Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Biện pháp nhằm nâng cao chất lượng khi dạy kiểu bài so sánh trong phân môn LTC lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.24 KB, 18 trang )

MỤC LỤC

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ THANH HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
KHI DẠY KIỂU BÀI SO SÁNH
TRONG PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU LỚP 3

Người thực hiện: Lê Thị Dung
Chức vụ:
Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường TH Điện Biên 1- TP Thanh Hóa
SKKN thuộc lĩnh vực: Tiếng Việt

THANH HÓA NĂM 2019
THANH HÓA NĂM 2018

0


MỤC LỤC
Mục
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2


2.1
2.2

2.3

2.4
3
3.1
3.2

Nội dung
PHẦN MỞ ĐẦU

Trang

Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG
Cơ sở lý luận của việc “ Rèn luyện kĩ năng so sánh”
trong phạm vi phân môn luyện từ và câu lớp 3
Thực trạng của việc dạy học biện pháp tu từ so sánh ở
lớp 3.
Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng khi dạy
kiểu bài so sánh trong phân môn luyện từ và câu lớp 3.
Giải pháp 1: Sử dụng đồ dùng dạy học hợp lí

2
2

2
2

Giải pháp 2: Lựa chọn phương pháp, kĩ thuật dạy học
phù hợp.
Giải pháp 3: Tổ chức phong phú các hình thức dạy học
Giải pháp 4: Thiết kế bài tập theo hướng cá thể hóa
học sinh.
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động
giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
KIẾN NGHỊ
Kết luận
Kiến nghị

4
4

5
8
9
12
15
17
17

1


1 . PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:

Phân môn Luyện từ và câu có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc mở rộng
và hệ thống hóa vốn từ ngữ cho học sinh. Ngay từ tên gọi của phân môn đã cho
ta thấy mục đích của nó. Luyện từ và câu dạy cho học sinh hiểu nghĩa của từ,
cách sử dụng từ, cách đặt câu và sử dụng câu...Tuy nhiên, trong thực tế đây là
một phân môn rất khó đối với cả giáo viên và học sinh. Trong sách giáo khoa
Tiếng Việt 3 không có những bài dạy riêng lý thuyết mà chỉ có những bài tập để
học sinh thực hành về từ và câu khá phong phú và đa dạng kiểu loại...Nhằm giúp
học sinh nhận diện các kiến thức sơ giản chứ không có sự tổng thể về mặt lý
thuyết. Trong khi đó ở sách giáo viên hầu như chỉ đưa ra đáp án bài tập, chứ
chưa hướng dẫn cách làm thế nào nên giáo viên gặp nhiều khó khăn lúng túng
trong quá trình vận dụng phương pháp dạy học để kích thích được sự hứng thú,
say mê học tập của học sinh
Luyện từ và câu lớp 3 ngoài nội dung mở rộng vốn từ gắn với các chủ
điểm, ôn luyện kiến thức về từ loại, các kiểu câu, dấu câu đã học ở lớp 2 còn
làm quen với các biện pháp tu từ (nhân hóa, so sánh). “So sánh” là nội dung dạy
học mới được đưa vào chương trình lớp 3. Đây là một nội dung khó, mang tính
trừu tượng. Trong khi đó tư duy nhận thức của học sinh lớp 3 là tư duy trực quan
cụ thể. Các em có thể nhận diện (tìm) những sự vật được so sánh, hình ảnh so
sánh, các vế so sánh, từ chỉ so sánh, đặc điểm so sánh được nói đến trong câu
(đoạn văn), thơ hoặc văn bản nhưng mới chỉ cảm nhận một cách trung trung tác
dụng của so sánh. Các em đã gặp một số khó khăn khi đặt câu (nói, viết) có
dùng phép so sánh vì vốn từ còn ít chưa có thói quen và biết cách quan sát, nhận
xét sự vật, hiện tượng để tìm ra những đặc điểm giống nhau. Bởi vậy, câu văn
của các em chỉ mang nội dung thông báo chứ chưa có sức gợi cảm, gợi tả... Điều
đó cũng phần nào lý giải vì sao các bài tập tập làm văn thường khô khan, thiếu
sức hấp dẫn.
Vì vậy, tôi thấy rằng việc tìm ra phương pháp dạy học phù hợp để học sinh
hiểu và làm được bài là rất cần thiết và tôi quyết định chọn đề tài: “Biện pháp
nhằm nâng cao chất lượng khi dạy kiểu bài so sánh trong phân môn luyện từ
và câu lớp 3” để nghiên cứu.

1.2 Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài để giúp học sinh có được một số kỹ năng so sánh trong
phân môn Luyện từ và câu lớp 3; biết vận dụng khi đặt câu và viết đoạn văn, bài
văn để bài văn hay và sinh động.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Học sinh lớp 3B, khảo sát thực tế về kĩ năng so sánh và việc vận dụng
biện pháp so sánh của học sinh.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2


- Đọc, tham khảo, nghiên cứu tài liệu
- Quan sát học sinh khi dạy phân môn Luyện từ và câu.
- Điều tra, khảo sát thực tế
- Thực nghiệm
- Thống kê, so sánh đối chiếu
- Kiểm tra, đánh giá .

