Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SKKN Một số biện pháp bồi dưỡng giáo viên khối lá nâng cao chất lượng môn làm quen với toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.99 KB, 23 trang )

PHÒNG GIÁO GD-ĐT KRÔNG ANA
TRƯỜNG MẦM NON HOA CÚC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:

MỘT SỐ BIỆN PHÁP BỒI DƯỠNG GIÁO VIÊN KHỐI LÁ
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN LÀM QUEN VỚI TOÁN

Họ và tên: Văn Thị Thủy
Đơn vị công tác: Trường Mầm non Hoa Cúc
Trình độ đào tạo: Đại học sư phạm mầm non
Môn đào tạo: Giáo dục mầm non

Krông Ana, tháng 01 năm 2016
1


MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................3
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài....................................................................4
3. Đối tượng nghiên cứu...............................................................................5
4. Giới hạn Phạm vi nghiên cứu...................................................................5
5. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................5
II. PHẦN NỘI DUNG.................................................................................6
1. Cơ sở lí luận...............................................................................................6
2. Thực trạng ..............................................................................................7
2.1. Thuận lợi - Khó khăn.............................................................................8
2.2. Thành công - hạn chế....................................................................8
2.3. Mặt mạnh - mặt yếu................................................................................9


2.4. Các nguyên nhân- các yếu tố tác động.................................................10
2.5. Phân tích đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.........10
3. Giải pháp, biện pháp ...............................................................................10
3.1 .Mục tiêu của giải pháp, biện pháp........................................................10
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện .......................................................10
3.3. Điều kiện để thực hiện giảipháp - Biện pháp............................18
3.4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp..........................................19
3.5. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu............19
4. Kết quả:thu được qua khảo nghiệm , giá trị khoa học của vấn đề NC....20
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ......................................................20
1. Kết luận....................................................................................................20
2. Kiến nghị ................................................................................................21

2


MỘT SỐ BIỆN PHÁP BỒI DƯỠNG GIÁO VIÊN KHỐI LÁ NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG MÔN LÀM QUEN VỚI TOÁN
I. PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài.
Trong các hoạt động giáo dục trẻ ở trường Mầm non. Hoạt động vui chơi
là một trong những hoạt động chủ đạo, song hoạt động học tập được thể hiện
qua các giờ hoạt động chung có chủ đích đó là hoạt động cung cấp chủ yếu có
hệ thống kiến thức cần trang bị cho trẻ.Vậy tổ chức các tiết học như thế nào để
trẻ lĩnh hội các kiến thức một cách đơn giản nhưng hiệu quả nhất là đối với môn
“ Làm quen với toán” Đây là môn học đòi hỏi độ chính xác cao. Muốn làm tốt
được việc này trước hết đòi hỏi người giáo viên phải có tâm huyết với nghề, say
sưa suy nghĩ tìm tòi, chu đáo tỉ mỉ, sáng tạo hướng dẫn trẻ tham gia vào hoạt
động một cách có khoa học để trẻ bước đầu nắm bắt, hình thành những kỹ năng
học tập đối với môn làm quen với biểu tượng toán sơ đẳng. Đối với môn học

này người giáo viên cần phải đầu tư thời gian, công sức một cách công phu,
khoa học để chuẩn bị đồ dùng cho tiết mới mong tiết học đạt được hiệu quả cao
và khả năng tiếp thu kiến thức của trẻ sẽ đạt được ở mức độ cao nhất trong quá
trình tham gia các hoạt động của trẻ. Xuất phát từ nhận thức của trẻ từ trực quan
sinh động, đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trưu tượng quay trở về thực tiễn.
Thông qua môn học giúp trẻ nhận thức tốt hơn về thế giới xung quanh. Từ đó
hình thành hệ thống hoá kiến thức một cách chính xác, khoa học. Nhận thức về
toán học có liên quan mật thiết với quá trình phát triển toàn diện của trẻ, thông
qua toán học sớm hình thành ở trẻ khả năng tìm tòi, quan sát, khám phá, so sánh,
phân tích, tổng hợp các sự vật hiện tượng khách quan. Trên cơ sở đó bổ sung
thêm vốn ngôn ngữ và góp phần tích cực vào việc phát triển trí tuệ và thể chất
cho trẻ.
Qua môn học làm quen với toán trẻ được học tập vui chơi, thực hành
đếm số lượng bằng nhiều hình thức, trẻ được tiếp xúc, được sờ vào các đồ vật,
quan sát làm quen với các hình dạng của các vật thể của môi trường xung quanh
rất đa dạng và phong phú. Trẻ biết xác định được phía phải, phía trái, phía trước,
phía sau, phía trên, phía dưới của bản thân và của đối tượng khác, cũng như kỹ
năng định hướng trong không gian giúp trẻ phát triển về các giác quan. Qua môn
học này giúp trẻ tích lũy số vốn kiến thức sơ đẳng về hình thành biểu tượng toán
học vận dụng trực tiếp vào cuộc sống hàng ngày của trẻ.
Hoạt động làm quen với toán là hoạt động rất khô khan và cứng nhắc. Các
hoạt động đặc biệt là các đề tài hình thành các biểu tượng về số lượng, con số và
phép đếm thường lặp đi, lặp lại nhiều lần có nội dung giống nhau, chỉ khác về số
lượng là ở khối lá thì cho trẻ đếm, thêm bớt, chia nhóm trong phạm vi từ 6 đến
10. Cho nên nếu ta chỉ tập trung vào kiến thức dạy trẻ theo đúng các bước, nếu
lặp lại khi học trẻ thường rất nhanh chán sẽ không thu hút được sự chú ý của trẻ.
3


Hoạt động làm quen với toán giúp trẻ biết quan sát, phát hiện những dấu hiệu

nổi bật rõ nét về màu sắc, hình dạng, kích thước, chủng loại để trẻ có thể tạo
thành nhóm đồ vật theo dấu hiệu cho trước. Làm quen với toán còn giúp trẻ
nhận biết sự khác biệt rõ nét về số lượng. Thông qua hoạt động làm quen với
toán còn giúp trẻ nhận biết và gọi đúng tên các hình khối, biết định hướng trong
không gian, thời gian, nhận biết các con số trong cuộc sống hàng ngày như số
nhà, số điện thoại, biển số xe.... Chính vì vậy việc định hướng cho trẻ về hoạt
động làm quen với toán là việc làm rất quan trọng trong trường mầm non.
Là cán bộ quản lý phụ trách chuyên môn của trường mầm non Hoa Cúc
tôi nhận thấy được tầm quan trọng trong việc chăm sóc – giáo dục trẻ mầm non,
thấy được vai trò và nhiệm vụ cao cả của mình, trong việc phát triển những mầm
non tương lai của đất nước, góp phần xây dựng sự nghiệp giáo dục nói riêng và
đất nước nói chung ngày càng tốt đẹp hơn.
Trong quá trình dự giờ hoạt động cho trẻ làm quen với toán của các lớp lá
5 - 6 tuổi, tôi nhận thấy các cháu chưa hứng thú tham gia vào hoạt động, chưa
tích cực trong lĩnh hội tri thức; đồ dùng dạy học chưa phong phú hấp dẫn trẻ.
Giáo viên chưa chú ý nhiều xem trẻ muốn gì? Cần gì? Cách thức lên lớp của
giáo viên chưa linh hoạt, sáng tạo. Chính những hạn chế này đã ảnh hưởng rất
nhiều đến quá trình hoạt động cho trẻ làm quen với toán trong trường mầm non.
Nhận thức được tầm quan trọng đó tôi đã chủ động giành thời gian nghiên cứu
tài liệu, lập kế hoạch và tìm ra một số phương pháp để truyền tải kinh nghiệm
giảng dạy đến giáo viên, hướng dẫn giáo viên tìm tòi và đưa ra những phương
pháp giảng dạy sao cho lượng kiến thức trẻ tiếp thu được đạt kết quả cao, trẻ
hứng thú, sôi nổi tích hợp được nhiều nội dung vào giảng dạy để giờ học phong
phú hơn, tạo sự lôi cuốn đối với trẻ và phù hợp với điều kiện trường mình đang
công tác
Vì thấy được tầm quan trọng của hoạt động làm quen với toán, nên tôi đã
chọn đề tài nghiên cứu “Một số biện pháp bồi dưỡng giáo viên khối lá nâng
cao chất lượng môn làm quen với toán”.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài sẽ là: Khảo sát khả năng nhận thức tư duy

