Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Biện pháp nâng cao kĩ năng làm bài văn tả cảnh cho học sinh lớp 5b trường th hóa quỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (672.48 KB, 20 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Giáo dục tiểu học là giai đoạn thứ nhất của giáo dục bắt buộc. Đây là bậc
học quan trọng đối với sự phát triển của của trẻ em, thời gian hình thành nhân
cách và năng lực(trí tuệ và thể chất). Giáo dục tiểu học là nền tảng vững chắc
cho sự phát triển về đạo đức nhân cách và tư duy cũng như kĩ năng của các em
trong tương lai.Vì thế cần xây dựng cho các em nền tảng kiến thức vững chắc
nhằm đưa các em đến sự phát triển tối đa trong thời gian tiếp theo. Ở tiểu học
giúp tất cả các em kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, và biết tính toán ở mức độ căn
bản, những hiểu biết căn bản về khoa học, địa lí, lịch sử và các môn học khác.
Môn Tiếng Việt ở Tiểu học chiếm khá nhiều thời gian so với các môn học khác.
Môn Tiếng việt có nhiệm vụ hình thành và phát triển cho học sinh các kĩ năng sử
dụng tiếng việt để học tập và giao tiếp trong các môi trường của lứa tuổi.Thông
qua việc dạy học Tiếng việt, góp phần rèn luyện tư duy, cung cấp cho học sinh
những kiến thức sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học
của Việt Nam và nước ngoài. Bồi dưỡng tình yêu Tiếng việt và hình thành thói
quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành con
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Môn Tiếng việt gồm nhiều phân môn khác
nhau như tập đọc, luyện từ và câu, kể chuyện, tập viết, chính tả, tập làm văn.
Song phân môn Tập làm văn lại là kĩ năng tích hợp các môn học khác nói chung
và các phân môn trong môn Tiếng viết nói riêng. Phân môn Tập là văn thể hiện
khái quát hóa các nội dung các môn học và thúc đẩy sự phát triển tư duy trừu
tượng, phát triển kĩ năng sử dụng ngôn ngữ nói và viết, phát triển kĩ năng giao
tiếp, kĩ năng quan sát, kĩ năng đánh giá nhận xét, kĩ năng làm chủ bản thân, trãi
nghiệm và các kĩ năng sống hàng ngày, kĩ năng phân tích tổng hợp và đặc biệt
còn hình thành cho học sinh những phẩm chất tốt đẹp của con người mới hiện
đại và năng động. Dạy tập làm văn là dạy học sinh cách nhìn nhận cuộc sống
xung quanh trong thực tế vốn có của nó với cảm xúc thực của các em. Đồng thời
cũng dạy các em cách ghi lại sự nhìn nhận ấy qua các văn bản- còn gọi là đoạn
văn, bài văn một cách chính xác về đối tượng, về ngữ pháp Tiếng việt.
Làm văn tả cảnh ở lớp 5 là một phần trong làm văn miêu tả. Tả cảnh là


một kiểu bài khó vì học sinh không có khả năng quan sát tinh tế, mặt khác có
những cảnh học sinh chỉ có thể gặp một lần khi đi du lịch hay xem trên truyền
hình, không cảm nhận được vẻ đẹp của cảnh hay những thay đổi của cảnh,
không biết dựa vào cảm xúc của mình để làm cảnh đó trở nên đẹp hơn, sinh
động hơn, gần gũi hơn.Làm thế nào để cho học sinh làm văn hay và có hiệu quả
thì lại là một vấn đề rất khó khăn, cần phải suy nghĩ và dày công nghiên cứu của
những người làm công tác giáo dục.
Điều đó cho thấy các em mà không phải là ai khác sẽ là những chủ nhân
tương lai của đất nước, nguồn nhân lực này sẽ đưa đất nước đi lên mang tầm vóc
mới, diện mạo mới sánh vai với các nước trên thế giới. Vì thế ngay từ khi học
hết tiểu học các em được trang bị kiến thức đầy đủ, hiểu và cảm nhận được cái
hay cái đẹp của thế giới xung quanh, nét đẹp của cuộc sống con người hòa quện
1


vào trong nét đẹp của thiên nhiên, của cảnh vật. Phân môn Tập làm văn thuộc
môn Tiếng Việt sẽ giúp các em thể hiện qua cách quan sát từ thực tiễn sinh động
trong cuộc sống đi đến tư duy nhận xét khẳng định và cảm nhận được những cái
hay cái đẹp trong cách làm văn tả cảnh ở tiểu học nói chung lớp 5B trường Tiểu
học Hóa Quỳ nói riêng. Cảm nhận đó được thể hiện qua cách nói cách viết và
cách thể hiện trong cuộc sống hàng ngày đối với cảnh vật đó. Làm cho cuộc
sống của con người trở nên ý nghĩa kì diệu hơn, yêu thiên nhiên hơn, yêu cảnh
đẹp hơn, và sẵn sàng chung tay xây dựng cho quê hương tươi đẹp , giàu mạnh .
Văn tả cảnh trong phân môn Tập làm văn ở lớp 5 là thể loại văn dùng lời
nói có hình ảnh và cảm xúc làm cho người nghe, người đọc hình dung một cách
rõ nét, cụ thể về người, vật, cảnh vật, sự việc như nó vốn có trong đời sống. Một
bài văn miêu tả hay không những phải thể hiện rõ nét, chính xác, sinh động đối
tượng miêu tả mà còn thể hiện được trí tưởng tượng, cảm xúc và đánh giá của
người viết đối với đối tượng được miêu tả. Thực tế giảng dạy tập làm văn phần
tả cảnh, bản thân người giáo viên là người hướng dẫn đôi khi cũng cảm thấy

lúng túng, bí từ và không biết phải hướng dẫn thế nào để học sinh có thể viết
được bài văn hay, có hình ảnh có cảm xúc. Một số tài liệu như sách giáo khoa,
sách giáo viên, sách thiết kế thì hướng dẫn chung chung, còn một số sách khác
như văn mẫu lại chỉ có các bài văn đã viết sẵn và thực tế mẫu nhưng không phải
là chuẩn mực,có chăng chỉ là đôi chỗ có câu, ý hay,… mà lại không có một sự
hướng dẫn cụ thể nào để định hướng cho giáo viên cũng như học sinh.Là một
giáo viên tiểu học tôi luôn trăn trở suy nghĩ để làm thế nào cho học sinh thích
làm văn, viết văn chân thật, có cảm xúc và sinh động. Trong năm học 2016 –
2017, 2017 - 2018, tôi đã dạy và tìm hiểu khá kĩ về mảng Tập làm văn, đặc biệt
là văn tả cảnh.Tôi đã áp dụng một số phương pháp và thấy có những kết quả
đáng mừng. Kinh nghiệm này được áp dụng và đã mang lại hiệu quả cao trong
dạy Tập làm văn. Năm học 2017- 2018, tôi mạnh dạn đề xuất một vài biện pháp
nhỏ “ Biện pháp nâng cao kĩ năng làm văn trong bài văn tả cảnh cho học
sinh lớp 5B trường Tiểu học Hóa Quỳ ”, để nghiên cứu với hi vọng gúp phần
nâng cao trình độ của bản thân và nâng cao chất lượng dạy- học văn tả cảnh lớp
5B nói riêng và nâng cao chất lượng giáo dục nói chung.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Tôi mạnh danh đưa sáng kiến của mình: " Biện pháp nâng cao kĩ năng
làm văn trong bài văn tả cảnh cho học sinh lớp 5B trường Tiểu học Hóa
Quỳ"
Giúp học sinh lớp 5B
- Hiểu được đặc điểm của thể loại văn tả cảnh, trọng tâm miêu tả của từng
bài.
- Biết những ưu điểm và hạn chế của mình trong viết văn và có biện pháp
tốt cho việc học viết văn của mình.
- Rèn kĩ năng quan sát, tìm ý, lập dàn ý, biết sử dụng sơ đồ tư duy để lập
dàn ý, viết bài.
- Rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu, viết đoạn, liên kết đoạn, diễn đạt lưu loát,
2