3


2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của việc “Rèn luyện kỹ năng so sánh” trong phạm vi phân
môn luyện từ và câu lớp 3.
Xuất phát từ yêu cầu đổi mới của đất nước. Một trong những nhiệm vụ
cơ bản của đào tạo giáo dục hiện nay là : hình thành và phát triển nhân cách cho
học sinh một cách toàn diện theo mục tiêu phát triển nguồn nhân lực phục vụ
công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Hơn nữa, văn học là một loại hình nghệ thuật lấy ngôn từ làm phương tiện
thể hiện có khả năng tác động đến đời sống tâm hồn của con người trong đó biện

pháp tu từ so sánh góp phần không nhỏ làm nên điều này.
Một mặt, so sánh có khả năng khắc họa hình ảnh và gây ấn tượng mạnh
mẽ làm nên một hình thức miêu tả sinh động, mặt khác so sánh còn có tác dụng
làm cho lời nói rõ ràng, cụ thể, sinh động, diễn đạt được mọi sắc thái biểu cảm.
So sánh tu từ còn là phương thức bộc lộ tâm tư tình cảm một cách kín đáo và tế
nhị.
So sánh trong chương trình Luyện từ và câu lớp 3, các kiến thức được
cung cấp cho học sinh thông qua hệ thống bài tập để rút ra cách sử dụng biện
pháp nghệ thuật tu từ này chứ không có lý thuyết cụ thể nên hệ thống dữ liệu
được cung cấp cho học sinh.
Việc dạy cho học sinh phân biệt và sử dụng tốt biện pháp tu từ so sánh sẽ
giúp các em rèn được kĩ năng sử dụng biện pháp so sánh trong giao tiếp. Học
sinh biết cách nói, viết câu văn có hình ảnh. Từ đó giúp học sinh học tốt các
phân môn Tiếng Việt trong chương trình tiểu học.
2.2. Thực trạng của việc dạy học biện pháp tu từ so sánh ở lớp 3.
* Thực trạng chương trình:
- Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 3 hiện hành nói chung và phân môn Luyện từ và
câu nói riêng còn tồn tại một số điểm chưa hợp lí: mặc dù sách giáo khoa đã chú
trọng phương pháp thực hành nhưng những bài tập sáng tạo còn ít, đơn điệu,
kiến thức dạy học còn mang tính trừu tượng nên học sinh còn gặp nhiều khó
khăn trong quá trình lĩnh hội kiến thức và tích lũy kinh nghiệm sống cho bản
thân qua môn học.
* Thực trạng dạy của giáo viên:
Mặc dù đã bước vào thời kì công nghệ cao nhưng một số giáo viên chưa
chú trọng quan tâm tới việc sử dụng công nghệ thông tin hữu hiệu nhất trong
việc dạy và học hoặc có sử dụng nhưng lạm dụng công nghệ thông tin nên đưa
ra những hình ảnh không đúng hoặc chưa có sức gợi tả, liên tưởng cho học sinh.
Một số giáo viên khi dạy học còn chưa chú trọng việc sử dụng đồ dùng
dạy học, chưa khai thác hết nội dung bài hoặc chưa chú ý đến sự phân hóa đối
4



tượng học sinh. Phần lớn các giáo viên chỉ mới khai thác nội dung sách giáo
khoa hoặc đôi khi còn khai thác chưa hết, chưa sâu nội dung bài.
* Thực trạng học của học sinh:
Do khả năng tư duy của học sinh lớp 3 còn dừng lại ở mức độ tư duy đơn
giản, trực quan nên việc cảm thụ nghệ thuật tu từ so sánh còn hạn chế. Hơn nữa,
vốn kiến thức thực tế của học sinh, nhất là học sinh thành phố còn hạn chế.
Nhiều em chưa biết cách sử dụng từ ngữ để miêu tả hay diễn đạt ý trọn vẹn. Có
em lại sử dụng từ ngữ so sánh chưa phù hợp.
Qua khảo sát chất lượng đầu của học sinh lớp 3B năm học 2017 – 2018 về
mức độ nhận biết biện pháp tu từ so sánh ở lớp 3, kết quả như sau
Tổng số học sinh

38

Số HS đạt yêu cầu Số HS chưa có kỹ
về nhận biết tu từ năng nhận biết tu
từ so sánh nhanh
so sánh
12/38

20/38

Số HS còn nhầm
lẫn khi nhận biết
tu từ so sánh.
6/38

Từ những thực trạng trên, tôi nhận thấy cần đưa ra những biện pháp phù

hợp để dạy tốt biện pháp tu từ só sánh cho học sinh lớp 3B.
3. Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng khi dạy kiểu bài so sánh
trong phân môn luyện từ và câu lớp 3.
Sau khi đã tìm hiểu đánh giá về thực trạng dạy học kiểu bài “So sánh” ở
lớp 3, tôi đã thực hiện một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khi dạy học
kiểu bài “so sánh” trong phân môn Luyện từ và câu ở lớp 3 đó là:
Giải pháp 1. Sử dụng đồ dùng dạy học hợp lí:
Do nhận thức của học sinh Tiểu học là : “ Từ trực quan sinh động đến tư
duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn khác quan” . Mặt khác, trong
quá trình dạy học trên lớp, tôi nhận thấy tầm quan trọng của đồ dùng dạy học
trong một tiết dạy. Nếu giáo viên sử dụng hiệu quả thì tiết dạy trở nên sinh động
hơn, học sinh tiếp thu bài nhanh hơn. Đồ dùng trực quan còn giúp cho tiết học
nhẹ nhàng hơn, tránh sự giảng giải nhiều của giáo viên và giúp giáo viên đánh
giá kết quả học tập của học sinh nhanh hơn.
Các kiến thức trong phân môn Luyện từ và câu nói chung trong dạy học
kiểu bài “so sánh” nói riêng được cung cấp qua hệ thống bài tập nên áp dụng
nguyên tắc trực quan trong quá trình dạy học là hết sức cần thiết. Với mỗi bài
tập, giáo viên có thể chép sẵn ngữ liệu hoặc đáp án ra bảng phụ trước khi bước
vào giờ học và sử dung bảng phụ hợp lý với tiến trình giờ học. Sau khi đã yêu
cầu học sinh làm bài tập cá nhân hoặc theo nhóm. Giáo viên yêu cầu học sinh
lên bảng chữa trực tiếp. Giáo viên có thể dùng giấy khổ to để ghi lại nội dung
bài tập, nếu bảng phụ không đủ. Tương tự như bảng phụ và giấy khổ to, các
5


