Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Một số biện pháp để dạy tốt phân môn luyện từ và câu lớp ba

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.42 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
Thứ tự

Tên mục

Trang

1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.2

Mở đầu
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung
Cơ sở lý luận
Thực trạng trong giáo dục phân môn Luyện từ và câu

1
1
1
2
2
3


3
3

2.3
2.4
3
-

lớp 3
Các giải pháp
Kết quả thu được qua khảo nghiệm
Kết luận, kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Danh mục các đề tài SKKN đã được công nhận

5
11
12
12
12
13
14

0


1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài

Trong giai đoạn đổi mới chương trình giáo dục phổ thông hiện nay, đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học
sinh, giúp học sinh học tập một cách tích cực, tự giác là một yêu cầu cấp thiết đối
với ngành giáo dục. Một trong những mục tiêu của việc đổi mới chương trình sách
giáo khoa phổ thông là: "Đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tư duy sáng tạo
và năng lực tự học của học sinh". Việc đổi mới này phải được thực hiện tất cả các
bậc học, tất cả các môn học.
Môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học xác định là môn học công cụ bởi mục tiêu
quan trọng của nó. Phân môn Luyện từ và câu lớp Ba có nhiệm vụ cung cấp cho
học sinh một số tri thức sơ giản về từ, câu, và dấu câu. Học sinh được lĩnh hội kiến
thức thông qua một hệ thống bài tập. Như vậy sách giáo khoa tạo điều kiện để giáo
viên và học sinh thực hiện phương pháp tích cực hóa hoạt động của người học,
Trong đó, giáo viên đóng vai trò là người tổ chức hoạt động của học sinh, mỗi học
sinh đều được hoạt động, mỗi học sinh đều được bộc lộ mình và phát triển.
Phân môn Luyện từ và câu được tách thành một phân môn độc lập, nó có vị trí
quan trọng như các phân môn khác: Tập đọc, Chính tả, Tập làm văn,... Song ở lớp
3 tiết học dành cho phân môn này rất ít (Chỉ có một tiết /tuần). Vì vậy giáo viên
phải biết bổ sung vào một tiết buổi chiều để tăng thời lượng cho phân môn này.
Khi dạy luyện từ và câu ở tiểu học chúng ta đều phải hướng tới ba mục tiêu chính
đó là: Cung cấp thêm vốn từ cho học sinh, giúp các em có thể sử dụng từ ngữ một
cách chính xác, học sinh biết sử dụng từ Tiếng Việt để giao tiếp văn hóa. Ở lớp Ba
kiến thức truyền thụ cho học sinh có nhiều phần liên quan tới lớp Hai nên giáo viên
phải nắm chắc kiến thức Luyện từ và câu lớp Hai. Các bài tập thường là những bài
tập trừu tượng, giáo viên phải hướng dẫn mẫu một phần bài tập, học sinh phải biết
tư duy để làm được các phần bài tập còn lại. Trong các môn tự nhiên, Toán được
coi là môn học khó thì trong các môn xã hội, phân môn Luyện từ và câu lại được
coi là phân môn vừa khô vừa khó. Đây là phân môn cả người dạy và người học
cảm thấy khó khăn khi truyền đạt cũng như khi lĩnh hội. Giáo viên ngại dạy môn
học này bởi đây là phân môn có nhiều tình huống sư phạm nhất. Đôi khi tình
huống năm ngoài dự đoán của người dạy. Học sinh cũng thấy khi tìm từ và làm các

bài tập cũng khó vì lượng kiến thức của môn học rộng. Muốn làm được các bài tập
của phân môn này học sinh không chỉ học thuộc những kiến thức trong sách giáo
khoa mà còn phải hiểu biết rộng, phải nhớ được kiến thức cũ mà lớp Hai đã học thì
mới làm tốt được các bài tập.
Xuất phát từ lí do trên, tôi đã mạnh dạn đi sâu vào nghiên cứu để đưa ra "Một
số biện pháp để dạy tốt phân môn Luyện từ và câu lớp Ba". Rất mong sự quan
tâm góp ý của quý thầy cô.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Góp phần giúp học sinh lớp Ba học tốt hơn nữa phân môn Luyện từ và câu
trong môn Tiếng Việt.
- Giúp học sinh có hứng thú học tập phân môn Luyện từ và câu, từ đó giúp
các em học tốt các phân môn khác như phân môn Tập làm văn, Kể chuyện,... Và
biết áp dụng vào thực tế cuộc sống.
1


- Đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn
Luyện từ và câu ở lớp 3.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Nội dung mở rộng vốn từ, luyện tập về từ; biện pháp nghệ thuật so sánh và
nhân hóa; mẫu câu Ai-là gì? Ai-làm gì? Ai-thế nào?; cách đặt và trả lời câu hỏi Ở
đâu? Bằng gì? Khi nào?; các loại dấu câu trong chương trình Luyện từ và câu lớp
Ba; sách giáo khoa, sách giáo viên và các tài liệu có liên quan phục vụ cho việc
dạy học.
- Học sinh lớp 3A (lớp thực nghiệm) và lớp 3B (lớp đối chứng), Trường Tiểu
học Yên Thái, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện SKKN này chủ yếu tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết
Nghiên cứu các văn kiện, các công văn, văn bản hướng dẫn giảng dạy môn

Tiếng Việt, sách giáo khoa và tài liệu tham khảo.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Phương pháp khảo sát điều tra thực tế.
+ Phương pháp thống kê.
+ Phương pháp phân tích số liệu.
+ Phương pháp thực nghiệm sư phạm.