mạch lạc.
- Rèn kĩ năng viết các đoạn văn, bài văn giàu hình ảnh, cảm xúc.
- Bồi dưỡng tình cảm yêu mến, gắn bó, biết trân trọng những cảnh vật
xung quanh các em.
- Có cách nhìn sự vật theo hướng tích cực, ham thích quan sát, tìm tòi
khám phá.
- Có tiền đề tốt để học viết văn miêu tả ở các lớp sau…
- Yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu cuộc sống tươi đep có ý thức và
việc làm cho cảnh đẹp càng đẹp hơn.
Giúp giáo viên:
- Nhìn nhận lại sâu sắc hơn việc dạy văn tả cảnh cho học sinh lớp 5 để vận
dụng phương pháp, biện pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách linh hoạt.
- Tự tìm tòi, nâng cao tay nghề, đúc rút kinh nghiệm trong giảng dạy TLV
nói chung và trong dạy học sinh viết văn tả cảnh nói riêng.
- Nâng cao khả năng nghiên cứu khoa học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1. Khách thể nghiên cứu: - Học sinh lớp 5B trường Tiểu học Hóa Quỳ
2. Đối tượng nghiên cứu: - Biện pháp nâng cao kĩ năng làm văn trong
bài văn tả cảnh cho học sinh lớp 5B trường Tiểu học Hóa Quỳ
1.4. Phương pháp nghiên cứu
“Biện pháp nâng cao kĩ năng làm văn trong bài văn tả cảnh cho học
sinh lớp 5B trường Tiểu học Hóa Quỳ”
- Phương pháp nghiên cứu lí luận:
- Đọc tài liệu liên quan đến đề tài
- Nghiên cứu nội dung chương trình TLV 5, mạch kiến thức Dạy viết văn
tả cảnh.
- Phương pháp quan sát sư phạm:
- Điều tra thực trạng qua từng giai đoạn trong suốt năm học, trao đổi với
giáo viên và học sinh, tìm hiểu thực tế việc dạy- học phân môn TLV trong

trường Tiểu học.
- So sánh đối chứng trong cùng một giai đoạn giữa lớp này với lớp kia,
giữa các giai đoạn với nhau trong cùng một lớp, đối chứng cả với những năm
học trước.
- Quan sát tinh thần, thái độ, ý thức học TLV của học sinh lớp dạy thực
nghiệm và học sinh lớp khác trong khi đi dự giờ, quan sát phương pháp sư phạm
của giáo viên giảng dạy, quan sát chất lượng bài viết của học sinh ở từng dạng
miêu tả khác nhau để tìm hiểu những tác nhân trực tiếp ảnh hưởng đến chất
lượng viết văn miêu tả của học sinh.
- Ứng dụng sơ đồ tư duy
- Sử dụng sơ đồ tư duy trong một số phần để hướng dẫn học sinh quan sát,
viết mở bài, lập dàn ý cho bài văn tả cảnh.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:
3


- Tiến hành đồng thời với phương pháp kiểm tra toán học và phương pháp
tổng hợp số liệu thống kê. Khi kiểm tra đánh giá chất lượng bài văn miêu tả của
từng học sinh, tôi mô tả và thống kê chất lượng ấy bằng những số liệu cụ thể,
sau đó tổng hợp các số liệu đã thu được nhằm rút ra kinh nghiệm giảng dạy cho
bản thân.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
Rèn kĩ năng làm văn tả cảnh, gắn lí thuyết với thực hành là vô cùng cần
thiết giúp học sinh đưa được những rung cảm thực sự từ thực tế cuộc sống vào
trong mỗi bài văn. Học sinh có được các kĩ năng sau:
- Quan sát, ghi chép
- Kĩ năng tưởng tượng
- Kĩ năng so sánh
- Kĩ năng nhận xét
- Kĩ năng cảm nhận, chia sẽ với bạn.

- Kĩ năng tác động trở ngược đối với cảnh
- Kĩ năng trình bày sáng tạo, linh hoạt.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận
Tiếp tục thực hiện nghị quyết số 29,Nghị quyết Trung ương về "Đổi mới
căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo" là để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hộ chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế,phát triển nguồn nhân lực của đất nước. Đổi mới căn bản toàn diện
giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi và cấp thiết... Chuyển
mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu sang trang bị kiến thức sang phát triển toàn
diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lí luận gắn với thực
tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và xã hội..
Tả cảnh là gợi tả những bức tranh về thiên nhiên hay cảnh sinh hoạt gợi tả
trước mắt người đọc về đặc điểm từng nét riêng của cảnh. Văn tả cảnh là loại
văn dùng lời với những hình ảnh, cảm xúc làm cho người đọc, người nghe có
thể hình dung được rõ nét và cụ thể về một cảnh vật nào đó xung quanh ta.Như
vậy văn tả cảnh có thể xem là một văn bản nghệ thuật có sử dụng ngôn ngữ văn
chương để miêu tả sự vật hiện tượng một cách cụ thể sinh động. Bất kì hiện
tượng nào trong thực tế đời sống cũng có thể miêu tả được, tuy nhiên bằng
những cảm xúc khác nhau của mỗi người, mỗi hiện tượng lại được lại được
miêu tả với cách thể hiện riêng qua việc quan sát, sử dụng từ ngữ và cách diễn
đạt khác nhau.
Đối tượng của bài văn tả cảnh là những cảnh vật quen thuộc xung quanh
ta như dòng sông, cánh đồng, hàng cây...Khi viết bài văn tả cảnh cần đặc biệt tập
trung vào những nét tiêu biểu của cảnh vật đó. Để bài văn được sinh động và
hấp dẫn hơn với người đọc ta có thể lồng vào đó việc tả người, tả vật với những
cung bậc cảm xúc khác nhau.
Ngôn ngữ trong văn miêu tả cần chính xác, cụ thể, giàu hình ảnh và có nét
riêng biệt. Chính vì thể để có bài văn hay đòi hỏi người viết phải có hiểu biết về
4