bảng giấy hoặc thẻ từ ghi sẵn ngữ liệu cũng là những đồ dùng dạy học hiệu quả,
nên được sử dụng linh hoạt trong giờ luyện từ và câu. Đối với lớp tôi phụ trách
có ti vi nên tôi đã sử dụng giáo án Powerpoint trong các môn học. Đặc biệt là
phan môn luyện từ và câu càng được giáo viên sử dụng ti vi để trình chiếu hình
ảnh nhiều hơn. Vì vậy, việc tôi áp dụng khi dạy kiểu bài “so sánh” bằng cách

đưa ra các hình ảnh động để HS cảm nhận rõ sự giống và khác nhau giữa các sự
vật với sự vật. Từ đó các em sẽ dễ dàng so sánh sự vật một cách cụ thể hơn chứ
không còn trừu tượng nữa. Qua đó, giờ học sinh động và hiệu quả hơn. Tuy
nhiên, giáo viên cần phải biết sử dụng khéo léo hợp lý đối với từng bài tập
không quá lạm dụng hình ảnh, tránh sa vào giảng giải quá nhiều làm thiên lệch ý
đồ so sánh của tác giả.
Học sinh tiểu học nói chung và học sinh khối 3 nói riêng khả năng tư duy
trừu tượng kém. Đa số các em phải dựa vào mô hình, vật thật, tranh, ...Vốn từ
của các em nghèo nàn, ít, đơn điệu, kiến thức thực tế ít. Vì vậy, trong dạy học
biện pháp tu từ so sánh việc sử dụng đồ dùng không thể thiếu được. Đồ dùng khi
dạy kiểu bài so sánh trong phân môn Luyện từ và câu lớp 3 đó là :
* Vật thật :
+ Chính học sinh là vật thật khi cho học sinh quan sát hai bàn tay của em để so
sánh với hoa đầu cành – Bài tập 2 tuần 1.
Hay để tìm sự vật được so sánh trong khổ thơ :
Ơ cái dấu hỏi
Trông ngộ ngộ nghê
Như vành tai nhỏ
Hỏi rồi lắng nghe
- Giáo viên yêu cầu HS đọc yêu cầu của đề
- Giải thích cho học sinh hiểu từ ngữ chỉ sự vật.
- HS gạch chân bằng bút chì từ chỉ sự vật vào SGK
- Học sinh trình bày ( Giáo viên có thể hỏi vì sao để học sinh giải thích lí do lại
sao em chọn từ đó )
- Giáo viên đưa ra đáp án
Sự vật so sánh

Từ so sánh

Sự vật so sánh


Cái dấu hỏi

Như

vành tai nhỏ

+ Giáo viên có thể vẽ lên bảng hoặc giải thích cho học sinh hiểu Dấu hỏi cong
cong, nở rộng ở hai phía trên rồi nhỏ dần chẳng khác gì vành tai. (Giáo viên có
thể cho học sinh nhìn vào vành tai bạn).

6


Trên thực tế có những HS chưa từng được nhìn thấy hoa xoan đặc biệt là
HS thành phố. Do vậy hình ảnh hoa xoan – mây sẽ giúp HS thấy được đặc điểm
giống nhau giữa 2 sự vật và qua đó cảm nhận được cái hay, cái đẹp. “Hoa xoan
nhỏ li ti, màu tím ngắt, mọc thành chùm. Khi hoa xoan nở rộ gợi cho ta cảm
giác, chúng như những chùm mây tím xốp đang bồng bềnh trôi”.
+ Âm thanh của tiếng thác trên rừng để học sinh so sánh tiếng mưa với tiếng
thác; âm thanh của đàn chim ríu rít để so sánh với những rổ tiền đồng (vì hiện
nay sử dụng tiền giấy nên học sinh chưa bao giờ được nghe âm thanh của rổ tiền
đồng – Bài tập 2 câu c tuần 10)
+ Quả cam Xã Đoài để học sinh được cắt, vắt nước ra quan sát và rút ra được
giọt cam như mật ong.
* Tranh ảnh ( Do giáo viên và học sinh sưu tầm):
Hình ảnh chùm hoa xoan để học sinh so sánh với từng chùm mây – bài tập 1 câu
b tuần 3; hình ảnh cây dừa đang sai trĩu quả so sánh với đàn lợn con - Bài tập 3
tuần 5. Hình ảnh cây pơ – mu so sánh với người lính đứng canh. Hình ảnh cái
đập đất khi cho học sinh so sánh con trâu đen có chân như cái đập đất.

