Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

skknMột số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng HSG môn GDCD

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 22 trang )

MỤC LỤC
Trang

I. MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 1
2. Mục đích của đề tài ................................................................................................. 1
II. NỘI DUNG............................................................................................................. 2
1. Thực trạng cuả công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn GDCD THPT hiện nay ...............2
1.1. Thực trạng............................................................................................................................2
1.2. Kết quả của thực trạng trên.................................................................................................3
2. Giải pháp thực hiện ................................................................................................................3
2.1. Thành lập đội tuyển ............................................................................................................3
2.1.1. Phát hiện, lựa chọn và tổ chức thành lập đội tuyển HSG môn GDCD ........................3
2.1.2. Giúp đỡ, động viên, khuyến khích các em trong đội tuyển thường xuyên, kịp
thời...............................................................................................................................................5
2.2. Xây dựng kế hoạch, sử dụng phương pháp bồi dưỡng đội tuyển một cách khoa
học, đúng hướng và có hiệu quả................................................................................................7
2.3. Rèn luyện kỹ năng tự học, đọc tài liệu, khai thác kiến thức .............................................8
2.4. Coi trọng khâu ra đề, đáp án và chấm chữa, rèn luyện kỹ năng làm bài cho học
sinh ..............................................................................................................................................9
2.4.1. Ra đề và đáp án ................................................................................................. 9
2.4.2. Chấm, chữa, sửa lỗi và rèn luyện kỹ năng làm bài cho học sinh ...................... 12
2.5. Phân loại học sinh trong quá trình bồi dưỡng ...................................................... 14
2.6. Tăng cường trao đổi, giao lưu, lắng nghe ý kiến phản hồi từ học sinh ............... 15
2.7. Yêu cầu cao và giao nhiệm vụ cho học sinh ........................................................ 16
2.8. Tranh thủ sự đồng thuận của các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường...........17
III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHI....................................................18
1. Kết quả đạt được ....................................................................................................................18
2. Kết luận ...................................................................................................................................20
3. Đề xuất, kiến nghị ..................................................................................................................20
3.1. Đối với Bộ Giáo dục và đào tạo .........................................................................................20


3.2. Đối với Sở Giáo dục và đào tạo .........................................................................................20
3.3. Đối với các trường THPT...................................................................................................20

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Người thực hiện: Lê Thị Liên – Trường THPT Quảng Xương I

1


1. Bộ Giáo dục – Đào tạo, Quy chế chọn Học sinh giỏi, Nxb Giáo dục, 1997.
2. Bộ Giáo dục – Đào tạo, Sách giáo khoa GDCD lớp 10; 11;12, Nxb Giáo
dục, 2008.
3. Bộ Giáo dục – Đào tạo, Sách GDCD (sách giáo viên), Nxb Giáo dục,
2006.
4. Bộ Giáo dục – Đào tạo, Tài liệu bồi dưỡng giáo viên môn GDCD lớp 10;
11; 12, Nxb Giáo dục, 2006.
5. Bộ luật Lao động của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (đã được
sửa đổi, bổ sung năm 2002, 2006, 2007), Nxb Lao động Xã hội, 2007.
6. Bộ luật hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Lao
Động, 2009.
7. Hội luật gia Việt Nam, Tìm hiểu nội dung cơ bản Bộ luật dân sự năm
2005, Nxb Lao động xã hội, 2005.
8. Nghị quyết Trung Ương 2 – khoá VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, 2004.
9. Trần Văn Thắng, Tình huống GDCD 12, Nxb Giáo dục, 2009.
10. Luật khiếu nại tố cáo (Sửa đổi bổ sung), Nxb Chính trị Quốc gia, 2006.
11. Trần Văn Thắng, Luyện tập và tự kiểm tra, đánh giá theo chuẩn kiến
thức, kỹ năng lớp 10; 11; 12, Nxb Giáo dục, 2010.
12. Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X, NXb Chính trị Quốc
gia, 2006.
13.Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI, NXb Chính trị

Quốc gia, 2010.
14. Vũ Hồng Tiến, Tình huống Giáo dục công dân, Nxb Giáo dục, 2008.
15. Vũ Hồng Tiến, Bài tập trắc nghiệm GDCD lớp 10; 11; 12, Nxb Giáo dục,
2008.