2


2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận
Nói và viết là điều không xa lạ đối với bất cứ người nào, song nó lại hết sức
phức tạp, dùng từ và câu để nói, viết thế nào cho đúng, cho hay là một việc không
phải dễ. Chính vì điều này nên Luyện từ và câu được đánh giá là phân môn khó
trong môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học. Khi học Luyện từ và câu người học phải vận
dụng tổng hợp rất nhiều kiến thức và kĩ năng đã có ở những lĩnh vực, những phạm
vi khác nhau vào thực hiện các nhiệm vụ học tập. Dạy Luyện từ và câu ở lớp Ba,
người giáo viên phải thực hiện được các nhiệm vụ như sau:
- Mở rộng vốn từ theo các chủ điểm trong Sách giáo khoa. Đây là vốn từ cần
thiết và thường dùng mỗi chủ điểm. Dạng bài mở rộng vốn từ với một lượng bài
khá lớn. Các bài tập về mở rộng vốn từ vừa giúp học sinh lớp Ba hình thành kiến
thức cần thiết về từ qua các chủ điểm, vừa rèn kĩ năng giao tiếp một cách sinh
động. Một trong những nội dung quan trọng của việc rèn kĩ năng sử dụng Tiếng
Việt ở bậc Tiểu học là giúp học sinh biết sử dụng từ một cách phù hợp trong các
bài viết, đặc biệt trong Tập làm văn. Dùng từ đúng, phù hợp với nội dung văn
cảnh, giúp các em thể hiện ý văn sáng sủa, rõ ràng, mặt khác giúp người đọc hiểu
nội dung bài văn, câu văn một cách dễ dàng, chính xác.
- Ôn luyện để nắm chắc hơn một số kiến thức và kĩ năng đã học ở lớp 2:
+ Về từ chỉ sự vật, từ chỉ hoạt động, từ chỉ đặc điểm,

+ Về cái loại câu Ai (con gì, cái gì) là gì?, làm gì?, thế nào?
+ Về một số thành phần trong câu (trả lời câu hỏi Khi nào? ở đâu? Như thế
nào? Vì sao? Để làm gì? Bằng gì?)
+ Về các các dấu câu như dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm hỏi...
- Hình thành kiến thức sơ giản về biện pháp so sánh và biện pháp nhân hóa, về
các dấu hỏi, dấu chấm than, dấu hai chấm, đồng thời luyện tập để bước đầu có các
kĩ năng về:
+ Phân tích và cảm nhận được tác dụng, hiệu quả của các biện pháp so sánh,
nhân hóa.
+ Bước đầu biết dùng các biện pháp so sánh và nhân hóa.
+ Biết dùng các dấu câu như dấu chấm hỏi, dấu chấm than, dấu hai chấm.
- Bồi dưỡng tình cảm quý trọng Tiếng Việt, thói quen dùng từ và câu đúng, có
ý thức sử dụng Tiếng Việt trong giao tiếp đạt được phẩm chất văn hóa.
2.2. Thực trạng trong giảng dạy phân môn luyện từ và câu lớp 3
a. Thuận lợi
+ Đối với giáo viên
- Giáo viên tận tụy, luôn tìm tòi những phương pháp phù hợp với đối tượng
học sinh để giảng dạy.
- Giáo viên có kế hoạch rèn cho học sinh có thói quen dùng từ, đặt câu trong
học tập cũng như trong giao tiếp ngay từ đầu năm học.
- Học sinh trong lớp không nhiều, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm tra
(chấm bài viết thường xuyên, phát hiện lỗi sai kịp thời để học sinh sửa chữa và
khắc phục khi sử dụng vốn từ trong hoạt động nói và viết.
+ Đối với học sinh
3


- Học sinh nằm trên địa bàn gần trường, phần lớn các em có ý thức học tập
tốt. Học sinh đều chăm ngoan.
- Học sinh có đủ sách giáo khoa và vở bài tập Tiếng Việt ghi đầy đủ nội dung

