Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Quy luật phủ định của phủ định với việc “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.75 KB, 32 trang )

I.

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi
xướng và lãnh đạo đã trải qua hơn ba mươi năm, đã thu được nhiều thành tựu quan
trọng, đã, đang và sẽ đem lại những thay đổi lớn lao cho đất nước và dân tộc. Kết
quả quan trọng đó có phần quan trọng là Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng
đúng đắn các quy luật khách quan của triết học mác xít, trong đó có phép biện
chứng duy vật vào xây dựng và thực hiện đường lối đổi mới.
Trong phép biện chứng duy vật có bao hàm ba quy luật phổ biến về sự vận
động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy đó là quy luật chuyển hóa từ những
sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại, quy luật thống nhất
và đấu tranh giữa các mặt đối lập và quy luật phủ định của phủ định. Nếu như quy
luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và
ngược lại chỉ ra cách thức của sự phát triển, quy luật thống nhất và đấu tranh giữa
các mặt đối lập chỉ ra nguyên nhân và động lực bên trong của sự phát triển thì quy
luật phủ định của phủ định có vai trò quan trọng trong việc chỉ ra con đường phát
triển của các sự vật, hiện tượng diễn ra trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
“Phủ định của phủ định” với tư cách là một quy luật cơ bản của phép biện
chứng lần đầu được trình bày trong cuốn “Khoa học Logic” của Ph. Hê-ghen. Các
nhà kinh điển Mác - Lê-nin đã chỉ ra rằng, quy luật phủ định của phủ định là sự
phỏng đoán thiên tài về nhịp điệu và hình thức của sự phát triển biện chứng của tự
nhiên, xã hội và tư duy. Tuy nhiên, quy luật này được xây dựng trên cơ sở duy tâm
khách quan và theo công thức “ba đoạn” một cách máy móc với chính đề - phản đề
- hợp đề. V. I. Lê-nin đã nhận xét, “công thức ba đoạn ấy thể hiện tính chất nhân
tạo, sự điều hòa mâu thuẫn, tính cứng nhắc, là mặt bên ngoài nông cạn của triết học
Hê-ghen”

(1)


. C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã tiếp thu cái hạt nhân hợp lý trong phép

biện chứng của Ph. Hê-ghen và cải tạo một cách duy vật phép biện chứng đó, giải
phóng phép biện chứng, trong đó có quy luật phủ định của phủ định khỏi hình thức
(1)

V. I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1989, t. 29, tr. 249


thần bí và tính chất cứng nhắc trong triết học của Ph. Hê-ghen. Đồng thời,
khẳng định quy luật phủ định của phủ định là “một quy luật phát triển của tự nhiên,
của lịch sử và của tư duy vô cùng phổ biến và chính vì vậy có một tầm quan trọng
và có tác dụng vô cùng to lớn”. Quy luật phủ định của phủ định đã chỉ ra khuynh
hướng, con đường phát triển của các sự vật và hiện tượng. Phủ định biện chứng là
một quá trình khách quan, tự thân, là quá trình kế thừa cái tích cực đã đạt được từ
cái cũ. Quá trình phủ định của phủ định tạo thành sự vận động và phát triển không
ngừng, mang tính chu kỳ của thế giới khách quan. Trải qua một số lần phủ định, sự
vật, hiện tượng dường như lặp lại những giai đoạn đã qua trên cơ sở mới, cao hơn.
Thông qua quy luật phủ định của phủ định, ta thấy, sự phát triển của sự vật, hiện
tượng không phải là một quá trình đồng nhất tuyệt đối, có thể tiến hết bước này
đến bước khác theo bậc thang từ thấp đến cao liên tục, mà là một quá trình mâu
thuẫn giữa cái khẳng định và phủ định, giữa cũ và mới. Sự phát triển phải trải qua
nhiều giai đoạn, trong đó bao hàm cả những bước đi thụt lùi, quanh co. Đây chính
là nét đặc trưng cơ bản về tính biện chứng trong sự phát triển. Ph. Ăng-ghen đã
khẳng định rằng, “phát triển là phát triển bằng mâu thuẫn hoặc phủ định của phủ
định - phát triển theo hình xoáy ốc”. Như vậy, phát triển không đi theo đường
thẳng mà theo đường “xoáy ốc”. “Tính chất xoáy ốc của sự phát triển không chỉ
giả thiết phải có một hướng tiến bộ chung mà có cả sự vận động thụt lùi tạm thời,
khả năng có những đường ngoằn ngoèo trong quá trình phát triển có sự kết hợp
giữa tiến bộ và thoái bộ…”

Việc nghiên cứu quy luật phủ định của phủ định có vai trò hết sức quan
trọng đối với con đường phát triển ở Việt Nam hiện nay. Dưới ngọn cờ lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, con đường phát triển của Việt Nam không gì khác là độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, để có thể thực hiện thành công mục tiêu này,
chúng ta cần hiểu đúng về con đường của sự phát triển. Con đường của sự phát


triển là con đường quanh co phức tạp, không phải theo đường thẳng mà theo đường
xoáy ốc, có bao gồm cả sự tha hóa, những bước rút ngắn và bỏ qua. Chỉ có nhận
thức đúng về con đường của sự phát triển, chúng ta mới có thể tìm ra được những
giải pháp đưa đất nước vượt qua những thách thức để bứt lên tiến kịp và tiến cùng
thời đại.
Tuy nhiên hiện nay, vấn đề nhận thức về sự lựa chọn con đường phát triển xã
hội chủ nghĩa, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, kiên trì phấn đấu theo lý tưởng và
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội của các tầng lớp nhân dân còn chưa được đầy đủ.
Vấn đề này cũng đang được Đảng và nhà nước ta quan tâm. Tiến lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam đó là sự phát triển tất yếu ở Việt
Nam, được Đảng và Hồ Chủ Tịch vạch ra từ năm 1930 (trong Chính cương vắn tắt,
sách lược vắn tắt trong luận cương chính trị của Đảng) và ngày càng hoàn thiện
hơn trong các kỳ Đại hội Đảng gần đây. Vì vậy, trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước hiện nay, việc thức về tính tất yếu con đường quá độ tiến lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta mang tính cấp thiết
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, em xin chọn đề tài “Quy
luật phủ định của phủ định với việc “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay” với mong muốn được hiểu cũng như làm rõ hơn về vấn đề này.
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm
hai phần chính với nội dung cụ thể như sau:
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH
VÀ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI BỎ QUA CHẾ ĐỘ TƯ BẢN CHỦ
NGHĨA

