Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Một số biện pháp rèn kĩ năng thực hành tiếng việt cho học sinh lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.85 KB, 18 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GD&ĐT TRIỆU SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG THỰC HÀNH
TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH LỚP 3

Người thực hiện : Lê Thị Minh
Chức vụ : Giáo viên
Đơn vị công tác : Trường TH Hợp Thành
SKKN thuộc lĩnh vực ( môn ): Tiếng Việt

THANH HOÁ NĂM 2018


MỤC LỤC
Trang
1.Mở đầu

1

1.1

Lý do chọn đề tài

1

1.2


Mục đích nghiên cứu

2

Đối tượng nghiên cứu

2

Phương pháp nghiên cứu

2

.
1.3
.
1.4
.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1

Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

2
2

.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

2


2.3.

Các giải pháp rèn kỹ năng thực hành Tiếng Việt cho học sinh
lớp 3.

3

2.4.

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.

12

3. Kết luận và kiến nghị

12

3.1 Kết luận

12

.
3.2. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo

13


1. MỞ ĐẦU

1.1. Lí do chọn đề tài.
Trong những năm gần đây, Giáo dục được xem là quốc sách hàng đầu
trong nền kinh tế quốc dân. Giáo dục Tiểu học là bậc học quan trọng đặt nền
móng đầu tiên cho việc hình thành và phát triển nhân cách con người. Đây là
bậc học cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về tự nhiên xã hội, trang bị
những phương pháp và kĩ năng ban đầu về hoạt động nhận thức thực tiễn. Bên
cạnh đó nó còn bồi dưỡng, phát huy tình cảm đạo đức và nhân cách tốt đẹp của
con người trong tương lai. Đặc biệt là môn Tiếng Việt ở Tiểu học nói chung và
lớp 3 nói riêng, nó chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong tất cả các môn học,
nó là chìa khoá mở tri thức đưa các em đến với kho tàng văn hoá của nhân loại,
là cơ sở để phát triển tư duy cho trẻ để tiếp thu và học các môn học khác. Môn
Tiếng Việt có nhiệm vụ hình thành và phát triển cho học sinh các kỹ năng đọc,
viết, nghe, nói để học tập và giao tiếp. Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt các
em được rèn luyện các thao tác tư duy, có những hiểu biết sơ giản về tự nhiên,
xã hội và con người, về văn hoá, văn học của Việt Nam và nước ngoài. Từ đó
bồi dưỡng cho các em tình yêu tiếng việt và hình thành thói quen giữ gìn sự
trong sáng, giàu đẹp của tiếng việt, góp phần hình thành nhân cách con người
mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong thực tiễn dạy học hiện nay, việc dạy và học những kiến thức về mở
rộng vốn từ theo chủ đề học tập, nhất là việc sử dụng vốn từ ngữ đó trong nói,
viết câu, viết đoạn văn ở lớp 3 còn gặp không ít khó khăn. Vốn từ của các em
còn nghèo nàn, kĩ năng sử dụng từ còn hạn chế, chưa nắm chắc cấu trúc câu. Do
đó, khi dùng từ để nói - viết thành câu các em sử dụng còn tuỳ tiện, dựa theo
cảm tính mà không biết dùng đúng theo ngữ cảnh. Các em hay bắt chước người
khác, không đủ khả năng để chọn lọc hay suy nghĩ xem từ nào đúng, từ nào sai,
câu này nên nói lúc nào, nên viết ra sao và dùng trong ngữ cảnh nào là phù hợp.
Vì vậy, các câu, bài cứ na ná giống nhau, dùng câu chưa đúng ngữ điệu, không
có sự biểu cảm chỉ đơn thuần là những câu liệt kê, thông báo đơn giản. Học sinh
dùng từ sai làm cho người khác không hiểu ý cần diễn đạt.
Vậy làm thế nào để dạy cho học sinh sử dụng tiếng việt một cách cơ bản

thành thạo, có kĩ năng nói - viết đúng tiếng việt để từ đó phát triển lên một mức
độ nói - viết hay? Với thời lượng nội dung quy định cho từng tiết học môn Tiếng
Việt ở Tiểu học hiện nay thì việc dạy cho học sinh sử dụng tiếng việt nói chung
là hợp lý. Tuy nhiên khi dạy các tiết ôn luyện, rèn kĩ năng thực hành Tiếng Việt
ở buổi học thứ hai (lớp học 2 buổi/ngày), giáo viên còn gặp không ít khó khăn
và lúng túng. Giáo viên cũng ít được dự giờ, học hỏi lẫn nhau về những tiết học
loại này. Các chuyên đề bồi dưỡng cũng chưa đề cập đến, chưa có một quy trình
cụ thể hay tài liệu tham khảo nào dành cho các tiết rèn kĩ năng thực hành Tiếng
Việt như các tiết dạy chính khoá. Nhiều giáo viên đành “Tự biên, tự diễn”, nếu
không sáng tạo linh hoạt thì chỉ dạy theo kiểu lặp lại dạng bài của tiết chính
khoá, hiệu quả của các tiết rèn kĩ năng chỉ dừng lại ở chỗ “Ôn lại bài vừa học”.
Điều này làm cho học sinh hoàn thành tốt cảm thấy nhàm chán, học sinh chưa
hoàn thành thì sinh ra ỷ lại, thụ động, khó phát triển được tư duy ngôn ngữ.
Từ những vấn đề nêu trên là một giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp 3, với
1


sự trăn trở mong muốn cần phải làm gì để thực hiện có hiệu quả, thực hiện tốt
mục tiêu Giáo dục? Quá trình dạy học và Giáo dục sẽ mang lại điều gì cho trẻ?
Để góp phần nâng cao chất lượng kĩ năng nói - viết cho học sinh, trong năm học
2017- 2018 tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Một số biện pháp rèn kĩ năng thực
hành Tiếng Việt cho học sinh lớp 3”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
- Tháo gỡ những khó khăn về kỹ năng sử dụng vốn từ để nói, viết thành
câu, đoạn văn của học sinh.
- Rèn kỹ năng diễn đạt, khả năng giao tiếp tốt, tạo tự tin, tích cực, chủ
động và hứng thú trong học tập cho học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Tìm ra các giải pháp để giúp học sinh lớp 3 có một số kỹ năng thực hành
Tiếng Việt tốt.