bài tập Luyện từ và câu.
- Các em đã được làm quen với phân môn Luyện từ và câu ở lớp 2 và có nhiều
kiến thức liên quan ở lớp 2 nên các em học tập có phần tự tin hơn.
b. Khó khăn
+ Đối với giáo viên
- Hình thức để dạy một tiết Luyện từ và câu còn đơn điệu, thiếu sáng tạo, chưa
thực sự sinh động cuốn hút học sinh.
- Trình độ của giáo viên chưa đồng đều, lượng kiến thức của phân môn trong
một tiết dạy còn nhiều bài tập. Khiến người dạy đôi lúc không muốn sử dụng nhiều
phương pháp như vấn đáp, gợi mở... Vì mất nhiều thời gian, giáo viên phải nói
nhiều, làm việc nhiều dẫn đến hoạt động của cô, trò đôi lúc chưa nhịp nhàng. Học
sinh chưa phát huy hết tính tích cực trong học tập.
- Thời lượng dành cho phân môn Luyện từ và câu còn ít, một tiết / tuần
- Đồ dùng dạy học hiện đại còn rất hạn chế. Cơ sở vật chất chưa được tốt.
+ Đối với học sinh
- Tình hình thực tế học sinh lớp Ba ở đây vốn từ các em còn hạn chế. Các em
chỉ hiểu nghĩa của từ ở mức độ đơn giản trong khi từ ngữ Tiếng Việt vô cùng
phong phú. Khả năng nhớ, hiểu và vận dụng kiến thức trong quá trình học tập còn
chậm.
- Các từ cần giải nghĩa đa số là từ Hán Việt nên học sinh khó hiểu, khó giải
nghĩa.
- Các từ, các thành ngữ, tục ngữ cần giải nghĩa, cần tìm có nghĩa gần giống
nhau, khiến cho học sinh khó phân biệt nghĩa của chúng.
- Ranh giới giữa các từ hoặc từ trong Tiếng Việt không mang tính xác định,
không dễ nhận biết nên các em còn thiếu tự tin khi học phân môn này.
- Đa số gia đình các em sống về nghề nông còn nghèo, cha mẹ còn lo đi làm
thuê để kiếm sống, chưa thực sự quan tâm đến việc học của các em.
c. Thực trạng của giáo viên khi dạy phân môn luyện từ và câu ở lớp 3
- Giáo viên chưa nắm vững nội dung chương trình sách giáo khoa, phương
pháp dạy học đặc trưng của phân môn.

- Trong quá trình giảng dạy giáo viên chưa tạo ra được các tình huống để gây
hứng thú học tập cho học sinh.
- Chưa tạo cho học sinh có thói quen sử dụng từ điển Tiếng Việt.
- Trong quá trình giảng dạy sử dụng các phương pháp, hình thức tổ chức dạy
học chưa linh hoạt.
- Trong quá trình học tập chưa tạo được bầu không khí học mà chơi, chơi mà
học để học sinh tiếp thu bài một cách chủ động.
Để xác định được kế hoạch thực hiện nghiên cứu, tôi đã tiến hành khảo sát
tình hình thực tế việc dùng từ, đặt câu của học sinh ngay từ đầu năm học, tôi thống
kê học sinh còn mắc lỗi dùng từ, đặt câu còn rất nhiều, có một số học sinh dùng từ
chưa chính xác, chưa hiểu nghĩa từ, đặt câu chưa đúng ngữ pháp, chưa dùng từ có
hình ảnh so sánh (đã học ở lớp Hai). Kết quả khảo sát như sau:
4


Chất lượng khảo sát đầu năm
Lớp
3A(Lớp thực nghiệm)
3B (Lớp đối chứng)

Sĩ số
30
29

Hoàn thành tốt Hoàn thành
SL
2
2

TL

6,6
6,9

SL
18
19

TL
60,1
65,5

Chưa hoàn
thành
SL
TL
10
33,3
8
27,6

d. Các nguyên nhân, yếu tố tác động
- Đối với học sinh tiểu học, các em ở lứa tuổi chưa có được vốn từ ngữ dồi
dào trong khi đó các bài tập trong sách giáo khoa lại khá phong phú, đa dạng nên
so với đối tượng học sinh là khó. Mặt khác giáo viên cũng có nhiều khó khăn trong
việc giúp học sinh nắm vững được các kiến thức cơ bản của từng bài để từ đó các
em có thể phát triển theo hướng làm thêm được các bài tập nâng cao.
- Học sinh chưa có hứng thú học tập phân môn này. Đa số các em đều cho
rằng Luyện từ và câu là môn học khó. Một số kiến thức còn trừu tượng, khó hiểu,
không gần gũi với học sinh. Phần lý thuyết cũng không có học sinh chỉ được hiểu
qua những bài tập làm mẫu của giáo viên rồi cảm nhận và làm các bài tập còn lại,

vì thế học sinh thường ngại học phân môn này.
2.3. Các biện pháp thực hiện
Biện pháp 1: Giáo viên nắm vững nội dung chương trình sách giáo khoa,
phương pháp giảng dạy đặc trưng bộ môn
- Từ việc phân loại đối tượng trên, tôi đề ra cho mình phương pháp dạy thật
tốt phân môn Luyện từ và câu. Tôi đã nghiên cứu ở sách giáo khoa, sách tham
khảo để nắm vững chương trình và phương pháp đặc trưng của phân môn này. Có
nắm vững nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy, người giáo viên mới
đi sâu nghiên cứu, giảng dạy tốt phân môn Luyện từ và câu.
a. Nội dung chương trình phân môn luyện từ và câu
Trong chương trình Tiểu học mới, môn Tiếng Việt đặt mục tiêu rèn kĩ năng
lên hàng đầu, các bài học không có tiết học lí thuyết riêng. Phân môn Luyện từ và
câu được biên soạn theo quan điểm giao tiếp, tích hợp, tích cực hóa hoạt động của
người học. Mặt khác, học sinh lớp Ba phải hoàn thành tốt kiến thức đã học ở lớp
Hai về từ loại, các kiểu câu, các thành phần câu và dấu câu. Học sinh lớp Ba tiếp
tục được trang bị những hiểu biết ban đầu về biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa để
phục vụ việc đọc hiểu các loại văn bản và làm văn.
Như vậy, việc dạy học Luyện từ và câu để đạt được mục tiêu trên cần cho các
em tiếp xúc với các loại bài tập cụ thể, qua đó các em được rèn luyện những kĩ
năng cần thiết và bước đầu tiếp xúc với ngôn ngữ hình tượng văn học, rung động
trước cái hay, cái đẹp của cuộc sống, của con người, của thiên nhiên. Từ đó, hình
thành và phát triển nhận thức, tình cảm, thái độ đúng đắn trước cuộc sống.
Chương trình Luyện từ và câu ở lớp Ba có những loại bài tập sau:
* Mở rộng vốn từ
- Gắn với các chủ điểm được học: Măng non, Mái ấm, Tới trường, Cộng
đồng, Bảo vệ Tổ quốc, Sáng tạo, Nghệ thuật, Lễ hội, Thể thao, Ngôi nhà chung,
Bầu trời và mặt đất.
5