1. Quy luật phủ định của phủ định.
2. Lý luận về việc xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa


II. VẬN DỤNG QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH VÀO QUÁ
TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI BỎ QUA CHẾ ĐỘ TƯ BẢN
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1. Phải nhận thức đúng đắn về phủ định chủ nghĩa tư bản. Phủ định chủ
nghĩa tư bản phải bằng tư duy biện chứng.
2. Phủ định chủ nghĩa tư bản là quá trình khó khăn, phức tạp - Con đường
phát triển của Việt Nam không phải là con đường bằng phẳng mà theo đường xoáy
ốc quanh co, phức tạp, có thể còn bao gồm cả sự rút ngắn và bỏ qua.
3. Thực chất của việc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay


PHẦN NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH
VÀ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUÁ ĐỘ TIẾN LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI BỎ
QUA CHẾ ĐỘ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1. Quy luật phủ định của phủ định
1.1.1. Khái niệm phủ đinh, phủ định biện chứng
Trong ý thức thông thường, khái niệm “phủ định” thường được thể hiện
bằng từ “không”; phủ định có nghĩa là nói “không”, là bác bỏ một cái gì đó.
Trong triết học có hai quan điểm: quan điểm siêu hình và quan điểm biện
chứng về sự phủ định. Quan điểm siêu hình hiểu sự phủ định là sự can thiệp của
những lực lượng bên ngoài dẫn tới thủ tiêu sự vật, chấm dứt sự phát triển của nó.
Quan điểm biện chứng cho rằng, phủ định là một khâu tất yếu của bất kì sự phát
triển nào. Thế giới vận động và phát triển không ngừng vô cùng vô tận. Sự vật,
hiện tượng sinh ra, tồn tại, phát triển rồi mất đi, được thay thế bằng sự vật, hiện
tượng khác; thay thế hình thái tồn tại này bằng hình thái tồn tại khác của cùng một

sự vật, hiện tượng trong quá trình vận động và phát triển của nó. Sự thay thế đó gọi
là sự phủ định. Đó là sự thay thế sự vật này bằng một sự vật khác trên cơ sở mất đi
của cái cũ, xuất hiện cái mới tiến bộ hơn và có sự kế thừa những yếu tố phù hợp
của cái cũ, là quá trình giải quyết mâu thuẫn nội tại của bản thân sự vật bị phủ
định. Hay nói cách khác, phủ định với nghĩa chung nhất là sự thừa nhận, sự loại bỏ
hay hay sự thay thế sự vật, hiện tượng này bằng sự vật, hiện tượng khác.
Mọi quá trình vận động và phát triển trong các lĩnh vực tự nhiên, xã hội hay
tư duy đều diễn ra thông qua những sự phủ định, trong đó có những sự phủ định
chấm dứt sự phát triển, nhưng cũng có những sự phủ định tạo ra điều kiện, tiền đề
cho quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng được gọi là sự phủ định biện chứng
Vì vậy, phủ định nào tạo ra điều kiện, tiền đề cho sự xuất hiện của cái mới,
cho sự phát triển tiếp theo gọi là phủ định biện chứng.


Phủ định biện chứng là sự phủ định bắt nguồn từ nguyên nhân trong sự vật,
là vòng khâu của mối liên hệ, là vòng khâu của sự phát triển. Phủ định biện chứng
có hai đặc trưng cơ bản là tính khách quan và tính kế thừa, phát triển.
- Phủ định biện chứng có tính khách quan vì nguyên nhân của sự phủ định
nằm trong chính bản thân sự vật, hiện tượng; nó là kết quả quả quá trình đấu tranh
giải quyết mâu thuẫn tất yếu, bên trong bản thân sự vật, hiện tượng; tạo khả năng
ra đời của cái mới thay thế cái cũ, nhờ đó tạo nên xu hướng phát triển của chính
bản thân nó. Vì vậy phủ định biện chứng cũng chính là sự tư thân phủ định.
- Phủ định biện chứng có tính kế thừa, phát triển: kế thừa những nhân tố hợp
quy luật và loại bỏ nhân tố trái quy luật. Phủ định biện không phải là sự phủ định
sạch trơn cái cũ, mà trái lại trên cở sở những nhân tố hợp lý của cái cũ để phát triển
thành cái mới, tạo nên tính liên tục của sự phát triển. Đó là sự phủ định mà trong
đó cái mới hình thành và phát triển tự thân, thông qua quá trình lọc bỏ những mặt
tiêu cực, lỗi thời giữ lại những nội dung tích cực. V.I.Lênin cho rằng: “Không phải
sự phủ định sạch trơn, không phải sự phủ định không suy nghĩ, không phải sự định
hoài nghi, không phải sự do dự, , cũng không phải sự nghi ngờ là cái đặc trưng và

cái bản chất trong phép biện chứng…, mà là sự phủ định coi như là vòng khâu của
liên hệ, vòng khâu của sự phát triển…” (1)
Bởi vây, phủ định biện chứng là khuynh hướng tất yếu của mối liên hệ bên
trong giữa cái cũ và cái mới, là sự tự khẳng định của các quá trình vận động, phát
triển của sự vật, hiện tượng.
1.1.2. Khái niệm và nội dung quy luật phủ định của phủ định
Quy luật phủ định của phủ định là một trong 3 quy luật cơ bản của
phép biện chứng duy vật. Quy luật này khái quát khuynh hướng phát triển của sự
vật, hiện tượng từ trình độ thấp đến trình độ cao hơn, tiến lên theo hình thức xoáy
ốc thể hiện tính chất chu kỳ trong quá trình phát triển. Đó là cơ sở phương pháp