1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu tìm các biện pháp rèn kĩ năng thực hành Tiếng
Việt cho học sinh lớp tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
Như chúng ta đã biết, từ xưa đến nay, ông cha ta luôn đề cao giáo dục lời
nói trong giao tiếp “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Áp dụng phương châm
“Tiên học lễ, hậu học văn” trong nhà trường không chỉ dạy cho các em biết viết
thực hành trên giấy mà còn dạy các em biết sử dụng lời nói biểu cảm trong giao
tiếp. Đây là một việc làm hết sức quan trọng trong quá trình giáo dục học sinh.
Giao tiếp đóng vai trò quan trọng hàng đầu và xuyên suốt quá trình học môn
Tiếng Việt cũng như các môn học khác.
Việc giúp học sinh lớp 3 rèn kỹ năng sử dụng vốn từ để nói, viết câu, đoạn
văn có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống ngôn ngữ vì nó chính là bước
đầu giúp cho các em nắm vững ngôn ngữ tiếng việt làm phương tiện giao tiếp
phù hợp với điều kiện hoàn cảnh trong các tình huống đa dạng của cuộc sống.
Giúp các em hiểu về thế giới xung quanh, có tình yêu gia đình, nhà trường, yêu
Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động. Nếu các em còn hạn chế về ngôn ngữ,
nghe nói chỉ hiểu lơ mơ, nói viết không chính xác, không thể hiện được ý mình
cho suôn sẻ thì không thể nào khai thác đầy đủ các thông tin tiếp nhận từ thầy
cô, từ sách vở được. Vậy dạy Tiếng Việt chính là dạy cho học sinh biết cách sử
dụng vốn từ ngữ của mình được học trong sách vở và học trong cuộc sống hằng
ngày để giao tiếp với mọi người xung quanh hiểu được ý của mình cần diễn đạt,
Ngoài ra còn biết cách sử dụng vốn từ ngữ đó để viết thành văn bản hay, nội
dung xúc tích, dễ hiểu. Chính vì vậy, chúng ta cần coi trọng việc đào tạo về mặt
ngôn ngữ, xem đó là điều kiện không thể thiếu để bảo đảm thành công trong
việc thực hiện sứ mệnh trọng đại hình thành con người xã hội

chủ nghĩa.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2


Qua nhiều năm giảng dạy ở khối lớp 3 cũng như qua nghiên cứu, dự giờ
trao đổi với đồng nghiệp, tôi nhận thấy có một số giáo viên dạy học sinh trong
trường nói chung và học sinh lớp 3 nói riêng về kỹ năng thực hành tiếng việt
còn đơn điệu và chưa hiệu quả, dẫn đến học sinh còn lúng túng trong việc khắc
sâu kiến thức, chọn từ và dùng từ đặt câu còn máy móc, viết đoạn văn chưa hợp
lý, chưa hay vì thế mà trong mỗi giờ học các em chưa hứng thú, chưa tích cực
học tập và hoạt động hợp tác nhóm chưa hiệu quả.
Đối với học sinh lớp 3D Khi tôi nhận lớp, năm học 2017 – 2018, đa số
các em đều là con em nông thôn. Một số em có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó
khăn ở với ông bà thiếu sự quan tâm chu đáo của người lớn nên thực tế khả năng
giao tiếp còn hạn chế, chất lượng sử dụng ngôn từ trong khi học Tiếng Việt chưa
cao, nhiều em còn chưa biết trả lời theo câu hỏi bài học chứ đừng nói đến việc
các em biết tự dùng từ viết câu văn. Một số em ít có điều kiện tiếp xúc nơi đông
người nên còn nhút nhát, ngại giao tiếp, ít phát biểu, chưa tự tin trong luyện nói.
Một sô em nói năng còn cộc lốc, không biết diễn đạt hết ý của mình vì vốn từ rất
nghèo nàn, kỹ năng sử dụng từ hạn chế, chưa nắm vững mẫu câu…. Do đó, khi
sử dụng từ để nói, viết thành câu các em sử dụng còn tuỳ tiện, dựa theo cảm tính
hay bắt chước người khác, không đủ khả năng chọn lọc hay suy nghĩ xem từ nào
đúng, từ nào sai, câu này nên nói lúc nào, nên viết ra sao và dùng trong ngữ
cảnh nào. Vì vậy các câu văn thường hay bị lặp từ, cách dùng câu chưa đúng
ngữ điệu, không có sự biểu cảm mà đơn thuần chỉ là những câu liệt kê, thông
báo đơn giản, các em dùng từ sai, làm cho người khác không hiểu ý diễn đạt.
Để có cơ sở nhằm xác định đúng đối tượng cũng như các kỹ năng cần bồi
dưỡng cho học sinh, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng môn Tiếng Việt ở lớp
tôi đảm nhiệm thông qua một số các kỹ năng cơ bản và kết quả như sau:

Số
HS

36

Các kĩ năng

Mức độ đánh giá
Hoàn thành
Hoàn
Chưa hoàn
tốt
thành
thành
SL
TL SL TL SL
TL

1. Diễn đạt rành mạch khi nói.

10

27,8

17

47,2

9


25.0

2. Diễn đạt rành mạch khi viết.

9

25.0

18

50,0

9

25,0

7

19,5

17

47,2

12

33,3

5


13,9

19

52,8

12

33,3

3. Sử dụng câu, từ hợp lý, có
chọn lọc khi nói, viết.
4. Sử dụng lời nói biểu cảm
trong giao tiếp.

2.3. Các giải pháp để giải quyết vấn đề.
Từ thực tế cho thấy kỹ năng sử dụng vốn từ để diễn đạt nói, viết câu
Tiếng Việt của học sinh lớp tôi đa số là còn hạn chế. Các em chưa biết sử dụng
từ phù hợp để nói, viết thành câu văn hay đúng ngữ cảnh. Ý thức được vai trò
của việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp và thực trạng của lớp như đã nêu trên.
Với mong muốn giúp cho học sinh có kỹ năng sử dụng vốn từ và câu thật tốt,
chủ động tích cực, sáng tạo trong học tập, để mỗi giờ học trở nên lí thú có hiệu
3


quả, tôi đã mạnh dạn đưa ra những biện pháp chủ yếu sau:
*Biện pháp 1: Phân loại đối tượng học sinh.
Thông qua kết quả khảo sát tôi đã nắm bắt chặt chẽ mức dộ kiến thức của
từng em và phân loại học sinh theo các nhóm đối tượng:
+ Nhóm 1: gồm những học sinh có lời nói lưu loát, đọc trôi chảy mạch

