Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên khối 1 nâng cao chất lượng môn tiếng việt cho những học sinh tiếp thu chậm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.29 KB, 17 trang )

I./ PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài .
Dưới ánh sáng Nghị quyết của Đảng giáo dục và đào tạo, khoa học công
nghệ được coi là quốc sách hàng đầu, là khâu đột phá để đẩy mạnh, đẩy nhanh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để ngành giáo dục đào tạo có bước
chuyển biến mới về chất, đào tạo ra những thế hệ chủ nhân có đủ phẩm chất và
năng lực vừa hồng vừa chuyên, vươn tới mục tiêu của sự nghiệp giáo dục mà cả
xã hội tin tưởng. Để đạt được mục đích đó, ta có thể đi bằng nhiều cách, nhiều
phương tiện với sự cộng tác của nhiều yếu tố khác nhau, trong đó yếu tố thầy và
trò giữ vai trò quyết định trong việc hoàn thành nhịêm vụ chính trị mà ngành
giáo dục giao cho.
Hiện nay toàn xã hội đang quan tâm rất nhiều đến sự nghiệp giáo dục, về
chất lượng giáo dục, về học sinh ngồi nhầm lớp. Từ khi có cuộc vận động “Hai
không với bốn nội dung” của Bộ trưởng Bộ giáo dục, những người làm quản lý
như tôi không khỏi suy nghĩ phải làm gì, làm như thế nào để chất lượng học sinh
của trường mình phải có chất lượng thực chất, chất lượng tốt. Với những lý do
trên đã thôi thúc tôi cần phải làm gì để góp phần đưa chất lượng học sinh trong
nhà trường mình nói riêng và chất lượng ngành giáo dục nói chung đạt kết quả
một cách tốt nhất. Là Hiệu trưởng phụ trách chung toàn trường cùng với Ban
giám hiệu chỉ đạo nâng cao chất lượng chuyên môn ở tất cả các khối lớp nhưng
tôi đặc biệt chú ý đến chất lượng môn Tiếng việt khối lớp 1 bởi vì lớp 1 là lớp
rất quan trọng, nó là nền móng cơ bản của bậc tiểu học, là nền tảng quan trọng
để học sinh tiếp tục theo học tiếp các lớp ở tiểu học và các cấp học sau này. Nếu
các em không học tốt môn Tiếng việt ở lớp 1 thì các em sẽ khó khăn trong việc
học các môn học khác và học các lớp tiếp theo. Nếu không học tốt môn Tiếng
việt lớp 1 khi học lên các lớp trên các em sẽ không theo kịp chương trình của
lớp học dẫn đến tình trạng học sinh ngồi nhầm lớp. Chất lượng dạy và học có
được nâng cao hay không, có đáp ứng được lòng mong mỏi của phụ huynh và
thầy cô hay không thì không thể không chú ý, quan tâm đến việc học tập của
từng cá nhân học sinh lớp 1. Thực tế nhiều năm làm công tác quản lý, chỉ đạo và
theo dõi toàn diện về chuyên môn tôi không thể không quan tâm đến chất lượng


môn Tiếng việt lớp 1 nói chung và học sinh tiếp thu chậm môn Tiếng việt lớp 1
nói riêng. Vì vậy, theo tôi một việc làm để nâng cao chất lượng môn Tiếng việt
lớp 1 trong nhà trường là:“ Chỉ đạo giáo viên khối 1 nâng cao chất lượng môn
Tiếng việt cho học sinh tiếp thu chậm”
2. Mục đích nghiên cứu
- Cung cấp kiến thức về nâng cao chất lượng môn Tiếng việt với những học sinh
tiếp thu chậm cho giáo viên nói chung, giáo viên khối 1 nói riêng.
- Nâng cao chất lượng môn Tiếng việt trong nhà trường tiểu học.
1


- Làm tài liệu tham khảo cho những độc giả quan tâm nhiều đến chất lượng môn
Tiếng việt cấp tiểu học.
3. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình dạy học Tiếng việt của giáo viên ở Khối 1 Tiểu học Trần Phú.
Phương pháp hướng dẫn Tiếng Việt của giáo viên Khối lớp 1.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Điều tra khảo sát thực tế để thu được những thông tin về thực trạng dạy học
Tiếng việt lớp 1.
- Dự giờ các tiết dạy Tiếng việt lớp 1, quan sát hoạt động dạy của giáo viên và
hoạt động học của học sinh để thu thập thông tin.
- Khảo sát kết quả, thống kê, đối chứng với kết quả đầu năm đã khảo sát để xử
lý số liệu.

2


II./ PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận.
Giáo dục trẻ em là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng mà cả xã hội đều