- Thông qua các bài tập:
+ Tìm từ ngữ theo chủ điểm
+ Tìm hiểu, giải nghĩa từ
+ Hệ thống, phân loại vốn từ
+ Luyện cách sử dụng từ
* Ôn luyện kiến thức đã học ở lớp Hai
- Ôn vè các từ chỉ sự vật, hoạt động, trạng thái, đặc điểm (chủ yếu thông qua
các bài tập có yêu cầu nhận diện).
- Ôn về các kiểu câu đã học ở lớp Hai: Ai là gì? Ai làm gì? Ai thế nào? Các
thành phần trong câu đá ứng các câu hỏi Ai / là gì? Làm gì? Thế nào? ở đâu? Bao
giờ? Vì sao? Để làm gì? Thông qua các bài tập:
+ Trả lời câu hỏi
+ Tìm bộ phận câu trả lời câu hỏi
+ Đặt câu hỏi cho từng bộ phận câu
+ Đặt câu theo mẫu, ghép các bộ phận thành câu,.…
- Ôn về một số dấu câu cơ bản: dấu chấm, dấu phẩy, dấu hai chấm, dấu chấm
hỏi, dấu chấm than thông qua các bài tập:
+ Chọn dấu câu đã cho điền vào chỗ trống
+ Tìm dấu câu thích hợp điền vào chỗ trống
+ Điền dấu câu đã cho vào chỗ thích hợp
+ Tập ngắt câu
* Bước đầu làm quen với các biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa
- Về biện pháp so sánh, sách giáo khoa có nhiều loại bài tập như:
+ Nhận diện (tìm) những sự vật được so sánh, những hình ảnh so sánh, các vế
so sánh, các từ so sánh, đặc điểm so sánh,…
+ Tập nhận biết tác dụng của so sánh
+ Tập đặt câu có sử dụng biện pháp so sánh.
- Về biện pháp nhân hóa, sách giáo khoa có những bài tập như:
+ Nhận diện về nhân hóa: Cái gì được nhân hóa? nhân hóa bằng cách nào?
+ Tập nhận biết cái hay của nhân hóa

+ Tập viết câu hay đoạn văn có dùng biện pháp nhân hóa
b. Các phương pháp dạy học chủ yếu
Phân môn Luyện từ và câu rèn cho học sinh dùng từ đúng, nói viết thành câu.
Ở lớp Ba học sinhkhoong phải học những kiến thức lí thuyết về Tiếng Việt. Trong
sách giáo khoa, các kiến thức sơ giản về từ và câu được thực hiên qua các bài tập
thực hành, luyện tập về dùng từ đặt câu, qua việc rèn kĩ năng sử dụng từ ngữ, ngữ
pháp dần dần hình thành ở học sinh một cách tự nhiên các nhận thức ban đầu về
các đơn vị kiến thức, về từ ngữ, ngữ pháp sẽ học ở lớp trên.
Cũng như các phân môn khác trong môn Tiếng Việt, khi dạy học Luyện từ và
câu các phương pháp thường được sử dụng rộng rãi là:
- Phương pháp luyện tập theo mẫu, đấy là phương pháp được sử dụng nhiều
nhất khi dạy Luyện từ và câu lớp Ba. Thông qua việc hướng dẫn học sinh làm mẫu
một phần của bài tập, giáo viên giúp các em nhận biết cách làm bài tập để tự mình
hoàn thành bài tập.
6


- Phương pháp phân tích ngôn ngữ thường được sử dụng khi hướng dẫn học
sinh giải nghĩa từ hoặc mở rộng vốn từ theo cấu tạo.
- Phương pháp giao tiếp: Thông qua việc dạy từ dựa vào lời nói, vào những
thông báo sinh động, vào giao tiếp ngôn ngữ, giáo viên hướng dẫn học sinh vào
những tình huống để tạo ra sản phẩm giao tiếp (là việc hiểu và dùng từ đúng, hay
của học sinh).
- Phương pháp thảo luận nhóm, trò chơi học tập,...
Dạy Luyện từ và câu lớp Ba thực chất là việc tạo cho học sinh thực hiện các
bài tập. Do vậy, khi dạy Luyện từ và câu , để học sinh hứng thú bọc tập, tôi thường
vân dụng các phương pháp phù hợp với từng loại bài:
* Tổ chức cho học sinh thực hiện các bài tập mổ rộng vốn từ và hệ thống
hóa vốn từ.
Từ tồn tại trong đầu óc con người được sắp xếp theo một hệ thống liên tưởng