lạc, biết thể hiện lời nói biểu cảm trong giao tiếp.
+ Nhóm 2: gồm những học sinh có lời nói tương đối lưu loát, trôi chảy.
Tuy nhiên chưa thể hiện được lời nói biểu cảm trong giao tiếp một cách rõ nét.
+ Nhóm 3: gồm những học sinh còn nhút nhát, nói năng cộc lốc, ngại
giao tiếp, hầu như không biết sử dụng lời nói biểu cảm trong giao tiếp.
Sau khi phân tích đặc điểm cũng như mức độ giao tiếp của từng học sinh
trong lớp, tôi đã tiến hành sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh sao cho cả ba đối tượng
học sinh nêu trên đều được phân bố khắp trong các tổ, các nhóm để khi các em
hợp tác nhóm với nhau sẽ tương trợ lẫn nhau, giúp nhau trình bày ý kiến của
mình trước nhóm, trước lớp. Đây là một việc làm hết sức bổ ích đúng như câu
tục ngữ đã nói: “Học thầy không tày học bạn”. Khi các em hợp tác nhóm những
học sinh còn nhút nhát, nói năng cộc lốc, ngại giao tiếp sẽ tự tin, mạnh dạn, năng
động hơn rất nhiều khi được tham gia trình bày ý kiến trước chỗ đông người.
*Biện pháp 2: Giúp học sinh mở rộng vốn từ thông qua việc chuẩn bị
bài.
Bước chuẩn bị bài là rất quan trọng vì nó giúp cho học sinh nhớ được các
kiến thức, kỹ năng đã học ở bài học trước và nắm sơ lược toàn bộ nội dung kiến
thức mới của bài học hôm sau. Chính vì vậy để một giờ học thực sự đạt hiệu quả
đòi hỏi người giáo viên phải hướng dẫn các em thật cụ thể, tỉ mĩ cần chuẩn bị
những gì, cần làm những gì cho tiết học ấy. Cho nên sau mỗi tiết học trên lớp tôi
đều hướng dẫn cụ thể về nhà các em cần phải chuẩn bị bài theo hệ thống câu hỏi
trong sách giáo khoa, đọc các văn bản cần thiết, chuẩn bị những bài tập trình bày
theo nhóm, sưu tầm tranh ảnh, tìm các từ cùng loại, cùng chủ đề đang học là
những từ ngữ mà các em thường gặp trong cuốc sống và có thể tham khảo thêm
ý kiến của cha mẹ.
Ví dụ: Khi học bài: Từ chỉ sự vật - Luyện từ và câu - Tuần 1. Tôi yêu cầu
học sinh về nhà chuẩn bị bài bằng cách quan sát các sự vật xung quanh, tìm từ
ngữ gọi tên sự vật đó để lên lớp ghi vào bảng nhóm, có thể minh hoạ bằng hình
vẽ hoặc giải thích cụ thể đối với những từ chỉ sự vật: lạ, hiếm…Những bảng từ
được các em treo lên bốn bức tường của lớp, giờ ra chơi hay tiết sinh hoạt đầu

giờ học, các em sẽ cùng nhau đọc và tìm ra những từ sai hoặc không có nghĩa để
sửa lại cho đúng. Cứ như vậy, ngày này qua ngày khác, những từ ngữ, hình vẽ
trong bảng nhóm giúp các em có thêm rất nhiều từ mới chỉ tên gọi các sự vật,
hiện tượng, đôi khi chỉ là những từ ngữ thật giản dị như: cây phượng vĩ, tờ lịch,
con chó, bầu trời. cánh đồng, dòng sông, hạt mưa… nhưng nó rất cần thiết với
các em và sau này khi cần sử dụng vào một bài học hay một bài tập nào đó các
em có thể vận dụng những từ ngữ sẵn có để sử dụng.
+ Khi học bài: Từ chỉ hoạt động, trạng thái - Tuần 7. Tôi hướng dẫn các
em chuẩn bị bài bằng cách giảng cho các em hiểu từ ngữ chỉ hoạt động là những
từ chỉ vận động mà các em nhìn thấy nó hướng ra bên ngoài ngay tại các trò
4


chơi mà các em tham gia ở lớp, ở trường như hoạt động: chạy, nhảy, ngồi, …
hay tại trong các tiết học: viết, đọc, nói, giơ, hạ, …Còn những từ chỉ trạng thái là
những từ cũng chỉ vận động nhưng không hướng ra bên ngoài, không nhìn thấy
được mà nó tự diễn ra ở bên trong hoặc hướng vào bên trong như từ: suy nghĩ,
buồn, ghét, chết, sống… Ngoài ra các em còn có thể tìm thêm các từ ngữ chỉ
hoạt động, trạng thái khác qua một số công việc ở nhà các em giúp đỡ, quan tâm
ông bà, cha mẹ như: nhặt rau, quét nhà, rửa bát, ấm chén, yêu, nhớ, …để các
em về nhà chuẩn bị bài chu đáo, hiệu quả. Những từ ngữ các em tìm được này
đến lớp các em thảo luận nhóm và tiếp tục ghi vào bảng nhóm treo trên tường
lớp, khi cần sử dụng vào làm bài các em sẽ có sẵn để vận dụng.
*Biện pháp 3: Giúp học sinh mở rộng vốn từ và sử dụng từ ngữ thông
qua hợp tác nhóm trong tiết học Tiếng Việt.
Học hợp tác nhóm trong tiết học Tiếng Việt là hình thức dạy học có hiệu
quả cao nhất, phát huy được tính tích cực học tập trong cách học hợp tác, giúp
học sinh có khả năng lựa chọn, sử dụng từ thích hợp để diễn đạt, nói trước đông
người, đồng thời tạo cơ hội cho học sinh nhút nhát được tham gia giao tiếp,
được trình bày ý kiến của mình.

+ Khi dạy phân môn Tập làm văn phần thực hành các yêu cầu như: Tự tổ
chức cuộc họp tổ, nhóm; Kể về gia đình em với người bạn mới quen; trình bày
bài miệng trước lớp,… Tôi thường cho các em thảo luận nhóm đôi (2 học sinh)
để thực hiện yêu cầu bài tập sau đó chỉ định một trong số học sinh của nhóm
trình bày kết quả thảo luận của nhóm mình, giúp cho các em có khả năng diễn
đạt lời nói của mình một cách lưu loát, rõ ràng, rành mạch trước tập thể đông
người.
+ Khi dạy phân môn Tập đọc, tôi thường cho các em hợp tác nhóm để
nhanh chóng tìm ra cách đọc đoạn văn, câu thơ, bài thơ, cách trả lời cho những
câu hỏi trong sách giáo khoa, tìm ra nội dung, ý nghĩa của câu chuyện hay bài
đọc đó. Qua đó tôi thấy các em không những nắm vững kiến thức của bài học
mà còn tự tin hơn khi thể hiện ý kiến của mình và nhận xét bạn.
Muốn để các em hiểu rõ nghĩa của từ có trong bài đọc, phải đưa từ ngữ đó
vào văn cảnh cụ thể. Từ đó các em dễ dàng xác định cấu trúc câu cũng như đặc
điểm của câu có liên quan đến loại từ được sử dụng.
Ví dụ: Khi học bài “Cửa Tủng” để giải thích từ ngữ chiếc thau đồng, bờ
biển Cửa Tùng, tôi tìm những câu văn trong bài có sử dụng biện pháp so sánh
với các từ trên như: “Mặt trời như chiếc thau đồng đỏ ối chiếu xuống mặt nước
biển.“ ; “ Bãi biển Cửa Tùng giống như một chiếc lược đồi mồi cài vào mái tóc
bạch kim của sóng biển.”
+ Khi dạy phân môn Luyện từ và câu. Để giúp học sinh nắm vững cấu
trúc các kiểu câu mà mình sẽ vận dụng vào thực hành nói và viết đoạn văn. Tôi
đã hướng dẫn cho các em xác định đúng và hiểu từng bộ phận trong câu như: bộ
phận trả lời cho câu hỏi “là gì?” trong câu kiểu “Ai - là gì?” thường là các từ
dùng để giới thiệu hay để nhận định (VD: Bạn ấy là hoạ sĩ nhỏ đấy.). Còn bộ
phận trả lời cho câu hỏi “làm gì?” trong câu kiểu “Ai - làm gì?” thường là các từ
chỉ hoạt động hướng ra bên ngoài nhìn thấy được hay diễn ra bên trong sự vật
hiện tượng trong câu đó. Bộ phận trả lời cho câu hỏi “thế nào?” trong câu kiểu
5



