1, hầu như giáo viên
nào cũng phàn nàn khi các em mới bước vào học môn Toán các em còn rất lúng
túng thường hay mắc phải các lỗi như: cộng trừ còn chậm, tính toán bị nhầm lẫn,
khi dạy đến phần giải toán có lời văn học sinh rất lúng túng khi nêu câu lời giải,
thậm chí nêu sai câu lời giải, viết sai phép tính, viết sai đáp số. .. Chứng tỏ các em
chưa nắm được một cách chắc chắn cách làm các dạng toán.


Kết quả khảo sát chất lượng môn Toán vào tháng 10 năm học 2018 – 2019
của lớp 1I do tôi giảng dạy như sau:
Lớp
1I
( 47 HS)

Điểm 9-10

Điểm 7 - 8

Điểm 5-6

Điểm dưới 5

TS

%

TS

%


TS

%

TS

%

7

14,8

14

29,7

22

46,8

4

10,6

Qua khảo sát, tôi nhận thấy: Đa số các em mới chỉ nhận biết và nhắc lại
kiến thức kĩ năng đã học. Nhiều em chưa nắm chắc chắn kiến thức, chưa biết trình
bày, giải thích lại kiến thức theo ý hiểu của mình. Đặc biệt nhiều em chưa biêt vận
dụng kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết các vấn đề tương tự trong học tập, đới
sống.

2.3.Các biện pháp đổi mới phương pháp dạy học môn Toán cho học sinh
lớp 1 ở trường Tiểu học.
Xuất phát từ những lí do trên, trong quá trình giảng dạy, năm học 2018 2019, tôi đã nghiên cứu nội dung chương trình, các tài liệu tham khảo, trao đổi với
các đồng nghiệp và kết hợp với những kinh nghịêm của bản thân trong quá trình
giảng dạy. Tôi đã tìm ra một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học toán lớp 1
đạt kết quả khả quan. Đó là các biện pháp sau:
Biện pháp 1: Ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng đồ dùng dạy học
có hiệu quả tạo hứng thú say mê trong học tập:
Những năm qua việc đổi mới nội dung, chương trình sách giáo khoa được
thực hiện khá đồng bộ. Việc đổi mới nội dung, chương trình yêu cầu phải đổi mới
phương pháp dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi phải sử dụng phương
tiện dạy học phù hợp - và CNTT là một trong những phương tiện quan trọng góp
phần đổi mới phương pháp dạy học.
Nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng và hiệu quả của ứng dụng CNTT trong
dạy học; được sự quan tâm và chỉ đạo của Ban giám hiệu, trong quá trình dạy học
vừa qua tôi đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng, triển khai ứng dụng CNTT
trong giảng dạy và bước đầu thu được một số kết quả nhất định.
Thực tế cho thấy rằng dạy học truyền thống đối với học sinh lớp 1, giáo viên
phải sử dụng rất nhiều đồ dùng trong một tiết dạy. Từ khâu kẻ vẽ, soạn đồ dùng
trên lớp rất mất nhiều thời gian mà hiệu quả chưa cao dẫn đến giáo viên ngại sử
dụng đồ dùng trực quan thường dạy chay. Hơn nữa trong quá trình thao tác hưỡng
dẫn bài học, một bộ phận học sinh không quan sát được rõ ràng do vị trí đứng của
giáo viên che khuất mục tiêu hướng dẫn.
Nhờ thế mạnh: dễ quan sát theo dõi, trực quan, sinh động, dữ liệu phong phú,
lưu trữ và sử dụng dễ dàng, thông qua việc giảng dạy sử dụng đồ dùng bằng công
nghệ thông tin, giáo viên giúp học sinh từng bước phát triển năng lực tư duy, rèn


luyện phương pháp và kĩ năng logic, khơi gợi và tăng khả năng quan sát, tìm tòi.
Giờ học của các em phải diễn ra một cách hứng thú, nhẹ nhàng, sinh động, cụ thể