+ Giáo viên : Chuẩn bị các tranh, ảnh sưu tầm trên mạng sử dụng slide trình
chiếu cho học sinh quan sát.
+ Học sinh : Sưu tầm các loại tranh ảnh chỉ về các sự vật được nhắc đến trong
bài học.
* Hình ảnh : là những tư liệu mà giáo viên sưu tầm, chụp trước những sự vật có
trong bài học.
Sau khi HS luyện tập tìm được các hình ảnh so sánh trong những khổ thơ
sau:
a.

Mắt hiền sáng tựa vì sao
Bác nhìn đến tận Cà Mau cuối trời

b.

Hoa xao xuyến nở
Như mây từng chùm

c.

Mùa đông
Trời là cái tủ ướp lạnh

GV cho các em bước đầu cảm nhận thấy trong mỗi hình ảnh so sánh các
sự vật được so sánh với nhau đều có những nét tương đồng (đặc điểm giống
nhau) chẳng hạn: (Đưa hình ảnh động hoa xoan – mây).
* Phiếu học tập:
Do vở bài tập Tiếng Việt lớp 3 in các bài tập còn dày thậm chí thiếu
dòng cho học sinh trình bày bài tập. Vì vậy, trong quá trình dạy học, giáo có
thể thiết kế và sử dụng phiếu bài tập nhằm thay đổi hình thức tổ chức dạy

7


học, tạo hứng thú cho các em trong giờ học. Phiếu học tập là một đồ dùng dạy
học được giáo viên sử dụng trong tiết dạy Luyện từ và câu. Vì nó đánh giá ngay
được kết quả học tập của học sinh. Giúp giáo viên nắm được chất lượng của học
sinh ngay trong tiết học. Từ đó có biện pháp dạy học phù hợp hơn. Qua đó cung
cấp kiến thức cho học sinh, giúp học sinh dễ hiểu nội dung bài, vốn từ cũng
phong phú hơn.
Chẳng hạn, GV có thể thiết kế phiếu bài tập cho tiết Luyện từ và câu.
Tuần 12 /98, 99 tập 1 như sau:
Họ và tên:
Lớp:
Trường tiểu học:
Phiếu học tập
Bài 1: Đọc nội dung bài tập 2 trong sách giáo khoa trang 98,99 rồi hoàn thành
bảng sau:
Hoạt động của sự vật

Từ so sánh

Hoạt động của sự vật

Bài 2: Chọn từ thích hợp ở hai cột A và B để ghép thành câu:
Những ruộng lúa cấy sớm

huơ vòi chào khán giả

Những chú voi thắng cuộc


đã trả bông

Cây cầu kim bằng thân dừa

lao băng băng trên sông

Con thuyền cắm cờ đỏ

bắc ngang dòng kênh

Trong các giờ Luyện từ và câu ta có thể sử dụng nhiều đồ dùng dạy học
khác nhau để giờ học sinh động hấp dẫn không tẻ nhạt. GV phải biết phối hợp
sử dụng các đồ dùng dạy học một cách linh hoạt. Có như vậy hiệu quả giờ học
mới được như mong muốn.
Giáo viên cần nắm vững và tích cực vận dụng đổi mới phương pháp dạy
học khi dạy luyện từ và câu; Để HS tự thực hành luyện tập làm các bài tập để
làm quen khám phá kiến thức. Cuối bài, GV có thể tóm lưu ý (chốt kiến thức)
thật ngắn gọn để HS nắm chắc bài.
Giải pháp 2. Lựa chọn phương pháp, kĩ thuật dạy học phù hợp:
Có nhiều phương pháp để dạy luyện từ và câu lớp 3. Tuy nhiên, khi dạy nội
dung so sánh ta thường hay sử dụng các phương pháp cơ bản : trực quan, vấn
đáp, tự học, giải quyết vấn đề, ...Trong các bài tập của sách Tiếng Việt 3 các câu
8


văn, thơ trích dẫn đều thuộc loại so sánh tu từ (so sánh hình ảnh) nhằm diễn tả
một cách có hình ảnh đặc điểm của sự vật. Trong khi đó tư duy của trẻ tiểu học
là tư duy trực quan cụ thể. Có em chưa hề nhìn thấy cánh diều, có em sẽ khó
khăn khi liên tưởng (dấu hỏi) với “Vành tai nhỏ” hoặc “Những chùm dừa” với
hình ảnh “đàn lợn con” nằm quây quanh bụng mẹ. Bởi vậy trực quan tranh hoặc

hình ảnh động về cánh diều, vành tai hay cây dừa sai quả ...sẽ góp phần đắc lực
giúp các em dễ dàng nhận thấy các hình ảnh so sánh đó thật chính xác, sinh
động và gợi tả...
Tuy nhiên có những hình ảnh so sánh không thể dùng trực quan để giảng
giải vì nó thuộc kiểu so sánh khác loại (so sánh cái cụ thể với cái trừu tượng)
VD : +
+

Công cha nghĩa mẹ như núi cao biển rộng
Đêm nay con ngủ giấc tròn
Mẹ là ngọn gió của con suốt đời