của trẻ đối với bộ môn làm quen với toán trên cơ sở đề ra một số giải pháp, biện
pháp thích hợp nhằm giúp giáo viên trong quá trình hướng dẫn trẻ môn “Làm
quen với toán” có hiệu quả như: kích thích tính sáng tạo, phát triển về trí tuệ và
hình thành biểu tượng toán học về số lượng, trẻ biết cách đếm, thêm bớt trong
phạm vi từ 1 đến 10.... Thông qua đó nhằm phát huy tính tích cực chủ động ở
trẻ.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
Nhiệm vụ mà đề tài đặt ra nhằm tạo cơ hội cung cấp, củng cố kinh
nghiệm, làm tăng sự tò mò, hứng thú. Qua thực hiện đề tài này nhằm giúp giáo
viên trong tiết dạy tạo nhiều cơ hội học tập và lĩnh hội được nhiều kiến thức mới
4


nhằm phát huy tính sáng tạo, tính tích cực chủ động và phát triển tư duy, nhận
thức cho trẻ thông qua chương trình mầm non mới.
Giúp giáo viên tìm ra các giải pháp, biện pháp để tạo được hứng thú,
sáng tạo cho trẻ trong môn Làm quen với toán .
Giáo viên giúp trẻ trải nghiệm, tìm tòi, kích thích sự sáng tạo của trẻ
Sau khi vận dụng đề tài sẽ góp phần đắc lực đối với giáo viên trong quá
trình hình thành nhân cách phát triển tư duy, đồng thời phát triển tốt khả năng
nhận thức của trẻ.
3. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp bồi dưỡng giáo viên nhằm nâng cao chất lượng môn làm quen
với toán
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Khuôn khổ nghiên cứu : Một số Biện pháp bồi dưỡng giáo viên nhằm
nâng cao chất lượng môn làm quen với toán
Đối tượng khảo sát : Giáo viên khối lá và trẻ 5-6 tuổi
Thời gian nghiên cứu : Năm học 2015 -2016
5. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
Để đề tài này có hiệu quả giúp giáo viên dạy đạt được kết quả cao trong
môn làm quen với toán tôi đã không ngừng tìm tòi tài liệu trong sách báo, tivi,
tranh ảnh, chuyện tranh, trên mạng … có những hình ảnh liên quan đến tiết học
nhằm giúp giáo viên gây sự chú ý từ trẻ.
Phương pháp trò chuyện:
Hướng dẫn giáo viên trao đổi với phụ huynh về tình hình học tập của trẻ ở
lớp cũng như ở nhà, qua đó giáo viên có điều kiện theo dõi, uốn nắn trẻ. Bên
cạnh đó tôi cũng thường xuyên trò chuyện cùng cô giáo và trẻ để nắm bắt được
các nguyên nhân làm cho trẻ không thích học môn làm quen với toán và tìm ra
hướng khắc phục.
Phương pháp quan sát:
Trong các giờ học tiết làm quen với toán của các lớp 5 -6 tuổi tôi luôn
quan sát và hướng dẫn giáo viên chú ý từng trẻ để uốn nắn, củng cố, rèn luyện
thêm các kỹ năng cho trẻ.
Phương pháp điều tra:
Vào đầu năm học, tôi đã chủ động kiểm tra, khảo sát, thống kê về môn
làm quen với toán để nắm bắt khả năng nhận thức của từng cá nhân trẻ và khả
năng lên lớp của giáo viên. Cụ thể:
* Đối với giáo viên:
5


Tổng
số giáo
viên
khối lá

Kết
qua


Tỉ lệ

Hình thức tổ chức giờ học linh hoạt, sáng tạo

8

3/8

38 %

Sử dụng đồ dùng đẹp, khoa học hơn

8

4/8

50 %

Tạo môi trường hoạt động cho trẻ phong phú hấp
dẫn hơn

8

3/8

38 %

NỘI DUNG


*Đối với trẻ :
Nội dung
Trẻ đếm, thêm bớt, chia
nhóm số lượng từ 1-10

Xếp tương ứng
Trẻ biết thực hiện thao
tác đo
Định hướng trong không
gian

TS học sinh
khối lá

Kết qua

Tỉ lệ

143

85/143

59%

143

80/143

56%


143

65/143

45,5%

143

70/143

49%

II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Tổ chức hoạt động làm quen với toán cho trẻ mầm non là một hoạt động rất
quan trọng. Một tiết học nếu chỉ dạy đúng phương pháp, đầy đủ các bước thì vẫn
chưa đủ vì trẻ chỉ thực sự đón nhận sự truyền tải kiến thức một cách sinh động
hấp dẫn khi tiết học đó có những đồ dùng sinh động, phong phú lôi cuốn đối với
trẻ.
Bản thân tôi nhận thấy làm quen với môn toán là một môn học khó và khô
khan, mà quá trình hình thành các biểu tượng ban đầu ở trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
đóng một vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp những kiến thức ban đầu
cho trẻ. Cho trẻ làm quen với những biểu tượng toán ngay từ tuổi mầm non
chính là cơ hội tốt để giúp trẻ hình thành phẩm chất, năng lực hoạt động ở trẻ
như quan sát, tìm tòi, so sánh. Qua đó giúp trẻ hình thành những khả năng tìm
6


tòi, quan sát... thúc đẩy sự phát triển tư duy, phát triển ngôn ngữ cho trẻ, hình
thành các biểu tượng về môn toán như: số lượng, hình dạng, kích thước, phép

đếm, định hướng trong không gian, thời gian, hình thành và phát triển khả năng
nhận thức các biểu tượng ban đầu về môn toán, các thao tác tư duy: Quan sát, tư
duy, so sánh, phân tích tổng hợp, khái quát hóa, khả năng tranh luận, phán đoán,
ước lượng và tìm cách giải quyết vấn đề cung cấp và phát triển ngôn ngữ cho trẻ
như: phía phải – phía trái, phía trên – phía dưới, phía trước –phía sau..... Cung
cấp những kinh nghiệm, những vấn đề có ý nghĩa và thú vị gần gũi có liên quan
đến cuộc sống hàng ngày của trẻ, góp phần phát triển các năng lực nhận biết,
năng lực học tập cho trẻ, giúp trẻ có những phản ứng nhanh nhạy xảy ra trong
cuộc sống hàng ngày, để sau này trẻ vững vàng, tự tin hơn khi tiếp nhận những
kiến thức của môn toán ở giai đoạn tiếp theo của cuộc đời.
Khả năng tri giác nhận biết số lượng, phép đếm, định hướng trong không
gian, thời gian nhận biết chữ số phụ thuộc vào lứa tuổi, vốn kinh nghiệm sống
và cảnh quanh xung quanh bản thân trẻ và nhất là sự tác động giáo dục của giáo
viên. Bởi vì giáo viên chính là người đầu tiên đặt nền móng tri thức cho trẻ để
cho trẻ có thể tiếp thu kiến thức một cách dễ dàng và hiệu qua hơn qua các tiết
dạy làm quen với toán.
Bên cạnh đó giáo viên cần xác định được phương pháp dạy học ở lứa tuổi
mẫu giáo được xem như là cách thức hướng dẫn của nhà giáo dục với trẻ mầm
non nhằm mục đích lĩnh hội những kiến thức kỹ năng, kỹ xảo, hình thành thế
giới quan và phát triển các năng lực khác. Các nhà nghiên cứu cho rằng, trong
dạy học đôi khi hoạt động nhận biết của trẻ gắn liền với hoạt động thực tiễn và
đóng vai trò quan trọng trong giáo dục dạy học.
Với định nghĩa, phương pháp dạy học mầm non không chỉ được xem dưới
góc độ nhà giáo dục đưa ra ý kiến thức đến trẻ theo cách thức nào, mà còn xem
xét cả hoạt động nhận thức của trẻ diễn ra như thế nào. Bởi những kiến thức mà
trẻ nắm được là sản phẩm của chính hoạt động của trẻ chứ không phải của nhà
giáo dục. Thông qua hoạt động có tính khác nhau mà trẻ nắm được những kiến
thức. Vì vậy, việc tổ chức các hoạt động cho trẻ đóng vai trò quyết định nhằm
giúp trẻ lĩnh hội kiến thức.
Nên khi xác định phương pháp dạy học giáo viên cần phải nắm được hoạt