quan tâm bởi vì:“ Trẻ em hôm nay là thế giới ngày mai” để ngày mai thế giới có
những chủ nhân tốt, xã hội có những công dân tốt thì ngay từ ngày hôm nay
chúng ta phải đào tạo thế hệ trẻ có những kiến thức cơ bản về tự nhiên xã hội, có
phẩm chất đạo đức của con người mới. Nhiệm vụ giáo dục học sinh luôn được
toàn xã hội quan tâm nhưng quan trọng hơn cả vẫn là nhà trường đặc biệt là
trường Tiểu học. Bởi vì tất cả các nhà trường nói chung và các nhà trường Tiểu
học nói riêng là nơi kết tinh trình độ văn hoá của xã hội để truyền thụ, giáo dục
cho thế hệ trẻ. Những đứa trẻ hôm nay và mai sau trở thành những người như
thế nào là tuỳ thuộc rất nhiều vào các nhà trường và nhất là cấp Tiểu học bởi vì
nhà trường Tiểu học là nơi hình thành tất cả những kiến thức và phẩm chất ban
đầu tạo nền móng vững chắc cho các em sau này.
Tiếng vịêt là tiếng mẹ đẻ của dân tộc Việt Nam đó là điều hiển nhiên
nhưng để học sinh nghe, nói, hiểu được Tiếng Việt đó là cả một quá trình. Vậy
làm thế nào để học sinh có thể hiểu và sử dụng Tiếng việt thành thạo và đúng
mục đích. Nhiệm vụ của chúng ta những người thầy là phải hình thành và phát
triển cho học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng việt nhằm từng bước giúp các em
làm chủ được công cụ ngôn ngữ để học tập và giao tiếp trong các môi trường
hoạt động. Cùng các môn học khác Tiếng việt góp phần rèn luyện cho học sinh
các thao tác của tư duy, cung cấp những hiểu biết về xã hội, con người và thiên
nhiên. Thông qua tiếng việt bồi dưỡng cho học sinh tình yêu cái đẹp, yêu cái
thiện, sự công bằng và lẽ phải. Cũng thông qua Tiếng việt mà hình thành ở học
sinh nhân cách con người Việt nam trong thời kỳ hiện đại.
Để nghiên cứu đối tượng học sinh tiếp thu chậm môn Tiếng việt khối lớp
1 và giúp các em chuyển loại nhanh chóng, giáo viên cần nhận thức đúng đắn
việc làm của mình để học hết lớp 1 học sinh phải hình thành và phát triển năng
lực làm việc trí óc như kỹ năng phân tích vần, tiếng, từ; tìm tiếng, từ có vần cho
trước; nắm vững cấu tạo của vần, tiếng, từ để đọc thông, viết thạo, từ đó hình
thành và phát triển các năng lực hoạt động ngôn ngữ như: Nghe, đọc, nói, viết
một cách chính xác, nắm vững luật chính tả để viết đúng. Nói đủ câu, nói có lễ
phép, phát âm chuẩn, biết đọc trơn các tiếng từ, cụm từ, câu, bài đọc theo ngữ

điệu các loại dấu câu, biết ngắt nghỉ đúng và hiểu đúng nội dung, đảm bảo tốc
độ. Biết viết đúng mẫu, nối liền các nét, có độ cao đúng quy định, có khoảng
cách hợp lý, thẳng hàng, viết đúng quy tắc chính tả, đảm bảo tốc độ viết theo
quy định.
Hình thành những phẩm chất tốt về đạo đức tư tưởng, tình cảm đẹp đẽ
xứng với cái tên “ Nền tảng” xứ mạng giáo dục trao cho.
Bởi vậy theo tôi những kiến thức mà học sinh lớp 1 lĩnh hội được mang
tính tiền đề cho giáo dục cho các lớp và các cấp sau này. Vì vậy cái tâm của
3


người làm công tác quản lý không muốn để học sinh ngồi nhầm lớp. Nhận thức
rõ trách nhiệm của mình trong nhiều năm làm công tác quản lý tôi thường quan
tâm chỉ đạo đến chất lượng môn Tiếng việt khối 1 nhất là những học sinh tiếp
thu chậm.
2.Thực trạng vấn đề.
Trong quá trình chỉ đạo và theo dõi chất lượng môn Tiếng Việt Khối 1 tôi
nhận thấy chất lượng dạy môn Tiếng việt của khối lớp 1 nhiều năm trước đạt kết
quả chưa cao, chưa đáp ứng được lòng mong mỏi của giáo viên, phụ huynh và
Ban giám hiệu nhà trường. Đến cuối năm học ở các lớp 1 vẫn còn học sinh chưa
đọc thông, viết thạo, kỹ năng nghe, đọc, nói, viết còn quá chậm làm ảnh hưởng
rất nhiều đến khả năng tiếp thu của các em tới các môn học khác và các lớp học
tiếp theo sau. Có kết quả như vậy có rất nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân
chủ yếu là những khó khăn sau đây:
* Khó khăn:
- Đối với giáo viên:
Có giáo viên mới dạy lớp 1 chưa có kinh nghiệm, có giáo viên tuổi cao,
mắt kém, sức khoẻ yếu, vẫn có giáo viên chưa nhiệt tình trong công tác giảng
dạy, chưa hết lòng vì học sinh thân yêu.
- Đối với học sinh:

- Có vài học sinh bị bệnh lý bẩm sinh, trí nhớ kém.
- Có học sinh quá yếu về sức khoẻ và kém về trí tuệ.
- Số đông học sinh chưa có thói quen và nề nếp học tập vì là những lớp
học đầu tiên, cấp học đầu tiên nên các em chưa quen.
- Nhiều học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn, cha mẹ không quan
tâm.
- Có nhiều em không qua mẫu giáo nên khi vào lớp 1 khả năng tiếp thu
của các em trong lớp không đồng đều.
- Học sinh đang tuổi chơi mà học nên chưa có ý thức và phương pháp học.
- Đối với phụ huynh:
- Một số gia đình không quan tâm đến con em mình, phó mặc, khoán
trắng cho cô giáo và nhà trường.
- Một số phụ huynh quan tâm, chiều con nhưng không đúng mức.
* Thuận lợi:
- Về phía nhà trường ( Ban giám hiệu)
- Đã có bề dày kinh nghiệm làm quản lý trong nhiều năm, nhạy bén, sáng
tạo, linh hoạt, nhiệt tình trong việc chỉ đạo chuyên môn.
- Về phía học sinh:
- Phần đông học sinh lớp 1 ham hiểu biết, muốn khám phá thế giới xung
quanh vì cái gì cũng mới lạ.
- Học sinh có tâm lý rất kính trọng thầy, hầu như tuyệt đối tin, nghe lời
thầy cô, nếu trái lời thầy, cô các em không chấp nhận.
4


- Về phía giáo viên: Nhiều giáo viên
- Nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ, năng lực chuyên môn tốt.
- Có kinh nghiệm dạy lớp 1 đạt kết quả cao trong nhiều năm.
- Xác định được nhiệm vụ quan trọng của môn Tiếng việt lớp 1 là “ Nền
tảng” mà xứ mạng ngành giáo dục giao cho.