Khi đó GV phải dùng phương pháp giảng giải, mô tả để HS phát huy tư
duy trừu tượng của mình, để hình dung tưởng tượng ra đặc điểm giống nhau
giữa cái cụ thể và trừu tượng ấy (ý nói công ơn sinh thành nuôi dưỡng dạy bảo
của cha giành cho con như biển nước biển không bao giờ vô cạn)
Hoặc: Hình bóng mẹ, tình cảm của mẹ luôn là nguồn động viên an ủi con, là
ngọn gió lành thổi mát tâm hồn con đến cuộc đời. Tuy nhiên để giờ học sinh
động GV cần linh hoạt phối hợp cả 3 phương pháp trên và các phương pháp
khác
Phương pháp tự học là một trong những phương pháp dạy học tích cực mà
giáo viên cần sử dụng khi dạy kiểu bài so sánh trong phân môn luyện từ và câu
lớp 3.
Ví dụ : Ở tuần 3 có 3 bài tập. Trong đó bài 1, bài 2 có liên quan đến biện
pháp tu từ so sánh. Thay vì giáo viên hướng dẫn học sinh làm từng bài tập thì
giáo viên nên tổ chức cho các em bằng các lệnh:
+ Đọc yêu cầu bài 1, 2 và xác định yêu cầu của bài tập.
+ Cho học sinh làm mẫu.
+ Học sinh thảo luận cặp đôi, bàn bạc để tìm câu trả lời đúng.
+ Học sinh nêu kết quả, các nhóm khác chia sẻ ý kiến.

+ Giáo viên kết luận và chốt ý kiến đúng.
Sử dụng các phương pháp dạy học hợp lí sẽ giúp học sinh không bị nhàm
chán khi học luyện từ và câu. Từ đó giúp các em hiểu bài
Giải pháp 3. Tổ chức phong phú các hình thức dạy học.

9


Trong mỗi giờ học, GV cần đa dạng hóa các hoạt động học tập nhằm kích
thích được tính chủ động sáng tạo và gây hứng thú học tập cho học sinh, giáo
viên thể phối hợp các hoạt động học tập như học cá nhân, học theo cặp, học theo
nhóm để tránh sự nhàm chán của HS. Có rất nhiều hình thức tổ chức dạy học
nhưng khi dạy biện pháp tu từ so sánh ở lớp 3 tôi thường sử dụng các bình thức
sau:
* Học trong lớp
Hầu hết các tiết học môn Luyện từ đều được tổ chức trong lớp học. Hình
thức dạy học này giúp giáo viên quản lí học sinh dễ dàng hơn. Không gian nhỏ
nên giáo viên hướng dẫn học sinh nghe rõ hơn. Giáo viên có điều kiện để chữa
lỗi sai cho học sinh nhiều hơn.
Ví dụ : Khi dạy bài 1/ tuần 3 giáo viên tổ chức cho học sinh học theo lớp.
+ Gọi học sinh đọc yêu cầu.
+ Xác định yêu cầu.
+ Suy nghĩ và trả lời câu hỏi.
Giáo viên kết hợp chiếu các hình ảnh như hoa xoan, hình ảnh Bác Hồ, dòng
sông trong đêm trăng sáng để học sinh tìm ra các hình ảnh so sánh trong những
câu văn, câu thơ đó. ( đôi mắt Bác – tựa vì sao; hoa xoan – chùm mây; mùa
đông trời là cái tủ ướp lạnh, mùa hè trời là bếp lò nung, trăng trong đêm trăng
sáng – lung linh dát vàng...)
* Học cá nhân.
Nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, trong mỗi tiết học giáo viên

thường tập trung hướng dẫn học sinh làm bài cá nhân. Mỗi học sinh được độc
lập suy nghĩ, được trình bày ý kiến của mình. Khi được bạn hoặc giáo viên sửa
( nếu sai) học sinh cũng cảm thấy tự tin hơn và hình thành cho học sinh thói
quen suy nghĩ, động não để tìm câu trả lời.
* Học nhóm
Trong một lớp học mà trình độ kiến thức, tư duy của học sinh không thể
đồng đều tuyệt đối thì khi áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận sự
phân hóa về cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học
được thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập. Tuy nhiên, trong học tập, không
phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều được hình thành bằng những hoạt động
độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp thầy - trò, trò - trò, tạo nên mối
quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung học
tập.Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc
lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới.
Trong nhà trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp nhóm, tổ,
lớp. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là lúc phải giải quyết những
vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn
10


thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt động theo nhóm nhỏ sẽ không thể có hiện
tượng ỷ lại; tính cách năng lực của mỗi thành viên được bộc lộ, uốn nắn,phát
triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần tương trợ.
Ví dụ: Khi dạy bài luyện từ và câu tuần 5, giáo viên có thể cho học sinh
thảo luận nhóm 4 để tìm các hình ảnh so sánh trong bài tập 1. Sau đó cho học
sinh nêu kết quả và giáo viên chốt lại lời giải đúng. Giáo viên giúp học sinh
phân biệt loại so sánh : so sánh ngang bằng và so sánh hơn kém.
Hình ảnh so sánh

Kiểu so sánh


a. Cháu khỏe hơn ông nhiều!

hơn kém

Ông là buổi trời chiều

ngang bằng

Cháu là ngày rạng sáng.

ngang bằng

b.Trăng khuya sáng hơn đèn

hơn kém

c.Những ngôi sao thức chẳng bằng mẹ hơn kém
đã thức vì con
Mẹ là ngọn gió của con suốt đời.