Người thực hiện: Lê Thị Liên – Trường THPT Quảng Xương I

2


I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảng ta xem việc chọn nhân tài, bồi dưỡng nhân tài là một phần quan
träng trong quốc sách phát triển con người, điều đó được thể hiện qua việc chỉ
đạo dạy và học trong các nhà trường. Nghị quyết TW2 khoá VIII đã chỉ rõ:
“Việc bồi dưỡng học sinh giỏi là nguồn nhân tài cho đất nước được các nhà
trường THPT đặc biệt quan tâm và mọi giáo viên phổ thông đều có nhiệm vụ
phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi”. Việc tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi
và thi học sinh giỏi nhằm: “Động viên khích lệ những học sinh và giáo viên
trong dạy và học, góp phần thúc đẩy việc cải tiến, nâng cao chất luợng giáo
dục, đồng thời phát hiện học sinh có năng khiếu để tiếp tục bồi dưỡng ở cấp
học cao hơn, nhằm đào tạo nhân tài cho đất nước” (Điều 1 – Quy chế thi chọn
học sinh giỏi ban hành theo quyết định 3479/1997/QĐ- BGD&ĐT ngày
01/11/1997). Như vây, đào tạo bồi dưỡng học sinh giỏi là vấn đề cần thiết và
cấp bách, bởi vì hơn lúc nào hết đất nước đang cần những con người tài năng
đón đầu tiếp thu những thành tựu khoa học mới, công nghệ hiện đại để phát
minh ra những sáng kiến đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới hội nhập đất
nước hiện nay. Bồi dưỡng học sinh giỏi ở bậc THPT là phát huy hết khả năng
phát triển “tiềm tàng” của học sinh, là tạo nguồn học sinh giỏi cho các cấp học
tiếp theo, thực hiện chiến lược “bồi dưỡng nhân tài cho đất nước”. Mặt khác,

kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi là một tiêu chí không thể thiếu để đánh giá
năng lực chuyên môn của giáo viên và sự phát triển của các nhà trường, mỗi
học sinh giỏi không chỉ là niềm tự hào của cha mẹ, các thầy cô giáo mà còn là
niệm tự hào của cả cộng đồng. Tuy nhiên thực tế nhiều năm trước đây, việc
bồi dưỡng học sinh giỏi nói chung và bộ môn GDCD nói riêng ở trường
THPT Quảng Xương I chưa đạt được kết quả như mong muốn.
Với những lý do như trên, tôi chọn đề tài: “Một số kinh nghiệm trong
công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn GDCD ở trường THPT”.
2. Mục đích của đề tài
Thông qua việc nghiên cứu đề tài với mong muốn góp một tiếng nói
giúp học sinh, phụ huynh thấy được tầm quan trọng của công tác bồi dưỡng
học sinh giỏi nói chung và học sinh giỏi môn GDCD nói riêng. Đồng thời chia
sẻ kinh nghiệm với các đồng nghiệp đồng môn nhằm nâng cao hiệu quả giảng
dạy, bồi dưỡng học sinh giỏi môn GDCD ở trường THPT hiện nay.

Người thực hiện: Lê Thị Liên – Trường THPT Quảng Xương I

3


II. NỘI DUNG
1. Thực trạng của công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn GDCD THPT
hiện nay
1.1 Thực trạng
Trong trường THPT, GDCD là một trong những môn học trang bị cho
học sinh thế giới quan nhân sinh quan khoa học, bồi dưỡng phẩm chất chính
trị, đạo đức, lối sống nhân cách cho học sinh, hình thành ở thế hệ trẻ hệ thống
giá trị chuẩn mực phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội.
Tuy nhiên, hiện nay công tác thành lập và bồi dưỡng đội tuyển học
sinh giỏi môn GDCD cã nhiÒu khó khăn. Bởi vì lâu nay trong quan niệm của

không ít phụ huynh và học sinh thì môn GDCD vẫn bị coi là “môn phụ”,
không thi Tốt nghiệp, không thi Đại học nên hầu như học sinh không có sự
đầu tư cho môn học này.
Thực tế đã có em định tham gia đội tuyển nhưng bố mẹ không đồng ý,
vì mục đích cuối cùng của nhiều phụ huynh là cho con thi đậu vào các trường
đại học, cao đẳng nên chỉ cho con mình ôn thi 3 môn theo khối, mà không
nhiệt tình và thậm chí không muốn con mình dự thi đội tuyển học sinh giỏi nhất là đội tuyển môn GDCD vì họ cho rằng: Học và thi để làm gì, chỉ mất
thời gian vô ích! Một số học sinh đã tâm sự với tôi: “Cô ơi, bố mẹ em chỉ cho
thi các môn theo khối thôi kể cả không có giải, chứ thi môn GDCD thì bố mẹ
em không đồng ý cô ạ”. Có một số phụ huynh đã đến tận nhà giáo viên để xin
cho các em được nghỉ học đội tuyển với lý do: Bản thân các em không đủ sức
khoẻ hoặc vì các lý do khác. Tôi biết những lý do đó chưa phải là sự thật, dù
rất buồn và đôi khi hơi nản nhưng tôi cũng không thể thay đổi được quyết
định đó của các em và gia đình.
Chính thực tế trên đã không những làm giảm lòng nhiệt tình, tâm
huyết và sự đam mê của giáo viên dạy GDCD nói chung và giáo viên bồi
dưỡng đội tuyển nói riêng mà còn ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý, sự tự tin của
một số rất ít học sinh sẽ tham gia đội tuyển. Vì các em sợ bị coi thường và
thậm chí còn thấy ngại vì phải thi GDCD! Chính vì lẽ đó, các năm trước đây
có nhiều trường trong tỉnh, kể cả trường chuyên Lam Sơn đã không thể thành
lập được đội tuyển môn GDCD.
Cách đây nhiều năm, cũng giống như đa số các trường THPT trong
toàn tỉnh, mặc dù Ban gi¸m hiÖu trường THPT Quảng Xương I rất quan tâm
đến công tác bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi, nhưng kết quả của môn
GDCD hàng năm không cao, có năm không có giải. Thông thường bước vào
Người thực hiện: Lê Thị Liên – Trường THPT Quảng Xương I