nhằm tích cực hoá các hoạt động nhận thức của học sinh. Như vậy có thể nói dạy học ở tiểu học là một công việc hết sức quan trọng đối với người dạy và người học.
Nhờ đó, học sinh có một công cụ, một chiếc chìa khoá vàng để mở cửa chân trời
khoa học. Đó là phương tiện mang theo trong suốt cuộc đời học sinh và trong cả
thực tế cuộc sống.
Với phương pháp này tôi tổ chức, hướng dẫn các em học sinh hoạt động trực
tiếp trên các sự vật cụ thể nhờ vậy học sinh nắm được chắc chắn kiến thức và kỹ
năng tương ứng.
Ví dụ khi dạy bài : ‘‘Số không trong phép cộng’’:
Tôi thấy nên cho xuất hiện hình ảnh lồng chim thứ nhất có 3 con chim trước
sau đó xuất hiện lồng chim thứ hai không có con chim nào rồi khai thác sau đó đưa
ra phép tính 3 + 0 = 3, học sinh sẽ thấy cụ thể và dễ hình dung hơn.
Ví dụ: Khi dạy bài “Hình tam giác”:
Tôi chuẩn bị các hình tam giác bằng bìa có màu sắc, kích thước, hình dạng
khác nhau và đặt ở những vị trí khác nhau cho học sinh quan sát. Qua các hình ảnh
cụ thể đó, tôi hình thành cho các em biểu tượng về hình tam giác. Sau đó tôi lại cho
học sinh tự nêu ví dụ về hình tam giác trong thực tế như: cái ê ke, lá cờ thi đua,
biển báo,..
Ví dụ: Để học sinh nắm được cấu tạo số:
Tôi thường tổ chức hoạt động chia một số que tính thành 2 nhóm một cách
tùy ý, mỗi em chủ động chia theo cách của mình. Tập hợp tất cả các cách chia, tôi
sẽ có được tất cả các trường hợp cần nắm về cấu tạo số. Có phân tích bằng hành
động như vậy, dần dần học sinh mới phân tích thầm trong óc được.
Ví dụ: Khi dạy về Đoạn thẳng:
Tôi yêu cầu mỗi học sinh lấy ra một sợi dây. Tôi sẽ căng thẳng sợi dây của
mình rồi yêu cầu cả lớp làm theo.
Sau đó cho cả lớp đọc đồng thanh: “Đây là một đoạn thẳng”
Với cách dạy này 100% học sinh đều được trực tiếp tham gia hoạt động, học
sinh dễ hiểu và nhớ lâu hơn.
Tuy nhiên, ta không nên lạm dụng phương pháp này và cần phải chuyển dần,
chuyển kịp thời và đúng lúc từ dạng trực quan này sang dạng trực quan khác với

mức độ trừu tượng tăng dần.
Ví dụ: Khi cho học sinh giải toán:
Chẳng hạn loại toán về nhiều hơn, tôi có những minh họa trực quan theo thứ
tự như sau:


4


3
Mức độ 1
Mức độ 2
Mức độ 3
Biện pháp 2: Sử dụng trò chơi toán học vào tiết học toán:


Trò chơi toán học là trò chơi, trong đó có chứa một yếu tố toán học nào đó.
Đối với học sinh lớp 1 với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của các em thì trò
chơi toán học là một trong những phương pháp rất quan trọng giúp các em chiếm
lĩnh được kiến thức mới. Thực tế cũng cho thấy hình thức tổ chức trò chơi toán học
dễ được học sinh hưởng ứng tích cực và tham gia.
Xét về mục đích phục vụ dạy học nói chung, trò chơi toán học có thể là:
+ Trò chơi nhằm dẫn dắt, hình thành tri thức mới.
+ Trò chơi nhằm củng cố kiến thức, luyện tập kỹ năng.
+ Trò chơi nhằm ôn tập, rèn luyện tư duy trong giờ ngoại khóa.
Sau đây tôi xin đưa ra một vài ví dụ về trò chơi toán học mà tôi đã sử dụng ở
lớp mình.
Ví dụ 1: Để củng cố cho học sinh về phép cộng, phép trừ trong phạm vi 5,
tôi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “Buộc dây cho bóng”
Chuẩn bị: bảng lớp có hình vẽ, gồm 2 phần:

- Phần trên: vẽ hình các quả bóng bay, trên mỗi quả có ghi một phép tính
cộng hoặc trừ trong phạm vi 5.
- Phần dưới: Vẽ một cụm các ô vuông ghi các kết quả của các phép tính trên.
Cách chơi: Học sinh nối bóng với ô, ghi kết quả thích hợp ở dưới. Mỗi em
trong đội chỉ được nối một lần và chuyển cho bạn khác nối tiếp. Tổ nào xong trước,
nối đúng là tổ đó thắng.

Ví dụ 2: Sau khi học xong các bài: Hình vuông, hình tròn; Hình tam giác
tôi tổ chức cho các em chơi trò chơi “Bịt mắt chọn hình”.
Mục đích: Luyện kỹ năng nhận dạng hình
Chuẩn bị: 25 hình bằng bìa cứng (5 hình vuông, 5 hình tam giác, 5 hình tròn,
5 hình tứ giác không vuông, 5 hình có đường bao cong nhưng không tròn)


Cách chơi: 3 học sinh cùng chơi. Sau khi bị bịt kín mắt, em thứ nhất có
nhiệm vụ là tìm “hình tam giác”, em thứ hai có nhiệm vụ là tìm “hình tròn”, em thứ
ba có nhiệm vụ tìm “hình vuông”. Mỗi em phải lấy ra các miếng bìa có hình trùng
với nhiệm vụ của mình. Ai lấy đủ 5 hình trước là người thắng cuộc.

Ví dụ 3: Giúp học sinh ghi nhớ các bảng tính đã học và rèn luyện tính
nhanh nhẹn, tôi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “Đúng – sai”
Cách chơi: Cử 2 đội chơi, mỗi đội 5 em; cử 2 em làm thư ký.
Giáo viên lần lượt đưa ra các phép tính sau đó thư kí 1 sẽ ghi phép tính vào
bảng con và giơ thẻ , chẳng hạn: 6 – 5 = 1; 3 + 2 = 5;
6 - 3 = 2;… Sau mỗi
phép tính đưa ra, các đội chơi phải có sự phản hồi lại nhanh (đúng hay sai) bằng
cách đưa ra các thẻ đỏ hoặc xanh.
Mỗi lần trả thì thư kí 2 làm nhiệm vụ tính điểm đúng thì cộng 1 điểm và sai
thì bị trừ 1 điểm. Cuối cuộc chơi đội nào nhiều điểm sẽ thắng.