động cho trẻ làm quen với toán không chỉ xuất phát từ hoạt động của nhà giáo
dục mà còn có tính chất nhận biết hoạt động thực tiễn của trẻ đối với thế giới
xung quanh.
2.Thực trạng
2.1 Thuận lợi - khó khăn
* Thuận lợi:
Được sự quan tâm của cấp Uỷ đảng, chính quyền địa phương.
Được sự quan tâm, chỉ đạo tận tình của Phòng Giáo dục & Đào tạo, sự chỉ
đạo sát sao của chuyên viên Ngành học mầm non trong huyện.
7


Sự phối kết hợp của Ban đại diện cha mẹ học sinh góp phần cùng với nhà
trường giáo dục con em mình cùng tiến bộ.
Cơ sở vật chất, trường lớp tương đối đảm bảo để phục vụ tốt cho công tác
dạy và học của cô và trò. Sân chơi có bóng mát tạo điều kiện cho các cháu sinh
hoạt ở mọi lúc mọi nơi.
Phụ huynh đa số là làm lao động nhưng rất hiếu học, thường xuyên quan
tâm đến việc học tập của con em mình.
Đội ngũ giáo viên nhiệt tình, an tâm công tác, có tinh thần tự học, tự rèn
để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn.
* Khó khăn:
Các điểm trường không tập trung nên việc đi lại chỉ đạo và theo dõi
chuyên môn đôi lúc còn gặp khó khăn.
Về giáo viên năng lực không đồng đều, một số giáo viên trẻ mới về nên
còn lúng túng trong việc tổ chức các tiết học làm quen với toán theo chương
trình mầm non mới. Giáo viên chưa biết cách tạo cơ hội cho trẻ phát huy tính
tích cực. Đôi lúc giáo viên chưa thực sự sáng tạo còn nói nhiều hơn trẻ. Do đó
chưa phát huy được vai trò tích cực của trẻ trong quá trình hoạt động. Về phía
trẻ một số trẻ chưa qua lớp mầm, chồi. Nhất là số cháu đồng bào dân tộc Thiểu

số tại Buôn Trấp. Chính vì vậy nên nhiều trẻ còn hạn chế về các kỹ năng như
đếm, thêm bớt, thực hiện các thao tác đo…
Một số phụ huynh còn chưa quan tâm nhiều đến việc học tập của con em
mình.
2.2 Thành công, hạn chế
* Thành công:
Sau khi áp dụng đề tài bản thân tôi nhận thấy giáo viên có cách dạy linh
hoạt, sáng tạo hơn, tạo ra được nhiều đồ dùng tự tạo đẹp, hấp dẫn để lôi cuốn trẻ
vào tiết dạy hơn.... Trẻ tham gia tích cực trong mọi hoạt động vui vẻ. Trẻ thích
được học môn toán, trẻ biết sử dụng được một số kỹ năng cơ bản về máy tính
(nhấp chuột, bấm chuột...) trẻ biết cách đếm ở nhiều cách khác nhau, nhận biết
được các kích thước, hình dạng của các đồ vật, khả năng định hướng trong
không gian, thời gian và hứng thú, hoạt động tích cực hơn trước.
* Hạn chế: Việc khai thác thông tin trên mạng, giảng dạy trên máy vi tính
còn hạn chế ở một số giáo viên lớn tuổi.
2.3 Mặt mạnh - mặt yếu
* Mặt mạnh :
Khi tiến hành các biện pháp giúp giáo viên tự tin, và linh hoạt sáng tạo hơn
trong quá trình tổ chức các hoạt động làm quen với toán, trẻ hứng thú và hoạt
động tích cực hơn.
8


Giáo viên có tinh thần tự học cao và được bố trí phù hợp với năng lực, với
trình độ hiện có, hầu hết là giáo viên trẻ có kiến thức, việc tiếp cận những vấn đề
mới rất nhanh, từ đó áp dụng trong quá trình dạy học đạt hiệu quả cao.
Về phía phụ huynh đa số nhận thức được tầm quan trọng của Giáo dục
mầm non trong giai đoạn hiện nay là hết sức quan trọng.
Qua các hoạt động trẻ thực hiện cô nắm được đặc điểm tâm sinh lý cũng
như tính cách, nhận thức của trẻ để có biện pháp giáo dục trẻ tốt hơn. Từ đó trẻ

tham gia tích cực vui vẻ thoải mái mạnh dạn trình bày ý kiến của mình trước tập
thể.
* Mặt yếu
Giáo viên chưa thực sự chủ động linh hoạt trong việc tổ chức các hoạt
động .
Sử dụng đồ dùng chưa khoa học, chưa thực sự chú ý phát huy tính tích
cực ở trẻ.
Tạo môi trường hoạt động cho trẻ chưa phong phú, thiết kế các trò chơi
chưa hấp dẫn
Khai thác môi trường xung quanh ngay trong lớp để vận dụng hoặc giáo
dục trẻ còn hạn chế.
Một số cháu là người đồng bào dân tộc thiểu số nên việc thực hiện các
thao tác, kỹ năng còn chưa thành thạo.
2.4 Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
- Nguyên nhân của sự thành công :
Đội ngũ giáo viên nhiệt tình, tâm huyết với nghề, nhận thức được tầm
quan trọng của việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ham học hỏi, tìm
tòi, sáng tạo ra những cách dạy hay nhằm lôi cuốn trẻ vào giờ học.
- Nguyên nhân của sự hạn chế, yếu kém :
Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng chuyên môn chưa khoa học, chưa rõ ràng
CSVC thiếu đồ dùng dụng cụ phục vụ cho các hoạt động làm quen với
toán
Đồ dùng , đồ chơi phục vụ cho hoạt động còn đơn điệu, màu sắc chưa hấp
dẫn nên không cuốn hút trẻ trong các hoạt động làm quen với toán.
Một số giáo viên sử dụng đồ dùng chưa có khoa học, chưa phát huy được
tính tích cực ở trẻ. Khai thác môi trường xung quanh ngay trong lớp để vận dụng
hoặc giáo dục trẻ còn hạn chế.
Bên cạnh đó một số cháu chưa qua những lớp dưới lên nên việc tiếp cận
học đếm, nhận biết mối quan hệ hơn kém, nhận biết về kích thước, hình dạng, và
định hướng trong không gian còn rất khó khăn....

9


2.5 Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra
Qua theo dõi việc tổ chức các hoạt động , dự giờ, thao giảng bản thân tôi
nhận thấy rằng giáo viên chưa mạnh dạn đổi mới, chưa có sự linh hoạt, sáng tạo
còn rập khuôn máy móc. Do đó chưa phát huy được vai trò tích cực của trẻ trong
quá trình hoạt động làm quen với toán, một số giáo viên còn yếu về kĩ năng tổ
chức các hoạt động lúng túng khi xử lý tình huống. Bên cạnh đó việc sử dụng đồ
dùng, đồ chơi không khoa học nên chưa thực sự cuốn hút trẻ trong các hoạt
động. Giáo viên trong quá trình lên lớp nói nhiều, ôm đồm chưa phát huy được
tính tích cực chủ động của trẻ. Giáo viên còn sử dụng giáo cụ trực quan chưa
phù hợp, chưa khoa học dẫn đến tiết dạy chưa đạt hiệu quả cao.
Khai thác môi trường xung quanh ngay trong lớp để vận dụng hoặc giáo
dục trẻ còn hạn chế. Hình thức tổ chức giờ học chưa linh hoạt.
Các kĩ năng, thao tác của trẻ còn chậm, khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ
của trẻ chưa lưu loát. Trẻ hoạt động rời rạc không hứng thú. Có những cháu còn
nhút nhát chưa mạnh dạn. Tham gia vào các hoạt động chưa tích cực.
Từ việc phân tích đánh giá các vấn đề về thực trạng trên nhằm giúp cho
giáo viên khối lá có cách dạy hay, lôi cuốn trẻ vào giờ học hơn. Tôi đưa ra một
số giải pháp, biện pháp cụ thể như sau:
3. Giai pháp, biện pháp:
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Giúp giáo viên nắm vững phương pháp, chủ động linh hoạt, sáng tạo
trong quá trình tổ chức các hoạt động làm quen với toán.
Sử dụng đồ dùng một cách khoa học hơn. Khai thác môi trường xung
quanh ngay trong lớp để vận dụng hoặc giáo dục trẻ đạt hiệu quả hơn..
Có khả năng xử lý tình huống sư phạm tốt, thu hút, lôi cuốn trẻ vào các
hoạt động.
Giúp trẻ tham gia vào các hoạt động tích cực hơn và nắm được các kĩ