ngang bằng

VD : * Bài 3/126 Tuần 15
Quan sát các cặp sự vật trong tranh viết ra những câu văn có hình ảnh so sánh
các sự vật trong tranh.
- HS thảo luận cặp tìm ra đặc điểm giống nhau của từng cặp sự vật
- HS làm việc cá nhân, tự viết những câu so sánh
- Sau đó HS báo cáo kết quả thảo luận, đọc bài của mính, cuối cùng GV tổng kết
chốt lại ý chính

* Tổ chức trò chơi
Để tiết học sôi nổi và gây hứng thú học tập cho học sinh trong tiết dạy
Luyện từ và câu lớp 3, giáo viên nên lồng ghép các trò chơi nhằm tạo không khí
thi đua sôi nổi. Rèn sự hoạt bát, nhanh nhẹn cho học sinh. Giúp học sinh nhận
biết phép so sánh.
Ví dụ : Khi dạy bài Luyện từ và câu tuần 3
- Giáo viên nêu tên trò chơi : Ai nhanh, ai đúng.
- Giáo viên rõ cách chơi: Cô cho các em chơi theo nhóm 7 ( thứ tự
1,2,3,4,5,6,7). Cô mời hai nhóm lên bảng làm trên bảng phụ theo hình thức tiếp
sức. 6 em đầu lần lượt lên, mỗi em đặt một dấu câu thích hợp vào ô vuông trong
đoạn văn trên bảng phụ. Em số 7 lên gạch dưới câu văn có sử dụng phép so sánh
vầ viết hoa những chữ đầu câu sau khi nhóm đã đặt dấu chấm. Trong thời gian
11


quy định, nhóm nào đặt dấu đúng, gạch dưới câu chứa phép so sánh đúng mà
nhanh hơn là nhóm đó thắng.
- Giáo viên cho học sinh chơi.
- Kết quả đúng :
Sau trận mưa rào, mọi vật đều sáng và tươi. Những đóa râm bụt thêm đỏ
chói. Bầu trời xanh bóng như vừa được giội rửa. Mấy đám mây bông chơi nhởn
nhơ, sáng rực lên trong ánh mặt trời.
Lưu ý : Giáo viên cần chuẩn bị hai bảng phụ có ghi đoạn văn ( ghi yêu
cầu SGK), bút dạ màu cho HS chơi.
VD2: Dạy bài So sánh ( Tuần 5)
+ GV nêu tên trò chơi: Ai nhanh, Ai giỏi?
+ GV tổ chức chơi khi làm bài tập 4.
Bài tập 4: Hãy tìm các từ so sánh có thể thêm vào những câu chưa có từ so sánh
ở bài tập 3.
M : Tàu dừa như chiếc lược chải vào mây xanh.

Giáo viên in sẵn 2 phiếu lớn cho học sinh tìm từ so sánh và điền vào chỗ chấm
Mẫu phiếu
Hãy tìm các từ so sánh có thể thêm vào chỗ trống trong những câu sau:
Quả dừa (như.....................................) đàn lợn con nằm trên cao.
Tàu dừa ( như .........................................) chiếc lược chải vào mây xanh.
Giáo viên chia lớp thành 2 nhóm. Mỗi nhóm cử 5 em lần lượt lên điền các từ
so sánh. Sau 2 phút nhóm nào điền được nhiều từ so sánh nhất sẽ thắng cuộc.
Đáp án : Học sinh có thể điền các từ so sánh là :
Quả dừa (như, là, tựa, tựa như, tựa như là, như thể, ...) đàn lợn con nằm trên
cao.
Tàu dừa ( như, là, như là, tựa, tựa như, tựa như là, như thể....) chiếc lược chải
vào mây xanh.
Các trò chơi được sử dụng khi gặp các bài tập dạng điền từ ngữ còn thiếu ( cho
trước hoặc không cho trước) hay tìm từ so sánh...
Giải pháp 4. Thiết kế bài tập theo hướng cá thể hóa học sinh.
Các mục tiêu về “so sánh” được thực hiện trong 10 tiết rải ở tuần
1,3,5,9,10,15,18 của học kỳ 1 với 22 bài tập khác nhau. Nội dung “so sánh” được
dạy kèm với các nội dung khác. Có bài chỉ dạy một nội dung về so sánh (bài 5) nhiều
bài do kết hợp với các nội dung khác . Khi xây dựng hệ thống bài tập, GV cần
phải chú ý đến tính mục đích của bài tập. Căn cứ vào mục đích, có thể xây dựng
12


một số bài tập. Các bài tập trong vở bài tập Tiếng Việt của học sinh mới chỉ
dừng lại ở mức độ nhận biết và hiểu được các biện pháp tu từ so sánh. Để phát
huy hết được khả năng của học sinh, tôi đã thiết kế các bài tập theo nhóm phù
hợp với từng đối tượng học sinh.
Trước hết giáo viên cần nắm chắc các dạng bài tập cơ bản khi dạy biện
pháp nghệ thuật so sánh trong phân môn luyện từ và câu lớp 3 đó là:
Dạng 1: Bài tập nhận diện những từ ngữ, hình ảnh, sự vật, đặc điểm, so sánh.