4



nm hc lp 12, cui hc k I mi chớnh thc thnh lp i tuyn mụn
GDCD. Vỡ th giỏo viờn ph trỏch trc tip lờn k hoch ph o cho cỏc em
mt s bui i thi.. T thc t trờn, Ban giám hiệu ó thay i cỏch ch o,
khụng cho vic bi dng t phỏt trong giỏo viờn, hc sinh m giao khoỏn
hn cho giỏo viờn cú k hach chn i tuyn ngay t u nm hc lp 12.
Vi cỏch lm ny cht lung v s lng ó cú thay i nhng kt qu t
c cũn rt hn ch, tỷ lệ học sinh đạt giải ớt, ch-a đủ chỉ tiêu v c bit
khụng cú gii cao.
1.2. Kt qu ca thc trng trờn
Nm hc

1999- 2000
2000- 2001
2001- 2002
2002- 2003
2003- 2004

S HS d
thi
7

8
8
9
10

S HS t gii
Nht

Nhỡ


Ba

Khuyn
khớch

0
0
0
0
0

0
0
0
0
0

0
1
2
1
2

1
3
2
4
5


Xp loi
cp tnh

45
36
39
30
25

Bn thõn tụi bt u c Ban giám hiệu phân công phụ trách đội tuyển
t nm hc 2003- 2004 liờn tc cho n nay ó c 8/12 nm vo nghnh.
ng trc thc t ú, tụi luụn trn tr tr li cõu hi: Cn phi lm gỡ v
lm nh th no?
2. Gii phỏp thc hin
Trong quỏ trỡnh thc hin tụi chỳ trng vo cỏc gii phỏp c bn sau õy:
2.1. Thnh lp i tuyn
2.1.1. Phỏt hin, la chn v t chc thnh lp i tuyn HSG mụn GDCD
Chõm ngụn cú cõu: Cú bt mi gt nờn h. Qu ỳng nh vy, trong
cụng tỏc bi dng hc sinh gii ngi thy úng vai trũ quan trng nhng
hc sinh l yu t quyt nh s thnh cụng. Thụng thng nhng em cú t
cht thụng minh, hc lc khỏ - gii bao gi cng ng ký vo i tuyn cỏc
mụn hc theo khi nh: Toỏn, lý, hoỏ, sinh, vn, s, a, ngoi ng ri cui
cựng mi n GDCD. ú cng l iu d hiu. Ngoi ra xu th hin nay, hc
sinh hc theo ban xó hi ngy cng ớt v thm chớ khụng cú. Vy lm th no
hc sinh say mờ, thớch hc mụn GDCD? im xut phỏt phi bt u t
ngi thy. Thy phi thc s coi b mụn mỡnh dy nh cỏi nghip ca mỡnh
chuyờn tõm gn bú v sỏng to khụng ngng. Ngoi nng lc truyn th tri
Ngi thc hin: Lờ Th Liờn Trng THPT Qung Xng I