“Ai - thế nào?” thường là các từ chỉ đặc điểm, tính chất….của sự vật hiện tượng
trong câu.
Với sự hợp tác nhóm qua các tiết hướng dẫn thực hành Tiếng Việt các em
đã biết cách tìm từ, nắm vững cấu trúc câu và đặt câu theo mẫu nhanh hơn, nội
dung diễn đạt đa dạng, phong phú, câu văn có hình ảnh so sánh, nhân hoá phù
hợp với văn cảnh.
Chính vì vậy khi làm bài tập làm văn học sinh đã biết lựa chọn từ và đặt
câu văn hay, sinh động, có hình ảnh so sánh như:
- Quê hương em có dòng sông uốn lượn qua cánh đồng lúa chín.
- Cây nhãn như một bà mẹ thương con, dồn tất cả sữa ngọt, sữa ngon
của mình lên các chùm quả.
- Khi gió lặng, không có dông bão, mặt biển phẳng lặng, sáng trong như
một tấm thảm khổng lồ bằng ngọc thạch.
- Đầu chú chào mào nhỏ xíu với chiếc mào duyên dáng như chiếc vương
miện lấp lánh thật yểu điệu.
Ngoài ra, để tăng cường rèn kỹ năng nói, viết của học sinh tốt hơn, biết
lựa chọn từ phù hợp, đặt câu hay giàu hình ảnh. Trong các tiết hướng dẫn thực
hành Tiếng Việt tôi thường cho các em thảo luận nhóm tìm các sự vật được nhân
hoá trong câu và nó được nhân hoá bằng cách nào?
Ví dụ: Bài Luyện từ và câu -Tuần 19 - vở bài tập cuối tuần Tiếng Việt 3.
a) Bé ngủ ngon quá
Đẫy cả giấc trưa
Cái võng thương bé
Thức hoài đưa đưa.
b) Những anh gọng vó đen sạm, gầy và cao, nghênh cặp chân gọng vó đứng
trên bãi lầy bái phục nhìn theo chúng tôi.
Các em thảo luận nhóm và tìm ra được những sự vật được nhân hoá trong
câu và nó được nhân hoá bằng những từ ngữ vốn để gọi và tả con người, sau đó
các em ghi kết quả vào bảng nhóm rồi tôi chọn bất kỳ một em trong nhóm trình

bày ý kiến của nhóm mình trước lớp ( Học sinh nêu được: Cái võng được nhân
hoá bằng từ ngữ chỉ hoạt động, đặc điểm của người: thương, thức, đưa đưa.
Gọng vó được nhân hoá bằng những từ ngữ gọi tên người và chỉ hoạt động, đặc
điểm của người: anh, bái phục nhìn theo chúng tôi”.
Để giúp học sinh làm giàu vốn từ ngữ, rèn kĩ năng nói, viết Tiếng Việt tôi
thường hướng dẫn các em thực hiện hoạt động thông qua việc sau:
* Mở rộng vốn từ và sử dụng từ:
Tôi yêu cầu học sinh tìm các từ chỉ sự vật, hiện tượng, hoạt động trạng
thái, đặc điểm,.. trong bài tập, sau đó hướng dẫn các em hợp tác nhóm, tìm ra
những sự vật hiện tượng hay hoạt động trạng thái, đặc điểm có thể so sánh với
nhau.
Ví dụ: Luyện từ và câu -Tuần 25- vở bài tập cuối tuần Tiếng Việt 3.
“Em thương làn gió mồ côi
Không tìm thấy bạn, vào ngồi gốc cây
Em thương sợi nắng đông gầy
Run run ngã giữa vườn cây cải ngồng.”
6


Tôi hướng dẫn cho các em tìm ra hai sự vật làn gió và sợi nắng được tả
bằng những từ ngữ chỉ đặc điểm và hoạt động của con người: mồ côi, tìm, ngồi,
gầy, run run, ngã. Cách tả hai sự vật như vậy làm cho chúng trở nên sinh động,
gần gũi, khơi dậy tình cảm yêu thương, chia sẻ của các em đối với những đứa trẻ
mồ côi, những người cô đơn, ốm yếu, không nơi nương tựa.
Ví dụ: “Bàn tay của bà có thể so sánh với quả mướp héo” vì đều có đặc
điểm nhăn nheo giống nhau; “Chiếc đồng hồ có thể so sánh với anh công nhân”
vì đều làm việc chăm chỉ…. Từ cách so sánh này các em hiểu đươc muốn sử
dụng phép so sánh thì phải có hai sự vật được so sánh trở lên và phải có yếu tố
tương đồng.
Khi học sinh đã nắm vững được từ ngữ về nhân hoá, tôi yêu cầu các em

quan sát và tìm những từ chỉ sự vật xung quanh em như: Cái cặp, cái thước, cái
đồng hồ,….và tìm các từ ngữ dùng để gọi tên và chỉ hoạt động, đặc điểm của
người để sử dụng phép nhân hoá ( Ví dụ: Bác kim giờ nhích từng bước, từng
bước)… Từ đó giúp các em nhớ kĩ rằng: dùng những từ ngữ thường chỉ người
để gán cho sự vật, hiện tượng chính là nhân hoá sự vật, hiện tượng đó. Nhờ đó
các em dần biết sử dụng các phép nhân hoá, so sánh ở mức độ đơn giản. Bước
đầu biết vận dụng vào các trường hợp cụ thể một cách hợp lý có chọn lọc và
sáng tạo. Các em ngày càng sử dụng từ linh hoạt hơn, trong sáng hơn và góp
phần “Giữ gìn và bảo vệ sự trong sáng của Tiếng Việt”.
* Đặt câu và sử dụng câu.
Sau khi học sinh đã biết tìm từ ngữ, tôi cho các em tiến hành đặt câu theo
nhóm. Trong khoảng thời gian nhất định học sinh thực hành đặt câu và ghi các
câu đã đặt được vào bảng nhóm và đánh dấu những câu mình đã đặt được vào
bảng.
Ví dụ: Học sinh thứ nhất trong nhóm ghi các câu đặt được của mình là 1.
Học sinh thứ hai trong nhóm ghi các câu của mình đặt được là 2. ….
Khi hướng dẫn học sinh thực hiện tôi quan sát được mức độ tiến bộ của
từng đối tượng học sinh, nắm được điểm mạnh, điểm yếu của từng em để có
biện pháp khắc phục.
* Cho sẵn chủ đề yêu cầu học sinh tìm từ và đặt câu.
Để phát huy khả năng tư duy của mọi đối tượng học sinh, tôi thường cho
sẵn tên một số chủ đề yêu cầu học sinh tự tìm từ và đặt câu xoay quanh chủ đề
đó.
Ví dụ: Nhà em nuôi một con mèo/ con chó, …Em hãy tìm từ chỉ một vài
đặc điểm của con vật ấy.
Sau khi học sinh thảo luận nhóm tìm được từ, tự đặt câu về đặc điểm của
con vật ấy và ghi vào bảng nhóm câu mình vừa đặt rồi tôi gọi bất kỳ một em
trong nhóm trình bày trước lớp. Khi các em thực hiện công việc tôi thấy các em
đều biết tìm từ, đặt câu và trình bày rất tự tin, mạch lạc.
Ví dụ: Khi viết về bộ lông của con mèo các em có thể chọn câu có hình