năng đếm, thêm bớt, chia nhóm, thực hiện được các thao tác đo….
Vận dụng những giải pháp, biện pháp, cách thức tổ chức cho trẻ các hoạt
động sao cho đạt hiệu quả nhất, vừa duy trì được hứng thú của trẻ vừa giúp trẻ
tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng và thoải mái.
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng giáo viên
Lập kế hoạch bồi dưỡng chuyên môn cụ thể theo từng tháng, học kỳ, từng
chủ đề, từng thời điểm một cách phù hợp tạo điều kiện cho giáo viên tham gia.
Xây dựng kế hoạch tổ chức các buổi chuyên đề hội giảng nhằm giúp giáo
viên học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau để nâng cao trình độ chuyên môn.
10


Hướng dẫn tổ khối lập kế hoạch họp chuyên môn trong tổ để rút kinh
nghiệm , trao đổi, thảo luận về mục tiêu, nội dung, phương pháp của môn học.
Lựa chọn những giáo viên cốt cán, ham học hỏi tiếp cận về cái mới, có
kinh nghiệm, có khả năng truyền đạt và xử lý tình huống sư phạm một cách linh
hoạt, sáng tạo… đi tập huấn các buổi chuyên đề do phòng giáo dục hoặc cụm tổ
chức, dự giờ học tập kinh nghiệm ở các trường bạn trong tỉnh, huyện để học tập
rút kinh nghiệm và tiếp thu những vấn đề mới và về triển khai lại trong tổ để
cùng nhau học hỏi.
Biện pháp 2: Hướng dẫn giáo viên biết cách làm, lựa chọn đồ dùng, đồ
chơi đẹp, sáng tạo nhằm lôi cuốn trẻ vào tiết dạy.
Giáo viên tăng cường làm đồ dùng và chú trọng sử dụng đồ dùng trực quan
hợp lý, phù hợp với nội dung bài dạy, đồ dùng đa dạng màu sắc kích thước
phong phú.
Tăng cường làm đồ dùng và và chú trọng sử dụng trực quan. Biện pháp hữu
hiệu giúp tiết học đạt kết quả là giáo viên biết cách gây sự chú ý của trẻ bằng
cách sử dụng đồ dùng trực quan đẹp kết hợp với sự khéo léo của mình khi sử
dụng đồ dùng trực quan giúp trẻ lĩnh hội kiến thức một cách trọn vẹn, chính xác,

phấn khởi.
Ví dụ: Hoạt động làm quen với môn toán “Dạy trẻ nhận biết mối quan hệ
hơn kém trong phạm vi 6” trong chủ đề “Gia đình của bé” bằng các nguyên vật
liệu phế thải như vỏ hộp sữa, vỏ hộp sữa chua, chai nhưa, xốp màu...giáo viên có
thể làm ra những chiếc ly, cái bình, nồi cơm, chén bát, giày dép, mũ nón.... và
bằng những đồ chơi mà giáo viên tự làm như vậy sẽ kích thích sự hứng thú của
trẻ vào giờ hoạt động chính cũng như là các trò chơi.
Ví dụ: Với tiết học “Chia nhóm số lượng 7 thành 2 phần” trong chủ đề “thế
giới động vật” chủ đề nhánh “ Động vật sống dưới nước” bằng các nguyên vật
liệu phế thải như võ sò làm ra những con cua, quả bóng nhỏ làm thành con rùa,
cái đĩa làm thành những con cá, .....với những đồ chơi mới lạ đó sẽ làm cho trẻ
thích thú hơn khi tham gia vào tiết học.
Biện pháp 3: Hướng dẫn giáo viên trang trí môi trường tiết học
Đây là nguyên tắc dạy học quan trọng để hình thành biểu tượng toán ban
đầu cho trẻ mầm non. Học phải đi đôi với hành, học phải đi đôi với cuộc sống
do đó cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi, làm quen với môn toán không chỉ dừng lại ở
hoạt động cho trẻ làm quen với toán mà còn cho trẻ vận dụng những kiến thức
kỹ năng đã có giúp trẻ nhớ lâu hơn về các chữ số, số lượng, kích thước, hình
dạng…Chính vì thế việc tạo môi trường cho trẻ làm quen với toán qua các đặc
điểm như màu sắc, hình dạng, bố cục góp phần hình thành ở trẻ khả năng yêu
thích cái đẹp ở xung quanh là việc làm hết sức quan trọng và tạo ra môi trường
làm quen với toán. Chính vì vậy vào đầu năm học tôi đã tiến hành đi kiểm tra
việc trang trí của các lớp để xem các lớp trang trí có phù hợp hay không, có nổi
bật chủ đề hay không và điều quan trọng là có đẹp và bắt mắt trẻ hay không.
11


Khi kiểm tra các lớp tôi hướng dẫn giáo viên nên giành riêng một khoảng trống
có diện tích vừa phải, vừa tầm với trẻ nơi dễ gây sự chú ý của trẻ. Hướng dẫn
giáo viên trang trí góc toán như một bức tranh bên trái là bé tô màu và sắp xếp

theo quy tắc, trang trí bên trong là hình ảnh ngôi nhà có hàng rào, đường đi vào
nhà trên đó có dán thảm đỏ để làm đường đi tạo góc mở cho trẻ hoạt động, trẻ
chơi ở góc toán được tô màu, được vẽ được dán sắp xếp theo quy tắc với nội
dung của từng chủ đề. Còn bên phải là thử tài của bé thì nên trang trí như một
cái bảng trên đó có dán những tấm thảm đỏ trẻ được tô màu, vẽ, dán, và gắn số
tương ứng với số lượng đồ vật trẻ đã gắn theo nội dung của từng chủ đề. Qua đó
rèn cho trẻ kỹ năng tô màu, vẽ dán, sắp xếp theo quy tắc, nhận biết số lượng
trong phạm vi 1-10 và gắn số lượng tương ứng với số đồ vật trẻ dán. Không
những tạo môi trường hợp lý mà tôi còn hướng dẫn giáo viên sử dụng những
sản phẩm của trẻ để tạo cho trẻ sự hứng thú khi đi học.
Biện pháp 4: Hướng dẫn giáo viên xác định loại tiết để chọn phương pháp
thích hợp và cung cấp kiến thức chính xác cho trẻ, lên lớp linh hoạt, gây hứng
thú cho trẻ vào giờ học,
Trước khi vào bài dạy tôi định hướng cho giáo viên xác định đúng loại tiết
để giáo viên có thể lên lớp tự tin vào bài dạy hơn, chẳng hạn đối với những tiết
về số, tôi cho giáo viên xác định đâu là tiết mới, tiết hỗn hợp, tiết ôn.
Ví dụ: Trẻ đếm đến 8, nhận biết các nhóm có 8 đối tượng. Nhận biết số 8 .
Chủ đề “Thế giới động vật” Chủ đề nhánh “Con vật đáng yêu quanh bé” Cô giáo
phải xác định được đây là tiết hỗn hợp và nếu là tiết hỗn hợp thì trước khi vào
bài mới thì nên cho trẻ ôn gợi nhớ lại kiến thức đã học của tiết trước.
Trong một giờ hoạt động giáo viên nên linh hoạt tổ chức cho trẻ được
hoạt động một cách lo gíc sôi động, không ngắt quản thời gian hoạt động phải
luân chuyển làm sao cho giờ học không bị nhàm chán, không khí giờ học luôn
sôi nổi, trẻ hứng thú hoạt động và giờ học lại đạt hiệu quả.
Lựa chọn các thủ thuật phù hợp để tổ chức cho trẻ hoạt động
Giáo viên nên chỉ là người gợi ý hướng dẫn và cho trẻ tìm tòi khám phá
bằng cách cô chỉ đặt ra câu hỏi gợi mở cho trẻ, trợ giúp cho trẻ không nên làm
thay trẻ hoặc nói hộ cho trẻ có như vậy trẻ được khám phá hoạt động, trẻ sẽ nhớ
lâu hơn và giúp trẻ có được kiến thức sâu rộng hơn.
Việc dạy trẻ đếm xác định số lượng trong phạm vi 10, nhận biết các số từ