Ví dụ 4: Để rèn luyện cho học sinh cách đặt một đề toán tôi tổ chức cho
các em chơi trò chơi “Nhìn vật đặt đề toán”.
Tôi chia học sinh thành 2 đội, cử đại diện (mỗi đội khoảng 4 đến 6 em) và
mang một số đồ vật của nhóm mình lên. Ví dụ: 6 cái bút hay 9 que tính (từ 1 đến
10) (đồ vật cùng loại).
Cách chơi: Hai đội đứng quay mặt vào nhau: Một bạn của đội này cầm đưa
lên một số bút (ví dụ 5 cái), đội kia phải nói được: “Có 5 cái bút” (hoặc “Bạn …có
5 cái bút). Bạn đó tiếp tục cho đội bạn hoặc đội mình một số cái (ví dụ 2 cái), đội
kia phải nói được: “Cho đi 2 cái”. Bạn đó đưa số bút còn lại lên. Đội kia phải nói:
“Còn lại mấy cái bút?”. Sau đó lại đổi bên.Đội nào mà không đặt đề toán đúng đội
đó sẽ thua. Nếu cả hai đội đặt đúng, đặt hay. Tôi khen tất cả các em.


Biện pháp 3: Tăng cường cho học sinh thực hành luyện tập.
Đây là phương pháp dạy học thông qua các hoạt động thực hành - luyện tập
của học sinh để giúp các em nắm được các kiến thức và kỹ năng mới. Phương pháp
này có ưu thế là phát huy được tốt nhất tính độc lập của học sinh, là phương tiện tốt
nhất để thực hiện nguyên lí giáo dục.
Phương pháp này được tôi sử dụng thường xuyên khi dạy học vì như các bạn
đã biết một tiết học có 35 - 40 phút thì thời gian khoảng 15 phút đầu là phần hướng
dẫn, còn lại là thời gian cho học sinh thưc hành. Học sinh được thực hành, luyện
tập liên tục. Thông qua hoạt động này mà học sinh luyện tập các kiến thức và kỹ
năng cần thiết. Ngoài ra học sinh được thực hành, luyện tập để củng cố khắc sâu
kiến thức qua giờ hoạt động tập thể.
Tuy nhiên cần chú ý là phải chuẩn bị cho việc thực hành, luyện tập một cách
chu đáo; động viên cả lớp hoạt động độc lập, mọi học sinh đều tự suy nghĩ, tự tìm
biện pháp; nhất thiết phải tổng kết hoạt động độc lập của học sinh, điều chỉnh sai
lầm, có sự bổ sung kiến thức cần thiết; các bài tập cần đi từ đơn giản đến phức tạp,
cuối cùng nên có những bài tổng hợp để mức độ luyện tập được nâng cao dần; cần

thay đổi hình thức luyện tập để gây hứng thú học tập cho học sinh; cần luyện tập
nhiều, nhưng số lượng bài tập cần vừa phải, luyện tập ở lớp là chính.
Biện pháp 4: Rèn học sinh kĩ năng tự phát hiện kiến thức và biết tự giải
quyết vấn đề:
Trong mỗi tiết học tôi thường vận dụng những thành tố tích cực của mô hình
trường học mới VNEN. Đây cũng là một phương pháp dạy học phát huy được tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Tôi sử dụng phương pháp này khi hình
thành kiến thức mới, khi củng cố rèn luyện kỹ năng toán và khi vận dụng kiến thức.
Ví dụ 1: Hình thành cách so sánh độ dài
Tôi đặt vấn đề: Đối với bút, thước… làm thế nào để biết cái nào dài hơn?
Học sinh sẽ phát hiện phương pháp: so sánh độ dài các đồ vật cụ thể như thước và
bút chì một cách trực tiếp. Tôi đặt vấn đề so sánh độ dài của hai vật cố định xa nhau
không dời được, học sinh phải làm thế nào? Học sinh phải suy nghĩ và đề xuất
phương pháp mới - so sánh với độ dài của một đối tượng thứ ba, sử dụng đơn vị đo.
Ví dụ 2: Với lớp 1, bài tập dạng dưới đây có tính vấn đề
2=1+…
8=…+3
6=4+…
10 = ….+ 1
Biện pháp 5: Tận dụng tối đa thời gian trong giờ luyện tập:
Trong điều kiện dạy học hiện nay hầu hết các trường tiểu học đều thực hiện
học hai buổi trên ngày. Đây là một điều kiện thuận lợi giúp giáo viên tận dụng
những giờ luyện đọc, giờ tự học và giờ sinh hoạt ngoại khoá nhằm củng cố và nâng
cao chất lượng đọc cho học sinh.
Với giờ hướng dẫn học tôi thường tổ chức hướng dẫn học sinh ôn lại các bài
toán trong ngày, trong tuần dưới hình thức kiểm tra cặp đôi (làm bài sau đó tự kiểm
tra nhau ) sau đó tổ chức theo nhóm, tổ gây hứng thú cho các em.