ảnh so sánh để viết cho sinh động như: “Bộ lông của nó mượt như nhung”. “Đôi
mắt của nó tròn như hai hòn bi ve”, “Hai cái tai như hai chiếc lá non úp lại”.
Khi học sinh biết dùng từ đặt câu thành thạo, các em có khả năng viết
được một đoạn văn ngắn theo chủ đề cho trước, trong thời gian ngắn của một
7


tiết học thay vì các em chỉ tìm được một, hai từ và đặt được một, hai câu thì bây
giờ các em đã tìm được rất nhiều từ, đặt được nhiều câu văn hay do các em được
trao đổi, học hỏi từ bạn của mình.
Bên cạnh đó các em còn được tạo điều kiện để sửa câu sai, chọn câu văn
hay, phù hợp để viết được một đoạn văn hay phù hợp với yêu cầu của đề bài,
phù hợp với ngữ cảnh.
* Hỗ trợ, hợp tác để làm bài.
Hỗ trợ, hợp tác nhóm là để giúp nhau hoàn thành tốt yêu cầu bài tập. Nên
khi tôi yêu cầu các em hợp tác nhóm để tập viết những đoạn văn kể, tả ngắn theo
nội dung chương trình quy định như: Viết đoạn văn ngắn về cây cối, con vật, gia
đình, bạn bè, người thân,… Trước hết tôi cho các em thảo luận nhóm đôi kể cho
nhau nghe về nội dung yêu cầu bài tập sau đó cho các em trình bày miệng trước
lớp. Tôi thấy cả những học sinh nhút nhát, rụt rè ít muốn thể hiện trước lớp cũng
biết trình bày hợp lý, sử dụng từ tốt, biết sắp xếp câu, lựa chọn ý phù hợp. Bên
cạnh đó các em cũng được phát triển thêm về kĩ năng hợp tác nhóm, kĩ năng trao
đổi, học hỏi nhau, chọn lọc ý kiến.
* Tổ chức học cá nhân:
Khi hướng dẫn học sinh thực hành kỹ năng Tiếng việt, tôi luôn tạo cơ hội
cho các em được nói, được mạnh dạn trình bày trước tập thể. Từ đó giúp các em
rèn kĩ năng giao tiếp, tập biểu hiện thái độ, cử chỉ để tăng phần biểu cảm, tăng
sức thuyết phục của vấn đề mà các em trình bày nhờ vậy mà các em tự tin, mạnh
dạn hơn khi nói trước chỗ đông người.
Học sinh trình bày miệng xong, tôi yêu cầu các em viết lại vào vở rồi thu

vở kiểm tra nhận xét, đánh giá bài viết của các em, giúp các em nhận ra sự khác
nhau giữa văn nói và văn viết: văn nói có thể dùng nhiều từ đệm, từ lặp, ngữ
điệu, văn viết phải mạch lạc, rõ ràng, dùng từ, đặt câu đúng, diễn đạt ý rõ ràng,
câu văn chặt chẽ, chữ viết đúng chính tả, trình bày sạch đẹp đúng yêu cầu.
*Biện pháp 5: Tổ chức thực hành thông qua dạng bài trắc nghiệm.
Dạng bài tập trắc nghiệm là để kiểm tra đánh giá kết quả học tập của các
em qua bài viết của mình với những câu trả lời cho những câu hỏi, bài tập. Tôi
thường sử dụng một số dạng bài tập sau:
* Dạng bài tập câu ghép đôi:
Dạng bài tập câu trắc nghiệm ghép đôi là cho hai dãy thông tin, trong đó
một dãy là những câu hỏi hay câu dẫn, còn dãy kia là những câu trả lời hay câu
lựa chọn và yêu cầu học sinh lựa chọn tương ứng từng nội dung giữa hai dãy
thông tin sao cho đúng, cho hợp mối quan hệ xác định rồi nối chúng lại với
nhau.
Những yêu cầu sư phạm đối với loại bài tập này:
- Những thông tin nêu ra ở từng cột không quá dài.
- Những thông tin ở mỗi cột nên cùng phản ánh một tính chất nào đó của
nội dung.
- Thứ tự các câu hỏi, các câu trả lời được sắp xếp lẫn lộn, tránh thứ tự.
Ví dụ: Để củng cố kiến thức về bài đọc: “Hội võ đồng Cỏ May” - Tuần 26 vở ôn
luyện và kiểm tra Tiếng Việt 3. Tôi hướng dẫn các em làm bài tập sau: Nối mỗi
con vật. loài vật đi dự hội võ với thái độ của chúng.
8


Cào cào

Khệnh khạng, ra oai.

Châu chấu ma


Làm dáng, như e thẹn, ngượng ngùng.

Võ sĩ Bọ Ngựa

Bình tĩnh, tự tin, coi khinh kẻ hách dịch.

Võ sĩ Bọ Muỗm

Tự đắc, chủ quan.

Võ sĩ Dế Mèn

Thích tán tỉnh các nàng cào cào xinh đẹp.

* Dạng bài tập câu điền khuyết:
Dạng bài tập câu điền khuyết này là cho câu dẫn một vài chỗ khuyết và
yêu cầu học sinh phải điền từ ngữ thích hợp vào những chỗ khuyết đó. Các từ
cần điền là những từ “cốt yếu” những từ “khoá” phản ánh nội dung kiến thức mà
các em cần phát hiện, cần biết.
Những yêu cầu sư phạm đối với loại bài tập này:
- Những từ cần điền phải phản ánh nội dung bài học mà học sinh cần lĩnh
hội.
- Số từ cần điền không nên quá nhiều.
- Những từ các em cần tìm, cần điền phải được các em hiểu rõ nội dung,
nghĩa phải phù hợp với bài học.
Ví dụ: Sau khi học xong chủ điểm “Người tri thức” -Tuần 22, tôi đã đưa
ra bài tập ( vở Bài tập cuối tuần Tiếng Việt 3) để củng cố kiến thức về chủ điểm:
Chọn các từ đã cho để điền vào chỗ chấm thích hợp:
a) Người day học, giáo dục học sinh gọi là ……………

b) Người sáng tác tác phẩm văn học gọi là ……………
c) Người nghiên cứu khoa học gọi là ………………….
d) Người thiết kế, chế tạo máy móc gọi là …………….
e) Người khám bệnh, chữa bệnh gọi là ……………….
(Các từ để điền: nhà văn nhà thơ, thầy giáo cô giáo, kỹ sư, nhà bác học,
bác sĩ).
Hay: Sau khi học xong chủ điểm “Bảo vệ Tổ quốc” -Tuần 20, tôi đã đưa
ra bài tập ( vở Ôn luyện Tiếng Việt 3) để củng cố kiến thức về chủ điểm: Điền
các từ ngữ đã cho vào chỗ chấm thích hợp:
a) Ngày nay, chúng ta ra sức lao động, sản xuất để ……….. ngày càng giàu đẹp.
b) Theo lời Bác Hồ dạy, thiếu niên, nhi đồng cùng góp sức ……….. hoà bình của
đất nước.
c) Học sinh cả nước thi đua học tập để mai sau ………… đất nước đàng hoàng,
to đẹp hơn.
( Các từ để điền: bảo vệ, dựng xây, Tổ quốc)
9