phương pháp làm văn, phải biết dùng từ ngữ, biết vận dụng linh hoạt các biện
pháp nghệ thuật tu từ được học.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Sách giáo khoa.
Sách giáo khoa có 19 tiết tả cảnh, trong đó có 13 tiết lý thuyết kết hợp
thực hành, còn lại là kiểm tra và trả bài. Nội dung tả cảnh tập trung vào các
cảnh: Một buổi trong ngày, một hiện tượng thiên nhiên, trường học, cảnh sông
nước.
Học sinh
Học sinh chưa biết bộc lộ cảm xúc và sử dụng các biện pháp nghệ thuật
khi tả cảnh khiến bài viết thiếu hình ảnh, khô khan,… Học sinh chưa có hứng
thú viết văn đặc biệt là văn miêu tả. Học sinh không có thói quen sử dụng các
biện pháp so sánh, nhân hóa khi viết văn. Khi làm văn, học sinh miêu tả hời hợt,
chung chung,vốn từ còn nghèo nàn, bài văn trở thành một bảng liệt kê các đối
tượng miêu tả, không làm nổi bật được cảnh đang tả. Bài văn học sinh làm
thường vay mượn ý tình của người khác, các em thường sao chép những bài văn
mẫu thành bài văn của mình không kể đầu bài quy định như thế nào. Với cách
làm ấy các em không cần biết đối tượng cần miêu tả gì, không chú ý tới đặc
điểm nổi bật tạo nên nét riêng của cảnh, cũng như không có cảm xúc về nó. Học
sinh chưa có ý thức quan sát đối tượng miêu tả và ghi chép những điều quan sát
được một cách cụ thể và chi tiết chính vì vậy mà các em còn lơ mơ về đối tượng
miêu tả nên tả còn nhiều chi tiết khập khiễng, lủng củng không gắn kết với nhau.
Học sinh tiểu học vốn sống, vốn kiến thức và những rung cảm trước cái đẹp còn
hạn chế nên chưa thổi được vào cảnh cái hồn để cảnh miêu tả trở nên sinh động,
ấn tượng hơn. Học sinh chưa có phương pháp làm văn cụ thể, việc tiếp thu kiến
thức làm văn đến vận dụng kiến thức đó chưa chủ động và linh hoạt. Kĩ năng
vận dụng các từ ngữ gợi hình, gợi tả và các biện pháp nghệ thuật tu từ còn lúng
túng.

Giáo viên:
Giáo viên chỉ có một con đường duy nhất là hình thành các hiểu biết về lí
thuyết, thể loại văn, kĩ năng làm văn... Đó là qua phân tích các bài văn mẫu với
lý thuyết khô khan, khó hiểu. Giáo viên chưa chủ động, sáng tạo trong dạy học,
chưa gây hứng thú cho học sinh khi học văn, chưa có những câu văn chân thực,
gần gũi,… Đặc biệt, khi học sinh đưa ra một câu văn dùng từ chưa chuẩn hay
thiếu hình ảnh, chưa hợp lí, …chưa chỉnh sửa kịp thời và không làm bật được
cái hạn chế và thay thế ngay câu văn có nghĩa, đúng ngữ pháp, giàu hình ảnh để
học sinh có thể thổi hồn, làm cầu nối nâng tình yêu văn học cho các em. Một số
giáo viên còn mắc bệnh thành tích trong dạy học. Để đối phó với việc học sinh
làm kém và đảm bảo “chất lượng” khi kiểm tra, thi cử... nhiều cô giáo, thầy giáo
cho học sinh học thuộc (làm sẵn) một số bài văn mẫu để các em khi gặp đầu bài
tương tự cứ thế mà chép ra làm cho các em lệ thuộc vào bài mẫu, không có sáng
tạo trong làm bài. Ra đề bài chưa thích hợp với học sinh theo từng vùng miền,
địa phương. Khiến học sinh vô cùng lúng túng khi tả cảnh.
5


Ví dụ: Đề bài yêu cầu tả cảnh biển lúc bình minh, thực tế học sinh chưa
được nhìn thấy hay được quan sát biển bao giờ.
Giáo viên không thực hiện đúng các yêu cầu khi trả bài viết của học sinh,
không giúp các em nhận thấy được những lỗi sai của mình khi làm bài để có sự
chỉnh sửa rút kinh nghiệm cho bài làm sau. Đây không phải là vấn đề có thể giải
quyết được trong một tiết, một tuần, … mà là cả một quá trình dạy Tập làm văn
bởi dạng văn tả cảnh là sự kết hợp của nhiều thể loại văn các em đã học và còn
cần có cách nhìn, cách nghĩ, cách sáng tạo mới. Chính vì một số nguyên nhân
trên tôi đã khảo sát chất lượng làm văn của học sinh hai lớp: 5B (thực nghiệm)
và lớp 5A (đối chứng) và để làm cơ sở kiểm chứng thực nghiệm sau này.
- Kết quả thu được như sau :
Tổng

Điểm 9-10
Điểm 5-8
Điểm dưới 5
Lớp
số HS
Mức độ ĐĐ (T)
Mức ĐĐ (H)
Mức ĐĐ (C)
SL

TL%

SL

TL%

SL

TL%

5B

22

1

4,5%

10


45,5%

11

50%

5A

28

2

7%

12

43%

14

50%

Từ kết quả trên tôi thấy chất lượng học sinh hai lớp mức độ hoàn thành
tốt, hoàn thành và chưa hoàn thành gần tương đương nhau, tôi quyết định lựa
chọn một số giải pháp để ứng dụng, thực nghiệm mong muốn có kết quả tốt để
cải tiến cách dạy, cách học cho cá nhân và học sinh và có thể là giải pháp cho
đồng nghiệp.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Cung cấp cho học sinh phương pháp làm văn miêu tả nói chung
và tả cảnh nói riêng.

+ Bước 1: Tìm hiểu đề
+ Bước 2: Quan sát tìm ý
+ Bước 3: Sắp xếp ý (lập dàn ý)
+ Bước 4: Viết bài hoàn chỉnh
+ Bước 5: Kiểm tra lại bài.
* Bước 1: Tìm hiểu đề:
+ Đọc kĩ đề.
+ Phân tích đề.
Gạch 1 gạch dưới các từ xác định thể loại bài văn.
Gạch 2 gạch dưới từ xác định đối tượng miêu tả.
Đề bài: Hãy miêu tả vẻ đẹp của một dòng sông mà em yêu thích (ấn
tượng).
* Bước 2: Bước quan sát và tìm ý
- Cách thực hiện.
* Luyện kĩ năng quan sát:
6


 Quan sát theo không gian (Vị trí)
Xa, gần, trên, dưới, trong, ngoài, trái, phải, phía trước, phía sau, …
 Hoặc quan sát theo thời gian (Thời điểm)
Sáng, trưa, chiều, tối, các mùa trong năm, thời tiết, ….
Ví dụ: Cách quan sát dòng sông quê.

Ví dụ : Dòng sông được quan sát gắn theo trình tự thời gian (thân bài).