1-10 luôn được bắt đầu bằng việc dạy trẻ lập số mới trên cơ sở số đã biết. Ở lớp
mẫu giáo lớn trẻ học cách lập 5 số tiếp theo (từ số 6 đến số 10). Việc dạy trẻ lập
số được tiến hành trên các tiết học toán, trên cơ sở trẻ thực hành so sánh hai
nhóm đối tượng có số lượng hơn kém nhau là 1, sao cho số lượng của chúng
được biểu thị bằng con số mà trẻ đã biết và con số kề sau con số đó.
12


Ví dụ: Khi dạy số 6 ta cần so sánh 5 bông hoa với 6 con bướm. Khi thiết
lập tương ứng 1:1 giữa số hoa và số bướm trẻ sẽ thấy số hoa ít hơn số bướm là 1
và ngược lại số bướm nhiều hơn số hoa là 1 và bằng cách trẻ gọi số mới diễn đạt
cho số bướm, khi cho trẻ so sánh các từ số với nhau (5 thêm 1 là 6 và 6 bớt 1 là
5, như vậy 6 lớn hơn 5 là 1 và 5 nhỏ hơn 6 là 1) trẻ sẽ lĩnh hội nguyên tắc thành
lập dãy số mới và tiếp đó là nguyên tắc thành lập dãy số tự nhiên
Trong quá trình so sánh các nhóm vật, sự xem xét đồng thời các mối quan
hệ “nhiều hơn”, “ít hơn” là cơ sở để trẻ hiểu được các mối quan hệ thuận nghịch
“lớn hon”, “nhỏ hơn” giữa các con số liền kề trong dãy số tự nhiên. Mặt khác,
bằng các ví dụ cụ thể trẻ sẽ thấy được tính tương đối giữa các khái niệm “ nhiều
hơn, ít hơn” về số lượng giữa các nhóm đối tượng và các khái niệm” lớn hơn,
nhỏ hơn “ giữa các số, từ đó ở trẻ hình thành biểu tượng về trình tự của các số
trong dãy số tự nhiên.
Các bài tập so sánh số lượng các nhóm vật có kích thước và sự sắp đặt
khác nhau tạo điều kiện cho trẻ hiểu vai trò của phép đếm và các biện pháp thiết
lập tương ứng 1:1 phân tích các mối quan hệ giữa số lượng “bằng nhau- không
bằng nhau”, “ nhiều hơn - ít hơn”
Ví dụ: Khi trẻ phân tích mối quan hệ số lượng giữa số xe máy và xe đạp,
trẻ cần phải đếm số xe máy và xe đạp sau đó so sánh các kết quả đếm được với
nhau. Hoặc trẻ có thể thiết lập tương ứng 1:1 giữa mỗi vật của nhóm này với
một vật của nhóm kia bằng các biện pháp như xếp chồng, xếp cạnh hay sử dụng
các gạch nối. Qua so sánh trẻ thấy rõ nhóm đồ vật nào nhiều hơn hay ít hơn, từ

đó trẻ sẽ so sánh các con số với nhau để thấy số nào lớn hơn, nhỏ hơn.
Trong quá trình dạy trẻ giáo cần yêu cầu và hướng dẫn trẻ tự tìm kiếm
được tất cả các cách chia một nhóm đối tượng thành hai nhóm
Ví dụ: Chia một nhóm đối tượng thành 2 phần theo các cách: 9 - 1, 8 -2,
và 7 -3. Ban đầu mỗi trẻ có thẻ thực hành chia theo cách mà trẻ thích, cô giáo có
nhiệm vụ tổng kết lại tất cả những cách chia có thể thực hiện được với nhóm đồ
vật đó một cách trực quan. Các bài luyện tập chia như vậy dành cho trẻ sẽ được
phức tạp dần cùng với những điều kiện chia nhất định
Ví dụ: Chia hai phần sao cho số lượng đối tượng của hai phần bằng nhau
hoặc chia sao cho số lượng của một phần nhiều hơn số đối tượng của phần kia…
Trong qua trình dạy trẻ giáo viên cần chú ý rằng, các bài luyện tập trên
nhằm mục đích dạy trẻ nhớ một cách mấy móc số này hay số khác được hình
thành từ những con số nào, khi thao tác với các bài tập cụ thể và các con số, trẻ
sẽ hiểu sâu sắc hơn mối quan hệ giữa tổng thể, bộ phận. Bộ phận có thể bằng
nhau hoặc không bằng nhau, nhiều hay ít, to hay nhỏ, nhưng chúng luôn luôn
nhỏ hơn tổng thể.
Đối với việc dạy trẻ mẫu giáo lớn phép đo lường có tác dụng phát triển sự
tri giác kích thước các vật của trẻ và làm cho nó trở nên chính xác hơn. Trong
quá trình học trẻ học được cách phân biệt vật để đo, vật làm từ thước đo và kết
13


quả đo, trẻ được làm quen với các quy định của phép đo lường, thông qua số
lượng các thước đo mà trẻ hình dung được kết quả đo. Vì vậy sự ước lượng kích
thước các vật của trẻ được phát triển. Hơn nữa nhờ hoạt động đo mà biểu tượng
về số lương và về các mối quan hệ giữa các số của trẻ được củng cố.
Để thấy sự cần thiết và vai trò của phép đo trong hoạt động thực tiễn của
con người, cô giáo cần sử dụng các ví dụ lấy từ thực tiễn cuộc sống của con
người để minh họa
Ví dụ: Mọi người đều phải đo khi mua quần áo , vải vóc…Hoặc cô tạo ra

những tình huống có vấn đề mà để giải quyết chúng con người phải sử dụng tới
phép đo. Với mục đích dạy trẻ biện pháp đo, giáo viên cần chuẩn bị sẵn các vật
để đo và các vật dùng làm thước đo.
Ví dụ: Trẻ đo chiều dài băng giấy hay chiều dài, chiều rộng, chiều cao của
cái bàn…Với các vật dùng làm thước đo, nên sử dụng các vật tự nhiên như que,
đoạn dây, miếng gỗ mỏng, băng giấy, bước chân…Việc cho trẻ sử dụng các
thước đo khác nhau trong các bài luyện tập phong phú có tác dụng giúp trẻ hiểu
tính ước lệ của các thước đo và hình thành kỹ năng đo bền vững cho trẻ.
Khi dạy phép đo giáo viên cần chọn thước đo sao cho kết quả đo là số
nguyên và không quá lớn, hơn nữa cô cần chuẩn bị đủ thước đo cho tất cả trẻ và
đều giống nhau. Cần dạy trẻ các biện pháp, quy định về trình tự đo sau:
Đặt một đầu của thước đo trùng với một đầu của đối tượng cần đo, chiều
dài thước đo đặt sát cạnh chiều dài của đối tượng cần đo. Cuối mỗi thước đo trẻ
dùng phấn, bút chì gạch sát vào đầu kia của thước đo để đánh dấu.
Khi đo chiều dài vật, trẻ bắt đầu đo từ trái sang phải, khi đo chiều rộng và
chiều cao của vật trẻ đo từ dưới lên trên.
Sau mỗi lần đo trẻ đặt thước đo vào đúng vạch đánh dấu của lần đo trước
để đo tiếp, cứ như vậy cho tới hết chiều dài của đối tượng cần đo.
Trẻ đếm số đoạn đã đánh dấu để biết kết quả đo, trẻ cần ghi nhớ và nói
chính xác kết quả đo, như: “Chiều dài băng giấy đỏ bằng 8 lần chiều dài que
gỗ”.
Trong quá trình dạy trẻ đo lường độ dài của các đối tượng, giáo viên cần
nhấn mạnh đối tượng đo cho trẻ bằng câu hỏi “ cháu đo cái gì ?(cháu đo chiều
dài cái bàn) phương tiện đo “cháu dùng gì để đo”( đo bằng chiều dài que gỗ) và
kết quả đo” cái bàn có chiều dài như thế nào ?” khi nói kết quả đo trẻ cần gắn số
kết quả với tên gọi thước đo( chiều dài của cái bàn bằng 8 lần chiều dài của que
gỗ).
Việc tiến hành dạy trẻ phép đo lường được tiến hành trên tiết học toán với
cả lớp, với từng nhóm trẻ hoặc cá nhân trẻ, phụ thuộc vào mức độ lĩnh hội kiến
thức, kỹ năng đo lường của trẻ.