Ngoài việc giúp học sinh hoàn thành yêu cầu kiến thức cơ bản của bài
học, để mở rộng vốn từ ngữ cho những học sinh luôn hoàn thành tốt bài học tôi
đã cho các em tìm các từ cùng nghĩa với các từ cho sẵn trong bài để có thể thay
vào các câu trên mà nghĩa của các câu không hề thay đổi.
Ví dụ: cùng nghĩa với từ Tổ quốc là từ đất nước, từ quê hương các em có
thể chọn các từ này để điền vào chỗ chấm trong câu, tương tự hai câu còn lại tôi
cũng làm như thế. Cách làm này tôi có thể khai thác triệt để vốn từ ngữ của các
em đã được học, được ghi nhớ và phát huy kỹ năng nói trước lớp.
*Biện pháp 6: Nâng cao kỹ năng tự đánh giá và đánh giá kết quả thực
hành.
Kỹ năng tự đánh giá là kiểm tra lại kết quả làm việc của bản thân; kỹ năng
tự đánh giá là quá trình kiểm tra đánh giá mức độ hiểu bài, khả năng trình bày

của bạn. Trong thực tê cho thấy khi học sinh được gọi nhận xét đánh giá kết quả
bài của bạn thì thường trả lời là “đúng ạ” hoặc “sai ạ” nếu giáo viên chỉ dừng lại
ở mức độ đó thì chính điều ấy đã không phát huy được khả năng trình bày, diễn
đạt của học sinh đồng thời cũng không đánh giá được mức độ hiểu bài của học
sinh đó như thế nào. Chính vì vậy trong quá trình tổ chức cho học sinh trình bày
nhận xét, đánh giá, tôi đã yêu cầu các em bước đầu tìm hiểu nhận xét xem các
câu đó đúng ở chỗ nào? sai ở chỗ nào? Sau đó phải trình bày lại được ý kiến của
bạn mà mình cho là đúng. Cũng có thể tôi cho học sinh nhận xét đánh giá thông
qua các câu văn được so sánh với nhau mà hai câu văn cùng tả về một đặc điểm
sự vật.
Ví dụ: So sánh hai câu văn sau:
- Câu 1: Đôi mắt của chú mèo rất tròn.
- Câu 2: Đôi mắt của chú mèo tròn như hai hòn bi ve, màu xanh nước
biển.
Tôi cho các em đọc hai câu văn và đưa ra ý kiến nhận xét, đánh giá xem
câu văn nào hay hơn và hay hơn ở điểm nào? Từ đó dần dần các em biết sử dụng
câu có hình ảnh so sánh, nhân hoá đồng thời biết tự sửa những câu sai ngữ pháp,
câu rườm rà, lủng củng, …
Hay khi tôi dạy bài mở rộng về từ chỉ sự vật và yêu cầu các em tìm từ chỉ
hoạt động, có em đã tìm được từ “múa”. Tôi cho học sinh nhận xét bạn tìm đã
đúng chưa? Thì có học sinh cho rằng từ “múa” là từ chỉ hoạt động nghệ thuật
nhưng cũng có học sinh lại cho rằng từ “múa” này là từ chỉ một môn Nghệ thuật.
Khi các em nhận xét đánh giá như vậy, tôi thấy cả hai ý kiển của các em đều
không sai, nhưng để các em hiểu nghĩa đúng của từ “múa”, tôi hướng dẫn các
em đưa từ:múa” vào câu văn cụ thể và dựa vào đó để xác định từ cho đúng.
Ví dụ: - Câu 1: Múa là một môn nghệ thuật mà rất nhiều người đam mê.
- Câu 2: Các bạn trong lớp mình múa rất dẻo.
*Biện pháp 7: Tổ chức các trò chơi tạo hứng thú trong học tập.
Trò chơi học tập là một hoạt động của con người nhằm mục đích trước
tiên là vui chơi nhưng qua trò chơi người chơi có thể rèn luyện trí tuệ kích thích

tinh thần hào hứng thi đua học tập. Các trò chơi học tập có thể tổ chức cho học
sinh trong giờ tự học hay trong phần củng cố kiến thức của mỗi tiết học. Thông
qua trò chơi học sinh được luyện tập, làm việc cá nhân, nhóm, lớp theo sự phân
10


công và bản thân tự hoạt động, tự củng cố kiến thức, tự hoàn thiện kĩ năng giao
tiếp của chính mình, đặc biệt là những em ngại nói, ngại giao tiếp. Từ đó các em
sẽ nhớ kỹ bài và vận dụng tốt vào việc giao tiếp trong đời sống hàng ngày.
Một số trò chơi tôi thường sử dụng trong tiết dạy Tiếng Việt:
*Trò chơi: Phỏng vấn.
Trò chơi Phỏng vấn nhằm rèn luyện cho các em cách tự giới thiệu bạn bè
về gia đình mình và biết cách phỏng vấn bạn bè hay người khác rồi giới thiệu lại
cho cả lớp cùng nghe
Ví dụ: Bài Tập làm văn Tuần 3 - Kể về gia đình mình cho người bạn mới
quen.
Ở phần củng cố kiến thức bài học, tôi tổ chức cho các em chơi trò chơi
“Phỏng vấn” để giúp các em củng cố kiến thức nội dung bài học và rèn kỹ năng
nói cho các em thông qua trò chơi.
Trước khi tổ chức trò chơi tôi đã nêu rõ cách chơi, luật chơi để các em
nắm vững và xác định đúng về trò chơi này
Tôi cho hai học sinh (nhóm đôi) lên tham gia trò chơi và hướng dẫn cách
chơi: Một em lên làm phóng viên phỏng vấn bạn, một em lên trả lời phỏng vấn
giới thiệu về gia đình mình cho bạn nghe, câu giới thiệu về gia đình của mình có
thể là: Gia đình mình có những ai, làm công việc gì, tính tình của mỗi người như
thế nào? mọi người sống với nhau ra sao?, …. Sau khi phỏng vấn bạn xong thì
bạn làm phóng viên phải giới thiệu lại từng chi tiết của bạn cho cả lớp cùng
nghe, nội dung giới thiệu phải chính xác, rõ ràng, ngắn gọn, đầy đủ thông tin.
Cứ như vậy nhiều học sinh được trình bày trước lớp kể cả học sinh thiếu tự tin,
ngại nói trước lớp khi tham gia trò chơi cũng trả lời được từng câu hỏi một cách