- Về phụ huynh: Phần đông phụ huynh
- Xác định rõ ràng hạnh phúc của gia đình gắn liền với sự tiến bộ của con
cái họ.
- Mỗi gia đình chỉ có 1 đến 2 con nên việc chăm sóc con tốt ngày từ ngày
đầu đến lớp.
- Xác định được việc kết hợp giáo dục con cái vừa là trách nhiệm, vừa là
nhu cầu mang lại hạnh phúc cho gia đình.
* Chỉ tiêu Năm học 2015 – 2016:
Đăng ký học sinh khối 1 hoàn thành chương trình môn học, lớp học và lên
lớp thẳng 100%.
Qua thực tế điều tra, từ thuận lợi, khó khăn và chỉ tiêu đăng ký của giáo
viên khối 1. Tôi đã đề ra một vài biện pháp“ Chỉ đạo giáo viên khối 1 nâng cao
chất lượng môn Tiếng việt cho học sinh tiếp thu chậm” như sau:
3. Những biện pháp đã sử dụng để chỉ đạo giáo viên khối 1 nâng cao chất
lượng môn Tiếng việt cho học sinh tiếp thu chậm.
3.1. Tiến hành tổ chức khảo sát kỹ năng nghe, nói, đọc, viết của học sinh khối
1 vào cuối tháng 9.
Kết quả kiểm tra tổng số 246 học sinh:
* Kỹ năng nghe:
- Số học sinh nghe và nói lại được hai câu, mỗi câu 5 đến 7 từ: 70 em
- Số học sinh nghe và nói lại được cả câu 5 đến 7 từ : 150 em.
- Số học sinh nghe và không nói lại được câu từ 3 đến 5 từ: 26 em
* Kỹ năng đọc: ( Nhận mặt chữ)
- Số học sinh đã nhận biết mặt chữ, đọc thông thạo: 70 em
- Số học sinh nhận biết được một số âm: 150 em.
- Số học sinh chưa nhận biết các âm: 26 em
* Kỹ năng nói:
Nói to rõ ràng, mạch dạn: 70 em
Nói bé nhút nhát: 156 em
Nói ngọng : 20 em

* Kỹ năng viết :
- Số em biết cầm bút, phấn thành thạo : 70 em
- Số em cầm còn ngượng, viết vài âm: 156 em
- Số em chưa biết cách cầm bút viết: 20 em
Trong đó 13 em chậm cả nghe, nói, đọc và viết.
Từ những số liệu về tình hình học sinh tiếp thu chậm của học sinh khối 1,
5


cùng với quá trình đi dự giờ thăm lớp để tìm hiểu rõ nguyên nhân các em nghe,
nói, đọc, viết còn chậm so với yêu cầu chuẩn, tôi cùng Ban giám hiệu nhà
trường đã họp giáo viên chủ nhiệm khối 1 bàn bạc để có những giải pháp cụ thể
và tiến hành ngay từ đầu năm học để nâng dần chất lượng môn Tiếng việt cho
các em học sinh có khả năng chậm của lớp 1 ngay từ tháng đầu tiên của năm
học.
3.2. Tiến hành điều tra nguyên nhân số học sinh tiếp thu chậm và quá chậm.
Một số em tiếp thu chậm trong lớp là do bệnh tật, có em do sự mãi chơi
chưa quen với phương pháp học lớp 1, có em còn thích vui chơi như mẫu giáo,
sợ phải học, ngại đi học. Cũng có nhiều học sinh do chưa ngoan, chưa chăm học,
không nghe lời cô giáo vì bố mẹ quá cưng chiều.
3.3. Yêu cầu Giáo viên chủ nhiệm gặp gỡ những phụ huynh có học sinh học
tiếp thu chậm.
Giáo viên trực tiếp đặt vấn đề với từng phụ huynh, nhờ họ tạo điều kiện
để các em có đầy đủ đồ dùng học tập, đi học chuyên cần hơn và cùng phối hợp,
thống nhất cách giáo dục trẻ. Đây là điểm mạnh, là nguồn vui, là điều kiện giúp
giáo viên chủ nhiệm thực hiện tốt kế hoạch của mình, nâng cao chất lượng dạy
học nói chung và môn Tiếng việt nói riêng.
3.4. Chỉ đạo giáo viên khối 1 vận dụng linh hoạt phương pháp, hình thức dạy
học phù hợp với từng đối tượng học sinh.
3.4.1. Phương pháp dạy học theo nhóm đối tượng:

- Yêu cầu giáo viên phân loại học sinh trong lớp thành những nhóm đối
tượng như sau:
+ Nhóm 1: Gồm những học sinh tiếp thu chậm.
+ Nhóm 2: Gồm những học sinh tiếp thu Bình thường
+ Nhóm 3: Gồm những học sinh tiếp thu tương đối nhanh.
+ Nhóm 4: Gồm những học sinh tiếp thu nhanh.
- Giáo viên có thể thay tên nhóm 1, 2, 3, 4 thành tên khác như nhóm A, B,
C, D….. Trong quá trình dạy, giáo viên vẫn phải lấy kiến thức chuẩn làm thước
đo nhưng ở các tiết ôn tập, các giờ tăng tiết, tăng buổi của buổi chiều giáo viên
yêu cầu các em thực hiện nhiệm vụ với 4 mức độ khác nhau trong cùng một giờ
học.
Ví dụ: Nhóm 1 các em đọc nhiều lần hơn, viết ít hơn so với nhóm 3 và 4.
Các dạng bài đọc và viết về vần đều có thể vận dụng phương pháp này. Chẳng
hạn bài 46 và vần ôn, ơn, Nhóm 1 các em chỉ cần viết ôn, ơn, con chồn, sơn ca,
mỗi vần, mỗi từ chỉ một dòng , các em ở nhóm 2 chỉ cần viết theo yêu cầu chuẩn
trong khi đó các em ở nhóm 3, 4 viết nhiều hơn mỗi loại như trên từ 2 đến 3
dòng.
- Ban giám hiệu chúng tôi thống nhất với giáo viên chủ nhiệm vào các
6