Ở lứa tuổi tiểu học, tuổi “nhi đồng” ưa sống bằng tình cảm, thích động viên,

khen thưởng bằng lời nói việc làm cụ thể: khen trong từng giờ học, từng buổi sinh
hoạt, ….Với những em chưa chăm tôi luôn theo sát và kiểm tra việc học nói chung
và việc đọc nói riêng để từng bước nâng cao chất lượng đọc cho các em.
Mỗi tuần (hoặc tháng) các em đều được tham gia “hội vui học tập” với nhiều
hình thức thông qua giờ hoạt động tập thể từ đó để giáo viên và học sinh gần gũi
nhau hơn trên cơ sở tính hấp dẫn của môn học và cùng tham gia hoạt động.
Tóm lại: Cần tranh thủ các giờ luyện đọc, tự học và sinh hoạt tập thể để rèn
đọc và nâng cao năng lực đọc cho học sinh lớp mình là một việc làm cần thiết, có
tác dụng tích cực gây hứng thú học tập, sự say mê học hỏi lẫn nhau trong các em.
Biện pháp 6: Thực hiện tốt thông tư 22/TT- BGDĐT vào giờ học toán để
nhận xét, đánh giá động viên khen thưởng học sinh kịp thời.
Trong tiết dạy tôi thường chú ý đến học sinh ít nói, thụ động, học sinh làm
bài chậm, để gọi các em thường xuyên trả lời câu hỏi, làm bài tập… . Đối với học
sinh giỏi – khá tôi thường khích lệ, khen ngợi để các em phấn khởi hơn. Còn đối
với học sinh trung bình – yếu tôi nhẹ nhàng an ủi động viên: “ Cố lên, rồi các em sẽ
làm bài tốt như các bạn nếu các em cố gắng đọc bài nhiều ở lớp cũng như ở nhà.”
Trong tiết dạy toán, tôi giành nhiều thời gian cho đối tượng học sinh học yêu hơn,
hướng dẫn, cùng làm bài với các em. Khi các em có biểu hiện tiến bộ tôi thường
khen thưởng các em bằng những phần quà nhỏ như cuốn vở, viên phấn màu, cây
bút vv… để các em thích thú và cố gắng hơn.
Để đánh giá học sinh tôi sử dụng các hình thức đánh giá viết nhận xét của
mình vào vở và vào sách của học sinh hoặc nhận xét bằng lời, Học sinh cũng có thể
tự đánh giá kết quả học tập của mình, của bạn. Qua đó rèn học sinh kĩ năng được
nhận xét đánh giá đúng cho bạn.cho mình, chỉ ra được lỗi sai cho học sinh để học
sinh khắc phục kịp thời.
Để kiểm tra kiến thức học sinh nắm được tôi sử dụng phiếu kiểm tra định kỳ
và thường xuyên. Bài kiểm tra cần ra đề theo đúng chuẩn kiến thức kĩ năng, từ dễ
đến khó, đủ các dạng bài đại diện cho những nội dung cơ bản của chương trình, dễ
chấm điểm và cộng điểm. Bài kiểm tra đảm bảo đủ 4 mức độ nên mọi học sinh phát
triển bình thường đều làm được bài nhưng không dễ dàng đạt điểm 10, để phân loại

chính xác trình độ học sinh. Không cho học sinh làm các bài có nội dung ngoài
chương trình Toán 1.
Biện pháp 7: Kết hợp 3 môi trường Gia đình - Nhà trường - Xã hội
Gia đình là cái nôi, là nơi chắp cánh cho mọi ước mơ của trẻ thơ. Nhà trường
là nơi nuôi dưỡng những tâm hồn trẻ thơ, nơi cung cấp kiến thức và rèn luyện phẩm
chất,nhân cách cho các em. Còn xã hội là môi trường để các em bộc lộ phát triển và
hoàn thiện mình. Việc kết hợp 3 môi trường giáo dục là điều kiện không thể thiếu
trong quá trình giáo dục. Trong giảng dạy nói chung và dạy tập đọc nói riêng, sự
kết hợp này có ý nghĩa thật to lớn.


Từ thực tế giảng dạy tôi thấy việc kết hợp chặt chẽ giữa 3 môi trường giáo
dục là nền tảng vững chắc để đào tạo cho con em mình trở thành những công dân
vừa có phẩm chất đạo đức vừa có kiến thức vững vàng.
Trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 1, người giáo viên không chỉ rèn cho
học sinh làm toán nhanh, tinh toán giỏi, trình bày bài toán khoa học ở trên lớp mà
còn phải biết kết hợp với phụ huynh học sinh để rèn cho các em có thói quen đọc ở
nhà.
Tôi muốn đưa ra biện pháp kết hợp với phụ huynh học sinh để kèm cặp học
sinh thực hiện tốt giờ học ở nhà ,các buổi tối và ngày nghỉ…vận động phụ huynh
học sinh mua thêm các loại sách thảm khảo, bài tập toán cuối tuần… vừa giúp các
con năng cao kiến thức , còn giúp các con rèn được tính tự học. Từ đó phần lớn phụ
huynh học sinh trong lớp đã bổ sung các loại sách tham khảo môn toán cho tủ sách
con em mình được phong phú hơn. Một phần do đó mà năng lực đọc của các học
sinh ngày càng được nâng cao.
Ba môi trường này luôn bên cạnh để giúp học sinh có được sự tiến bộ nên
theo tôi cần đảm bảo các điều kiện sau :
+ Cần làm cho học sinh biết chính xác mục đích của việc luyện tập.
+Theo dõi một cách đặc biệt tính chính xác của việc thực hiện, để sao cho
không mắc những sai sót, lệch lạc, kịp thời đối chiếu và kiểm tra.