lưu loát, mạch lạc, diễn đạt rõ ràng.
*Trò chơi: Trạm dừng xe buýt.
Trò chơi trạm dừng xe buýt nhằm nâng cao khả năng sử dụng vốn từ cho
học sinh dựa vào những công cụ hỗ trợ học tập trong lớp học. Để phát huy khả
năng tư duy của mọi đối tượng học sinh và kích thích sự khám phá, tìm tòi kiến
thức của các em.
Ví dụ: Bài Luyện từ và câu - Tuần 4- Tìm các từ ngữ chỉ gộp những
người trong gia đình.
Ở phần củng cố kiến thức bài học, tôi tổ chức cho các em chơi trò chơi
“Trạm dừng xe buýt” để giúp các em củng cố kiến thức nội dung bài học và rèn
kỹ năng nói cho các em thông qua trò chơi.
Trước khi tổ chức trò chơi tôi đã nêu rõ cách chơi, luật chơi để các em
nắm vững và xác định đúng về trò chơi này.
Tôi chia lớp thành các nhóm (4 nhóm), mỗi nhóm (9 học sinh), mỗi nhóm
được xem là một “Trạm dừng xe buýt”. Trên bảng nhóm tôi kẻ sẵn cột ghi tên
từng trạm, trong thời gian 5 phút, các em phải ghi lại các từ ngữ chỉ gộp những
người trong gia đình vào bảng nhóm, các tấm bảng nhóm được chuyển qua các
thành viên trong một trạm, bảng được chuyển đến trạm nào thì thành viên trong
trạm đó phải nhanh chóng ghi vào đấy một từ ngữ theo yêu cầu bài tập (Từ ngữ
chỉ gộp những người trong gia đình). Kết thúc trò chơi, tôi gọi bất kỳ một số em
trong các nhóm nhận xét, đánh giá kết quả làm việc của các bạn. Sau đó tôi mới
11


đưa ra nhận xét, đánh giá và chốt lại kết quả đúng hoặc sai, Cuối cùng nhóm nào
tìm và ghi được nhiều từ ngữ ( nghĩa là chở được nhiều hành khách, dừng xe ở
nhiều trạm) thì nhóm đó thắng cuộc.
Trò chơi này không những giúp các em củng cố lại kiến thức nội dung bài
học các em vừa học mà còn giúp các em phát triển năng lực cá nhân, rèn luyện
thể chất, tập phản ứng nhanh và thể hiện tính hợp tác, kỷ luật trong công việc.

*Biện pháp 8: Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá.
Kiểm tra đánh giá là một biện pháp hỗ trợ tích cực trong quá trình dạy và
học của giáo viên và học sinh. Qua kiểm tra đánh giá thường xuyên giúp: Giáo
viên nắm bắt kịp thời mức độ đạt được và chưa đạt được về mục tiêu dạy học,
tình trạng kiến thức, kỹ năng, thái độ của học sinh so với yêu cầu của chương
trình. Có cơ sở thực tế để nhận ra điểm mạnh, điểm yếu của mình, tự điều chỉnh,
hoàn thiện hoạt động dạy, đổi mới phương pháp hình thức tổ chức dạy học, phấn
đấu không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học.
Việc kiểm tra đánh giá học sinh giúp cho giáo viến nắm được cụ thể và
tương đối chính xác trình độ năng lực của từng học sinh trong lớp giảng dạy và
giáo dục, những học sinh có tiến bộ rõ rệt và học sinh có sa sút đột ngột, nắm
được việc học sinh tiếp thu bài ở mức độ nào, cần bổ khuyết những gì, nhận
định rõ về năng lực ghi nhớ, tái hiện, hệ thống hoá kiến thức, kết quả học tập
của mỗi học sinh. từ đó có những biện pháp giúp các em điều chỉnh hoạt động
học tập của mình, củng cố và phát triển trí tuệ, phát triển năng lực tư duy sáng
tạo, hoàn thiện những kỹ năng kỹ xảo, vận dụng tốt tri thức đã học, tạo cơ hội
cho các em kỹ năng tự đánh giá, nhận ra sự tiến bộ của mình khuyến khích,
động viên và thúc đẩy việc học tập ngày càng tiến bộ hơn.
Khi kiểm tra đánh giá nhận xét giáo viên cần tuyên dương trực tiếp, động
viên, khuyến khích kịp thời khi các em có những chuyển biến tích cực, chỉ ra
chỗ sai cho các em thấy và cũng có thể yêu cầu các em đó làm lại bài sai, hoặc
giáo viên có thể chữa bài luôn vào bên cạnh chỗ sai các em mắc phải. Khi các
em được kiểm tra đánh giá, tôi nhận thấy rằng các em đều nhập. Đây là biện
pháp mang lại hiệu quả cao cần phải được thực hiện thường xuyên.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Sau một thời gian nghiên cứu, áp dụng các biện pháp rèn kỹ năng thực
hành Tiếng việt cho học sinh lớp 3 vào thực tế giảng dạy ở lớp 3D, qua các kết
quả kiểm tra, đề tài đã thu được những kết quả nhất định:
Giáo viên nắm bắt kịp thời được khả năng tiếp thu kiến thức và khả năng
diễn đạt trong giao tiếp của từng em trong lớp.

Các em từ sợ học môn Tiếng Việt, ngại trình bày trước chỗ đông người,
ngại đánh giá nhận xét ý kiến của bạn, một số em nói năng cộc lốc, rụt rè nhút
nhát thì giờ các em đã mạnh dạn tự tin hơn trong giao tiếp, tham gia nhận xét
tích cực, khi noi đã biết chọn từ, dùng từ, câu hợp lý để diễn đạt có biểu cảm.
Những câu văn các em viết lủng củng, cách chọn từ câu còn lộn xộn chưa
biết sắp xếp cho hợp lý thì giờ đã biết cách chọn lọc từ, câu có hình ảnh so sánh,
nhân hoá, cách dùng dấu câu chính xác, câu văn tự nhiên sinh động, đúng ngữ
cảnh, không sao chép, không vay mượn văn của người khác.
So sánh với kết quả khảo sát đầu năm và sau khi vận dụng các giải Pháp
12


trên, tôi đã tiến hành kiểm tra học sinh vào thời gian giữa học kì II. Tỉ lệ học
sinh lớp tôi đạt được một số kĩ năng Tiếng Việt ở mức độ cao hơn so với đầu
năm, cụ thể:
Mức độ đánh giá
Số
Các kĩ năng
Hoàn
Hoàn
Chưa hoàn
HS
thành tốt
thành
thành
SL TL
SL
TL SL
TL


36

1. Diễn đạt rành mạch khi nói.

15

41,7

21

58,3

0

0

2.Diễn đạt rành mạch khi viết.