đầu buổi học, giờ ra chơi hay cuối mỗi buổi học cho những em học sinh tiếp thu
chậm ở lại phòng học giáo viên hướng dẫn thêm những nội dung các em còn
chậm hoặc nhờ các bạn tiếp thu nhanh hơn kèm cặp những phần mà những học
sinh tiếp thu chậm chưa hoàn thành nội dung bài trong các giờ học.
3.4.2 Phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học như tranh, ảnh, vật thật cho những
học sinh học tiếp thu chậm.
- Ở lứa tuổi học sinh tiểu học nhất là học sinh lớp 1 khả năng tư duy trừu
tượng còn hạn chế, phần lớn các em phải dựa trên các mô hình vật thật, tranh
ảnh do vậy, trong các giờ học việc yêu cầu giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học là

việc không thể thiếu. Đồ dùng dạy học là phương tiện truyền tải thông tin và
hình thành kiến thức, rèn luyện kỹ năng thực hành cho học sinh, nó các tác dụng
điều khiển hoạt động của học sinh từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng,
kích thích hứng thú cho học sinh học tập. Vì thế việc sử dụng đồ dùng dạy học
có tác dụng rất lớn trong quá trình dạy học môn Tiếng việt cho học sinh, nhất là
các em học sinh tiếp thu chậm. Từ những đồ dùng trực quan, trong quá trình lên
lớp, các em rất dễ nhớ, nhớ lâu các âm, vần, tiếng, từ và nội dung bài học.
Ví du: Ở những bài học về vần chẳng hạn như bài 42 trang 86 SGK Tiếng
việt1/ Tập 1: Dùng tranh vẽ ( hoặc vật thật) trái lựu; tranh con hươu sao để học
sinh quan sát và tìm ra từ khoá sau khi các em đã nhận diện vần ưu và ươu ở
phần đầu tiết học, từ những hình ảnh như thế các em sẽ dễ nhớ và nhớ chính xác
hơn các vần và các từ khóa được học bởi vì các em có sự liên tưởng từ vật thật
đến âm, vần của bài học.
Như vậy dùng tranh, ảnh, vật thật trong các tiết dạy Tiếng việt giúp học
sinh nhớ vần, tiếng và từ khóa tốt hơn.
- Ngoài ra dùng tranh ảnh trong các tiết dạy còn có vai trò rất lớn trong
phần luyện nói ở các tiết tập đọc môn Tiếng việt lớp 1 Học kỳ II.
Ví dụ Bài tập đọc: Chuyện ở lớp trang 100 SGK Tiếng việt 1 - Tập II.
Phần luyện nói: Giáo viên cho học sinh quan sát tranh nội dung luyện nói, giáo
viên hỏi nội dung bức tranh, sau đó cho các em nói một, hai câu có nội dung
tranh. Giáo vên hướng dẫn, động viên các em tiếp thu chậm nói trước, các em
tiếp thu nhanh nói sau, các em nhìn vào tranh có thể nói được 2, 3, 4 câu. Dùng
tranh, ảnhn vật thật trong phần này tôi nghĩ rằng nó sẽ có tác dụng rất lớn đối
với các em tiếp thu chậm, các em vừa nói được nhiều câu hơn và còn hiểu được
nghĩa của những câu đó. Tuy nhiên các em học sinh tiếp thu nhanh sẽ nói được
nhiều câu khác mở rộng hơn mà không cần nhìn tranh.
Như vậy, rõ ràng trong cùng một giờ học giáo viên biết vận dụng khéo léo
tranh, ảnh, vật thật thì vừa phát huy được tính sáng tạo chủ động cho học sinh lại
vừa tạo sự hứng thú cố gắng vươn lên cho những học sinh tiếp thu chậm.
3.4.3. Người giáo viên cần vận dụng linh hoạt, khéo léo các phương pháp dạy

học, có lòng nhiệt tình, yêu thương, luôn quan tâm giúp đỡ học sinh.
Tôi luôn giải thích để giáo viên dạy khối 1 hiểu: Các em học sinh lớp 1
7