5



thức lí luận khoa học, thầy phải nhập vai là minh chứng sống động trong thực
tiễn để học sinh thấy được sự thú vị cũng như ý nghĩa của bộ môn có tính
định hướng và tính giáo dục cao. Niềm say mê ấy phải được bộc lộ qua từng
bài giảng, trong từng câu chuyện đời thường và gi¶i quyÕt những tình huống
xảy ra trong thực tế cuộc sống.
Vì thế tôi nhận thấy, giáo viên dạy đội tuyển môn GDCD phải là
người truyền được “lửa” cho học sinh. Tức là phải khơi dậy ở các em sự yêu
thích môn học, niềm tin và lòng say mê để các em tự giác tham gia với động
cơ đúng đắn và có quyết tâm thi đạt kết quả cao. Có thể nói, đây là khâu quan
trọng nhất tác động đến tâm lý học sinh thực sự có hiệu quả vì nó quyết định
việc các em sẽ học và thi như thế nào. Để làm được điều này, theo tôi giáo
viên vừa đóng vai trò là người thầy đồng thời cũng là người bạn lớn của các
em, để phân tích và chỉ ra cho các em thấy được những lợi thế khi tham gia
đội tuyển học sinh giỏi. Đó chính là phương pháp học như thế nào để nhớ
nhanh, nhớ kỹ và nhớ chính xác nhất. Điều này đặc biệt quan trọng và cần
thiết đối với kiến thức các môn xã hội. Ngoài ra, còn giúp các em kỹ năng xác
định đề, phân tích đề, khả năng lập luận tư duy, vận dụng kiến thức để giải
quyết vấn đề trong các môn khoa học tự nhiên. Và điều quan trọng hơn đó là
các em được trải nghiệm phương pháp học tập cũng như tâm lý khi bước vào
kỳ thi, từ đó có sự điều chỉnh bổ sung phù hợp kịp thời… Có thể nói, đó chính
là những bước đi ngắn giúp các em tiến đến kỳ thi tốt nghiệp THPT và thi đại
học vững chắc hơn.
Ngoài phương pháp truyền thống là cho học sinh tự đăng ký, qua
từng tiết học, từng bài kiểm tra đánh giá, giáo viên cần phát hiện những học
sinh có khả năng trình bày bài, khả năng vận dụng và giải quyết vấn đề, giải
quyết tình huống và thông qua giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn giới
thiệu để lựa chọn, động viên các em tham gia đội tuyển học sinh giỏi cấp
trường tạo nguồn đội tuyển học sinh giỏi cấp tỉnh. Vì thế, có những em học

lực còn rất hạn chế, song các em cũng hăng hái đăng ký dự thi với mong
muốn được học hỏi nhiều hơn. Kết quả là số luợng học sinh đăng ký ngày
càng tăng, năm sau cao hơn năm trước. Năm học 2008-2009 là 35 em, năm
học 2009-2010 là 40 em, năm học 2010-2011 là 47 em… Từ nguồn học sinh
như trên, sau khi thi học sinh giỏi cấp trường tôi tiến hành lựa chọn danh sách
đội tuyển, theo thang điểm từ cao xuống thấp và lấy từ 10 ->12 em.
Ngoài ra, trong quá trình bồi dưỡng tôi còn tiếp tục thi khảo sát ít nhất
hai lần để đánh giá chính xác khả năng của từng em. Từ đó có thể lấy bổ sung
Người thực hiện: Lê Thị Liên – Trường THPT Quảng Xương I

6


thêm hoặc loại bớt một số em không tiến bộ trong đội tuyển. Với cách làm
này, trong nhiều năm liên tục đội tuyển do tôi phụ trách đều có số lượng tối đa
là 10 em dự thi cấp tỉnh.
Như vậy, để chọn đội tuyển một cách hiệu quả cần thực hiện tốt các
bước sau đây:
Bước 1: Giúp học sinh hiểu, nhận thức đúng về vai trò của bộ môn và
lợi thế khi tham gia đội tuyển.
Bước 2: Lập danh sách dự tuyển, động viên khích lệ học sinh tham gia
dự thi.
Bước 3: Thi tuyển theo kế hoạch chung của nhà trường để lập danh
sách từ cuối năm học lớp 10.
Với những phương pháp như trên tôi đã động viên được nhiều học sinh
tham gia dự thi và chọn được những em có lực học khá ở các khối A, B, D
…khác với trước đây phải bắt buộc các em mới đi thi. Có thể nói, đó là niềm
động viên rất lớn đối với giáo viên trực tiếp giảng dạy môn GDCD trong điều
kiện hiện nay.
Tuy nhiên để làm được điều đó, trước hết đòi hỏi người giáo viên phải