14

38,9

22

61,1

0

0


3. Sử dụng câu, từ hợp lý, có
chọn lọc khi nói, viết.
4. Sử dụng lời nói có biểu cảm
trong giao tiếp.

13

36,1

22

61,1

1

2,8

12

33,3

23

63,9

1

2,8

Quá trình áp dụng các biện pháp nêu trong sáng kiến kinh nghiệm vào giảng

dạy, tôi thấy học sinh có khả năng giao tiếp tốt hơn, kỹ năng diễn đạt câu khi nói
lưu loát, có biểu cảm, khi viết câu văn biết cách sử dụng từ ngữ, câu có hình ảnh
nhân hoá, biết so sánh giữa các sự vật với nhau và phù hợp văn cảnh hơn.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Qua thực tế cho thấy việc áp dụng đề tài: “Rèn kỹ năng thực hành tiếng
việt cho học sinh lớp 3” là rất cần thiết vì đề tài mang lại hiệu quả tương đối tốt
cho cả giáo viên và học sinh, đồng thời bản thân tôi cũng rút ra được một số bài
học kinh nghiệm như sau:
Trước hết người giáo viên phải xác định rõ mục tiêu của việc rèn kỹ năng
thực hành Tiếng Việt cho học sinh là hình thành, phát triển cho học sinh các kỹ
năng nói diễn đạt tốt và hính thành các kỹ năng nghe, đọc, viết để học tốt tất cả
các môn học.
Phải nắm vững đối tượng học sinh, hiểu rõ trình độ và năng lực, nắm
vững khả năng giao tiếp, hoàn cảnh và sở thích của từng em cũng như tâm sinh
lý lứa tuổi học sinh. Thường xuyên trò chuyện, trao đổi với học sinh để tìm hiểu
việc sử dụng ngôn ngữ của các em để đưa ra các giải pháp cụ thể phù hợp với
từng đối tượng. Đặc biệt là những học sinh còn nhút nhát, rụt rè được mạnh dạn,
tự tin khi tham gia ý kiến và nhận xét ban.
Trong quá trình giảng dạy phải linh hoạt đưa ra các phương pháp, hình
thức tổ chức dạy học phù hợp, tạo điều kiện cho tất cả các đối tượng học sinh
được tham gia tích cực, phát huy năng lực, sáng tạo trong học tập. Tổ chức linh
hoạt các trò chơi học tập để giúp học sinh củng cố, nắm vững kiến thức sau mỗi
bài học.
Giáo viên phải thường xuyên nghiên cứu, dự giờ học hỏi đồng nghiệp,
tham dự đầy đủ các lớp tập huấn chuyên môn của trường, của ngành tổ chức để
nắm bắt kịp thời những thông tin về chương trình nội dung bài học và đổi mới
phương pháp, hình thức tổ chức dạy học. Từ đó giáo viên mới có sự tích hợp
kiến thức giữa các môn học và các lớp học với nhau để rèn kỹ năng thực hành
13



nói, viết cho các em.
Hướng dẫn học sinh rèn luyện kỹ năng thực hành Tiếng Việt theo quan
điểm tích hợp kiến thức, kỹ năng giữa bài trước với bài sau, giữa các phân môn
Tiếng Việt với nhau, giữa lớp dưới với lớp trên nhằm giúp các em bộc lộ khả
năng diễn đạt nói lưu loát có biểu cảm mà các em được rèn luyện trong tất cả
các môn học.
Qúa trình hướng dẫn học sinh thực hành Tiếng Việt bản thân giáo viên
phải hết sức kiên trì, bền bỉ, dành nhiều thời gian, tâm huyết, nghiên cứu bài
học, sách vở để tìm ra những phương pháp, hình thức tối ưu nhất giúp các em
phát triển khả năng sử dụng từ vào văn bản nói, viết của mình không những ở
lớp 3 mà còn tiếp tục học các lớp trên.
Bên cạnh đó cần tuyên dương, khích lệ kịp thời tạo động lực lớn giúp học
sinh phấn khởi, tự tin, tích cực tham gia vào các hoạt động học tập trên lớp.
Ngoài ra cần tạo môi trường học tập thân thiện giúp các em hợp tác tốt trong
hoạt động nhóm, phát huy tinh thần “Học thầy không tày học bạn”. Từ đó các
em sẽ ngày càng tiến bộ hơn về các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết Tiếng Việt và
phát huy khả năng giao tiếp trong cuộc sống, góp phần hình thành nhân cách con
người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
3.2. Kiến nghị.
Nhằm hỗ trợ nâng cao hơn nữa chất lượng môn Tiếng Việt tôi đề nghị nhà
trường:
+ Tăng cường và tổ chức tốt hơn nữa các hoạt động ngoài giờ lên lớp để
rèn kỹ năng nói, kỹ năng viết cho học sinh như: Viết báo tường; Trò chơi “Rung
chuông vàng”, “ Chiếc nón kì diệu”, “Vòng quay số”, …tạo cơ hội cho các em
được giao lưu học hỏi, hiểu biết thêm kiến thưc, phát huy năng lực sở trường,
được trình bày các ý kiến của bản thân.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của bản thân trong hoạt động dạy học
rèn kỹ năng thực hành Tiếng Việt cho học sinh lớp 3. Mặc dù bản thân đã dành

nhiều thời gian nghiên cứu, tìm tòi rút kinh nghiệm trong các tiết dạy, tham khảo
ý kiến lãnh đạo, đồng nghiệp song trong quá trình thực hiện không tránh khỏi
những sai sót nhất định. Rất mong nhận được sự đóng góp của Hội đồng khoa
học giúp đỡ cho đề tài được hoàn chỉnh và rất mong các bạn bè đồng nghiệp
tham khảo vận dụng một cách sáng tạo vào trong quá trình giảng dạy bộ môn
Tiếng Việt.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
Thanh Hóa,, ngày 29 tháng 3 năm
CỦA THỦ TRƯỜNG ĐƠN VỊ
2018
Tôi xin cam đoan SKKN là do tôi tự
viết không sao chép của người khác.

Lê Thị Minh
14


TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Sách giáo khoa Tiếng Việt 3 tập 1, 2.
2. Sách giáo viên Tiếng Việt 3 tập 1, 2.
3. Vở bài tập Tiếng Việt 3 tập 1,2
4. Vở Bài tập cuối tuần Tiếng Việt 3 tập 1, 2.
5. Vở Ôn luyện và kiểm tra Tiếng Việt 3 tập 1, 2.
6. Vở Ôn luyện Tiếng Việt 3.

15


DANH MỤC

CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT ĐẠT LOẠI C TRỞ LÊN.

Họ và tên: Lê Thị Minh.
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên - Trường Tiểu học Hợp Thành.
TT
1
2
3
4

Tên đề tài SKKN
Một số biện pháp
rèn đọc cho học
sinh lớp 3.
Một số biện pháp
rèn kỹ năng đọc cho
học sinh lớp 2.
Một số biện pháp
rèn kỹ năng đọc cho
học sinh lớp 2.
Một số biện pháp để
học tốt phân môn
Luyện từ và câu cho
học sinh lớp 2.

Cấp đánh giá
xếp loại
Phòng Giáo dục
và Đào tạo Triệu

Sơn
Phòng Giáo dục
và Đào tạo Triệu
Sơn
Phòng Giáo dục
và Đào tạo Triệu
Sơn
Phòng Giáo dục
và Đào tạo Triệu
Sơn

Kết quả đánh
giá xếp loại

Năm học đánh
giá xếp loại

C

2008 - 2009

C

2012 - 2013

B

2013 - 2014

C


2016 - 2017

16



×