+ Khi quan sát học sinh phải nhìn ngắm cảnh trước mặt.
7



+ Học sinh phải quan sát nhiều lần, quan sát tỉ mỉ ở nhiều góc độ, nhiều
khía cạnh ở thời gian, địa điểm khác nhau.
+ Khi quan sát học sinh phải tìm ra những nét chính, trọng tâm của cảnh,
sẵn sang bỏ đi những nét thừa không cần thiết (Cho nên học sinh không cần điền
tất cả các ô gợi ý trên).
+ Học sinh cần phải tìm được nét tiêu biểu, đặc sắc của cảnh. Phải bộc lộ
cảm xúc hứng thú say mê của mình trước đối tượng quan sát.
+ Học sinh phải tìm được những từ ngữ chính xác, những câu văn ngắn
ngọn để ghi lại những gì quan sát được.
* Bước 3. Sắp xếp ý và lập dàn ý
Ví dụ: Với bài tả khu vườn vào buổi sáng, ta nên chọn trình tự không gian.
+ Trước cửa vườn + Giữa vườn:+ Góc vườn bên trái:+ Góc vườn
bên phải: + Cuối vườn:...
Tuy nhiên, ta vẫn có thể chọn trình tự thời gian:
+ Khoảng trời phía đông ửng hồng+ Mặt trời bắt đầu nhô lên sau rặng tre.
+ Khi ánh nắng ban mai bắt đầu toả xuống...+ Mặt trời lên cao.
Ví dụ: Với bài tả dòng sông chọn trình tự miêu tả là thời gian.
+ Sáng:+ Trưa:+ Chiều :+ Tối:
Ta cũng có thể chọn trình tự không gian như:
+ Nhìn từ xa:+ Trên mặt sông: + Bờ bên trái:+ Bờ bên phải:+
Bến sông:
Dàn ý chung cho bài văn tả cảnh.

8


Dàn ý này cũng chính là cái sườn sát nhất cho học sinh viết thành bài văn
cụ thể.
Ví dụ:
Với bài văn tả dòng sông, ta có thể xây dựng 2 dàn ý chi tiết :

+ Dàn ý tả dòng sông theo trình tự thời gian(Phần thân bài), có thể như sau:
Sáng trưa chiều tối xuân hạ thu đông, …
+ Quan sát theo không gian (Vị trí)
Xa gần trên dưới trong ngoài bên trái bên phải
đằng
sau đằng trước…
Tuy nhiên, tùy vào nội dung và khả năng mà các em có thể điều chỉnh
thêm, bớt số đoạn cho phù hợp.
 Bước 4: Tạo bài văn
Dùng từ.
­ Dùng từ phải đảm bảo độ chính xác, đồng thời biểu hiện được tư tưởng,
tình cảm một cách rõ ràng.
­ Phải tuân thủ các tiêu chuẩn chính tả
­ Dùng từ gợi cảm, gợi tả: Thường là các từ đơn, từ ghép, từ láy, động từ
­ Dùng từ giàu hình ảnh, âm thanh: Thường là các từ láy, từ tượng hình,
từ tượng thanh...
­ Sử dụng từ gần nghĩa, từ trái nghĩa, từ đồng nghĩa, các biện pháp tu từ
về từ
Ví dụ :
+ Dùng từ chính xác : Mặt trăng tròn toả ánh sáng xuống vạn vật.
+ Dựng từ có hình ảnh: Mặt trăng tròn vành vạnh toả ánh sáng vằng vặc
xuống vạn vật.
+ Dùng từ trái nghĩa : Vào mùa nước lũ, dòng sông không hiền hoà chút
nào.
+ Dùng cụm từ so sánh: Ánh trăng lồng qua kẽ lá như ngàn vạn con đom
đóm đang lập loè sáng.
Đặt câu.
+ Trong khi làm văn, học sinh phải viết câu văn đúng ngữ pháp nghĩa là
bản than em đó phải xác định được đâu là chủ ngữ, đâu là vị ngữ, đâu là các vế
trong câu ghép.

+ Các em phải biết sử dụng các phép liên kết câu như: Phép lặp, phép thế,
phép nối, phép liên tưởng,..., biết sử dụng các biện pháp tu từ về câu(câu hỏi tu
từ, đảo ngữ, điệp ngữ, so sánh, nhân hoá...).
Ví dụ:
­ Phép liên kết câu:
Mưa xuân lất phất bay. Cây cối thi nhau đâm chồi nảy lộc, đưa tay đón
những hạt mưa xuân. Với chúng, mưa xuân chính là liều thuốc tiên để sinh tồn
9


và phát triển.
- Phép lặp:
Dòng sông như dài lụa đào mềm mại. Nó cứ chảy mãi, chảy mãi để mang
phù sa màu mỡ cho đất đai.
­ Biện pháp tu từ ( thường dùng)
+ Câu hỏi tu từ: - Bạn có biết cảnh đẹp mà người dân quê em rất đỗi
tự hào là cảnh gì không? Đó chính là thác nước Đồng Quan quanh năm tung
bọt trắng xóa đấy!
+ So sánh : Mặt trời như quả bóng tròn, đỏ hồng treo lơ lửng trên bầu
trời.
+ Nhân hoá : Nàng Xuân xinh đẹp mang những sắc màu lộng lẫy khoác
lên cỏ cây, hoa lá.
­ Câu văn tả là câu văn phối hợp nhiều yếu tố (Các kiểu câu, các loại câu,
các biện pháp tu từ về câu, các từ gợi tả, gợi cảm) để người đọc, người nghe có
thể cảm thấy được hình ảnh, màu sắc, âm thanh, cảm xúc ... của cảnh đó.
Dựng đoạn
c1. Cách trình bày đoạn văn
- Cách trình bày một đoạn văn thường là diễn dịch, quy nạp, song hành,
móc xích, tổng phân hợp, diễn dịch.
+ Câu mở đoạn nêu nhận xét đánh giá chung về đối tượng tả

trong đoạn, các câu còn lại tả chi tiết đối tượng đó.
+ Ví dụ: Ôi, bầu trời đêm mới đẹp làm sao! Mặt trăng tròn, to như quả
bóng vàng treo lơ lửng trên bầu trời mờ đục, cao thăm thẳm.
Trong các mô hình cấu trúc một đoạn văn trên thì cấu trúc tổng- phân
-hợp là tiêu biểu nhất đối với học sinh tiểu học.
- (Mở bài- thân bài- kết bài) và cấu trúc của đoạn văn (Câu mở đoạnphần trung tâm - câu kết đoạn). Mặt khác trong chương trình sách giáo khoa lớp
4, lớp 5 có rất nhiều bài tập yêu cầu học sinh viết một đoạn văn.
- Khi viết một đoạn văn đứng độc lập thì chọn cấu trúc Tổng - phân- hợp
là hợp lí hơn cả.
c2. Liên kết đoạn văn.
+ Dùng từ để liên kết đoạn:
Chỉ trình tự, bổ sung: Buổi sáng, buổi trưa, khi mùa xuân về, …trước hết,
cuối cùng, ngoài ra, thêm vào đó,...
Chỉ ý nghĩa tổng kết, khái quát: Tóm lại, nói tóm lại, nhìn chung,...
Chỉ ý đối lập, tương phản: Ngược lại, trái lại, nhưng, thế mà, tuy vậy,...
Từ ngữ thay thế: Do đó, do vậy, vì thế, cho nên,...
+ Dùng câu:
Dùng câu nối với phần trước của văn bản.
Dùng câu nối với phần sau của văn bảm.
Dùng câu nối phân trước và phần sau của văn bản.
c3. Quan hệ giữa đoạn văn với đoạn văn.
- Để tạo ra sự lôgic trong diễn đạt thì học sinh có thể dựa vào quan hệ
10


không gian, quan hệ thời gian, quan hệ đặc điểm (với dạng bài tả cảnh thì
thường dùng quan hệ không gian, quan hệ thời gian)
- Ngoài ra quan hệ giữa các đoạn văn có thể là quan hệ giữa ý chính và ý
diễn giải, giữa ý cụ thể với ý tổng kết...
 Bước 5: Kiểm tra lại toàn bộ bài văn.