thực sự nhiệt tình, tâm huyết trong giảng dạy và điều quan trọng hơn đó là
tính bền bỉ, kiên trì, không lùi bước trước khó khăn để thuyết phục và khích lệ
được các em tự nguyện tự giác tham gia. Giáo viên phải là người có uy tín với
học sinh được các em tin tưởng quý mến. Ngoài ra, kết quả thi đội tuyển đã
đạt được của những năm trước chính là minh chứng để củng cố niềm tin đó
với đồng nghiệp, học sinh và phụ huynh trong những năm học tiếp theo.
2.1.2. Giúp đỡ, động viên khích lệ các em trong đội tuyển thường xuyên, kịp thời
Do số học sinh trong đội tuyển phân tán ở nhiều lớp khác nhau, lịch
học thêm của các em thường lệch nhau, cho nên để chọn được 1 buổi không
trùng với lịch học của tất cả các em là điều rất khó khăn. Trước đây, để đảm
bảo cho các em không phải nghỉ học các môn khác, tôi đã chọn phương án là
dạy vào các buổi chập tối (khoảng từ 18h->20h30). Đối với các em đây là
khoảng thời gian không học thêm ca nào, nên sau khi học xong các môn khác
các em ở lại học tiếp. Dù bụng đói và rất mệt nhưng các em vẫn tham gia với
tinh thần rất vui vẻ và hào hứng. Chính điều đó đã làm tôi thực sự cảm động
và là động lực giúp tôi kiên trì quyết tâm hơn, vượt thoát khỏi tâm lý tự ti để
khẳng định sự bình đẳng giữa môn GDCD với các bộ môn khác và với mong
muốn làm được điều mà mình tâm huyết. Có nhiều hôm trong giờ nghỉ giải
lao tôi đã mua bánh mỳ, bánh quy … để cô trò cùng ăn cho đỡ đói. Thấy vậy,
Người thực hiện: Lê Thị Liên – Trường THPT Quảng Xương I

7


một số em định góp tiền để tự mua nhưng tôi không đồng ý. Và để các em
không thể thực hiện được ý định đó, những lần sau tôi thường đưa ra các lý do
đại loại như: “Hôm nay có có tin vui nên khao các em”…
Thấu hiểu những khó khăn đó bước sang năm học 2010-2011, Ban
Giám hiệu nhà trường đã lên thời khoá biểu cho các đội tuyển được học vào
các buổi sáng chủ nhật hàng tuần. Trong các buổi dạy, lãnh đạo nhà trường

thường xuyên quan tâm, xuống lớp trao đổi động viên cả thầy và trò. Điều đó
đã tạo thêm động lực, niềm tin cho chúng tôi nỗ lực cố gắng nhiều hơn.

Một buổi ôn luyện của đội tuyển

Trong quá trình bồi dưỡng, giáo viên phải thực sự là người có “Tâm”
với học sinh đội tuyển của mình. Sự quan tâm đó không chỉ dừng lại ở thái
độ, lời nói, kiến thức, kinh nghiệm truyền đạt cho các em mà còn bằng tất cả
tấm lòng, không đơn thuần là tình thầy trò mà như một người thân thực sự của
các em. Vì thế, các em sẵn sàng chia sẻ với tôi về mọi vấn đề trong cuộc sống.
Tôi thường đến thăm gia đình học sinh trong đội tuyển vào các dịp nghỉ lễ,
sinh nhật… đặc biệt là khi các em bị ốm phải nghỉ học, qua đó để hiểu hơn về
hoàn cảnh gia đình, điều kiện học tập cũng như sự quan tâm của các bậc phụ
huynh. Nhờ vậy, nhiều phụ huynh đã có cái nhìn đúng hơn về vai trò của bộ
môn, hiểu được lợi thế khi các em được tham gia đội tuyển học sinh giỏi môn
GDCD.

Người thực hiện: Lê Thị Liên – Trường THPT Quảng Xương I

8


Có một kỷ niệm tôi luôn nhớ, đó là năm học 2005-2006 trong đội
tuyển có em Nguyễn Thị Trang lớp 12T5 nhà ở xã Quảng Bình. Hoàn cảnh
gia đình em rất khó khăn: bố mất sớm, hàng ngày em phải đạp xe 12 cây số để
đến trường, buổi chiều phải ở nhà phụ giúp mẹ hái rau đi chợ bán và chăm sóc
2 em nhỏ…Vì thấy em có ý định bỏ học và không tham gia đội tuyển nữa,
nên các buổi tối tôi thường chở em về và động viên em sắp xếp công việc gia
đình, cố gắng tiếp tục theo học. Tôi đã mua tặng em cuốn sách “Những điều
cần biết về kỳ thi tuyển sinh đại học và cao đẳng”. Năm đó, em đã đạt giải nhì