luận của nguyên tắc phủ định biện chứng, chỉ đạo mọi phương pháp suy nghĩ và
hành động của con người.
Trong chuỗi phủ định tạo nên quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng,
mỗi lần phủ định biện chứng đều tạo ra những điều kiện tiền đề cho sự phát triển
tiếp theo của nó. Trải qua nhiều lần phủ định, tức “phủ định của phủ định” sẽ tất
yếu dẫn đến kết quả là sự vận động theo chiều hướng đi lên của sự vật, hiện tượng.
Tính chất chu kỳ của các quá trình phát triển thường diễn ra theo hình thức
“xoáy ốc”, đó cũng là tính chất “ phủ định của phủ định”. Theo tính chất này, mỗi
chu kỳ phát triển của sự vật, hiện tượng thường trải qua hai lần phủ định cơ bản với
ba hình thái tồn tại chủ yếu của nó, trong đó hình thái cuối mỗi chu kỳ lặp lại
những đặc trưng cơ bản của hình thái ban đầu chu kỳ đó nhưng trên cơ sở cao hơn
về trình đọ phát triển nhờ kế thừa được những nhân tô tích cực và loại bỏ được
những nhân tố tiêu cực qua hai lần phủ định biện chứng.
Theo V.I.Lênin: “Từ khẳng định đến phủ định – tự sự phủ định đến “sự
thống nhất” với bị khẳng định – không có cái đó, phép biện chứng trở thành một sự
phủ định sạch trơn, một trò chơi hay là chủ nghĩa hoài nghi” (1.)
Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính chất chung, phổ biến của sự
phát triển: đó không phải là sự phát trieerntheo hình thức một con đường thắng, mà

là phát triển theo hình thức con đường “xoáy ốc”. Đề cập tới con đường đó của sự
phát triển biện chứng V.I.Lênin viết: “Sự phát triển hình như diễn lại những giai
đoạn đã qua, nhưng dưới một hình thức khác, ở một trình độ cao hơn phủ định của
phủ định); sự phát triển có thể nói là theo đường xoáy ốc chứ không phải theo
đường thẳng” (2).
Khuynh hướng phát triển theo đường xoáy ốc thể hiện tính biện chứng của
sự phát triển, đó là tính kế thừa, tính lặp lại và tính tiến lên. Quy luật phủ định của
(1) V. I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1989, t. 29, tr. 246
(2) V. I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1989, t. 26, tr. 65


phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn trong bản thân
sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là quá trình đấu tranh và chuyển hóa giữa các
mặt đối lập trong bản thân sự vật, giữa mặt khẳng định và phủ định. Sự phủ định
lần thứ nhất được thực hiện một cách căn bản sẽ làm cho sự vật cũ chuyển thành
cái đối lập của mình. Lần phủ định tiếp theo dẫn tới sự ra đời một sự vật mới mang
nhiều đặc trưng đối lập với cái trung gian. Như vậy về hình thức, sẽ trở lại cái xuất
phát, song thực chất, không phải giống nguyên như cũ, mà dường như lặp lại cái
cũ, nhưng trên cơ sở cao hơn. Đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện
chứng thông qua phủ định của phủ định chính là sự phát triển dường như quay trở
lại cái cũ, nhưng trên cơ sở cao hơn, do vậy sự phát triển có tính chất tiến lên
không phải theo đường thẳng mà theo đường xoáy ốc.
Nói một cách khái quát, qua một số lần phủ định, sự vật hoàn thành một chu
kỳ phát triển. Phủ định lần thứ nhất tạo ra sự đối lập với cái ban đầu, đó là một
bước trung gian trong sự phát triển. Sau những lần phủ định tiếp theo, tái lập cái
ban đầu, nhưng trên cơ sở mới cao hơn, nó thể hiện rõ rệt bước tiến của sự vật.
Những lần phủ định tiếp theo đó gọi là phủ định của phủ định. Phủ định của phủ
định làm xuất hiện cái mới như là kết quả tổng hợp của tất cả những yếu tố tích cực
đã được phát triển từ trong cái ban đầu và cả trong những lần phủ định tiếp theo
những yếu tố tích cực được khôi phục, được duy trì và phát triển. Cái tổng hợp này

là sự thống nhất biện chứng tất cả những cái tích cực ở các giai đoạn trước và cái
mới xuất hiện trong quá trình phủ định. Do vậy, cái mới với tư cách là kết quả
phủ định của phủ định có nội dung toàn diện và phong phú hơn cái khẳng định ban
đầu và cái kết quả của lần phủ định thứ nhất. Sự phủ định của phủ định là giai đoạn
kết thúc của một chu kỳ phát triển, đồng thời là điểm xuất phát của một chu kỳ
phát triển tiếp theo.
Từ một số lập luận trên đây, chúng ta có thể hiêu nội dung cơ bản của quy
luật phủ định của phủ định như sau:


Quy luật phủ định của phủ định trong phép biện chứng duy vật phản ánh mối
quan hệ biện chứng giữa cái phủ định và cái khẳng định trong quá trình phát triển
của sự vật, hiện tượng. Phủ định biện chứng là điều kiện cho sự phát triển, cái mới
ra đời là kết quả của sự kế thừa những nội dung tích cực từ trong sự vật, hiện tượng
cũ, phát huy nó trong sự vật, hiện tượng mới và tạo nên tính chu kỳ của sự phát
triển. Quy luật phủ định của phủ định chỉ ra rằng: chu kỳ của sự phát triển phải trải
qua ít nhất hai lần phủ định: từ nó chuyển sang mặt đối lập với nó (cái phủ định
phủ định cái khẳng định), sau đó trở về nó trên cơ sở cao hơn (cái khẳng định phủ
định cái phủ định). Như vậy, sự phát triển không phải theo đường thẳng mà theo
đường xoáy ốc.
Nhận xét về vai trò của quy luật này, Ph.Ăngghen đã viết: “…phủ định cái
phủ định là gì? Là một quy luật vô cùng phổ biến và chính vì vậy mà có một tầm
quan trọng và có tác dụng vô cùng to lớn về sự phát triển của tự nhiên, lịch sử và
của tư duy”
2. Lý luận về việc quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa.
2.1 Lý luận về hình thái kinh tế xã hội và kết cấu của nó
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử
dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản
xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản

xuất với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ
sản xuất ấy.
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc gồm các
mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi
mặt của hình thái kinh tế - xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại, thống nhất với
nhau.