nhất định. Nhờ quy luật này, từ mới có thể sử dụng được trong lời nói. Vì khi sử
dụng từ, nhờ hệ thống liên tưởng, học sinh sẽ nhanh chóng huy động, lựa chọn
được từ ngữ phù hợp với yêu cầu giao tiếp.
Toàn bộ bài tập mở rộng, hệ thống hóa vốn từ yêu cầu học sinh tìm những từ
theo một dấu hiệu chung nào đó. Ở Tiểu học biện pháp được dử dụng phổ biến
nhất để hệ thống hóa vốn từ là mở rộng vốn từ theo chủ điểm. Các chủ điểm này có
phạm vi rộng hẹp rất khác nhau, vì thế các bài tập rất đa dạng, phong phú. Nhóm
từ theo chủ điểm bao gồm các từ thuộc những từ loại khác nhau. Để giải các bài
tập này, tôi gợi ý cho học tìm trong vốn từ của mình những từ có mang những nét
nghĩa phù hợp với chủ điểm. Cũng có thể liên tưởng theo các lớp từ vựng: đồng
nghĩa, trái nghĩa. Cuối cùng là tìm các từ có cùng cấu tạo.
Giải các bài tập mở rộng hệ thống hóa vốn từ, học sinh sẽ được xây dựng
được những nhóm từ khác nhau. Để hướng dẫn học sinh làm những bài tập này,
giáo viên cần có vốn từ cần thiết và biết phân loại vốn từ.
* Tổ chức cho học sinh thực hiện các bài tập giải nghĩa từ
Tầm quan trọng của việc dạy nghĩa của từ cho học sinh đã được thừa nhận từ
lâu trong phương pháp dạy học Tiếng Việt. Nó là nhiệm vụ quan trọng trong sự
phát triển ngôn ngữ của trẻ em. Việc giải nghĩa từ được tiến hành trong các giờ
học, bất cứ ở đâu có cung cấp từ ngữ, thuật ngữ, khái niệm thì ở đó có giải nghĩa
từ.
Để dạy nghĩa của từ trước hết giáo viên phải hiểu nghĩa của từ và phải biết
giải nghĩa phù hợp với mục đích dạy học, phù hợp với đối tượng học sinh. Ở Tiểu
học, tôi thường sử dụng một số phương pháp giải nghĩa sau:
+ Giải nghĩa bằng trực quan là phương pháp đưa ra các vật chất, tranh ảnh, sơ
đồ,... Để giải nghĩa từ.
Trực quan chiếm vị trí quan trọng trong giải nghĩa từ ở tiểu học vì nó giúp
học sinh hiểu nghĩa từ một cách dễ dàng, nhưng cách giải nghĩa này đòi hỏi giáo
viên phải chuẩn bị khá công phu và không thể dùng để giải thích những từ trừu
tượng. Biện pháp này nên dùng ở các lớp đầu cấp.
Ví dụ: Bài tập yêu cầu học sinh "nhìn vào tranh vẽ xem đâu là đỉnh núi, chân

núi, sườn núi?".
7


+ Giải nghĩa từ bằng ngữ cảnh là để cho từ xuất hiện trong một nhóm từ, một
câu, một bài để làm rõ nghĩa của từ. Tôi không cần giải thích nghĩa của từ được
bộc lộ nhờ ngữ cảnh.
Ví dụ: Để giải nghĩa từ "rực rỡ", tôi đưa ra câu "Những đóa hồng rực rỡ đang
đón chào nắng sớm.".
+ Giải nghĩa từ bằng đối chiếu, so sánh với từ khác.
Ví dụ: Giải nghĩa từ "đồi" bằng cách so sánh "đồi" với "núi". Đồi thấp hơn
núi, có sườn thoải. Cách giải nghĩa này được xây dựng thành bài tập kiểu "Đồi
khác núi như thế nào?".
+ Giải nghĩa bằng định nghĩa là phương pháp giải nghĩa bằng cách nêu nội
dung nghĩa bằng một định nghĩa.
Ví dụ: "Cộng đồng là những người sống trong một tập thể hoặc một khu vực,
gắn bó với nhau". Đây là phương pháp giải nghĩa phổ biến nhất, là biện pháp giải
nghĩa làm cơ sở cho rất nhiều bài tập dạy nghĩa khác nhau. Hình thức giải nghĩa
này có ba dạng bài tập từ dễ đến khó:
*Mức thứ nhất: Đó là kiểu bài tập yêu cầu nối từ với nghĩa tương ứng. Khi
hướng dẫn giải bài tập này, giáo viên phải làm cho học sinh hiểu nghĩa của từng
yêu tố để thấy sự tương ứng của từng cặp.
*Mức thứ hai: Cho sẵn nội dung (nét nghĩa của từ) yêu cầu tìm tên gọi.
Ví dụ: Điền tiếp vào chỗ trống trong câu "Người làm nghề cày ruộng, trồng
trọt trên động ruộng là...". Học sinh phải trả lời được câu hỏi: Người làm nghề cày
ruộng, trồng trọt là ai? Để ghi vào chỗ trống từ "nông dân" cho đúng.
*Mức độ cao: Cho sẵn từ yêu cầu học sinh xác lập nội dung tương ứng. Phổ
biến nhất là kiểu bài tập đưa ra các câu hỏi trực tiếp "Theo em, thám hiểm là gì?".
Để thực hiện loại bài tập này, học sinh phải có kĩ năng định nghĩa.
* Vận dụng phương pháp dạy thực hành giao tiếp để tổ chức dạy học