và là 1 trong 2 em có số điểm cao nhất đội. Sau này khi em tốt nghiệp trường
cao đẳng Y, có công việc ổn định vẫn thường xuyên liên lạc với tôi. Em bảo:
chính sự quan tâm của tôi lúc đó đã thực sự giúp em có nghị lực vượt khó
vươn lên. Và điều đặc biệt hơn nữa là sau 3 năm, (năm học 2008-2009) em
gái của Trang là Nguyễn Thị Hoà - lớp 12C7 cũng tham gia đội tuyển do tôi
phụ trách và đã đạt giải nhất toàn tỉnh. Kết quả mà các em đạt được thực sự là
món quà tri ân vô giá đối với tôi và trở thành nguồn động viên lớn để tôi tiếp
tục thực hiện nhiệm vụ của mình.
2.2. Xây dựng kế hoạch, sử dụng phương pháp bồi dưỡng đội tuyển một
cách khoa học, đúng hướng và có hiệu quả
Để công tác bồi dưỡng học sinh giỏi có hiệu quả, trước hết giáo viên
phải lập được kế hoạch tổng thể, có được “chương trình khung” và kế hoạch
cho từng giai đoạn. Chẳng hạn, trong năm học kế hoạch là 30 buổi dạy, thời
gian dạy trong hè là 10 buổi thì giáo viên phải cụ thể hoá về thời gian, nội
dung ôn luyện, từ đó giúp học sinh hiểu, định hình được những việc cần làm
để các em chủ động hơn trong quá trình ôn tập kiến thức cũ và lĩnh hội tri
thức mới. Đồng thời qua đó các em sẽ thấy được tầm quan trọng của việc nắm
vững kiến thức trọng tâm trong mỗi bài, mỗi phần và mỗi chương trình cũng
như toàn cấp. Xây dựng nội dung chương trình bồi dưỡng học sinh giỏi trên
cơ sở những kiến thức cơ bản, xác định rõ mục đích yêu cầu cần bồi dưỡng về
kiến thức, kỹ năng, phát triển tư duy cho học sinh giỏi. Hệ thống hoá kiến
thức và mở rộng kiến thức trong các buổi dạy là điều rất quan trọng. Tuy
nhiên không có nghĩa là dạy lại kiến thức một cách đơn thuần mà giáo viên
phải hệ thống kiến thức theo từng chủ đề cụ thể. Mục tiêu chính của việc bồi
dưỡng học sinh giỏi là giúp các em trở thành người kiến tạo tri thức thay vì là
những người sử dụng tri thức. Ôn tập đến đâu, kiểm tra đến đó. Khi ôn tập lý
thuyết bao giờ cũng gắn với bài tập vận dụng bằng hình thức bài tập trắc
nghiệm giải thích hoặc bài tập tình huống để học sinh làm quen với kỹ năng
Người thực hiện: Lê Thị Liên – Trường THPT Quảng Xương I


9


vận dụng lí luận vào thực tiễn đồng thời có thể lý giải các hiện tượng trong tự
nhiên cũng như trong đời sống xã hội…
Ví dụ: Ôn tập kiến thức lớp 10 theo 2 chủ đề lớn. Chủ đề 1: Công dân
với việc hình thành thế giới quan và phương pháp luận. Đối với học sinh đây
là vấn đề khó vì kiến thức phần này khá trừu tượng và thiên về lí luận triết
học. Cho nên giáo viên cần phải đơn giản hoá, cụ thể hoá kiến thức thông qua
các ví dụ thực tế để học sinh dễ hiểu. Trong chủ đề này giáo viên cần chia nội
dung ôn tập theo các nhóm vấn đề, từ giúp học sinh hiểu được sự lôgíc của
các bài học đi từ cái tổng quát đến cái cụ thể. Bài 1: có thể coi như 1 bài mở
đầu cũng là 1 bài mang tính trừu tượng khái quát nhất. Các bài 2,3,4,5,6 được
triển khai theo trình tự của phương pháp diễn dịch sẽ giúp học sinh có quan
điểm đúng khi xem xét sự vật hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, tư duy cũng
như quan điểm sống hiện tại. Các bài này cũng là cơ sở quan trọng giúp học
sinh tiếp cận nội dung bài 7,8,9. Ở Chủ đề 2: Công dân với đạo đức, cũng với
cách làm như trên, giáo viên giúp học sinh hiểu rõ sự thống nhất về cấu trúc
nội dung của chương trình từ bài 1 đến bài 16, thông qua bài 16 để học sinh
thấy rõ trách nhiệm của bản thân không chỉ dừng lại ở việc hiểu, nhận thức
đúng các vấn đề trong đời sống hàng ngày mà phải bằng những việc làm cụ
thể, có kế hoạch rõ ràng và cần nghị lực và quyết tâm thực hiện.
Qua đó cho thấy, đối với học sinh giỏi các em vừa phải có cái nhìn cụ
thể vừa có cái nhìn khái quát, tổng thể để giải quyết vấn đề đã học một cách
sâu sắc nhất.
Ngoài ra để giúp các em dễ nhớ, dễ hiểu giáo viên cần có những ví dụ
liên hệ thực tế bằng các đồ dùng dạy học như tranh ảnh minh hoạ, lược đồ,
biểu đồ, đặc biệt có thể sử dụng chương trình Powpoint để hỗ trợ…. Bên cạnh
đó giáo viên thường xuyên cập nhật các số liệu, thông tin mới để minh hoạ
cho bài dạy. Tài liệu tham khảo cũng là yếu tố không thể thiếu trong quá trình