- Lực lượng sản xuất là sự biểu hiện mối quan hệ giữa người với tự nhiên
trong quá trình sản xuất. Nó là kết quả của năng lực thực tiễn của con người trong
quá trình tác động vào tự nhiên để sản xuất ra của cải, vật chất. Lực lượng sản xuất


là thể thống nhất hữu cơ giữa người lao động với tư liệu sản xuất (trước hết
là công cụ lao động) để tạo ra một sức sản xuất vật chất nhất định.
Về mặt kết cấu, lực lượng sản xuất bao gồm hai bộ phận cơ bản là người lao
động và tư liệu sản xuất. Tư liệu sản xuất bao gồm công cụ lao động, đối tượng lao
động và phương tiện lao động. Trong đó người lao động có vai trò đặc biệt quan
trọng còn công cụ có vai trò quyết định.
- Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất,
là quan hệ cơ bản chỉ phối và quyết định trong mọi quan hệ xã hội
Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ
trong tổ chức quan lý sản xuất và trao đổi hoạt động với nhau, quan hệ trong phân
phối sản phẩm. Ba mặt nói trên thống nhất hữu cơ tạo thành quan hệ sản xuất.
Trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữa vai trò quyết định còn quan hệ tổ
chức quản lý và quan hệ về phân phối sản phẩm có tác động trở lại đối với quan hệ
sở hữu về tư liệu sản xuất. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều được hình thành dựa
trên những quan hệ sản xuất xác định, trong đó quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản
xuất quyết định bản chất của quan hệ xã hội.
Quan hệ sản xuất được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản

xuất vật chất xã hội, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, mà chỉ
phụ thuộc vào trình đông phát triển của lực lượng sản xuất. Nghĩa là con người
không thể tùy tiện lựa chọn hay xóa bỏ một kiểu quan hệ sản xuất nào đó, nó hoàn
toàn được quy định bỏi trình độ của lực lượng sản xuất.
- Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp luật, triết
học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật cùng với những thể chế tương ứng (như: nhà
nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội…) được hình thành trên một cơ sở
hạ tầng nhất định.


Ngoài những yếu tố chủ yếu nêu trên, trong một hình thái kinh tế - xã hội
còn có quan hệ giai cấp (trong xã hội có giai câp), quan hệ dân tộc, quan hệ gia
đình…được hình thành và chịu sự tác động của các yếu tố chủ yếu trên.
Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự
nhiên vì sự thay thể của các hình thái kinh tế - xã hội tuân theo những quy luật
khách quan vốn có của nó, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
Đó là quy luật về sự phù hopwjcuar quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng
sản xuất, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng; đấu tranh giai cấp (trong
xã hội có đối kháng giai cấp). Quá trình này diễn ra một cách tự nhiên. Tuy nhiên,
quá trình này diễn ra ở các quốc gia dân tộc khác nhau trong những điều kiên, hoàn
cảnh lịch sử - cụ thể khác nhau nên quy luật này cũng mang tính lịch sử. Do đó, có
quốc gia, dân tộc có sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội diễn ra từ thấp
đến cao một cách tuần tự, nhưng cùng có quốc gia, dân tộc có thể bỏ qua một hoặc
vài hình thái kinh tế - xã hội trên bước đường phát triển của mình. Tất nhiên, việc
bỏ qua này cũng phải tuân theo quy luật chứ không thể tùy tiện. Đây chính là tính
lịch sử của quy luật này.
2.2. Lý luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa
Với học thuyết hình thái - kinh tế xã hội, C. Mác và Ph. Ăng-ghen xem xét
sự phát triển xã hội loài người là một tiến trình lịch sử - tự nhiên. Tiến trình ấy,

theo các ông, đã phát triển trải qua các chế độ: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu
nô lệ, phong kiến, tư bản và tất yếu sẽ tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Đó là một tất
yếu lịch sử. Điều này có nghĩa, chủ nghĩa tư bản chỉ là một giai đoạn phát triển của
lịch sử nhân loại cũng giống như các giai đoạn phát triển trước nó (cộng sản
nguyên thủy, chiến hữu nô lệ, phong kiến) mà nhân loại đã từng trải qua. Nhìn một
cách tổng quát, toàn bộ quá trình phát triển của xã hội loài người mấy nghìn năm
qua cho thấy, lịch sử không phải bao giờ cũng vận động theo đường thẳng mà để