Để đảm bảo thành công cho các hoạt động thực hành, giáo viên phải dành thời
gian chuẩn bị các nội dung thực hành sao cho phù hợp với đối tượng học sinh, phải
kiểm tra được các hoạt động thực hành của học sinh để tránh học sinh sai từ đầu
đến cuối hoặc không tham gia thực hành.
Khi sử dụng phương pháp thực hành này trong dạy Luyện từ và câu, tôi sử
dụng biện pháp và kĩ thuật sau: Liên hệ với thực tế để biết mục đích bài học, nêu rõ
nhiệm vụ của học sinh cần làm, hướng dẫn học sinh huy động kiến thức đã học và
kinh nghiệm của cá nhân để hình thành kiến thức đã học và kinh nghiệm của cá
nhân để hình thành kiến thức mới.
* Phương pháp trò chơi học tập
Trò chơi học tập là trò chơi đặc biệt không chỉ nhằm giải trí mà còn góp phần
củng cố tri thức, kĩ năng đã học.
Nội dung trò chơi học tập phải gắn với các tri thức, kĩ năng của môn học, trò
chơi cần phải có luật rõ ràng, đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện, không đòi hỏi phải có
thời gian dài cho việc huấn luyện, phù hợp với trình độ học sinh, không quá khó.
* Phương pháp học nhóm
Dạy Luyện từ và câu theo phương pháp hợp tác nhóm nhằm hình thành ở học
sinh khả năng giao tiếp, kĩ năng hợp tác, thích ứng và độc lập suy nghĩ.
8


Dạy học Luyện từ và câu theo phương pháp hợp tác nhóm phải đáp ứng yêu
cầu: Đề tài đưa ra thảo luận có tác dụng kích thích suy nghĩ, tò mò của các em,
khuyến khích học sinh mạnh dạn tham gia thảo luận.
* Phương pháp sử dụng tình huống có vấn đề trong tổ chức hoạt động
Nhằm hình thành ở học sinh khả năng tư duy tự giải quyết vấn đề, khả năng
thích ứng, khả năng hợp tác trong đời sống, đặc biệt trong giao tiếp.
Khi dạy luyện từ và câu, tôi tạo ra tình huống có vấn đề bằng cách nêu mục
đích hình thành kiến thức, kĩ năng mới.
Tôi sử dụng những phương pháp để tránh cảm giác nặng nề trong việc tiếp

nhận kiến thức lí thuyết ngôn ngữ của học sinh. Đối với mỗi nhóm bìa học, lựa
chọn phương pháp thích hợp.
Biện pháp 2: Thường xuyên tạo ra những tình huống có vấn đề trong tiết
học, từ đó gây cho học sinh những bất ngờ thú vị khi học phân môn này.
Ví dụ 1: Khi dạy bài so sánh trang 42, tập 1 tôi đố học sinh câu hỏi Cái dấu
hỏi giống như cái gì? (Học sinh trả lời: Cái dấu hỏi như vành tai nhỏ). Từ đó tôi
giới thiệu cho học sinh biết đây là câu có hình ảnh so sánh bài học hôm nay các em
sẽ được học bài “So sánh”.
Ví dụ 2: Khi dạy bài Luyện từ và câu: Bài So sánh - dấu chấm trang 24 tập 1.
Trước khi vào bài tập 3: Đặt dấu chấm thích hợp trong đoạn văn và viết hoa những
chữ đầu câu, tôi nói: Trong bài cuộc họp của chữ viết bạn Hoàng không biết dùng
dấu chấm câu có đoạn bạn viết thế này: Tôi gắn bảng phụ đoạn văn bạn Hoàng viết
trên bảng và cho học sinh đọc “Chú lính bước vào đầu chú. Đội chiếc mũ sắt dưới
chân. Đi đôi giày da trên trán lấm tấm mồ hôi.” Cho học sinh nhận xét đoạn văn
bạn Hoàng viết, bạn dùng dấu chấm đúng hay sai? (Học sinh trả lời ‘Sai’) Giáo
viên nói vậy bây giờ chúng ta sẽ giúp bạn Hoàng sửa lại dấu chấm câu cho đúng .
Tôi cho học sinh sửa dấu chấm câu cho đúng, học sinh sẽ sửa được và cho học
sinh đọc đoạn văn vừa sửa rồi so sánh với đoạn văn chưa sửa .
Khi học sinh đã sửa xong giáo viên hỏi: Nếu dùng dấu chấm không thích hợp
thì nghĩa của câu văn thế nào? (Nghĩa của câu văn sẽ khác đi làm cho người đọc
cảm thấy buồn cười). Từ đó học sinh sẽ thận trọng đặt dấu câu, dấu chấm câu cho
đúng ở các bài tập cùng dạng và vân dụng khi viết văn. Những tiết học như thế sẽ
sinh động hơn, học sinh cảm thấy hứng thú học tập hơn. Như vậy tôi đã dùng
phương pháp dạy học nêu vấn đề và đòi hỏi học sinh phải giải quyết vấn đề cho
những tình huống đặt ra.Tình huống có vấn đề đóng vai trò quan trọng trong dạy
học nêu vấn đề. Việc giải quyết vấn đề trong tình huống cụ thể, học sinh nắm tri
thức và phát triển tư duy sáng tạo. Phương pháp này nhằm phát huy tính độc lập
suy nghĩ và tính sáng tạo của học sinh.
Biện pháp 3: Tạo thói quen sử dụng Từ điển Tiếng Việt cho các em trong
một số tiết Luyện từ và câu