Định hướng trong không gian là cách xác định vị trí phía trước- phía sau;
phía trên – phía dưới; phía phải – phía trái của bản thân so với các đối tượng
14


khác. Do vậy khi dạy trẻ xác định phía trước- phía sau, phía trên – phía dưới của
bản thân trẻ việc chủ yếu cần làm là dựa vào kinh nghiệm của trẻ. Chính vì vậy
giáo viên cần tạo mọi cơ hội cho trẻ được trải nghiệm và tự rút ra kinh nghiệm
của bản thân.
Ví dụ : Muốn dạy trẻ xác định các phía khác giáo viên sẽ dấu đồ vật ở từng
phía và cho trẻ tự trải nghiệm và suy nghĩ. Cô giáo vừa hướng dẫn vừa gợi hỏi
trẻ để kích thích trẻ trả lời các câu hỏi của cô.
Bên cạnh đó giáo viên nên tận dụng những thói quen sử dụng tay trái –
tay phải trong công việc hàng ngày để dạy trẻ xác định phía phải – phía trái của
bản thân trẻ.
Ví dụ: Chủ đề “Bản thân” tôi gợi ý cho giáo viên nên cho trẻ chơi trò chơi
làm động tác mô phỏng các hành động như: đánh răng, xúc cơm ăn, ….Khi trẻ
làm động tác mô phỏng hành động đang đánh răng cô giáo hỏi: Con đang cầm
bàn chải bằng tay nào? Con dùng tay nào cầm ca nước? Tay trái ngoài việc cầm
ca nước còn dùng để làm những việc gì? (cầm bát, giữ vở…). Tay phải ngoài
cầm bàn chải khi đánh răng còn dùng để làm những việc gì? (cầm thìa, cầm
bút…).Tay cầm bát của con đâu? Đó là tay gì?…
Bằng những hành động cụ thể như vậy trẻ sẽ dễ nhớ và nhớ sẽ lâu hơn,
đồng thời hoạt động cũng nhẹ nhàng và trẻ cảm thấy thoải mái hơn. Với hoạt
động này tôi luôn tạo điều kiện cho trẻ được trải nghiệm thực tế để trẻ có những
định hướng đúng trong không gian. Bên cạnh đó tôi còn tổ chức cho trẻ định
hướng các phía bằng hình ảnh những con vật gần gũi bằng nhựa, bằng bông…
kích thích hứng thú của trẻ và kể bằng những câu chuyện.
Ví dụ: Với đề tài “ Xác định vị trí phía trước, phía sau, phía trên, phía
dưới của đối tượng khác” tôi hướng dẫn giáo viên lên tiết dạy bằng cách dẫn dắt

vào chương trình “ Hành khách cuối cùng” trên đường đến tham gia chương
trình phải đi qua một cái cầu. Khi chạy trên cầu có xe cảnh đi giữa, phía trước xe
cảnh sát có xe máy, phía sau xe cảnh sát có xe khách, phía dưới cầu có xe đạp và
phía trên xe cảnh có còi tín hiệu. Sau đó cho trẻ xác định vị trí các phía. Sang
phần trò chơi động tôi hướng dẫn giáo viên gắn phương tiện về các phía so với
đối tượng là xe ô tô. Đối với trò chơi tĩnh thì tô màu các phương tiện theo yêu
cầu, một đội thì tô phương tiện phía trước, một đội tô phương tiện phía sau….
Biện pháp 5: Hướng dẫn giáo viên lên tiết dạy làm sao vừa phát huy tính
tích cực, dạy học vừa sức, và đảm bảo tính khoa học.
* Phát huy tính tích cực cho trẻ
Giáo viên cần tạo điều kiện cho trẻ suy nghĩ và tự hành động, thậm chí còn
để trẻ tự suy nghĩ cả bài mới là biện pháp kích thích gợi mở hướng dẫn để trẻ
hoạt động tích cực
Ví dụ: Khi trẻ bắt đầu hoạt động đếm đến 8 nhận biết các nhóm có 8 đối
tượng, nhận biết số 8 thì giáo viên cần dạy trẻ tự tìm, tự đếm, tự xếp theo yêu
cầu của cô, trẻ biết tự nhận xét nhóm đồ dùng đồ chơi đó có số lượng là 8, và để
15


tương ứng với nhóm đồ dùng đó trẻ tự tìm số 8 gắn vào hoặc cô cho trẻ chọn đối
tượng để tương ứng với số 8. Nhưng trên các tiết học tiếp theo sau khi trẻ đếm
đến 8 nhận biết các nhóm có 8 đối tượng, nhận biết số 8, trẻ được học thêm bớt
trong phạm vi 8. Cô giáo có thể thiết kế tiết dạy thông qua các trò chơi để gây
hứng thú ở trẻ và giúp trẻ nhớ lâu và quan trọng trẻ tích cực tham gia vào các
hoạt động. Ví dụ: Thiết kế bài dạy của cô trên giáo án điện tử, nếu sử dụng đồ
dùng trực quan thì đồ dùng cần đẹp ngộ nghĩnh gần gũi với trẻ và phù hợp với
chủ đề, còn phần thực hành của trẻ nên sử dụng thông qua trò chơi, luyện tập cá
nhân cho trẻ chơi “Ai nhanh hơn” “Ai tinh mắt” cô gọi 2 trẻ lên chơi cho trẻ tìm
thêm con vật và đem nó về đúng với môi trường sống của chúng như cá sống
dưới nước, voi sống trong rừng, gà sống trong nhà. (Cô chuẩn bị ngôi nhà, rừng

cây, hồ nước). Còn tổ chức trò chơi để luyện tập cả lớp như trò chơi “Ai nhanh
tay” Cô chia lớp thành 2 tổ cho tổ 1 tìm con vật nuôi trong gia đình có 2 chân, tổ
tìm con vật nuôi trong gia đình có 4 chân, và mỗi trẻ tìm đủ 8 con không cùng
một loại (động vật nuôi trong nhà có gà, vịt chó, mèo…) có số lượng 8, giáo
viên cho trẻ thêm và và bớt ra theo yêu cầu, tổ chức cho 2 tổ thi đua nhau để trẻ
hứng thú.
*Dạy học vừa sức:
Trên cở sở giáo viên phải cân nhắc lựa chọn nội dung sao cho phù hợp, hợp
lí giữa nội dung các kiến thức lí tính và cảm tính
Để đảm bảo tính vừa sức cho trẻ những kiến mới truyền đạt cho trẻ cần
được phức tạp dần được củng cố dần qua các bài tập luyện phong phú và được
ứng dụng vào các dạng hoạt động khác nhau của trẻ như vậy sự mở rộng dần,
phức tạp dần nội dung dạy học sẽ giúp trẻ dễ dàng lĩnh hội kiến thức và kỹ năng
tạo cho trẻ hứng thú học toán .
*Đam bao tính khoa học :
Trên cơ sở của những khoa học toán học, sinh lý. Tâm lí học và giáo dục
học mầm non trong qúa trình dạy toán cho trẻ cần đảm bảo sự thống nhất giữa
các thao tác, kiến thức kỹ năng và thái độ thông qua các hoạt động giúp trẻ hình
thành biểu tượng số lượng trong thực tế.
Trong quá trình hình thành biểu tượng toán học về các hình dạng cần phải
đảm bảo tính chính xác khoa học và tất cả mọi mặt như ngôn ngữ kí hiệu hình
vẽ . Kiến thức suy luận thông qua hoạt động mà tư duy và ý thức phát triển tốt
Biện pháp nhằm đảm bảo tính ý thức và phát huy tính tích cực của trẻ
Để đảm bảo tính ý thức và phát huy tính tích cực của trẻ trong quá trình
lĩnh hội kiến thức giáo viên cần dạy trẻ nhận biết những dấu hiệu nhận biết của
đối tượng bằng cách thay đổi các dấu hiệu trong bản chất và giữ nguyên bản
chất của đối tượng. Đồ dùng đa dạng màu sắc tươi sáng, sắp xếp đồ dùng trực
quan ở nhiều vị trí khác nhau để trẻ đếm. Qua hiểu cách đếm trẻ nắm bắt được
các dấu hiệu đặt trưng của số lượng và có biểu tượng chính xác về chúng.
16