tiến lên, lịch sử thường vận động theo những con đường quanh co, dích dắc;
con đường phát triển của lịch sử không phải bao giờ cũng thẳng tiến mà nhiều khi
chững lại, thậm chí thụt lùi; sự vận động của lịch sử không phải bao giờ cũng liên
tục mà nhiều khi đứt đoạn; không phải bao giờ cũng tuần tự, tiệm tiến mà nhiều
khi đột biến, nhảy vọt... Đó là hiện thực lịch sử nhân loại đã từng diễn ra, mà đã là
hiện thực lịch sử thì đương nhiên đó là quá trình diễn tiến một cách tất yếu khách
quan vừa bao hàm tính phổ biến, vừa bao hàm tính đặc thù theo một tiến trình lịch
sử - tự nhiên. Mọi hiện tượng lịch sử đều là kết quả hội tụ tất yếu của tất cả các yếu
tố và điều kiện lịch sử trong những hoàn cảnh nhất định. Bởi lẽ, cái tất nhiên bao
giờ cũng xuyên qua vô số cái ngẫu nhiên.
Mặc dù chỉ ra một cách sâu sắc sự thay thế nhau liên tục của các hình thái
kinh tế - xã hội như một tiến trình lịch sử - tự nhiên, nhưng C. Mác và Ph. Ăngghen, cũng đã dự báo khả năng bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đối với một số
nước trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Thật vậy, trong Lời tựa cho Tuyên ngôn
của Đảng cộng sản(viết cho bản tiếng Nga năm 1882), C. Mác nói rằng: “Bây giờ,
thử hỏi công xã Nga, các hình thức thật ra đã bị phá hoại ghê gớm ấy của chế độ
công hữu ruộng đất nguyên thủy, có thể chuyển thẳng sang hình thức cao, hình
thức công hữu cộng sản chủ nghĩa được không? Hay là, trái lại, trước hết nó cũng
phải trải qua cái quá trình tan rã giống như quá trình mà tiến trình lịch sử của
phương Tây phải trải qua?
Phát triển tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin khẳng định:
“Xã hội tư bản chủ nghĩa nhất định sẽ phải chuyển biến thành xã hội xã hội chủ

nghĩa”(1). Tiếp tục tư tưởng về sự phát triển của các nước tiền tư bản chủ nghĩa lên
chủ nghĩa xã hội, V.I. Lê-nin nêu rõ: “Vấn đề đặt ra như thế này: đối với các dân
tộc lạc hậu hiện nay đang trên con đường giải phóng và sau chiến tranh đã có một
bước tiến bộ, mà khẳng định rằng nền kinh tế quốc dân của những dân tộc đó nhất
định phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, chúng ta có cho như vậy là
(1) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1977, t. 26, tr. 86


đúng hay không? Chúng tôi cho rằng không đúng... Quốc tế cộng sản còn phải xác
định và chứng minh trên lý luận cho một nguyên tắc đó là: với sự giúp đỡ của giai
cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô-viết, và
qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không phải
trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”(1).
Như vậy, có thể thấy, theo C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin, một cách
chung nhất, điều kiện tiên quyết để “các xã hội tiền tư bản”, “những nước lạc hậu”
“tiến tới chủ nghĩa cộng sản” là: 1) cách mạng vô sản đã thành công ở những nước
tư bản phát triển nhất và kết hợp với cách mạng của các nước lạc hậu; 2) phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã bị đánh bại ở chính “quê hương của nó” và
những nơi nó phát triển nhất; 3) phương thức sản xuất mới đã hình thành và nêu
một tấm gương về xây dựng và quản lý xã hội; 4) các nước lạc hậu đang tồn tại các
quan hệ xã hội công xã có nhiều nét tương đồng với các quan hệ trong chế độ cộng
sản chủ nghĩa; và, 5) các lực lượng tiến tiên (giai cấp công nhân và đảng của giai
cấp công nhân) trong các "nước lạc hậu" này chủ động tiến hành cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa.
Qua các tác phẩm của C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin cho thấy, các ông
đã dùng các cụm từ “bỏ qua toàn bộ thời kỳ tư bản chủ nghĩa để lập tức biến chủ
nghĩa cộng sản nông dân Nga thành chế độ sở hữu công cộng xã hội chủ nghĩa
hiện đại”, hay “những nước lạc hậu mới có thể bước vào con đường phát triển rút
ngắn” và “không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” để nói về
“những nước lạc hậu” tiến lên chủ nghĩa xã hội trong khi chưa phát triển tư bản

chủ nghĩa. Đáng chú ý là các tư tưởng: 1- “bỏ qua toàn bộ thời kỳ tư bản chủ
nghĩa”; 2- “không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”; 3- “con
đường phát triển rút ngắn”. Ở đây tư tưởng thứ nhất và thứ hai có cùng một cách
tiếp cận và mang cùng một nội dung, còn tư tưởng thứ ba có cách tiếp cận khác và
cũng mang những nội dung khác. “Thời kỳ tư bản chủ nghĩa” hay “giai đoạn phát
(1) V.I. Lê-nin: Sđd, t. 41, tr. 295


triển tư bản chủ nghĩa” hiện diện với tư cách là một hình thái kinh - tế xã
hội trong chuỗi vận động và phát triển liên tục của lịch sử. Vì vậy, nói “bỏ qua”
hay “không phải trải qua” nghĩa là bỏ qua hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ
nghĩa. Còn “con đường phát triển rút ngắn” nghĩa là sự phát triển không bỏ qua
hoàn toàn hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa với tư cách là một hình thái
kinh tê ́ - xã hội, mà đó là sự phát triển có chọn lọc, kế thừa, có điều chỉnh và định
hướng các thành tố phát triển, các động lực phát triển và xu hướng phát triển theo
những yếu tố của thời đại qui định và theo sự mong muốn, theo chiến lược, mục
tiêu phát triển của từng quốc gia cụ thể. Dĩ nhiên, “con đường phát triển rút ngắn”
cũng bao hàm trong nó sự phát triển bỏ qua những nhân tố, những bộ phận, những
tiến trình không còn phù hợp trong thời đại mới.
Vấn đề cần lưu tâm ở đây là, “Bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa” hay “không
phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” đều là nói tới một hình thái
kinh tế - xã hội - một giai đoạn trong chuỗi phát triển tất yếu của tiến trình vận
động mang tính lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người. Liệu trong quá trình phát
triển của một quốc gia nào đó, ở một trạng thái phát triển nào đó, vào một thời
điểm nào đó có thể có sự đột biến, nhảy vọt để bỏ qua một giai đoạn phát triển với
tư cách là một hình thái kinh tế - xã hội được hay không? Đây là một vấn đề rất căn
bản mà thời gian qua không ít nhà khoa học đã không quan tâm. Về điều này, C.
Mác có lần khẳng định: “Không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả
những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho sự phát
triển vẫn còn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn, không bao