+Thời gian luyện tập còn tùy thuộc vào đặc điểm tâm lí cá nhân học sinh.
+Phải có hệ thống bài tập được xác định trước, có kế hoạch hợp lí, rõ ràng và
nâng độ khó dần dần.
+Quá trình luyện tập không được ngắt quãng trong một thời gian dài.
Biện pháp 8: Vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức dạy học và các
phương pháp dạy học trong giờ học toán:
* Phương pháp đàm thoại:
Phương pháp này phù hợp với tâm lý trẻ nhỏ, các em thích được hoạt động
(hoạt động lời nói).
Phương pháp đàm thoại được thực hiện trên cơ sở trao đổi câu hỏi phục vụ
cho nội dung bài. Ở đây có thể thấy, giáo viên nêu câu hỏi dẫn dắt, gợi mở; trò tìm
tòi, khám phá, chiếm lĩnh kiến thức. Ngược lại, trò có thể nêu câu hỏi thắc mắc để
giáo viên có thể hướng dẫn và giải đáp.
Phương pháp đàm thoại là tạo cho học sinh phát triển giao tiếp (giao tiếp
giữa cô và trò). Khi sử dụng phương pháp này ngoài việc có tác dụng giúp học sinh
tiếp thu kiến thức còn có tác dụng kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh.
Giáo viên kịp thời điều chỉnh nội dung và phương pháp dạy học của mình cho phù
hợp với đối tượng học sinh.
VD: - Để lấy được 25 que tính con làm thế nào? (lấy 2 bó chục que tính và 5 que
tinh dời, được 25 que tính )


Khi sử dụng phương pháp này, giáo viên nên dùng ngôn ngữ dễ nghe, nhẹ
nhàng, tránh cáu gắt khi các em chậm nhớ, chậm hiểu. Hãy ôn tồn dẫn dắt học sinh
từng bước một để dạy các em làm tốt bài tập trong mỗi ngày.
* Phương pháp học nhóm
Ngay từ đầu năm học qua khảo sát , phân loại học sinh trong lớp tôi bố trí
cho học sinh giỏi kèm học sinh yếu, em giỏi ngồi gần em yếu để giúp bạn học tập ,
ưu tiên những học sinh yếu được ngồi ở dãy bàn thứ nhất và thứ hai trong lớp .
Trong từng giờ học lúc nào tôi cũng gọi các em trả lời , làm bài nhiều hơn những

bàn học sinh khác.
* Phương pháp nhận xét nêu gương.
Để nâng dần chất lượng học sinh trong lớp, muốn cho trình độ học sinh đồng
đều vào cuối năm học, tôi thường trò chuyện với học sinh trung bình – yếu để giúp
các em cố gắng hơn cho kịp bằng các bạn. Tôi cho các em nhận xét các bạn giỏi
trong lớp.
VD: Bạn Hằng, bạn Minh làm toán giỏi, học giỏi vì các bạn ấy rất chăm chỉ đọc bài
và ôn bài rất nhiều ở nhà. Ở lớp các bạn cũng rất cố gắng đọc bài và luyện tập thêm
để ngày càng làm toán tôt hơn.
* Phương pháp gợi mở vấn đáp:
Tôi thường sử dụng phương pháp vấn đáp để tiến hành gợi mở làm cho
không khí lớp học sôi nổi, sinh động, kích thích hứng thú học tập và lòng tự tin của
các em. Ngoài ra còn rèn luyện cho các em năng lực diễn đạt sự hiểu biết của mình
bằng ngôn ngữ, làm cho các em nắm kiến thức nhanh chóng và sâu sắc.
* Phương pháp thuyết trình:
Phương pháp này tôi sử dụng để trình bày kiến thức mới, giải toán mẫu. Tuy
nhiên phương pháp này tôi rất hạn chế sử dụng, chỉ sử dụng khi thật cần thiết: nhịp
điệu chậm, phần nội dung thuyết trình ngắn và chiếm khoảng thời gian ngắn nhất
trong một tiết học. Khi sử dụng phương pháp này tôi thường kết hợp với các
phương pháp khác để học sinh thích thú và hào hứng hoạt động, ví dụ như phương
pháp minh họa bằng vật thật, với đàm thoại,…
*Phương pháp đọc tài liệu:
Tôi tìm hiểu và đọc một số tài liệu về phương pháp giảng dạy Toán 1, về
cách đổi mới phương pháp dạy học để giúp cho việc áp dụng đạt kết quả cao.
* Phương pháp giảng giải minh họa:
Ở phương pháp này tôi sử dụng để giải thích nội dung toán kết hợp với việc
dùng trực quan để hỗ trợ cho việc giải toán giúp học sinh hiểu, nhớ kiến thức, gây
hứng thú học tập. Tuy nhiên phương pháp này cũng có mặt hạn chế của nó nên tôi
ít sử dụng.
Ngoài ra muốn đổi mới phương pháp dạy học có kết quả ngay từ đầu năm

tôi đã xác định được cần phải đổi mới cách thiết kế bài dạy, lập kế hoạch bài dạy và
xây dựng mục tiêu bài học.