Dạng 2: Bài tập cấu trúc:
a, Bài tập điền từ ngữ (cho trước hoặc không cho trước)
b,bài tập tạo cách nói so sánh trên ngữ liệu cho trước
Dạng 3: Bài tập cảm thụ
Dạng 4: Bài tập vận dụng sáng tạo.
Từ việc xác định rõ các dạng bài tập khi dạy biện pháp tu từ so sánh trong
phân môn luyện từ và câu lớp 3, tôi đã tạo ngân hàng bài tập phù hợp với từng
đối tượng học sinh.
Đối với học sinh chỉ cần đạt đến mức độ đạt yêu cầu tôi sử dụng hệ thống
bài tập trong vở bài tập Tiếng Việt 3 để hướng dẫn các em hoàn thành bài tập.
Đối với học sinh năng khiếu, tùy từng dạng bài tôi tạo ngân hàng bài tập
giúp học sinh phát huy cao hơn khả năng cảm nhận, cảm thụ từng câu văn, câu
thơ khi học về biện pháp tu từ so sánh.
Ví dụ :
+ Khi dạy tuần 1 có ba bài tập. Đối với học sinh năng khiếu sau khi làm bài tập
1 và 2 giáo viên đặt câu hỏi bài 3: Trong những hình ảnh so sánh ở bài 2, em
thích hình ảnh nào? Vì sao?
+ Cũng hỏi câu hỏi này giáo viên có thể dùng khi học sinh làm xong bài tập 1
tuần 3.
+ Tuần 5: Khi học sinh làm xong bài tập 1, giáo viên có thể đặt câu hỏi cho học
sinh năng khiếu như : Em hãy nêu các kiểu so sánh trong bài tập 1 ( so sánh hơn
kém, ngang bằng).
+ Tuần 7: Sau khi học sinh tìm được các hình ảnh so sánh trong bài tập 1 giáo
viên có thể hỏi thêm :
Em hãy nêu cảm nhận của em khi đọc câu thơ sau :
“ Bà như quả ngọt chín rồi
Càng thêm tuổi tác, càng tươi lòng vàng”
+ Tuần 10:
13



Em hãy tìm những âm thanh khác để thay các âm thanh được nói tới trrong bài.
( Học sinh có thể thay được hoặc không thay được)
Giáo viên chốt : Khi so sánh ta cần so sánh sự vật này với sự vật khác cùng loại,
âm thanh này với âm thanh khác cùng loại. Không so sánh kiểu âm thanh với sự
vật hoặc ngược lại.
Giáo viên cũng có thể tạo ngân hàng câu hỏi cho học sinh năng khiếu duwajvaof
các dạng bài tập như sau :
Dạng 1: Bài tập nhận diện những từ ngữ, hình ảnh, sự vật, đặc điểm, so sánh.
+ Gạch một gạch dưới sự vật được so sánh, 2 gạch dưới sự vật dùng để so sánh
Lá lựu dày và nhỏ lấp lánh như thủy tinh
Sau cơn mưa, cảnh vật như thêm một sức sống mới
+ Điền các bộ phận thích hợp của các phép so sánh dưới vào sơ đồ
a, Chiếc xà lan xám trông giống như con bọ đất
b, Những quả dưa hấu như những đàn heo con nằm sưởi nắng
Sự vật 1

Đặc điểm

Từ so sánh

Sự vật 2

+ Đánh dấu x vào ô trống trước những câu có sử dụng phép so sánh
Bầu trời cao vút, trập trùng những đám mây trắng
Hàng ngàn bông hoa là hàng trăm ngọn lửa hồng tươi
Hồ về thu, nước trong vắt, mênh mông
Dạng 2: Bài tập cấu trúc:
a, Bài tập điền từ ngữ (cho trước hoặc không cho trước)
VD1 : Điền từ so sánh (là, tựa, như) vào chỗ trống trong mỗi câu cho phù hợp

Đêm ấy trời tối như...mực
Trăm cô gái...iên sa
Mắt của trời đêm...các vì sao
VD2 : Điền tiếp từ ngữ chỉ sự vật để mỗi dòng sau thành câu có hình ảnh so
sánh
Tiếng suối ngân nga như...
Mặt trăng tròn vành vạch như...
Mặt nước hồ trong tựu như...
VD3 : Điền từ chỉ đặc điểm vào chỗ trống cho phù hợp
14


Các cô gái đi dự hội trông...tựa tiên sa
Nước biển...như màu mảnh trai
b,bài tập tạo cách nói so sánh trên ngữ liệu cho trước
VD: hãy sử dụng biện pháp so sánh để diễn đạt lại những câu văn dưới đây sao
cho sinh động:
“ Tán bàng che bóng mát
Mặt hồ sáng long lanh
Tóc bà bạc trắng”.
Dạng 3: bài tập cảm thụ:
Bước đầu HS làm quen việc cảm thụ cái hay, cái đẹp của biện pháp tu từ
so sánh qua việc diễn đạt những cảm nhận, rung động của bản thân khi đọc đoạn
văn, khổ thơ hay.
VD1 : “Những ngôi sao thức ngoài kia
Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con
Đêm nay con ngủ giấc tròn
Mẹ là ngọn gió của con suốt đời”.
Hình ảnh nào góp phần nhiều nhất làm nên cái hay cái đẹp của khổ thơ trên
Dạng 4: Bài tập vân dụng sáng tạo.