Đây là một tài liệu không thể thiếu trong tiết Luyện từ và câu, từ việc tra từ
điển các em sẽ có thêm vốn từ Tiếng Việt phong phú hơn, nó giảm bớt khó khăn
cho các em khi học phân môn này, các em sẽ tự tin hơn và không còn tâm lí ngại
tìm từ.
Biện pháp 4: Thay đổi hình thức tổ chức dạy học thường xuyên
9


Nếu giáo viên và học sinh chuẩn bị bài rất kĩ mà không có sự thay đổi hình
thức tổ chức dạy học thì các tiết học sẽ trở nên nhàm chán và hiệu quả tiết dạy
không cao.Vì thế tôi thường thay đổi các hình thức tổ chức học tập. Khi thì hoạt
động nhóm đôi, nhóm 4, khi hoạt động cá nhân. Khi tổ chức trò chơi học tập.
Ví dụ: thi đua giữa các nhóm xem nhóm nào tìm được nhiều từ đúng và
nhanh. Khi hoạt động nhóm 4 các nhóm thường được thay đổi vị trí. Ví dụ: 2 em
bàn trước và 2 em bàn sau quay mặt về nhau, khi thì phát ra những bông hoa có 4
màu (Xanh, đỏ, tím, vàng) giáo viên yêu cầu những em có cùng màu hoa với nhau
vào cùng một nhóm và học sinh sẽ rất hứng thú thi đua học tập khi được ghép
nhóm theo hình thức này.
Hoạt động nhóm đôi: Khi thì cho 2 em ngồi cùng bàn, khi thì cho em bàn trên
ngồi quay mặt với em bàn dưới, khi thì đánh số theo em số 1 và số 2 theo từng tổ
và những em số 1 ở tổ này ghép với em số 1 ở tổ kia, làm tương tự với các em số
2.3...
Biện pháp 5: Thường xuyên sử dụng phương pháp trò chơi học tập
- Học tập thông qua trò chơi là phương pháp có hiệu quả cao trong dạy học
phân môn Luyện từ và câu. Trò chơi học tập không chỉ nhằm vui chơi giải trí mà
còn góp phần củng cố kiến thức, kĩ năng học tập cho học sinh
- Trò chơi học tập là một hình thức học tập bằng hoạt động hấp dẫn học sinh,
nó tạo cho các em ghi nhớ sâu hơn kiến thức vừa được học.
- Trò chơi học tập là hình thức tổng hợp trí tuệ giữa các đội chơi, đã tổ chức
chơi thì đội nào cũng muốn giành chiến thắng nên các em đều cố gắng hết mình vì

vậy kết quả học tập sẽ được nâng cao.
- Việc sử dụng trò chơi học tập làm cho tiết học giảm bớt phần khô khan tăng
thêm phần sinh động, hấp dẫn. Những bài tập tổ chức chơi trò chơi thường là các
bài tập cuối tiết hoặc các bài tập dưới dạng củng cố mở rộng kiến thức nó thường
diễn ra khoảng 5 đến 6 phút.
Ví dụ : Tiết Luyện từ và câu bài so sánh trang 42, tập 1. Chia 3 đội chơi mỗi
đội 3 em đại diện cho tổ chơi trò chơi tiếp sức học tập, 3 em trong đội phải nối tiếp
nhau mỗi em viết một câu có hình ảnh so sánh. Kết quả tôi thấy các em viết được
các câu có hình ảnh so sánh rất nhanh và rất hay. Như vậy chỉ trong khoảng 5 phút
các em đã viết được 9 câu câu văn có hình ảnh so sánh mà còn tạo cho các em
không khí thoải mái trong tiết học mà khắc sâu được kiến thức mới học đồng thời
giúp học sinh biết cách sử dụng từ để viết câu có hình ảnh so sánh thành thạo. Tôi
tin rằng những tiết học như thế các em sẽ nhớ lâu hơn và mong muốn được tham
gia các trò chơi ở các tiết tiếp theo.
Biện pháp 6: Tạo tâm thế thoải mái cho các em trong học tập
Tiết học được coi là thành công nếu tiết học đó học sinh có thể lĩnh hội không
chỉ nội dung chính trong sách giáo khoa mà còn mở rộng được kiến thức mở rộng.
Khi dạy tiết Luyện từ và câu tôi thường lấy thêm các bài tập nâng cao ngoài sách
giáo khoa cho học sinh làm với hình thưc khuyến khích học sinh chứ không áp đặt
nên các em rất thoải mái tiếp nhận những bài tập làm thêm và làm có hiệu quả. Tôi
luôn gần gũi giúp đỡ các em làm tốt các bài tập từ đó học sinh đã hứng thú học
phân môn này. Việc giao tiếp với thầy cô, bạn bè của các em có phần tự tin rất
nhiều. Các em áp dụng vào viết văn cũng tốt hơn.
10