Tôi xác định kế hoạch bài học trong sách giáo viên dù đã được thiết kế chu
đáo đến đâu cũng chỉ là phương án dự kiến để tạo thuận lợi cho giáo viên trong
việc chuẩn bị dạy học. Một trong những yêu cầu quan trọng của dạy học là sát với
đối tượng. Vì vậy, tôi cần xuất phát từ tình hình thực tiễn của lớp để có những điều
chỉnh, thay đổi cho phù hợp với đối tượng học sinh.
Đối với tôi kế hoạch bài dạy rất quan trọng nó giúp tôi tự tin khi lên lớp. Kế
hoạch bài dạy theo tôi cần ngắn gọn, dễ sử dụng, dễ bổ sung, dễ điều chỉnh, nêu rõ
và đầy đủ các hoạt động dạy học cụ thể của thầy và trò.
Mỗi kế hoạch bài dạy của tôi thường có:
- Mục tiêu: Tôi dựa vào yêu cầu cần đạt của Chuẩn kiến thức, kỹ năng;
dựa vào tình hình thực tế của lớp, địa phương để xác định mục tiêu cho bài.
- Đồ dùng dạy học: Đồ dùng dạy học là một thiết bị rất quan trọng trong
quá trình chuẩn bị một tiết lên lớp. Lớp học có sinh động, có đạt hiệu quả hay
không đòi hỏi người giáo viên và học sinh phải chuẩn bị tốt đồ dùng cho tiết học
ấy.
- Các hoạt động dạy học chủ yếu: Ở nội dung này cần nêu kế hoạch tổ
chức và hướng dẫn từng hoạt động học tập của học sinh theo mục tiêu đã xác định.
Cần xác định rõ tên từng loại hoạt động, cách tiến hành các hoạt động đó, dự kiến
trình tự các hoạt động…
4. Hiệu quả của việc áp dụng một số biện pháp Đổi mới phương pháp
dạy học môn Toán lớp 1 ở trường Tiểu học.
Để khẳng định hiệu quả của việc dạy học môn toán theo hướng phát huy tích
cực hoạt động của học sinh. Trường đã thống nhất dạy đối chứng ở 2 lớp 1H và 1I.
Cả hai lớp có số lượng học sinh bằng nhau, trình độ tương đương nhau. Cả hai giáo
viên chủ nhiệm cùng dạy lớp của mình với bài: Số 0 trong phép cộng (tuần 8) và
bài Phép trừ dạng 17 – 3 (tuần 20)

Lớp 1H dạy (đối chứng) theo phương pháp truyền thống
Lớp 1I dạy (thử nghiệm) theo hướng đổi mới áp dụng những biện pháp đã
đúc rút được qua quá trình dạy toán của bản thân.
Cả hai giáo viên tự soạn giáo án – Ban giám hiệu cùng toàn thể giáo viên
khối 1 dự và nhận xét cho điểm vào phiếu dự giờ để có cơ sở đánh giá, rút kinh
nghiệm.
Sau khi dạy xong, Ban giám hiệu trực tiếp ra đề khảo sát chất lượng ( theo 4
mức độ ) dựa vào nội dung bài học, kết quả thu được như sau:
Bài: Số 0 trong phép cộng (tuần 8)
Sĩ Hình thức
Lớp
Mức 1
Mức 2
số
tham gia
1H 47 Đối chứng
47 = 100% 35 = 87,5%
1I
47 Thực nghiệm 47 = 100% 47 = 100%

Mức 3

Mức 4

15 = 37,5%
25 = 62,5%

5 = 12,5%
18 = 40 %



Bài: Phép trừ dạng 17 – 3 (tuần 20)
Sĩ Hình thức
Lớp
Mức 1
Mức 2
số
tham gia
1H 47 Đối chứng
47 = 100% 37 = 92,5%
1I 47 Thực nghiệm 47 = 100% 40 = 100%