VD1 : Quan sát bức tranh và sử dụng biện pháp so sánh để miêu tả lại bức tranh
đó (từ 4,5 câu)
VD2 : “Hãy viết một đoạn văn ngắn miêu tả về...trong đó có sử dụng biện pháp
so sánh để câu văn thêm sinh động
Tóm lại : Dạy Luyện từ và câu nói chung, dạy về so sánh (và các biện pháp tu từ
khác nói riêng là để HS hiểu biết cách dùng từ, đặt câu chính xác, biết nói, viết
những câu văn hay, đúng ngữ pháp. Qua đó giúp các em hiểu thêm và yêu Tiếng
Việt, thấy được sự phong phú giàu tiếng mẹ đẻ. Từ đó các em sẽ yêu thích học
Tiếng Việt hơn. Ngoài ra, giáo viên cần linh hoạt khi vận dụng phương pháp,
phối hợp với dạy các phân môn khác của Tiếng Việt như Tập đọc, Kể chuyện,
Tập làm văn...
3. Hiệu quả của sáng kiến đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng
nghiệp và nhà trường.
Bằng những giải pháp trên, sau thời gian giảng dạy thực nghiệm tại lớp 3B,
tôi thu được kết quả như sau:
* Đối với học sinh:
Hầu hết các em đã biết cách sử dụng biện pháp tu từ so sánh trong khi nói
15


và viết. Đặc biệt, các em đã biết viết câu có sử dụng biện pháp nghệ thuật tu từ
so sánh nên câu văn có hình ảnh và sinh động hơn, diễn đạt ý rõ ràng và mang
tính hình tượng cao hơn. Từ đó, kết quả học tập môn Tiếng Việt của lớp 3B cũng
cao hơn. Kết quả kiểm tra cuối học kì II lớp 3B năm học 2017 – 2018.
Tổng số học sinh : 38 em.
Loại giỏi :

18 em

Loại khá :


12 em.

Trung bình:

9 em.

* Đối với giáo viên:
Sau khi nghiên cứu và tìm tòi các biện pháp để dạy tốt biện pháp tu từ so
sánh phân môn luyện từ và câu lớp 3 bản thân tôi có thêm kinh nghiệm trong
dạy học. Biết cách vận dụng các phương pháp dạy học linh hoạt hơn. Biết thiết
kế bào tập theo đúng năng lực của học sinh trong lớp. Đặc biệt, học sinh lớp 3B
do tôi phụ trách đã biết nói, viết đủ câu trong đó có sử dụng biện pháp nghệ
thuật so sánh.
* Đối với đồng nghiệp:
Sau thời gian nghiên cứu và vận dụng, tôi mạnh dạn nêu những việc mình
đã làm khi dạy biện pháp tu từ so sánh trong phân môn luyện từ và câu lớp 3.
Tôi đã nhận được sự ủng hộ từ phía giáo viên trong tổ. Ngoài ra, các đồng chí
còn bổ sung và giúp đỡ tôi thực hiện những nghiên cứu của bản thân. Chính các
đồng nghiệp cũng đã vận dụng những biện pháp của tôi vào giảng dạy ở lớp và
chất lượng học tập môn Tiếng Việt của các em cao hơn những năm trước.

16


3. KẾT LUẬN
3.1 Kết luận:
Việc giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và đặc biệt là phân môn Luyện
từ và câu ở tiểu học nói riêng có ý nghĩa quan trọng. Nó góp phần hình thành 4
kỹ năng nghe, nói, đọc, viết đồng thời thực hiện tốt mục tiêu giáo dục tiểu học.

Vì vậy để rèn luyện cho các em có được một số kỹ năng so sánh trong phân môn
Luyện từ và câu lớp 3 tôi đặc biệt chú ý đến các biện pháp.
a. Sử dụng đồ dùng dạy học hợp lí.
b. Lựa chọn phương pháp, kĩ thuật dạy học phù hợp.
c. Tổ chức phong phú các hình thức dạy học.
d. Thiết kế bài tập theo hướng cá thể hóa học sinh.
3.2 Kiến nghị.
Trên đây là một số việc làm của bản thân khi áp dụng dạy biện pháp tu từ so
sánh trong phân môn luyện từ và câu lớp 3. Sau khi thực hiện đề tài tôi tự nhận
thấy muốn dạy tốt biện pháp tu từ so sánh trong phân môn luyện từ và câu ở lớp
3 cần :
* Đối với giáo viên:
+ Nghiên cứu kĩ bài dạy, tập trung đổi mới phương pháp dạy học.
+ Biết sử dụng các phương pháp tổ chức dạy học phù hợp với từng tiết dạy
+ Biết thiết kế bài tập vừa sức với từng đối tượng học sinh.
+ Tranh thủ sự quan tâm của ban giám hiệu, các đồng nghiệp để tham khảo ý
kiến đóng góp xây dựng cho các tiết dạy luyện từ và câu.
* Đối với phụ huynh:
Cần giúp các em biết quan sát thực tiễn để có thêm vốn từ cũng như vốn
sống và hiểu biết xã hội.
Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu, với năng lực và trình độ có hạn của
bản thân, chắc rằng không thể tránh khỏi những hạn chế thiếu sót. Rất mong
được sự đóng góp trao đổi ý kiến của các bạn đồng nghiệp để đề tài của tôi được
hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

TP Thanh Hóa, ngày 2 tháng 4 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người

khác.
Người thực hiện

Lê Thị Dung

17



×