bồi dưỡng: Tài liệu chuẩn kiến thức kỹ năng, Bài tập pháp luật, Tình huống
pháp luật, các văn bản luật có liên quan như Hiến pháp 1992, Bộ luật dân sự,
luật Hôn nhân gia đình, luật bình đẳng giới, luật khiếu nại tố cáo… đều có thể
cung cấp cho học sinh những dẫn chứng chính xác khi vận dụng vào bài làm.
2.3.Rèn luyện kỹ năng tự học, đọc tài liệu, khai thác kiến thức cho học sinh
Để rèn luyện kỹ năng tự học, đọc tài liệu khai thác kiến thức ở từng bài
trong SGK, giáo viên cần chỉ rõ cách khai thác từng nội dung cụ thể bằng
phương pháp đi từ khái quát đến cụ thể và từ đó có sự liên hệ vận dụng trong

Người thực hiện: Lê Thị Liên – Trường THPT Quảng Xương I

10


cuc sng, sau ú giao nhim v cỏc em t hc v kim tra bng cỏc bi
vit.
Vớ d: Bi 1 SGK GDCD lp 12: Phỏp lut vi i sng. giỳp
hc sinh nm vng trng tõm v khc sõu kin thc thụng qua cỏc vớ d trong
thc t khụng ch giỳp cỏc em d hiu, d nh, nh lõu m cũn kim tra kh
nng gii quyt vn bng cỏch thay i dng cõu hi nh: Cú ý kin cho
rng: õu cú phỏp lut ú khụng cú t do, quan im ca em v ý kin
trờn nh th no? Thay cho cõu hi: Trỡnh by vai trũ ca phỏp lut trong i
sng xó hi?
Hoc kim tra kh nng vn dng kin thc vo thc t, tụi ra bi
tp tỡnh hung cỏc em lm, nu em no trớch c ni dung iu lut c th
chng t em ú cú kh nng t hc v trớ nh tt. Vớ d tỡnh hung phỏp lut
nh sau:
Lê Văn An, 17 tuổi điều khiển xe máy có dung tích xi lanh 50cm3 đi
vào đường ngược chiều. Có nhiều ý kiến khác nhau về việc này:
1. An chỉ bị phạt cảnh cáo vì An đang ở tuổi vị thành niên.

2. An sẽ bị xử phạt hành chính.
Hỏi: Theo em ý kiến nào đúng? Vì sao?
Vi dng ny thc t l khụng khú nhng nu hc sinh khụng c
SGK v c bit l cỏc iu lut ó trớch dn phn T liu tham kho thỡ
chc chn s khú cú cõu tr li ỳng.
2.4. Coi trng khõu ra , ra ỏp ỏn, chm ch v rốn luyn k nng lm
bi cho hc sinh
2.4.1. Ra v ỏp ỏn
rốn luyn k nng lm bi cho hc sinh, giỏo viờn cn hiu õy l
mt cụng vic khụng d, ũi hi nhiu thi gian cụng sc ca c thy v trũ
mi em li kt nh mong mun. Bi a s cỏc em sau khi c chn vo ụ
tuyn thỡ im yu nht ú chớnh l k nng lm bi, mt phn l do cỏc em
hc theo khi A,B cú th mnh cỏc mụn t nhiờn hn l cỏc mụn xó hi. Vỡ
th giỏo viờn ch núi hoc nhc nh thụi thỡ cha hn cỏc em ó hiu v khc
phc c. Do ú cn phi cú thi gian kim nh qua cỏc bi kim tra vit
mi thy c s tin b rừ rt ca tng em.
vic luyn tp cú hiu qu v hc sinh khụng thy chỏn, tụi ó
chun b ngun , nh sau :
- Cỏc thi hc sinh gii tnh cỏc nm trc.
- thi hc sinh gii cỏc tnh khỏc su tm qua ng nghip hoc truy
cp trờn mng.

Ngi thc hin: Lờ Th Liờn Trng THPT Qung Xng I

11


- tụi son cho cỏc em t cỏc ngun t liu v bỏm sỏt SGK, theo cu
trỳc nh lng gia phn t lun v phn trc nghim, bi tp tỡnh hung,
lng kin thc, s cõu hi chng trỡnh lp 10,11,12 mt cỏch hp lý.