Mức 3

Mức 4

21 = 52,5%
38 = 87%

12 = 22,5%
25 = 62,5%

Nhìn vào kết quả kiểm tra khảo sát như khẳng định thêm hiệu quả của
những biện pháp trên đem lại.
Qua tiết dạy của lớp 1H , BGH cùng giáo viên trong khối đã rút ra được
một số nhận xét như sau:
Giáo viên đã đi đúng các bước của quy trình dạy một tiết Toán mà hiện tại
đang thực hiện. Trình tự lên lớp chặt chẽ , đã thể hiện đúng phương pháp đặc trưng
bộ môn. Công việc cơ bản trong giờ dạy Toán đã được thể hiện rõ ràng. Giáo viên
giảng dạy nhiệt tình, đặc biệt đã chú trọng khai thác kiến thức cho học sinh, học

sinh học tập hăng hái, phát biểu xây dựng bài, nhận xét bài làm của bạn.
Song vẫn còn tồn tại một số vấn đề trong giờ dạy đó là tiết học tuy sôi nổi
nhưng chưa có sự lôi cuốn tạo sự sáng tạo đối với người học. Phần bài giảng của
giáo viên chỉ truyền thụ đủ nội dung bài theo các bước lên lớp chưa tạo ra nhiều
tình huống cho học sinh chú ý. Chưa phát huy được khả năng khám phá, tìm tòi,
sáng tạo của học sinh, chưa quan tâm tới từng đối tượng học sinh ít rèn kỹ năng
tính.
Qua tiết dạy của lớp 1I, BGH cùng giáo viên trong khối đã rút ra một số
nhận xét như sau:
Không khí giờ sôi nổi học sinh hào hứng say mê học tập. Đối với bài học các
em đều muốn mình là người giải quyết các tình huống giao tiếp được đặt ra, học
sinh được giao tiếp với nhau trong giờ học, qua việc nhận xét câu trả lời của bạn và
tìm ra câu trả lời hợp lý chính xác hơn.
Những em có kĩ năng tốt được phát huy khả năng của mình, những học sinh
học chưa tốt được giáo viên quan tâm qua các hoạt động trên lớp.
Giáo viên bao quát học sinh, theo dõi hướng dẫn giúp đỡ kịp thời đối với học
sinh yếu, đồng thời động viên khích lệ được các em hăng say học tập.
Với quy trình này giáo viên chủ động vai trò của người tổ chức điều khiển
quá trình học tập, giáo viên đã tạo điều kiện để các em tự nhận xét đánh giá cho
nhau, giáo viên chỉ đóng vai trò là trọng tài. Vì thế đã khích lệ được các em hăng
say học tập, học sinh được phát biểu, được tranh luận để thể hiện quan điểm của
mình, tự mình khám phá ra tri thức, khác hẳn với cách dạy trước đây học sinh bị áp
đặt nghe theo giáo viên.
Tiết dạy thực sự thành công đã soi sáng thêm lý luận dạy học theo hướng tích
cực hóa hoạt động học tập của học sinh và làm cho giáo viên tin tưởng ở tính khả
thi, hiệu quả của những biện pháp giúp giáo viên dạy tốt môn Toán đã được đúc rút
qua kinh nghiệm thực tế.


Tôi đã tiến hành dạy thực nghiệm ở lớp 1 của mình. Khi dạy hai tiết “Số 0

trong phép cộng’’ và “Phép trừ dạng 17 – 3’’ tôi đã áp dụng những biện pháp nêu
trên và tiết học đã đạt kết quả tốt. Đặc biệt cuối năm học kết quả kiểm tra môn toán
của lớp tôi phụ trách đã đạt kết quả cao, cụ thể như sau:
Lớp
1I

Điểm 9-10

Điểm 7 - 8

Điểm 5-6

Điểm dưới 5

TS

%

TS

%

TS

%

TS

%


25

62,5

12

30

3

7,5

0

0

Nhìn vào bảng trên ta thấy hiệu quả giảng dạy môn toán được nâng lên rõ
rêt. Các em nắm chắc chắn kiến thức biết trình bày, giải thích lại kiến thức theo ý
hiểu của mình. Đặc biệt nhiều em biêt vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để giải
quyết các vấn đề tương tự trong học tập, đới sống và rất yêu thích, say mê học toán.


3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1.Kết luận
Trong quá trình giảng dạy một số năm học ở lớp 1 bản thân tôi đã có điều
kiện để học tập, tham khảo, tìm tòi, nghiên cứu cách đổi mới phương pháp dạy học
của các đồng nghiệp cũng như của bản thân. Đây là một vấn đề đòi hỏi phải có sự
phối hợp giữa giáo viên, nhà trường, gia đình và chính bản thân của học sinh trong
suốt quá trình học tập.
Để đổi mới phương pháp dạy học Toán lớp 1 có hiệu quả theo tôi cần phải:

- Nắm vững chương trình và sách giáo khoa, hiểu đặc điểm tâm lý học sinh
để lựa chọn và sử dụng những phương pháp, phương tiện và hình thức dạy học phù
hợp.
- Giáo viên phải cải tiến không ngừng phương pháp dạy học và giúp học
sinh cải tiến phương pháp học. Biết dựa vào những tri thức mà học sinh đã có, đã
học để hướng dẫn học sinh nâng cao lên một trình độ.
- Hiểu không có phương pháp nào là tối ưu, mỗi phương pháp đều có giá trị
riêng của nó. Hiệu quả hay không hiệu quả đều phụ thuộc vào người sử dụng. Nếu
các phương pháp dạy học được kết hợp và bổ sung cho nhau thì cách dạy học ấy sẽ
phù hợp được với đối tượng học đa dạng, chống sự nhàm chán và tạo ra sự năng
động trong cách nghĩ, cách làm của học sinh.
- Giáo viên phải biết kết hợp hoạt động cá nhân với hoạt động nhóm và phát
huy khả năng của cá nhân.
- Tăng cường rèn kỹ năng thực hành cho học sinh.
- Sử dụng phương tiện kỹ thuật hiện đại vào dạy học.
- Linh hoạt trong ứng xử sư phạm để thích ứng với sự thay đổi của đối tượng
và hoàn cảnh.
- Luôn kiểm tra và đánh giá kiến thức và kỹ năng đạt được ở học sinh có
động viên khuyến khích các em.
- Luôn tự tìm tòi, học hỏi rút kinh nghiệm để bồi dưỡng chuyên môn của
mình.
- Tăng cường thao giảng, dự giờ rút kinh nghiệm, áp dụng những sáng kiến
trong giảng dạy.
- Đổi mới phương pháp dạy học kết hợp với đổi mới cách kiểm tra, đánh giá
kết quả học tập của học sinh cũng như cách thiết kế bài dạy.
3.2. Kiến nghị
3.2.1. Đối với giáo viên
- Không ngừng học hỏi, tìm tòi, tích lũy kinh nghiệm từ đồng nghiệp, từ
thông tin sách vở và từ chính học sinh.
- Nắm chắc nội dung chương trình, ý đồ của sách giáo khoa, dạy sát đối

tượng học sinh, lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức phù hợp.
- Đặc biệt là phải tâm huyết với nghề, luôn đặt học sinh là trung tâm, có trách
nhiệm với việc học của học sinh và bài dạy của mình. Cần phải thực sự quan tâm


yêu thương, gần gũi và tạo không khí vui tươi, phấn khởi rong các buổi học để
giúp các em ham học, và yêu thích môn học.
3. 2.2. Đối với nhà trường và các cấp quản lí
- Mở các lớp bồi dưỡng về chuyên môn và xây dựng nhiều tiết mẫu để cho
giáo viên được trao đổi, học tập, rút kinh nghiệm.
- Thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn theo chuyên đề về
phương pháp, hình thức tổ chức dạy học nói chung và dạy môn toán lớp 1 nói
riêng.
- Tích cực dự giờ, rút kinh nghiệm, tư vấn cho giáo viên, giúp giáo viên nâng
cao tay nghề.
- Đầu tư thêm tài liệu tham khảo, trang thiết bị dạy học, nhất là các thiết bị
dạy học hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy, phát triển khả năng tư duy cho
học sinh.
Trên đây là một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học toán lớp 1 đã
được tôi nghiên cứu, vận dụng vào giảng dạy bước đầu đã đạt kết quả khả quan. Hi
vọng những kinh nghiệm tôi đã và đang thực hiện sẽ được các đồng nghiệp quan
tâm, chia sẻ. Rất mong được sự góp ý của đồng nghiệp và các cấp lãnh đạo./.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
Thanh Hóa, ngày 8 tháng 4 năm 2019
CƠ QUAN/ ĐƠN VI
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.


Phạm Thị Thanh Hiền


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Đình Hoan (chủ biên) ( 2016), Toán 1- "sách giáo khoa", (In lần thứ mười
bốn), NXB Giáo dục Việt Nam.
2. Đỗ Đình Hoan (chủ biên) (2002), Mục tiêu dạy học môn toán 1 "sách giáo viên",
NXB Giáo dục.
3. Nguyễn Thị Ngọc Bảo (2009), “Chuẩn kiến thức kĩ năng toán 1”, NXB Giáo
dục.
4. Cuốn: Phương pháp dạy các môn học ở lớp 1
5. Cuốn: Hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy và học cấp Tiểu học.
6. Một số tài liệu khác.


SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ THANH HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN
TOÁN LỚP MỘT Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC

Người thực hiện: Phạm Thị Thanh Hiền
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị : Trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Toán

THANH HÓA, NĂM 2019




MỤC LỤC
Nội dung
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận
2.2. Cơ sở thực tiễn
2.3. Các biện pháp đổi mới phương pháp dạy học môn Toán cho
học sinh lớp 1 ở trường Tiểu học.
Biện pháp 1: Ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng đồ dùng dạy
học có hiệu quả tạo hứng thú say mê trong học tập:
Biện pháp 2: Sử dụng trò chơi toán học vào tiết học toán:
Biện pháp 3: Tăng cường cho học sinh thực hành luyện tập nhiều:
Biện pháp 4: Rèn học sinh kĩ năng tự phát hiện kiến thức và biết tự
giải quyết vấn đề:
Biện pháp 5: Tận dụng tối đa thời gian trong giờ luyện tập
Biện pháp 6: Đưa thông tư 22 vào giờ học toán để nhận xét, đánh giá
động viên khen thưởng học sinh kịp thời
Biện pháp 7: Kết hợp 3 môi trường Gia đình – Nhà trường – Xã hội
Biện pháp 8: Vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức dạy học và
các phương pháp dạy học trong giờ học toán
2.4. Hiệu quả của việc áp dụng một số biện pháp Đổi mới phương
pháp dạy học môn Toán lớp 1 ở trường Tiểu học.

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

Trang
1
1
2
2
2
3
4
4
5
6
6
8
12
13
13
14
14
15
18
21
21
22




×