+ Đọc đi đọc lại bài văn
+ Tìm lỗi sai hoặc chưa hay về dàn bài, dùng từ, đặt câu, dựng đoạn.
+ Sửa lại cho đúng, cho hay.
Các em có thể tự làm một mình hoặc cùng bạn kiểm tra để đặt ra câu hỏi
và tự trả lời như:
+ Mở bài, thân bài, kết bài đã đủ bố cục chưa?
+ Nên thêm hay bớt chỗ nào? thay thế từ nào cho phù hợp? Có lạc ý
không?...
+ Bài văn, đoạn văn có đủ bố cục chưa?
+ Mình đã dùng nhiều từ láy, từ gợi tả chưa?
+ Những câu nào sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa?
+ Có lỗi chính tả không?
+ Câu có đủ thành phần chưa? Câu nào cần bổ sung trạng ngữ?
+ Cách trình bày đoạn đã phù hợp chưa?
Giáo viên:
+ Thu bài, chấm, đọc ghi lại những lỗi cụ thể, ghi câu văn hay, ý hay,
đoạn văn giàu hình ảnh, dùng từ khéo léo … thống kê vào bài soạn tiết trả bài,
có khi đưa vào cuốn sổ tích lũy cho những năm sau.
+ Tìm cách sửa lỗi cho học sinh.
+ Cho học sinh đọc lại bài nếu cần, yêu cầu học sinh đó và các bạn tìm lỗi
giúp bạn sửa và xem ai có cách sửa hay nhất.
+ Giáo viên dùng câu hỏi gợi mở dẫn dắt để học sinh tự phát hiện ra lỗi
sai và sửa lỗi. Hướng dẫn chữa lỗi từ đơn giản đến phức tạp.
2.3.2. Hướng dẫn học sinh một số thủ pháp làm văn tả cảnh
* Chọn đối tượng tả.
Bước1. Giáo viên cho học sinh xác định chính xác đối tượng chung trong
đề bài.
Bước 2. Liệt kê ra một số đối tượng cụ thể thuộc yêu cầu của đề bài.
Bước 3. Kiểm tra những hiểu biết của mình về các đối tượng cụ thể đó.
Bước 4. Dự đoán những thuận lợi, khó khăn khi quan sát, sắp xếp ý, trình

tự tả, sử dụng ngôn từ khi miêu tả với các đối tượng được liệt kê.
Bước 5. Dựa vào bước 3, bước 4, đối tượng nào nhiều ưu điểm hơn thì
quyết định chọn đối tượng đó.
* Xây dựng mở bài trong bài văn tả cảnh
Để học sinh làm tốt phần mở bài giáo viên cần cho học sinh hiểu thế nào
là mở bài trực tiếp, gián tiếp, ưu nhược điểm của từng loại.
. Mở bài trực tiếp là giới thiệu ngay với người đọc cảnh mà mình sẽ
miêu tả.
11


Ưu điểm: Cách trình bày nhanh gọn, tự nhiên, giản dị, dễ tiếp nhận và
thích hợp với bài viết ngắn.
Nhược điểm: Nếu mở bài không khéo sẽ gây cảm giác khô khan, ít hấp
dẫn.
Với kiểu mở bài này giáo viên có thể hướng dẫn học sinh cách vào bài
trực tiếp như sau:
+ Mở bài bằng một câu cảm nhận xét, đánh giá về cảnh.
Ví dụ : Ôi,Buổi sáng trên hương em mới đẹp làm sao !
+ Mở bài bằng cách nêu cảnh miêu tả và vị trí hoặc thời gian quan sát
cảnh.
Ví dụ: Chủ nhật tuần trước em cùng các bạn trong lớp đi tham quan khu
thác Đồng Quan, cảnh ở đây thật là đẹp.
Mở bài gián tiếp là nói chuyện khác có liên quan rồi dẫn vào giới thiệu
đối tượng mình định tả. Có một số cách mở bài gián tiếp như:
+ Mở bài bằng một âm thanh
+ Một câu nói
+ Một cách so sánh
+ Một lời đối thoại.
+ Trích dẫn câu văn, câu thơ, câu đố, câu hát… về đối tượng.

Giáo viên cần khuyến khích học sinh mở bài theo cách gián tiếp (đặc biệt
học sinh hoàn thành tốt). Vì mở bài gián tiếp sẽ làm cho bài văn thêm sinh động,
gợi cảm hấp dẫn gây hứng thú cho người đọc. Tuy vậy nếu mở bài không khéo
sẽ lan man,vòng vèo, phân tán sự chú ý của người đọc.
Tuỳ theo từng đối tượng mà ta lựa chọn cách mở bài gián tiếp cho phù hợp.

12


Cách mở bài
gián tiếp

Ví dụ

Mở bài bằng
một so sánh:

Quê hương em có rất nhiều cảnh đẹp. Cánh đồng lúa chín vàng
thẳng cánh cò bay, triền đê xanh mượt cỏ với những buổi chiều
hè đá bóng, thả diều. Nhưng cảnh đẹp nên thơ và là niềm tự hào nhất
của người dân quê em chính là khu sinh thái thác Đồng Quan .

+ Mở bài bằng
một âm thanh

“ Quê hương là chùm khế ngọt cho con trèo hái mỗi ngày. Quê hương
là đường đi học...”. Đang vui chơi cùng mấy bạn trong xóm trên sân
khiến chúng tôi dừng lại chạy ùa ra hội trường thôn thì ra là cô Oanh
một người giỏi ca hát đang tập văn nghệ đó.


+ Một câu nói

“ Ôi ! Sao trời tối thế nhỉ !” Ngước mắt lên trời, em bỗng thấy
mây đen ở đâu ùn ùn kéo đến. Gió thổi mạnh làm bụi bay mù
mịt. Trời chuẩn bị mưa rồi đấy.

+ Trích dẫn
câu văn, câu
thơ, câu hát
…về đối
tượng.