mới từ lớp mẫu giáo lên nên việc tiếp thu kiến thức thông qua hình thức học mà
chơi, chơi mà học, giáo viên cần phải nhẹ nhàng ân cần dạy bảo các em, luôn tạo
không khí thoải mái, vui vẻ trong giờ học, một lời nhận xét tốt của cô sẽ động
viên các em, giúp các em thấy tự tin và phấn khởi hơn trong học tập. Sự chỉ bảo
ân cần là điều rất cần thiết, tránh quát mắng, phê bình các em khi các em làm sai
hay chưa làm được. Đặc biệt giáo viên dạy lớp 1 không được chỉ ngồi trên bàn
giáo viên mà bảo các em làm đi, viết đi mà giáo viên phải quan tâm chăm sóc,
chỉ bảo tận tình đến từng em học sinh, em nào làm chưa được, nhắc nhở các em,
chỉ bảo cụ thể cho các em nhất là với các em học chậm cần nhắc lại hay cầm tay
chỉ việc cụ thể để các em làm đúng. Như vậy những học sinh tiếp thu chậm sẽ
thấy vui khi đã hiểu được và làm được bài và các en sẽ cảm thấy mỗi ngày các
em đến trường là một ngày vui. Giáo viên cần phải gần gũi với học sinh thì mới
hiểu được học sinh của mình, việc gần gũi, ân cần chỉ bảo tận tình của cô luôn là
những hình ảnh đẹp trong mắt của các em và qua đó các em cũng thấy cô giáo
cũng như người thân trong gia đình, sẵn sàng kể cho cô nghe những niềm vui
hoặc những khó khăn của mình trong học tập hay trong sinh hoạt hàng ngày mà
cần cô giúp đỡ.
Ví du: Em Đức lớp 1A7 chậm nhớ mặt chữ cái, không nhớ chữ viết, viết
rất hay sai, không đúng mẫu chữ, nét không ngay ngắn thẳng hàng, một số chữ
hay lẫn lộn trong 3 tháng đầu năm học. Nhưng qua nhiều lần dự giờ và nhiều lần
vào thăm lớp tôi thấy giáo viên luôn tận tình chỉ bảo, đến tận nơi cầm tay, hướng
dẫn cho em cùng với những lời khen dù chỉ là tiến bộ rất nhỏ. Tôi đã theo dõi
hàng tháng xem em tiến bộ như thế nào. Quả thật đến nay em Đức đã tiến bộ rõ
rệt, nhớ được các chữ cái, chữ viết đã đúng mẫu, rõ ràng, thẳng hàng.
* Tóm lại: Qua theo dõi quá trình chỉ đạo giáo viên giáo viên khối 1 nâng

cao chất lượng môn Tiếng việt cho học sinh tiếp thu chậm ở khối 1 tôi nhận thấy
nếu người giáo viên biết lựa chọn phương pháp dạy học thích hợp với từng đối
tượng học sinh của lớp mình, cùng với lòng nhiệt tình quan tâm giúp đỡ học sinh
tiếp thu chậm một cách tận tình, chu đáo thì chất lượng học sinh sẽ được nâng
lên một các rõ rệt và trong lớp sẽ không còn học sinh tiếp thu chậm nữa.
3.5. Chỉ đạo giáo viên khối 1 xây dựng kế hoạch, biệp pháp cụ thể để giảng
dạy với từng đối tượng và hoàn cảnh học sinh.
Có lẽ nguyên nhân này là nguyên nhân lớn nhất làm giảm số lượng học
sinh tiếp thu chậm. Qua dự giờ ở tất cả Giáo viên khối 1, những người làm quản
lý chúng tôi thực sự băn khoăn và trăn trở bởi vì số học sinh chậm này không
phải chỉ có một hoặc hai em mà có hơn chục em vào những tháng đầu tiên của
năm học nên tôi nghĩ rằng Ban giám hiệu yêu cầu từng giáo viên có học sinh
tiếp thu chậm cần phải có kế hoạch cụ thể dạy những học sinh này như thế nào
để đạt kết quả tốt và thực hiện kế hoạch đó trong từng ngày, từng giờ và trong
suốt cả năm học chứ không phải chỉ dạy trong một tháng, hai tháng.
3.5.1 Giáo viên tạo mọi điều kiện thuận lợi và chăm sóc hơn đối với học sinh
8


nhận thức chậm, hay quên.
- Yêu cầu giáo viên trước hết sắp xếp chỗ ngồi cho các em tiếp thu chậm
một cách phù hợp tạo điều kiện để các em học tốt hơn.
Ví dụ: Cho các em tiếp thu chậm ngồi gần các bạn học tốt các em sẽ được
sự giúp đỡ từ bạn trong quá trình thảo luận nhóm, luyện đọc nhóm đôi, được học
tập từ bạn, như các em tập đọc theo bạn, nhắc lại câu của bạn, nói được bài nói
theo bạn, được các bạn nhắc nhở thường xuyên. Với hình thức này sẽ là điều
kiện rất tốt cho các em hoạt động nhóm đôi, tránh tình trạng cho các em chậm
ngồi cùng với nhau và ngồi ở bàn cuối cùng của lớp. Cần tạo điều kiện cho học
sinh học chậm gần gũi các em học nhanh để các em học tập và biết phát huy
những ưu điểm của bạn chứ không phải nhìn bài hay chép bài của bạn.

- Yêu cầu giáo viên chủ nhiệm phải phân loại và nắm được số lượng
những học sinh chậm này, giáo viên cần có phương pháp dạy và dạy một lượng
kiến thức phù hợp cho các em. Tuy nhiên với học sinh cả lớp giáo viên vẫn lấy
chuẩn để làm mục tiêu phấn đấu, còn những em này nếu dạy chung theo chuẩn
của chương trình đề ra thì các em không thể theo kịp nên giáo viên cần dạy theo
từng đối tượng học sinh.
Ví dụ: Về tập viết chỉ yêu cầu các em chậm viết hai ba dòng nếu như
những học sinh bình thường có thể viết nhiều dòng hơn; Tiết tập chép bài:
“ Mèo con đi học - trang 105 Tiếng việt 1- tập 2, yêu cầu chuẩn học sinh chép 8
dòng thơ đầu, nhưng đối với học sinh chậm chỉ yêu cầu các em chép 4 đến 5
dòng, bên cạnh đó giáo viên phải theo sát các em uốn nắn và hướng dẫn cụ thể
cho các em từng nét chữ.
- Về đọc tăng cường gọi các em học chậm đọc lại nhiều lần vần, đọc
nhiều lần nếu là câu ứng dụng hay một đoạn văn, đoạn thơ.
- Ngoài ra yêu cầu giáo viên cần có kế hoạch về thời gian để kèm cặp phụ
đạo những học sinh này, giáo viên ở mỗi lớp phải sắp xếp thời gian cho phù hợp
để phụ đạo cho học sinh chậm có chất lượng, cụ thể các tiết tăng buổi, tăng tiết
buổi chiều các em trí tuệ tốt, tiếp thu nhanh tự làm các yêu cầu giáo viên giao,
các em ngồi cùng bàn theo dõim giúp đỡ lần nhau, khi đó giáo viên phải quan
tâm đặc biệt tới các em học chậm, cần theo dõi sát khi các em đọc, viết, cho các
em đọc nhiều hơn, động viên các em mỗi khi các em đọc, viết tốt hơn những
hôm trước.
Để kiểm tra điều này tôi thường xuyên dự giờ, thăm lớp vào các giờ tăng
buổi, tăng tiết, dự giờ lớp có nhiều học sinh tiếp thu chậm. Sau mỗi tháng cần
kiểm tra và nghe giáo viên báo cáo sự tiến bộ của các em chậm đó và nhắc nhở
giáo viên cần có lòng nhiệt tình, kiên trì với những học sinh chậm này.
3.5.2. Quan tâm, chăm sóc đối với những học sinh có hoàn cảnh gia đình như
mồ côi, hộ nghèo, cha mẹ bất hoà, cuộc sống khó khăn.
- Nguyên nhân này cũng là yếu tố làm chất lượng học sinh tiếp thu chậm
tăng lên. Trong quá trình tìm hiếu thực tế cho thấy nhiều em đến lớp không viết