Biện pháp 6: Hướng dẫn giáo viên dạy trẻ làm quen với toán mọi lúc mọi
nơi.
Củng cố các kiến thức mọi lúc mọi nơi, dạy trẻ vận dụng các kiến thức vào
trong cuộc sống, ôn luyện mọi lúc mội nơi cũng là cách hữu hiệu giúp cho chất
lượng dạy học ngày càng nâng lên. Tôi luôn hướng dẫn giáo viên luôn chú trọng
đến việc ôn tập cho trẻ vì đặc điểm của trẻ là mau nhớ nhưng cũng rất mau quên
nên phải thường xuyên củng cố kiến thức cho trẻ.
Ví dụ: Dán các chữ số lên những cái ly, bàn chải đánh răng, khăn mặt để
khi trẻ lấy trẻ sẽ nhìn vào các chữ số và sẽ khắc sâu sơn về những chữ số đã
được học. Tất cả đồ dùng đồ chơi của trẻ đều có ký hiệu bằng số. Qua đó để
giúp trẻ nhận mặt số dễ dàng, ngoài ra trẻ biết học đếm trong khi trẻ lấy và cất
đồ dùng. Hướng dẫn giáo viên cho trẻ thay nhau kiểm tra sau khi bạn cất đồ
dùng đồ chơi, cho trẻ đếm xem đủ đồ dùng đồ chơi không và bạn đã cất thứ tự
đúng số của mình chưa. Trẻ tự phát hiện những sai sót của bạn và cùng bạn sửa
sai. Qua đó trẻ biết tự phục vụ bản thân tự rèn cho mình thói quen nề nếp và
quan trọng nhất trẻ tự rèn kỹ năng đếm để biết cách thêm bớt trong phạm vi 1-10
một cách thành thạo nhanh nhẹn.
Cho trẻ vận dụng toán học vào cuộc sống, ôn luyện mọi lúc mọi nơi cũng là
biện pháp hữu hiệu giúp cho chất lượng ngày được nâng cao, vì đặc điểm trẻ
nhỏ mau nhớ và mau quên nên phải thường xuyên củng cố .
Ví dụ: Hoạt động ngoài trời giáo viên cho trẻ chơi kết nhóm tương ứng với
số lượng trẻ học để tham gia vào các hoạt động chơi. Cho chơi tự do vào giờ đón
trẻ và hoạt động chiều cũng chơi theo nhóm và tô vẽ nặn tương ứng với số lượng
trẻ học
Biện pháp 7: Đặt ra những câu hỏi dễ và gần gũi đối với trẻ.
Hệ thống câu hỏi giúp trẻ phát huy được tính tích cực sáng tạo, giúp trẻ
nắm được kiến thức một cách lôgic, câu hỏi đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến
phức tạp.

Hướng dẫn giáo viên mỗi ngày dành 5 đến 10 phút trước và sau giờ đón trẻ
để ôn tập bằng nhiều hình thức như đếm, thêm bớt, xác định các phía..... Khi
thấy trẻ đạt yêu cầu nâng cao dần, cho cháu giỏi kèm cháu yếu để cùng đếm,
nhận biết mối quan hệ hơn kém, định hướng trong không gian...
Bằng hệ thống câu hỏi: Và bài tập nhằm kích thích trẻ phát triển về trí lực
của trẻ một cách hưng phấn dẫn dắt trẻ tự tìm ra kết quả, tự đưa ra kết luận khái
quát bằng lời giáo viên cần đặt ra cho trẻ vào các tình huống có vấn đề buộc trẻ
phải suy nghĩ .
Ví dụ: Cho trẻ so sánh hai nhóm đồ vật để trẻ tự nhận xét về 2 nhóm đồ vật
cô sử dụng một số câu hỏi gợi mở để trẻ suy nghĩ. Cô hỏi 2 nhóm như thế nào
với nhau? (Trẻ có thể trả lời 2 nhóm không bằng nhau, gợi ý cho trẻ khác trẻ lời
nhóm nhiều hơn nhóm thì ít hơn) tại sao con biết 2 nhóm không bằng nhau? (Trẻ
trả lời vì nhóm có 8 đối tượng, nhóm có 7 đối tượng, nhóm nhiều hơn 1, nhóm
17


ít hơn 1…) Trẻ tự suy nghĩ và tìm ra câu trẻ lời, và cô là người động viên
khuyến khích trẻ để trẻ được trình bày ý kiến của mình.
Hệ thống câu hỏi bài tập cô đặt ra câu hỏi dựa trên tri giác và trí nhớ tái tạo
của trẻ nhằm ghi nhận những kiến thức của đối tượng yêu cầu trẻ miêu tả những
kiến thức mà trẻ vừa quan sát hay nhắc lại nhiệm vụ của cô giáo .
Ví dụ: Có bao nhiêu con ? hai nhóm như thế nào với nhau ? Tại sao không
bằng nhau ? Muốn bằng nhau làm thế nào?
Câu hỏi tái tạo có nhận thức nhằm giúp trẻ nắm vững và củng cố những
kiến thức một cách sâu sắc hơn
Ví dụ : Tìm và chọn thêm con vật, bông hoa…cho đủ số lượng 9 (Số lượng
của tiết học)
Câu hỏi sáng tạo có nhận thức nhằm giúp trẻ sử dụng những kiến thức đã
nắm được để giải quyết tình huống hay nhiệm vụ khác nhau .
Ví dụ: Trong bình hoa của con có bao nhiêu bông hoa, có bao nhiêu cành

hoa ? muốn mỗi cành đều có bông hoa các con làm thế nào? Dùng đồ dùng gì
thực hiện thêm bông hoa? (Dùng kéo và giấy màu cắt hoa, dùng bút chì đen và
màu sáp vẽ tô thêm hoa, dùng giấy màu xé dán bông hoa, dùng kéo cắt hình ảnh
bông hoa…)
Khi sử dụng câu hỏi giáo viên cần chú ý đặt câu hỏi phải ngắn gọn cụ thể
đủ ý, nội dung câu hỏi phải vừa sức trẻ , các khái niệm trong câu hỏi phải quen
thuộc với trẻ nên đặt nhiều dạng câu hỏi cho một vấn đề các câu hỏi phải có hệ
thống , phải kích thích sự suy nghĩ của giáo viên , phải đặt câu hỏi mang tính đa
dạng để mở rộng vốn từ cho trẻ , tập cho trẻ hiểu và sử dụng nhiều cách đặt câu
hỏi để cho trẻ ứng dụng vào các tìn huống khác nhau của cuộc sống .
Biện pháp 8: Chỉ đạo giáo viên phối kết hợp giữa phụ huynh và cô giáo
nhằm giúp trẻ học tốt hơn môn làm quen với toán.
Đối với trẻ mầm non dễ nhớ lại dễ quên .Vì thế tôi đã chỉ đạo giáo viên
các lớp 5 -6 tuổi thường xuyên trao đổi với phụ huynh vào giờ đón trả trẻ để phụ
huynh và giáo viên đều hiểu được tính cách trẻ từ đó có hướng luyện thêm cho
trẻ . Động viên các cháu yêu thích tham gia vào hoạt động làm quen với toán
hơn nữa.
Giáo viên trao đổi với phụ huynh mua cho trẻ những quyển sách về những
cách giúp trẻ tiếp thu về hoạt động làm quen với toán tốt hơn… phù hợp với lứa
tuổi. Trẻ được làm quen với hình ảnh, với các chữ số .
Việc kết hợp giữa gia đình và cô giáo giúp trẻ luỵên tập nhiều hơn, từ đó
trẻ có được vốn kiến thức về hoạt động làm quen với toán phong phú, đa dạng
hơn.
3.3. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
18