- Quê hương ai cũng có một dòng sông bên nhà. Con sông
quê gắn bó với tuổi thơ đời tôi…” . Đó là lời bài hát rất hay.
Đúng vậy, quê hương em cũng có một dòng sông hiền hòa và
thơ mộng. Mỗi khi nhắc đến con sông quê hương, lòng em lại
xốn xang một tình yêu quê hương tha thiết. ( tả dòng sông)
“ Én có gì lạ, báo mùa xuân sang
Nắng có gì lạ, mà cánh hoa hồng tươi”
Em đang nhẩm lại lời của bài hát vừa phát trên ti vi về mùa xuân.Nhìn
qua khung cửa sổ, thật kì diệu, Ôi! khu vườn nhàem đã thực sự bước
vào xuân rồi. (Khu vườn mùa xuân)
“ Em đi giữa biển vàng nghe mênh mang trên đồng lúa hát,….” Vừa
chân sáo tung tăng em vừa nhẩm câu hát rồi lại tự nhủ cánh đồng quê
em cũng thật đẹp chẳng kém gì cánh đồng trong lời ca vậy. Phải
chăng lời bài hát đang giới thiệu về
cánh đồng quê em? ( Tả cánh đồng lúa chín)

Để học sinh có cảm xúc, có “ cảm tình” với đối tượng miêu tả, có hứng
thú khi làm bài, giáo viên chỉnh sửa lại đề bài theo hướng gợi mở cho học sinh

để nếu các em có lúng túng trong việc vào bài thì có thể dựa vào đó mà viết.
Ví dụ: Với đề bài Tả một cơn mưa (Trang 44- SGK Tiếng Việt 5), giáo
viên có thể diễn đạt bằng cách như sau:
Đề bài:
Bầu trời bỗng tối sầm lại, mây đen từ đâu ùn ùn kéo đến. Gió rít từng
13


cơn, bụi bay mù mịt, cây cối nghiêng ngả…báo hiệu một cơn mưa sắp đến. Em
hãy tả lại cơn mưa ấy.
Như vậy với cách ra đề trên tôi đã đưa ra được gợi ý cho một cách mở bài.
Có thể làm như sau: Tôi đang chơi vui cùng các bạn trong xóm thấy bầu trời
bỗng tối sầm lại, mây đen từ đâu ùn ùn kéo đến. Gió rít từng cơn, bụi bay mù
mịt, cây cối nghiêng ngả… Chúng tôi chạy vội vào nhà thì ra mưa đến.
Xây dựng phần thân bài khi miêu tả cảnh.
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh:
+ Bám sát dàn bài chi tiết.
+ Dùng từ gợi tả, gợi cảm và các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa.
+ Dùng từ đặt câu có liên kết và các biện pháp tu từ về câu.
+ Đoạn văn trình bày đúng cách có liên kết đoạn.
+ Sử dụng đúng các dấu câu.
* Xây dựng kết bài văn tả cảnh
+ Kết bài không mở rộng thường được đóng ý một cách gọn đủ các ý:
­ Nhận xét, đánh giá về cảnh
Hoặc : -Tình cảm đối với cảnh.
­ Hành động : Chăm sóc, bảo vệ,...
Các ý trên có thể được sắp xếp ở các vị trí khác nhau để cho các kết bài
khác nhau
Ví dụ: Khi kết bài văn tả khu vườn vào buổi sáng học sinh nêu được các
ý:

­ 1. Nhận xét, đánh giá: Khu vườn thật đẹp!
­ 2. Tình cảm : Yêu quý và luôn cảm thấy thích thú khi ngắm khu vườn.
­ 3. Hành động : chăm sóc, bảo vệ cây cối
Với 3 ý trên học sinh có thể viết được các kiểu kết bài chung đảo trật tự
như sau:
Khu vườn thật đẹp. Được ngắm nhìn nó em thấy rất thích thú và thoải
mái. Em sẽ chăm sóc cho cây cối ở đây luôn tươi tốt.
Hoặc: + Được ngắm nhìn khu vườn em rất thích thú trước vẻ đẹp của nó.
Em sẽ chăm sóc cho cây cối ở đây luôn tươi tốt.
Hoặc : + Chăm sóc và bảo vệ cây cối ở đây để khu vườn ngày thêm đẹp
là niền vuicủa em.
+ Kiểu kết bài mở rộng : Khi viết kết bài mở rộng học sinh vẫn đưa 3 ý
suy nghĩ, tình cảm, hành động như mở bài không mở rộng nhưng diễn đạt mở
rộng bằng cách:
- Nêu ra câu hỏi
- Nêu một ý mới lạ.
- Đưa ra một lời bình.
Bài 1
“Đây con sông như dòng sữa mẹ
Nước về xanh ruộng lúa, vườn cây”
“Và ăm ắp như lòng ngýời mẹ
14


Chở tình thương trang trải đêm ngày”
(Vàm Cỏ Đông – Hoàng Vũ )
Đọc đoạn thơ trên, em cảm nhận được vẻ đẹp đáng quý của dòng sông
quê hương như thế nào ?
Gợi ý: Bằng biện pháp so sánh, tác giả Hoàng Vũ đã bộc lộ được vẻ đẹp
đáng quý của con sông quê hương. Điều đó được thể hiện : Con sông ngày đêm

hiền hoà,cần mẫn đưa nước vào đồng ruộng để mang phù sa màu mỡ đến cho
ruộng lúa,vườn cây thêm tốt tươi như người mẹ hiền mang dòng sữa mát lành
đến cho con thơ:
“Đây con sông như dòng sữa mẹ
Nước về xanh ruộng lúa, vườn cây”
Và con sông cũng như lòng người mẹ, luôn chan chứa tình yêu thương,
luôn sẵn
sàng chia sẻ, lo lắng cho con, cho tất cả mọi người:
“Và ăm ắp như lòng người mẹ
Chở tình thương trang trải đêm ngày”
Vẻ đẹp ấm áp đó càng làm cho ta càng thêm yêu quý con sông quê hương,
dòng sông đẹp hữu ích biết nhường nào.
2.3.3. Cung cấp, khuyến khích học sinh tích lũy vốn từ ngữ, khi học,
đọc các bài văn, thơ về tả cảnh. Cung cấp vốn sống, vốn hiểu biết về cảnh.
Cung cấp và khuyến khích học sinh tích luỹ vốn từ ngữ khi học, đọc các
bài văn, thơ về cảnh.
Bài tập 6. Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi.
‘‘Cảnh hừng đông mặt biển nguy nga rực rỡ. Phía hai bên, những đám
mây trắng hồng hầu như dựng đứng, hơi ngả xô về phía trước. Tất cả đều mời
mọc lên đường. Xa xa, mấy chiếc thuyền nữa cũng đang chạy ra khơi, cánh
buồm lòng vút cong thon thả. Mảnh buồm nhỏ xíu phía sau nom như một con
chim đang đỗ sau lái, cổ rướn cao sắp cất lên tiếng hót’’.
a, Đoạn văn miêu tả cảnh gì ?
b, Tác giả miêu tả theo trình tự nào ?
Mục đích bài tập : Giúp học sinh nhận biết đoạn văn tả cảnh, trọng tâm
miêu tả.
Nắm được trình tự miêu tả trong bài văn tả cảnh.
* Đáp án
a, Đoạn văn miêu tả cảnh hừng đông mặt biển.
b, Trong đoạn văn trên tác giả miêu tả theo trình tự không gian.