2.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm
Sau một thời gian áp dụng những kinh nghiệm của bản thân vào các tiết dạy
Luyện từ và câu. Tôi đã nhận thấy hiệu quả các tiết dạy có chuyển biến tốt. Các em
đã có hứng thú học phân môn Luyện từ và câu hơn, giờ học diễn ra tự nhiên, nhẹ

nhàng, không khí học tập sôi nổi. Việc sử dụng từ ngữ trong văn nói và viết của
học sinh đã có nhiều tiến bộ. Các em tự tin trong giao tiếp, học sinh dám bộc lộ
những suy nghĩ của bản thân về những điều mình đang thắc mắc trong các tiết học.
Đó là những thành công ban đầu của đề tài. Kết quả đạt được sau khi áp dụng các
biện pháp trên:
1. Chất lượng cuối học kì I như sau:

Lớp
3A(Lớp thực nghiệm)
3B (Lớp đối chứng)

Sĩ số
30
29

Hoàn thành tốt Hoàn thành
SL
6
4

TL
20
13,8

SL
20
19

SL
66,7

65,5

Chưa hoàn
thành
TL
SL
4
13,3
6
20,7

2. Chất lượng giữa học kì II như sau:

Lớp
3A(Lớp thực nghiệm)
3B (Lớp đối chứng)

Sĩ số
30
29

Hoàn thành tốt
SL
16
6

Hoàn thành

TL
53,4

20,7

SL
14
12

SL
46,6
72,4

Chưa hoàn
thành
TL
SL
0
0
2
6,9

Kết quả trên đã chứng minh các biện pháp tôi áp dụng là có hiệu quả. Hiện
nay tôi vẫn tiếp tục thực hiện và phát huy những mặt đã đạt được và khắc phục
những mặt còn tồn đọng để chất lượng dạy học phân môn Luyện từ và câu ngày
một tốt hơn.

3. Kết luận, kiến nghị
11


- Kết luận
Trong quá trình nghiên cứu và thử nghiệm, tôi tự thấy để dạy tốt phân môn

Luyện từ và câu, hạn chế được những khó khăn của học sinh khi học phân môn
này và kích thích hứng thú học tập, nâng cao chất lượng học, người giáo viên cần
thực hiện tốt những giải pháp sau:
Giáo viên cần phải nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy theo chuẩn kiến thức kĩ
năng, kết hợp cùng tài liệu tham khảo để hướng dẫn học sinh làm bài tập một cách
tốt nhất.
Thường xuyên tạo ra những tình huống có vấn đề trong tiết học từ đó gây sự
bất ngờ, thú vị khi học phân môn này.
Trong các tiết dạy, giáo viên cần phân loại các dạng bài tập để lựa chọn
phương pháp phù hợp với từng bài để kích thích hứng thú học tập của học sinh.
Tạo tâm thế thoải mái trong học tập cho học sinh.
Thường xuyên tổ chức phương pháp trò chơi học tập.
Là một giáo viên nhiều năm giảng dạy ở khối 3, tôi cũng đã có một số biện
pháp để tích góp chuyên môn cho bản thân trong quá trình giảng dạy phân môn
Luyện từ và câu. Song tôi tự thấy mình cần phải cố gắng học hỏi nhiều hơn nữa. Vì
thời gian và điều kiện nghiên cứu có hạn nên đề tài của tôi không tránh khỏi thiếu
sót. Rất mong hội đồng khoa học nhà trường, Phòng Giáo dục và các bạn đồng
nghiệp đọc và góp ý cho đề tài được hoàn thiện hơn, tôi xin chân thành cảm ơn.
- Kiến nghị
+ Đối với nhà trường: Thường xuyên bổ sung tài liệu tham khảo. Khi tổ chức
hoạt động ngoài giờ lên lớp, nên xen những câu hỏi có liên quan đến phân môn
Luyện từ và câu để học sinh có thêm vốn kiến thức về cách dùng từ và đặt câu.
+ Đối Phòng Giáo dục và Đào tạo: Hàng năm tổ chức hội thảo nâng cao hiệu
quả viết sáng kiến kinh nghiệm đến toàn thể cán bộ giáo viên, nhân viên.
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ
...................................................
...................................................
...................................................
....................................................

......................................................

Yên Thái, ngày 06 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến
kinh nghiệm của mình viết, không sao
chép nội dung của người khác.

Lê Thị Huyền

TÀI LIỆU THAM KHẢO
12


STT

Tên tài liệu

Tên tác giả hoặc nhà xuất bản

1

Sách Tiếng Việt lớp 3

NXB Giáo dục

2

Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 3

NXB Giáo dục


3

Sách nâng cao Tiếng Việt 3

NXB Giáo dục

4

Luyện từ và câu Tiếng Việt 3

Nhà xuất bản Đại học Sư phạm

5

Dạy học từ ngữ ở tiểu học

NXB Giáo dục

6

Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến NXB Giáo dục
thức, kĩ năng các môn học ở tiểu
học – Lớp 3

13


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH

GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP
CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Lê Thị Huyền
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên - Trường Tiểu học Yên Thái

TT
1.

2.
3.

Tên đề tài SKKN
Trò chơi học tập dùng cho dạy
các bài chính tả theo hướng tích
cực hóa hoạt động cho học sinh
lớp 3.
Một số biện pháp giúp học sinh
giảm bớt lỗi chính tả ở lớp 2.
Một số kinh nghiệm rèn đọc cho
học sinh lớp 2.

Cấp đánh giá
xếp loại (Phòng,
Sở, Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,
hoặc C)


Năm học
đánh giá
xếp loại

Phòng GD&ĐT

C

2013-2014

Phòng GD&ĐT

B

2014-2015

Phòng GD&ĐT

C

2015-2016

14



×