bài, ngồi ngơ ngác có khi ngủ gật, không chú ý nghe cô giảng bài …. Đối tượng
9


học sinh này cần được quan tâm nhiều cả về vật chất lẫn tinh thần. Vì vậy muốn
những học sinh này tiến bộ nhanh giáo viên phải nắm được hoàn cảnh thực tế
của các em từ đó mới có biện pháp cụ thể để dạy các em.
- Để giúp giáo viên tạo điều kiện tốt cho các em tiếp thu chậm học tập, tôi
thống nhất với Ban giám hiệu nhà trường phối hợp với Ban đại diện cha mẹ học
sinh, các cơ quan đóng trên địa bàn giúp đỡ về tinh thần và vật chất như sách vở,
đồ dùng học tập, quần áo….
Với những em mồ côi giáo viên cần gần gũi quan tâm các em khi các em
bị bệnh, buồn hoặc khi có biểu hiện bất thường, tạo không khí thoải mái trong
học tập, để các em thấy cô giáo là người mẹ thứ hai của mình, các em không còn
thấy cô đơn khi tới trường.
* Tóm lại: Đối với học sinh có hoàn cảnh đặc biệt, giáo viên cần quan
tâm, giúp đỡ, động viên các em giúp các em tự tin trong học tập và hoà nhập với
cộng đồng, cần giúp đỡ các em cả về vật chất và tinh thần.
3.6. Sự phối hợp giữa giáo viên chủ nhiệm và gia đình là rất quan trọng và
cần thiết.
Làm thế nào để phụ huynh quan tâm tới con em mình không khoán trắng
cho nhà trường và thấy được sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình là rất cần
thiết.
Từ thực tế cho thấy nhiều cha mẹ học sinh cho con đến trường là xong
nhiệm vụ còn trách nhiệm dạy, chăm sóc, giáo dục con mình là phần của thầy cô
giáo. Có những em bị bệnh nhưng cha mẹ không hề biết vẫn cho các em đi học
có khi các em đi học mà vẫn chưa ăn gì, ngay cả khi các em bị ốm mà phụ
huynh cũng không quan tâm tới các em. Với các trường hợp này đòi hỏi giáo
viên cần phải thường xuyên liên lạc với phụ huynh, trao đổi với phụ huynh để
họ hiểu rằng kết quả học tập của các em có tốt là phải có sự phối hợp nhịp nhàng

giữa gia đình và nhà trường. Yêu cầu quan tâm tối thiểu như cha mẹ các em cần
kiểm tra bài vở của các em sau mỗi buổi học ở trường xem con mình đã học
những môn nào, các em có ghi chép đủ không, giúp các em soạn sách vở trong
thời gian đầu và theo dõi kiểm tra nhắc nhở các em việc soạn sách vở và để cho
các em đã tự làm, hướng dẫn các em đọc bài nhiều lần ở nhà, chuẩn bị cho bài
mới. Còn giáo viên ngoài những lần họp phụ huynh theo kế hoạch, giáo viên
phải thường xuyên liên lạc hay trực tiếp trao đổi với phụ huynh khi cần thiết.
Bên cạnh đó giáo viên cần phối hợp với chi hội phụ huynh của lớp nhờ chi hội
trưởng của lớp giúp đỡ.
Ví dụ: Lớp 1A5 có bốn em thường xuyên quên mang sách vở, không học
bài ở nhà, lần họp phụ huynh đầu tiên cha mẹ của các em không đi. Sau khi
nghe giáo viên chủ nhiệm báo lại tình hình như vậy, tôi đã bàn với Ban giám
hiệu nhà trường giúp đỡ giáo viên tìm ra nguyên nhân và biện pháp giúp giáo
viên liên lạc trực tiếp với phụ huynh, đến tận nhà thông báo tình hình học tập
của các em, giáo viên gặp trực tiếp nhiều lần trao đổi với bố mẹ của các em đó
để phụ huynh hiểu được vai trò của gia đình trong việc dạy các em là rất quan
10


trọng, mối quan hệ giữa nhà trường và gia đình không thể tách rời nhau. Thời
gian sau cha mẹ bốn em đó đã quan tâm tới các em hơn và thường xuyên liên lạc
với giáo viên chủ nhiệm, kì họp phụ huynh lần hai cha mẹ các em đi đầy đủ. Sau
một thời gian giáo viên báo lại bốn em học sinh đó có tiến bộ rõ rệt, cho đến nay
cả bốn em đều tiếp thu bài nhanh hơn và hoàn thành bài ngay tại lớp.
* Tóm lại: Giáo viên cần phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh, giữ mối
liên hệ thường xuyên với phụ huynh học sinh, cần nhiệt tình, mềm dẻo trước
những phụ huynh khó tính, phải thường xuyên trao đổi và cả tư vấn cho phụ
huynh hiểu được quá trình học tập của các em tốt phải có sự hỗ trợ quan tâm từ
phía gia đình.
4. Kết quả đạt được.