2.3.4. Các bài tập bổ trợ rèn kĩ năng sử dụng từ ngữ
Một số kiểu bài tập
Bài 1. Tìm các từ ghép, từ láy chỉ về:
a. Độ rộng
b. Độ cao
c. Độ sáng
d. Màu sắc của cây cối.
15


Đáp án:
a. Độ rộng : Thênh thang, mênh mông, rộng rãi, bao la , bát ngát...
b. Độ cao : Vời vợi, chót vót, vun vút...
c. Độ sáng: lung linh, lấp lánh, long lanh, loang loáng, rực rỡ, lập loè…
d. Màu sắc của cây cối: Xanh rờn, xanh mơn mởn, vàng rực, đỏ thắm,
xanh biêng biếc, xanh non, …
Bài 2. Điền từ láy thích hợp vào chỗ chấm:
a, Cánh đồng lúa như tấm thảm vàng khổng lồ… trong gió.
b, Những giọt sương… đọng trên cánh hồng đỏ thắm,….
c, Mặt trăng tròn đang … trên bầu trời…
d, Những tàu lá chuối … trong gió.
+ Đáp án:
a, Cánh đồng lúa như tấm thảm vàng khổng lồ dập dìu trong gió.
b, Những giọt sương long lanh ( lấp lánh) đọng trên cánh hồng đỏ thắm,
mịn màng
c, Mặt trăng tròn đang lơ lửng trên bầu trời thăm thẳm.
d, Những tàu lá chuối phần phật trong gió.
Bài 2. Thay các từ được gạch chân bằng các từ ngữ gợi tả, gợi cảm.
a. Mặt trời chiếu những tia nắng vàng xuống mặt đất.
b. Mưa rơi xuống mái tôn, chảy xuống sân gạch, rơi vào bụi cây.

c. Tiếng sấm sét vang lên kèm theo ánh chớp sáng ngang bầu trời.
+ Đáp án:
a. Mặt trời rải những tia nắng chói chang xuống mặt đất.
b. Mưa nhảy nhót xuống mái tôn, ngã soài xuống sân gạch, lao vào bụi
cây.
c. Tiếng sấm sét ì ùng kèm theo ánh chớp loang loáng, rạch ngang bầu
trời.
2.3.5. Bài tập rèn kĩ năng viết câu có hình ảnh.
Hãy lựa chọn từ láy thích hợp để điền vào chỗ trống trong đoạn văn sau.
Ví dụ:
Bài 1. Mở rộng thành phần câu để được câu văn có hình ảnh hơn.
a. Mây trôi.
b. Gió thổi mạnh.
c. Cánh đồng lúa rất rộng.
d. Mặt trời mọc.
Đáp án :
a. Những đám mây trắng nhởn nhơ, dong chơi trên bầu trời rộng lớn.
b. Gió giận dữ, gầm gào, rít qua cành cây kẽ lá.
c. Cánh đồng lúa chín vàng trải rộng mêng mông.
d. Khi khoảng trời phía đông ửng sáng là lúc ông mặt trời đỏ ối, tròn như
quả bóng bắt đầu nhô lên sau rặng tre đầu làng.
Bài 2: Chuyển các câu kể sau thành câu tả có sử dụng biện pháp nhân hoá
hoặc so sánh.
16


- Chim hót trên cành.
- Cây đa đứng sừng sững ở đầu làng.
- Vào đêm trăng, dòng sông rất đẹp.
- Bụi chuối đung đưa trong gió.

Đáp án:
- Trên vòm lá xanh mướt, chim chóc chuyền cành, hát bài ca véo von
chào buổi sáng.
- Ông đa cổ thụ như người lính già trung thành đứng canh gác sự bình
yên cho dân làng.
- Vào đêm trăng, dòng sông đẹp như một bức tranh thuỷ mặc.
- Mẹ con nhà bác chuối lục dục rủ nhau dang những cánh tay to bản tập
thể dục.
2.3.6. Dạng bài tập cảm thụ cái hay, cái đẹp trong việc dùng từ và
biện pháp tu từ trong một số đoạn văn, đoạn thơ hay.
Ví dụ bài tập.
Cách sử dụng biện pháp tu từ, cách đặt câu…trong một vài trường hợp
đặc sắc để phân tích cái hay, sự sáng tạo của nhà văn khi dùng chúng.
Những tiết luyện từ và câu giáo viên có thể cho học sinh được mở rộng
vốn từ bằng các từ đồng nghĩa, trái nghĩa, các từ gợi tả, gợi cảm sau đó lựa chọn
chép vào sổ tay từ ngữ của mình
2.3.7. Bồi dưỡng cho học sinh vốn sống, vốn hiểu biết về cảnh
Ví dụ: - Học sinh không rõ sông ít nước vào mùa nào, nhiều nước vào
mùa nào, nước sông luôn ngầu đục hay có lúc đục, lúc trong, bờ có bên lở bên
bồi…
- Học sinh không nắm rõ được sự thay đổi của cảnh vật theo thời gian nên
khi tả có thể tả cây phượng vào mùa xuân có tán lá xum xuê, xanh mướt, cánh
đồng lúa chín vàng vào tháng hai, tháng ba …
+ Tích cực yêu cầu học sinh đi quan sát thực tế các cảnh vào các thời
điểm khác nhau, ở các vị trí khác nhau.
+ Bổ sung vốn kiến thức về cảnh qua các tiết tiếng việt có dữ liệu đưa ra
liên quan đến cảnh vật, qua tiết địa lý, khoa học…
+ Cho học sinh xem tổng quan về cảnh qua kênh thông tin truyền hình.
+ Thường xuyên bổ khuyết vốn sống của học sinh ở mọi nơi mọi lúc.
+ Hướng dẫn học sinh lập từ điển cá nhân về các cảnh vật được quan sát

và yêu thích.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Ở từng giai đoạn, từng tiết học cụ thể tôi thường áp dụng những phương
pháp dạy học phù hợp. Tiết học diễn ra thoải mái, nhẹ nhàng. Sau một thời gian
suy nghĩ và áp dụng những biện pháp trên dạy học trong thực tế tôi nhận thấy
các em có rất nhiều tiến bộ. Từ việc ngại viết văn các em đã hứng thú làm văn
biết thực hiện làm một bài văn miêu tả cảnh theo trình tự các bước một cách độc
lập và thành thóiquen tốt. Nhiều bài văn có chất lượng cao. Tình trạng học sinh
17


làm lạc đề, sai lỗi về chính tả, dùng từ đặt câu...đã giảm rõ rệt. Nhiều học sinh
biết cách sử dụng những biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa vào bài của mình làm
cho bài văn trở nên sinh động và giàu hình ảnh. Bên cạnh đó các em còn biết
làm văn có cảm xúc hơn,câu văn chau chuốt hơn, mở bài, kết bài khá ấn tượng
mới mẻ.... Ngoài ra học sinh còn thể hiện được cái tôi của mình một cách rõ
ràng, bộc bạch được cái tôi của mình một cách trọn vẹn, linh hoạt hơn trong giao
tiếp. Qua việc đi sâu nghiên cứu và vận dụng trực tiếp vào lớp 5B tôi đã thu
được một số kết quả đáng khích lệ. Để kiểm chứng phương pháp áp dụng trong
sáng kiến, kinh nghiệm của mình. Tôi đã tiến hành khảo sát thực nghiệm nhằm
đối chứng chất lượng giữa hai lớp 5B( lớp thực nghiệm) với lớp 5A (đối chứng).
Dưới đây là bảng tổng hợp kết quả khảo sát học sinh sau khi áp dụng được đối
chiếu so sánh của lớp 5B và lớp 5A (không áp dụng các biện pháp trên) năm học
2017 -2018.
Cụ thể:
Tổng
Điểm 9-10
Điểm 5-8
Điểm dưới 5

Lớp
số HS
Mức ĐĐ (T)
Mức ĐĐ (H)
Mức ĐĐ (C)
SL

TL%

SL

TL%

SL

TL%

5B

22

12

54,5%

10

45,5%

0


0%

5A

22

8

36 %

12

55 %

2

9%

- Sáng kiến kinh nghiệm "Biện pháp nâng cao kĩ năng làm văn trong
bài văn tả cảnh cho học sinh lớp 5B trường Tiểu học Hóa Quỳ" đã thực sự
mang lại hiệu quả cao chất lượng học sinh được nâng lên. Các em biết viết văn
miêu tả giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, các em biết đánh giá nhận xét lỗi trong bài
văn của bạn và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Học sinh rất hứng thú, ham thích học
tiết tập làm văn đặc biệt là dạng bài văn tả cảnh.
- Tôi mạnh dạn áp dụng giải pháp tích cực này vào lớp mình giảng dạy
được tổ khối ban giám hiệu nhà trường kiểm tra chất lượng học sinh đồng tình
ủng hộ đánh cao tính thiết thực của sáng kiến kinh nghiệm.
3. KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.