Để thực hiện các giải pháp, biện pháp này cần phải có sự đầu tư cho chuyên
môn, phương tiện, áp dụng thực tế tại trường khi tiến hành các giải pháp, biện
pháp đòi hỏi người cán bộ quản lý phải chủ động kiểm tra việc tổ chức các hoạt

của giáo viên xem có phù hợp với nội dung ,chủ đề đó hay không.
Quan sát các trình tự tổ chức một tiết học để rút kinh nghiệm cho tiết học
tốt hơn và đánh giá kiến thức trẻ đã nhận biết về số lượng, kích thước, hình
dạng, định hướng trong không gian.
3.4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Các giải pháp, biện pháp khi thực hiện đề tài có mối quan hệ mật thiết với
nhau, biện pháp này nó sẽ hỗ trợ cho biện pháp kia nhằm hòa quyện các nội
dung lại với nhau để đi đến một thể thống nhất là tìm ra các giải pháp tối ưu nhất
nhưng vẫn đảm bảo được tính chính xác, khoa học và lô gích giữa các giải pháp
và biện pháp với nhau.
3.5. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
Sau một thời gian thực hiện, là một phó hiệu trưởng tôi rất phấn khởi khi
kết quả đạt được rất cao:
* Đối với giáo viên:
Tổng
số giáo
viên
khối lá

Kết
qua

Tỉ lệ

Hình thức tổ chức giờ học linh hoạt, sáng tạo hơn

8

7/8


87.5 %

Sử dụng đồ dùng đẹp, khoa học hơn

8

8/8

100 %

Tạo môi trường hoạt động cho trẻ phong phú hấp
dẫn hơn

8

7/8

87.5 %

NỘI DUNG

*Đối với trẻ :
Nội dung

TS học sinh
khối lá

Kết qua

Tỉ lệ


Trẻ đếm, thêm bớt, chia
nhóm số lượng từ 1-10

143

140/143

97.9%

Xếp tương ứng

143

140/143

97.9%

Trẻ biết thực hiện thao

143

135/143

94,4%

19


tác đo

Định hướng trong không
gian

143

138/143

96.5%

4. Kết qua thu được qua khao nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề
nghiên cứu
* Đối với giáo viên:
Giáo viên chủ động, sáng tạo, linh hoạt hơn trong quá trình lên lớp.
Không còn lúng túng trong việc sử dụng đồ dùng, đồ chơi.
Đặc biệt giáo viên đã tổ chức thực hiện tốt công tác ứng dụng CNTT
trong sử dụng giáo án điện tử trong giảng dạy. Giúp trẻ hứng thú, tích cực tham
gia vào các hoạt động.
* Đối với trẻ: Hầu hết trẻ đều tích cực tham gia vào các hoạt động, đa số
trẻ đã chủ động, mạnh dạn tự tin tham gia các hoạt động làm quen với toán
Trẻ mạnh dạn, tự tin, tham gia học tập rất thoải mái, có điều kiện để trải
nghiệm, có cơ hội bộc lộ khả năng của bản thân, hình thành được tính tự độc
lập, khả năng sáng tạo của trẻ khi tham gia vào các hoạt động.
* Đối với phụ huynh:
Tạo được niềm tin trong phụ huynh, ngày càng tin tưởng vào sự giáo dục
của nhà trường. Giữa phụ huynh và giáo viên đã có sự hợp tác tích cực và gắn
bó với nhà trường hơn, hiểu được tầm quan trọng của giáo dục mầm non.
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Việc bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên phải được thực hiện thường
xuyên với nhiều hình thức, đa dạng và phong phú tạo cơ hội cho giáo viên học

tập trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau đặc biệt là trú trọng việc tổ chức các tiết dạy
thực tế trên lớp giúp giáo viên có kiến thức, có kỹ năng sư phạm vững vàng
trong chuyên môn cũng như trong việc tổ chức các hoạt động để có thể chủ
động, linh hoạt và sáng tạo trong quá trình thực hiện
Xác định rõ nội dung và hình thức chỉ đạo bồi dưỡng chuyên môn, có
kiểm tra giảng dạy và tổng kết đánh giá kiểm tra việc thực hiện của trẻ từ đó rút
kinh nghiệm để bồi dưỡng cho giáo viên tổ chức tốt hơn.
Giáo viên cần phải dựa vào các nguyên tắc dạy học để tổ chức các hoạt
động đảm bảo tính vừa sức, tính phát triển, tính hệ thống liên tục và chú ý cá
biệt đối với trẻ nhằm hình thành ở trẻ, khả năng quan sát ghi nhớ và vận động
kích thích trẻ nỗ lực khám phá. Tổ chức hoạt động cứng nhắc rập khuôn sẽ
không kích thích khả năng hiểu biết ham khám phá của trẻ. Thông qua việc tạo
điều kiện cho trẻ tiếp xúc với môi trường xung quanh, hiểu biết về thế giới xung
20


quanh để trẻ có tâm lý tốt sau này. Đối với trẻ mầm non phải thường xuyên kiểm
tra đánh giá mức độ hiểu biết của trẻ, tạo cơ hội để trẻ tự tìm tòi, khám phá đó
cũng chính là giúp trẻ bước tiếp theo vào các lớp trên một cách tốt nhất.
Sau khi xây dựng biện pháp trên nhận thức của giáo viên. Nhìn chung việc
đổi mới của bậc học mầm non hiện nay là rất phù hợp với yêu cầu đổi mới của
đất nước để đáp ứng với yêu cầu đòi hỏi giáo viên mầm non phải học tập để
nâng cao trình độ tiếp cận với chương trình đổi mới được dễ dàng hơn.
Dựa vào những dấu hiệu màu sắc, hình dạng, kích thước, số lượng, vị trí
sắp xếp trong không gian này mà con người phân biệt vật này với vật khác, như
so sánh, thêm bớt, nhận biết được hình dạng, kích thước mang những dấu hiệu
bên ngoài của một vật cụ thể . Dựa vào chúng mà con người có thể tiến hành so
sánh các nhóm các vật khác nhau theo dấu hiệu số lượng, hình dạng, kích thước.
Những biểu hiện toán học của trẻ 5 – 6 tuổi ngày một phát triển càng lớn thì
quá trình tri giác của trẻ càng hoàn thiện. Do đó trẻ nhận biết hình dạng cùng các

chi tiết của nó ngày càng chính xác hơn. Hơn nữa nội dung phân biệt ngày càng
phức tạp thì trí tuệ của trẻ ngày càng phải hoạt động tích cực hơn. Trí óc tích cực
hoạt động làm cho óc suy luận của trẻ mẫu giáo 5– 6 tuổi ngày càng phát triển.
Nhiều trẻ có khả năng tạo ra số lượng mới từ những gì đã biết.
2. Kiến nghị:
Tạo điều kiện cho giáo viên giỏi tham quan học tập các tỉnh để được
giao lưu, học hỏi, rút kinh nghiệm trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ.
Trên đây là một số biện pháp bồi dưỡng giáo viên khối lá nâng cao chất
lượng môn làm quen với toán Rất mong được sự đóng góp ý kiến của hội đồng
sáng kiến các cấp, các đồng nghiệp để bản thân tôi có kinh nghiệm tốt hơn trong
công tác bồi dưỡng chuyên môn ngày một tốt hơn./.
Buôn Trấp, ngày 16 tháng 01 năm 2016
Người viết

Văn Thị Thủy

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
21


.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN


TÀI LIỆU THAM KHẢO
22


STT Tên tài liệu
1

2

Tác gia

Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo
viên mầm non chu kỳ II (2004-2007)
Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình
giáo dục mầm non .

TS.Trần Thị Ngọc Trâm
– TS Lê Thu HươngPGS.TS. Lê Thị Ánh
Tuyết.

3

Quản lý giáo dục

( Phạm Thị Châu, Trần
Thị Sinh).

4


Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non

Nguyễn Thị Ánh Tuyết

5

Các tạp chí giáo dục Mầm non

6

Giáo dục học mầm non

NXB ĐH Quốc gia Hà
Nội

23



×