giờ xuất hiện khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó còn chưa
chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ”(1).
Như vậy, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội thấm nhuần trong sự phân tích
các hiện tượng xã hội của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Điều này cũng
khẳng định ý nghĩa phương pháp luận đặc biệt trong nhận thức xã hội của học
(1) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Sđd, t. 13, tr. 15 - 16


thuyết này. Rõ ràng, để một xã hội tiền tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội như
các ông đã chỉ ra, thì tư tưởng về “con đường phát triển rút ngắn” tỏ ra thuyết phục
hơn so với con đường “bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa” và “không phải trải qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Vấn đề phát triển rút ngắn có thể phù hợp
với sự đa dạng, phong phú, khác biệt về điểm xuất phát của các quốc gia khác
nhau, chính nó tạo ra sự độc đáo của các quốc gia trong quá trình lên chủ nghĩa xã
hội. Thế nhưng, rút ngắn là như thế nào, cái gì có thể rút ngắn và rút ngắn bao
nhiêu thì hợp lý là những vấn đề không hề đơn giản.
II. VIỆC VẬN DỤNG QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH VÀO
QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI BỎ QUA CHẾ ĐỘ TƯ
BẢN CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Việc nghiên cứu quy luật phủ định của phủ định có vai trò hết sức quan
trọng đối với con đường phát triển ở Việt Nam hiện nay. Dưới ngọn cờ lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, con đường phát triển của Việt Nam không gì khác là độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, để có thể thực hiện thành công mục tiêu này,
chúng ta cần hiểu đúng về con đường của sự phát triển. Con đường của sự phát
triển là con đường quanh co phức tạp, không phải theo đường thẳng mà theo đường
xoáy ốc, có bao gồm cả sự tha hóa, những bước rút ngắn và bỏ qua. Chỉ có nhận
thức đúng về con đường của sự phát triển, chúng ta mới có thể tìm ra được những
giải pháp đưa đất nước vượt qua những thách thức để bứt lên tiến kịp và tiến cùng
thời đại.

Vận dụng và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện
lịch sử của cách mạng Việt Nam, từ khi thành lập Đảng đến nay Đảng ta đã xác
định con đường phát triển của dân tộc là quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa. Đó là đường lối tiến hành cách mạng nhất quán suốt hơn 73 năm
qua của Đảng ta. Sự lựa chọn của Đảng Cộng sản Việt Nam tại các thời điểm bước


ngoặt này cho thấy, Đảng ta luôn luôn kiên định con đường đưa đất nước tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Sự kiên định ấy thực chất chính là sự nhất quán lý tưởng xã hội
chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Dù bất
cứ hoàn cảnh lịch sử nào Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán, không dao
động, luôn kiên trì đường lối xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, đường lối tiến lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta cũng thường
xuyên được điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện cho phù hợp tiến trình phát triển và
điều kiện lịch sử nhất định của thời đại. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất
là qua thực tiễn của gần 17 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã
không ngừng đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
1. Phải nhận thức đúng đắn về phủ định chủ nghĩa tư bản. Phủ định chủ
nghĩa tư bản phải bằng tư duy biện chứng.
Trước đây, đã có thời kỳ, các nước xã hội chủ nghĩa phủ định sạch trơn chủ
nghĩa tư bản. Điều này không chỉ cản trở việc kế thừa chủ nghĩa tư bản trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội mà còn hình thành tư duy siêu hình, cản trở sự phát triển
của chính các nước xã hội chủ nghĩa. Các Mác và Ph.Ăngghen đã cho rằng, chúng
ta không thể thủ tiêu một lực lượng sản xuất nếu điều kiện cho sự tồn tại của nó
chưa mất đi, nên chúng ta không thể phủ định chủ nghĩa tư bản bằng khát vọng,
bằng ý muốn.
Hơn nữa cần tránh tư tưởng tả khuynh, hữu khuynh về vấn đề phủ định chủ
nghĩa tư bản. Tư tưởng tả khuynh, nóng vội khi phủ định chủ nghĩa tư bản, dẫn đến

những sai lầm nguy hại to lớn trong lịch sử, thì tư tưởng hữu khuynh, mơ hồ khi
cho rằng không cần phải đấu tranh giai cấp, thực hiện “dung hợp cái giai cấp” để
xây dựng “xã hội siêu giai cấp”…thì cũng phá hoại thành quả của chủ nghĩa xã
hội. Và Đảng ta cũng vấp phải những sai lầm trong quá trình tư duy và hành động


khi không vận dụng đúng quy luật phủ định của phủ định vào con đường quá độ
lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác
định rõ con đường cách mạng của nước ta là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ
địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”(1). Đối với nhiệm vụ tiến lên xã hội cộng sản,
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, do điều kiện đặc thù của nước ta nên “tiến lên chủ
nghĩa xã hội, không thể một sớm một chiều”, mà cần thực hiện từng bước trong tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Tuy nhiên, sau hòa bình lập lại ở miền Bắc (1954), do chủ quan, duy ý chí và
mong muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội một cách nhanh chóng ở miền Bắc, Hội nghị
Trung ương 13 khóa II (12-1957), đã nhấn mạnh quan điểm quá độ trực tiếp thay thế
cho quan điểm quá độ dần dần,từng bước(2). Quan điểm này được duy trì trong giai
đoạn trước đổi mới và đạt được những thành tựu nhất định trong xây dựng chủ nghĩa
xã hội, nhất là huy động được sức người, sức của trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, nhưng do duy trì quá lâu nên đã phát sinh những hệ quả tiêu cực. Đến cuối
thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 thế kỷ XX, Việt Nam rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội
nghiêm trọng.
Sau năm 1975, chủ trương, đường lối được Đại hội IV xác định là nắm vững
chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành
đồng thời 3 cuộc cách mạng, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt;
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất
lớn xã hội chủ nghĩa,... Mục tiêu tổng quát trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ được
xác định là: “ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền

đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường
tiếp theo”(3). Tuy nhiên, thực tế cho thấy, việc chủ quan, duy ý chí trong việc đề ra
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, t. 2, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr2
(2) Xem: ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị Trung ương lần thứ 13, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
II (12-1957).
(3) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1986, tr.42.