Sau một năm học với nhiệm vụ chỉ đạo, theo dõi và giúp đỡ giáo viên
khối 1 trong quá trình dạy học nói chung và dạy môn Tiếng việt nói riêng, tôi
nhận thấy chất lượng môn Tiếng việt của học sinh khối 1 đã được nâng lên rõ
rệt. Kết quả Học kỳ I (tháng 1/2016) cụ thể như sau:
* Kết quả kiểm tra đọc viết đối với số học sinh tiếp thu chậm :
TT

LỚP

TÊN HỌC SINH TIẾP THU CHẬM

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13

1A1
1A1
1A2
1A2
1A3

1A4
1A4
1A5
1A5
1A6
1A6
1A7
1A7

Lê Gia Đức
Nguyễn Thiều Vũ Phong
Lê Hoàng Khánh Linh
Nguyễn Đình Quang
Nguyễn Hoàng Anh
Thiều Đỗ Anh Minh
Nguyễn Thế Bảo
Nguyễn Đức Huy
Dương Minh Hiếu
Nguyễn Hà Dũng
Nguyễn Tiến Mạnh
Lê Minh Đức
Lê Thị Yến Nhi
Tổng

KT: CUỐI THÁNG 9/15

Điểm dọc

Điểm viết


2
3
2
3
2
3
3
3
2
2
1
2
2
13

3
3
3
2
3
2
2
3
3
2
3
3
3
13


KT: CUỐI HK1 T1/16
Điểm dọc
Điểm viết

6
5
5
5
5
6
6
6
6
6
5
6
6
13

6
5
6
6
6
6
7
6
6
7
6

6
6
13

11


* Kết quả môn Tiếng việt khối 1 qua kiểm tra Học kỳ 1 – NH : 2015 – 2016.
SS
LỚP

1A1
1A2
1A3
1A4
1A5
1A6
1A7
Tổng

SS

36
36
35
35
35
34
35
246


ĐIỂM KHẢO SÁT CUỐI T9/2015
Điểm 9,10 Điểm 7,8 Điểm 5,6
Điểm
Dưới 5

10
10
8
9
13
11
9
70

9
7
8
8
10
11
12
65

15
17
18
16
10
10

12
98

2
2
1
2
2
2
2
13

ĐIỂM KIỂM TRA CUỐI HK1 – T1/2016
Điểm 9,10 Điểm 7,8 Điểm 5,6
Điểm
Dưới5

29
29
26
22
20
21
24
171

5
5
8
11

13
11
9
62

2
2
1
2
2
2
2
13

0
0
0
0
0
0
0
0

* Qua theo dõi và chỉ đạo tôi thấy những kết quả đạt được:
- Giáo viên đã biết vận dụng khéo léo và linh hoạt các phương pháp, hình
thức dạy học cho phù hợp với từng đối tượng học sinh của lớp.
- Giáo viên đã tìm hiểu nguyên nhân và hoàn cảnh của các em, chủ động
xin ý kiến của Ban giám hiệu nhà trường và các thành viên trong tổ, trong khối
tìm ra các giải pháp phù hợp để chăm sóc những học sinh tiếp thu chậm.
- Kịp thời động viên những học sinh có sự chuyển biến tích cực trong học

tập, tự giác học và có rất nhiều cố gắng nhất là các em có hoàn cảnh đặc biệt,
các em có bệnh lý, qua đó các em cảm nhận được sự gần gũi, yêu thương của
thầy cô, biết hoà đồng cùng các bạn, biết chia sẻ những vui, buồn, khó khăn với
bạn bè, thầy cô, các em tự tin hơn trong học tập và thực sự thấy mỗi ngày đến
trường là một ngày vui.
- Giáo viên đã nhận thấy tầm quan trọng của sự kết hợp giữa nhà trường
và gia đình trong quá trình giáo dục con em mình nên đã phối hợp tốt, phụ
huynh nhiệt tình chỉ bảo, quan tâm tới các em nhiều hơn, thường xuyên giữ mối
liên hệ với cô giáo, với nhà trường hơn.
* Những hạn chế:
Mặc dù Giáo viên đã sử dụng rất nhiều giải pháp để nâng chất lượng cho
học sinh tiếp thu chậm môn Tiếng việt nhưng sự chuyển biến của những học
sinh đó có tiến bộ nhưng rất chậm vì rất nhiều lý do, trong đó lý do về trí tuệ
kém do bẩm sinh, trí nhớ không bình thường là nguyên nhân chủ yếu. Tuy nhiên
với những giải pháp đã trình bầy trên chất lượng môn Tiếng việt của những học
sinh tiếp thu chậm của khối 1 nói riêng và của trường tiểu học Trần Phú nói
chung đã được nâng lên rõ rệt.
5. Bài học kinh nghiệm:
Với kết quả đạt được ở trên, bản thân tôi rút ra bài học sau:
- Với người quản lý trong nhà trường phải tâm huyết, say sưa, nhiệt tình
12


trong công việc, không ngừng học tập để nâng cao kiến thức và năng lực lãnh
đạo trong việc quản lý các hoạt động giáo dục trong nhà trường.
- Xây dựng tập thể sư phạm đoàn kết, thống nhất từ Ban giám hiệu đến tất
cả giáo viên trong trường.
- Có kế hoạch chỉ đạo và thường xuyên giúp đỡ giáo viên trong quá trình
giải quyết những khó khăn.
- Có kiểm tra theo dõi, đánh giá rút kinh nghiệm sau từng đợt kiểm tra.