- Qua quá trình áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này, tôi nhận thấy để dạy
tốt thể loại văn miêu tả cảnh thì trước tiên giáo viên phải lưu ý một số vấn đề
sau:
- Hiểu rõ miêu tả là gì? Đặc biệt để tả cảnh cần quan sát kĩ, dùng các giác
quan quan sát và nhận xét cẩn thận, bằng trí óc tìm các chi tiết đặc biệt để làm
nổi bật đề bài.
- Khảo sát chất lượng học sinh làm văn một số dạng bài trước đó để nắm
tình hình học làm văn của các em.
- Lựa chọn phương pháp, hình thức phù hợp với lớp và phù hợp tới từng
18


nhóm đối tượng học sinh.
- Nghiên cứu bài thật kỹ trước khi lên lớp. Đối với mỗi thể loại văn miêu
tả nói chung, tả cảnh nói riêng và mỗi bài văn giáo viên cần đặc biệt lưu ý các
điểm sau:
+ Giúp học sinh nắm chắc phương pháp cơ bản nhất của văn miêu tả và
văn tả cảnh.
+ Hướng dẫn học sinh một số thủ pháp làm văn tả cảnh.
+ Xây dựng một số bài tập bổ trợ rèn kĩ năng sử dụng từ ngữ và các biện
pháp nghệ thuật tu từ.
+ Cung cấp, khuyến khích học sinh tích lũy vốn từ ngữ khi học, đọc, viết
các bài văn, thơ về tả cảnh. Cung cấp vốn sống, vốn hiểu biết về cảnh và bồi
dưỡng tâm hồn giàu cảm xúc của các em..
+ Tạo thói quen chăm chú nghe giảng, nắm vững kiểu bài, có kĩ năng
quan sát, tìm ý, tìm từ ngữ phù hợp, có bố cục rõ ràng,…
+ Kiểm tra, đánh giá, chỉnh sửa kịp thời thường xuyên, chuyển kết quả
đánh giá của giáo viên thành kĩ năng tự đánh giá của học sinh.
+ Tạo không khí sôi nổi, tôn trọng học sinh, khích lệ động viên khi các em
có sự cố gắng dù là đôi chút…

+ Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy để cung cấp cho
học sinh những hình ảnh sinh động về cảnh vật và đặc biệt là những cảnh đẹp
của đất nước mà các em ít có điều kiện biết đến.
+ Thực hiện quan điểm tích hợp trong dạy học đặc biệt là giáo dục môi
trường.
Qua việc áp dụng các biện pháp trên vào giảng dạy, tôi thấy hiệu quả đã
thể hiện rất rõ về chất lượng bài văn và sự hứng thú của học sinh khi học. Điều
này có một ý nghĩa vô cùng quan trọng vì nó góp phần nâng cao hiệu quả giáo
dục.
3. 2. Những kiến nghị.
Để sáng kiến kinh nghiệm có thể được áp dụng rộng rãi và có hiệu quả tôi
xin có một số ý kiến sau đây.
+ Đối với cha mẹ học sinh.
Quan tâm tạo điều kiện cả về vật chất, thiết bị học tập cho các con.
Thường xuyên gặp gỡ, trao đổi với giáo viên về việc học của con em mình.
+ Đối với học sinh:
- Học sinh không ngừng học hỏi kiến thức trên lớp, đồng thời mở rộng
thêm hiểu biết thông qua quan sát hàng ngày, sách báo, phim ảnh, ....
- Học sinh phải tìm tòi, có khả năng quan sát, hình dung, so sánh, liên
tưởng điều đó làm cho bài văn của các em thêm sinh động hấp dẫn
+ Đối với giáo viên:
- Giáo viên không ngừng học hỏi, tìm tòi để nâng cao hiểu biết cũng như
tìm ra cách truyền đạt kiến thức tốt nhất đến học sinh.
- Giáo viên cho học sinh mở rộng hiểu biết về các cảnh vật ở mọi giờ học:
trong giờ hoạt động ngoại khóa bằng cách thông qua hệ thống câu đố về cảnh,
19


trong giờ địa lí, lịch sử địa phương, trong giờ khoa học, trong giờ tập đọc... Bài
văn tả cảnh còn là kết quả của các bài văn tả : cây cối, đồ vật, con vật, con

người,.. cùng những hoạt động của nó. Chính vì vậy không tách rời văn tả cảnh
với các dạng văn miêu tả đã học.
- Giáo viên phải tổ chức lớp thật tốt trong những giờ học đặc biệt là
những giờ học ngoại khóa hay ngoài trời.
- Giáo viên phải tạo thói quen cho học sinh ghi chép những điều mình
quan sát được cũng như những tình cảm, cảm xúc tức thời trước một đối tượng
miêu tả. Bên cạnh việc tạo cho học sinh thói quen tốt, giáo viên phải là người sát
sao trong việc duy trì thói quen đó.
+ Đối với nhà trường, phòng giáo dục, sở giáo dục:…
- Tiếp tục hội thảo, chuyên đề nói chuyện với các chuyên gia, giáo viên
giỏi, giáo viên có nhiều kinh nghiện trong giảng dạy và viết sáng kiến kinh
nghiệm về tập làm văn theo khối, tổ để giáo viên được tham dự, học hỏi một
cách cụ thể, sát thực, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
- Cần trang bị thêm tư liệu, đồ dùng học tập đặc biệt là các tranh khổ to,
băng đĩa quay, máy chiếu được các hoạt động của các cảnh, những cảnh vật các
em chưa có dịp hoặc chưa có dịp tới thăm...
- Thường xuyên tổ chức cho học sinh thăm quan, dã ngoại để học sinh có
them nhiều hiểu biết về cảnh. Điều đó sẽ rất tốt cho các em khi viết văn.
- Cần trang bị máy vi tính, máy chiếu, tư liệu cho các trường để giáo viên
có thể trình chiếu hình ảnh về cảnh điều đó sẽ giúp các em cụ thể hóa và không
mơ hồ về đối tượng miêu tả.
Hóa Quỳ, ngày 15 tháng 04 năm 2018
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
ĐƠN VỊ
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người thực hiện

Lương Thị Nhung


20



×