đường lối, mục tiêu mà không tuân theo quy luật, thiếu những đánh giá khách quan về
tình hình cụ thể đã đem lại kết quả không như mong đợi.
Từ sự nhìn nhận lại tính chất và đặc điểm của thời kỳ quá độ, đánh giá các thành
quả và hạn chế trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong Cương lĩnh 1991 đã
xác định rõ mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở Việt Nam là “xây dựng
xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về
chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ
nghĩa phồn vinh”. Trong đó, mục tiêu của chặng đường đầu thời kỳ quá độ ở nước ta
là: “thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định, vững chắc tạo thế
phát triển nhanh ở chặng sau”.
Bằng việc nhìn thẳng vào sự thật, Đại hội VI đã rút ra 4 bài học kinh nghiệm,
trong đó khẳng định “Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo
quy luật khách quan”; và nhận định thời kỳ quá độ ở nước ta, “là một thời kỳ cải biến
cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả
về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng”.Nhận thức này đã
khắc phục được tư tưởng chủ quan, nóng vội, giản đơn về thời kỳ quá độ.
Từ nhận thức đúng đắn về thời kỳ quá độ, Đảng quyết định đổi mới cơ cấu kinh
tế, coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Đại
hội VI đã vận dụng đúng đắn quan điểm của Lênin về kinh tế nhiều thành phần. Chính
Lênin cũng cho rằng tên nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa là để khẳng định hướng tiến
lên chứ điều đó chưa có nghĩa là nền kinh tế của ta đã hoàn toàn là kinh tế xã hội chủ
nghĩa. Vì vậy, ở nước ta cần thiết phải có nhiều thành phần kinh tế phát triển bình đẳng

trước pháp luật, đó là yêu cầu khách quan. Đại hội VI khẳng định nước ta có các thành
phần: kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể; kinh
tế tiểu sản xuất hàng hóa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế tự
nhiên, tự túc tự cấp. Trong quá


trình đổi mới, 20 năm qua, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất
quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Thực
tiễn đổi mới cũng cho thấy nhiều thành phần kinh tế đương nhiên là có nhiều hình
thức sở hữu, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng
với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Cùng với đổi mới cơ cấu kinh tế, Đảng chủ trương đổi mới cơ chế quản lý
dứt khoát bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp chuyển sang
hạch toán, kinh doanh và từng bước đưa nền kinh tế vận động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó chính
là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển
kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời
sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan
hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý, phân phối.
Tại Đại hội VII năm 1991, Đảng ta chỉ ra, trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội, chúng ta “đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật
khách quan: nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ ngay nền kinh tế nhiều
thành phần; có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng; duy trì quá
lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp;...” (1). Cương lĩnh nêu rõ,
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong “hoàn cảnh quốc tế có những biến
đổi to lớn và sâu sắc” nên cần phải trải qua quá trình lâu dài với nhiều chặng
đường.

(1) ĐCSVN: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự Thật, Hà

Nội, 1991, tr.1.


2. Phủ định chủ nghĩa tư bản là quá trình khó khăn, phức tạp - Con
đường phát triển của Việt Nam không phải là con đường bằng phẳng mà theo
đường xoáy ốc quanh co, phức tạp, có thể còn bao gồm cả sự rút ngắn và bỏ
qua.
Toàn bộ sự phân tích của Các Mác và Ph.Ăngghen thông qua học thuyết
hình thái kinh tế - xã hội đã đi đến khẳng định: “ Sự phát triển của các hình thái
kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử - tự nhiên”, có nghĩa là sự phát triển này theo
quy luật tất yếu khách quan, không chịu sự chi phối bởi ý muốn chủ quan của bất
kỳ giai cấp nào trong lịch sử.
Tuy nhiên, trong Lời tựa cho bộ Tư bản xuất bản lần thứ nhất, Các Mác vạch
rõ: “một xã hội, ngay cả khi đã phát hiện được quy luật tự nhiên của sự vận động
của nó,…cũng không thế nào nhảy qua các giai đoạn phát triển tự nhiên hay dùng
sắc lệnh để xóa bỏ những giai đoạn đó. Nhưng nó có thể, rút ngắn và làm dịu bớt
được những cơn đau đẻ”. Khi Ph.Ăngghen nghiên cứu về tình hình nước Nga và
cách mạng 1875, trong tác phẩm Vấn đề xã hội Nga, Ph. Ăngghen đã đưa ra tư
tưởng về sự phát triển rút ngắn lên chủ nghĩa cộng sản. Khi Các Mac tìm hiểu sâu
về nước Nga, ông đã đồng ý với Ph.Ăngghen về quan điểm đó. Quan điểm của
V.I.Lênin sau này cũng thống nhất với những ý kiến đó. Ông khẳng định quan
điểm về khả năng phát triển rút ngắn ngay ở những nước chưa trải qua chế độ tư
bản chủ nghĩa. Điều này vẫn là quá trình lịch sử - tự nhiên.
Phủ định chủ nghĩa tư bản là quá trình khó khăn, phức tạp nên cần có quan
điểm phương pháp khoa học, tránh vấp váp, rủi ro. Chế độ phong kiến mất 400
năm để phủ định chế độ chiếm hữu nô lệ. Chế độ tư bản mất gần 300 năm để phủ
định về đại thể chế độ phong kiến. Do đó, chế độ xã hội chủ nghĩa – chế độ xã hội
phủ định hoàn toàn chế độ áp bức, bóc lột thì chắc chắn sẽ còn khó khăn, phức tạp
hơn. Xác định đúng những nội dung cốt yếu để phủ định chủ nghĩa tư bản.