- Dự giờ thăm lớp đột xuất để đánh giá giáo viên trong quá trình giảng
dạy và nắm được tình hình học tập của học sinh.
- Cần mềm dẻo, khéo léo, động viên giáo viên trong quá trình giảng dạy,
nhưng cương quyết trong quá trình chỉ đạo.
- Biết lắng nghe và thu nhận thông tin phản hồi từ giáo viên trong quá
trình công tác cũng như sinh hoạt.
- Giữ mối liên hệ tốt giữa Nhà trường - Gia đình - Xã hội.

13


III./ KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
1. Kết luận:
Nhiệm vụ và mục tiêu của các nhà trường là đào tạo thế hệ trẻ cho ngày
hôm nay và cho mai sau là con người làm chủ tri thức, làm chủ khoa học và
công nghệ hiện đại có tư duy sáng tạo và thực hành giỏi, muốn thực hiện được
yêu cầu này đòi hỏi người quản lý trong nhà trường nói chung và trường Tiểu
học nói riêng là phải đặc biệt quan tâm đến học sinh ngay từ khối lớp 1 bởi vì
lớp 1 là nền, là móng, là lớp quan trọng nhất ở khối Tiểu học, hết lớp 1 các em
phải nghe, đọc, nói, viết thành thạo thì các em mới tiếp thu các môn khác tốt và
học lên lớp trên có chất lượng. Chất lượng dạy và học chính là thước đo giá trị
của nhà trường, để mục đích cuối cùng tạo nên một nguồn nhân lực bao gồm
những con người có đức, trí, thể, mỹ, ham học hỏi, thông minh sáng tạo, được
chuẩn bị đầy đủ về hành trang cuộc sống. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ này người
quản lý phải tâm huyết với nghề, luôn tìm tòi và có biện pháp cụ thể trong quá
trình chỉ đạo, giúp đỡ giáo viên cùng tìm ra giải pháp hợp lý, vận dụng các
phương pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh nhằm nâng cao chất lượng
dạy học nói chung và dạy học môn Tiếng việt khối 1 nói riêng, tạo tiền đề tốt
cho các em học lên các lớp trên.
Trên đây là một vài kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, giúp

đỡ giáo viên khối 1 nâng cao chất lượng môn Tiếng việt. Tôi hy vọng với kết
quả đạt được ở trên sẽ góp phần nhỏ bé vào việc nâng cao chất lượng dạy và học
môn Tiếng việt khối 1 nói riêng và chất lượng giáo dục của nhà trường nói
chung ngày một tốt hơn.
Kinh nghiệm này được hoàn thành, tôi xin trân thành cảm ơn sự ủng hộ,
sự phối kết hợp và sự giúp đỡ nhiệt tình của Ban giám hiệu nhà trường cùng các
đồng chí giáo viên và học sinh khối 1.
2. Kiến nghị:
Để nâng cao chất lượng môn Tiếng việt cho học sinh Tiểu học cần làm tốt
một số vấn đề sau:
* Đối với Ban giám hiệu:
- Cần nâng cao nhận thức về vị trí, tầm quan trọng của môn Tiếng việt ở
khối 1 cho toàn thể cán bộ giáo viên.
- Cần quan tâm nhiều đến chất lượng môn Tiếng viết của Tiểu học nhất là
kỹ năng nghe, nói, đọc, viết của học sinh khối 1 .
- Triển khai các giải pháp của kinh nghiệm nâng cao chất lượng môn
Tiếng việt cho học sinh tiếp thu chậm ở khối 1 và ở tất cả các khối lớp đến từng
cán bộ giáo viên.
14


- Có kế hoạch khảo sát chất lượng đọc, viết của học sinh tiếp thu chậm
theo định kỳ để kịp thời nâng cao chất lượng.
* Đối với giáo viên:
- Cần phải vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học theo các đối
tượng học sinh.
- Cần phải phối hợp chặt chẽ với phu huynh học sinh để kết hợp giáo dục.
- Cần phải có lòng nhiệt tình, gần gũi, quan tâm, chăm sóc, tâm sự, yêu
thương học sinh như con mình để học sinh coi mình như người mẹ thứ hai.
- Vận dung linh hoạt nhiều giải pháp, nhiều phương pháp dạy học để nâng

cao chất lượng với những học sinh tiếp thu chậm môn Tiếng việt và chất lượng
học môn Tiếng việt.
* Đối với phụ huynh cần tuyên truyền trong cuộc họp phụ huynh:
- Cần quan tâm chăm sóc con em mình một cách phù hợp.
- Cần thường xuyên phối kết hợp chặt chẽ với giáo viên chủ nhiệm để có
biện pháp giáo dục phù hợp.
Trên đây là một vài biện pháp trong việc “ Chỉ đạo giáo viên khối 1 nâng
cao chất lượng môn Tiếng việt cho những học sinh tiếp thu chậm ở trường
tiểu học Trần Phú”. Trong bài viết không tránh khỏi những sai sót về nội dung
cũng như cách trình bầy kính mong Hội đồng khoa học các cấp tạo điều kiện
giúp đỡ, góp ý để tôi thực hiện thành công kinh nghiệm này.
Xin trân trọng cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA PHÓ THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 15 tháng 3 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)

Lê Thị Minh

15


MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
2. Mục đích nghiên cứu.
3. Đối tượng nghiên cứu.


Trang
1
1- 2
2

4. Phương pháp nghiên cứu.

2

II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.

3-4

2. Thực trạng vấn đề.

4-5

3. Những biện pháp đã sử dụng để chỉ đạo giáo viên khối 1 nâng cao chất lượng môn
Tiếng việt cho học sinh tiếp thu chậm.

5 - 11

4. Kết quả đạt được.

11 - 12

5. Bài học kinh nghiệm.


12 - 13

III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
1. Kết luận.
2. Kiến nghị.

14
14 - 15

16


17



×