Trong điều kiện hiện nay, vận dụng quy luật phủ định của phủ đinh và lý
luận về hình thái kinh tế xã hội, Đảng ta đã không ngừng đổi mới nhận thức về chủ
nghĩa xã hội và con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Ngay từ Đại hội VI, Đảng ta đã nhận thức rằng, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội phải trải qua một thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan và độ dài
của thời kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế xã hội của mỗi nước.
“Thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất
nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất
khó khăn” (1)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986)
đã chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm, nguyên nhân của hạn chế, yếu kém trong
nhận thức về xã hội xã hội chủ nghĩa. Lần đầu tiên trong lịch sử xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng đã được Đảng ta chỉ ra trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991). Cương lĩnh năm 1991 xác
định xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội gồm 6 đặc trưng: Do nhân dân lao động
làm chủ. Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế
độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc. Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo
năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện cá nhân. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp
đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các
nước trên thế giới.
Có thể nói, những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội được nêu trong Cương
lĩnh năm 1991 là những đặc trưng bản chất để nhận biết về chủ nghĩa xã hội.

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội,
1987, tr.41).



Những đặc trưng này ở một phương diện nào đó cũng đã chỉ rõ động lực và mục
tiêu của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Tổng kết việc thực hiện mục tiêu của Đại hội VII, Cương lĩnh 1991 và căn
cứ vào tình hình thực tế đất nước, Đại hội VIII (1996) khẳng định, nước ta đã “ ra
khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng”, kết thúc chặng đường đầu
tiên và bắt đầu bước vào chặng đường tiếp theo của thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội với nội dung trọng tâm là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020.
Điều này cũng được nhấn mạnh lại ở Đại hội IX (2001) và Đại hội X (2006).
Đại hội IX (4-2001) tổng kết 15 năm đổi mới, khẳng định: “Xây dựng chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả
các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ
quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có
tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu
tranh giữa cái mới và cái cũ”
Đây thực chất là việc cụ thể hóa mục tiêu chung, đồng thời trực tiếp thực
hiện mục tiêu của chặng đường đầu thời kỳ quá độ mà Cương lĩnh đã xác định.
Phát triển nhanh và bền vững để sớm kết thúc thời kỳ quá độ, với mục tiêu
tổng quát là“xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với
kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta
trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc” là định
hướng mà Đại hội XI (2011) đề ra. Theo đó, đến giữa thế kỷ XXI, Việt Nam cần
phấn đấu trở thành “một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa”. Mục tiêu này được Đại hội XII (2016), tiếp tục khẳng định, đồng thời chỉ
rõ 12 nhiệm vụ tổng quát. Mới đây Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII Về

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H, 2001,
tr.85).



hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục
làm rõ hơn quan điểm, mục tiêu tổng quát và nhiệm vụ cụ thể cho từng giai đoạn
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Tổng kết 15 năm đổi mới, Đại hội IX nhận định, thời kỳ quá độ ở nước ta là
sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, phải trải qua một thời kỳ lâu dài với nhiều chặng
đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Cương lĩnh
2011 khẳng định: “Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh quốc tế có
những biến đổi to lớn và sâu sắc”, trong đó, đặc điểm nổi bật của thời đại là “các
nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác
vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của
nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã
hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới.Theo quy
luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”.
3. Thực chất của việc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay
Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa thực chất là phát triển theo con đường “ rút
ngắn” quá trình lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng “rút ngắn” không phải là đốt cháy
giai đoạn, duy ý chí, coi thường quy luật, như muốn xóa bỏ nhanh sở hữu tư nhân
và các thành phần kinh tế “phi chủ nghĩa xã hội” hoặc coi nhẹ sản xuất hàng hóa,...
Trái lại, phải tôn trọng quy luật khách quan và biết vận dụng sáng tạo vào điều kiện
cụ thể của đất nước, tận dụng thời cơ và khả năng thuận lợi để tìm ra con đường,
hình thúc, bước đi thích hợp. Phát triển theo con đường “rút ngắn” là phải biết kế
thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được ở chủ nghĩa tư bản không chỉ về
lực lượng sản xuất mà cả về quan hệ sản xuất, cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng
tầng, như Lênin đã nói về chủ nghĩa xã hội ở nước Nga với kỹ thuật hiện đại trong
các tơrớt của Mỹ và nghệ thuật quản lý trong ngành đường sắt ở Đức


Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng không thể thực hiện quá độ trực tiếp

lên chủ nghĩa xã hội mà phải qua con đường gián tiếp, qua việc thực hiện hàng loạt
các hình thức quá độ. Sự cần thiết khách quan và vai trò tác dụng của hình thức
kinh tế quá độ được Lênin phân tích sâu sắc trong lý luận về chủ nghĩa tư bản nhà
nước. Thực hiện các hình thức kinh tế quá độ, các khâu trung gian... vừa có tác
dụng phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất, vừa cần thiết để chuyển từ các
quan hệ tiền tư bản lên chủ nghĩa xã hội, nó là hình thúc vận dụng các quy luật
kinh tế phù hợp với điều kiện cụ thể.
Tại Đại hội IX - Đại hội đầu tiên trong thế kỷ XXI, dựa trên tổng kết lý luận
và thực tiễn sau 15 năm đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên
nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã khẳng định:
"Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những
thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về
khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh
tế hiện đại". Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của Đảng ta, quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay là con đường phát triển rút ngắn và phương thức
thực hiện con đường này là quá độ gián tiếp. Đó là bước phát triển quan trọng
trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta.
Trước Đại hội IX (2001), các văn kiện của Đảng nhấn mạnh, Việt Nam đi
lên chủ nghĩa xã hội “bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” hoặc “không
trải qua chủ nghĩa tư bản”. Từ nhận định này dẫn đến tư duy chủ quan, duy ý chí,
tách biệt hoàn toàn mối quan hệ giữa các hình thái kinh tế - xã hội, giữa các chế độ
xã hội; phủ nhận thành quả mà nhân loại đã đạt được qua các chế độ xã hội, các
hình thái kinh tế- xã hộitrước đó. Điều này trên thực tế đã cản trở sự phát triển xã
hội.


×