- S dng cỏc cõu hi khú trong ti liu chun kin thc k nng, sách
giáo khoa và sách bài tập, những câu hỏi giải thích suy luận ũi hi hc
sinh phi hiu vn mi lm c.
- Mun cú ngun t liu ú, trong nhiu nm qua tụi phi su tm ti
liu, bo qun cú h thng cỏc thi, cỏc kin thc mi trong mi thi v
cỏc ni dung khỏc minh thu thp c qua ng nghip, qua cỏc t tp hun,
úng thnh tp lu tr to ngun t liu cho bn thõn.
Trong quỏ trỡnh thc hin tụi luụn chỳ ý cỏch ra sao cho cú hiu
qu v gõy c hng thỳ cho hc sinh. Mi thi u ph khp kin thc
ca chng trỡnh ó hc v cú cu trỳc nh mt thi chớnh thc. Cỏc bi tp
tỡnh hung v cõu hi m bo 3 mc : nh; hiu v vn dng. Trong
quỏ trỡnh thc hin, cn hiu tõm lý hc sinh l nu ra khụng hay thỡ hc
sinh s khụng thớch lm v chỏn. Vỡ vy, giỏo viờn phi cú u t thc s cho
vic ra . Thc t tụi ó cho cỏc em lm khụng di 20 thi ti lp.
Vớ d sau khi cỏc em ó ụn tp li kin thc lp 10 tụi ra cõu hi kim tra nh
sau:
s 1: Thi gian lm bi: 90 phỳt
Cõu 1 (3.0 im) o c l gỡ? Hóy nờu vai trũ ca o c?
Cõu 2 (4.0 im) Hot ng thc tin cú vai trũ quan trng i vi nhn
thc ca con ngi. Bng hiu bit ca mỡnh, em hóy lm rừ nhn nh trờn
v rỳt ra bi hc cho bn thõn?
Cõu 3 (3.0 im) Bỏc H tng cn dn: Cỏc Vua Hựng ó cú cụng dng
nc, Bỏc chỏu ta phi cựng nhau gi ly nc. Theo em, hc sinh cn phi
lm gỡ thc hin li dy ca Bỏc?
Hoc kim tra kin thc c 3 khi tụi ra cõu hi nh sau:
s 2: Thi gian lm bi: 180 phỳt
Câu 1 (3.0 im) Cng ng l gỡ? Hóy nờu vi trũ ca cng ng?
Câu 2 (4.0 im) Em hóy phõn tớch nhng nguyờn tc c bn v phng
hng thc hin chớnh sỏch i ngoi nc ta hin nay?
Câu 3 (5.0 im) Quyn bu c v ng c cú ni dung v ý ngha nh th no

trong vic thc hin quyn dõn ch ca cụng dõn?
Câu 4 (5.0 im) Phỏp lut nc ta quy nh nh thế nào về quyền học tập
của công dân? Bản thân em cần phải làm gì để thực hiện tốt quyền học tập của
mình?

Ngi thc hin: Lờ Th Liờn Trng THPT Qung Xng I

12


Cõu 5 (3.0 im) Bài tập tình huống:
Do cú chuyn hiu lm nờn H v T cói nhau to ting, mi ngi xỳm
li c v. ễng Trng cụng an xó bit chuyn nờn ó cho ngi n bt H v
T v U ban, trúi tay v giam trong phũng kớn 13 gi lin m khụng cú quyt
nh bng vn bn. Vỡ quỏ cng thng v úi nờn khi c th c hai ngi
u b m.
Hi: 1. Hnh vi ca ụng Trng cụng an xó l ỳng hay sai? gii thớch vỡ sao?
2. ễng Trng cụng xó cú phi chu trỏch nhim gỡ khụng?
Túm li, tu theo tng mc thi gian v lng kin thc ó ụn tp
a ra cỏc bi kim tra c th. Chng hn, giai on u tụi thng ra cõu
hi kim tra trong khong thi gian l 90 phỳt, sau ú tng dn lờn 120 phỳt,
150 phỳt, ri mi n cỏc bi kim tra 180 phỳt. c bit, tt c cỏc bi kim
tra ú tụi u cho cỏc em lm vo t giy thi theo mu in ca S. iu ny s
giỳp cỏc em lm quen vi cỏc dng trong thi gian khỏc nhau t ú nh
lng thi gian ca mi cõu ng vi s im nht nh. Vớ d cõu ớt im thỡ
cỏc em khụng cn vit quỏ di m phi tp trung vo cỏc ý c bn ca cõu hi,
khụng c trỡnh by lan man.
Trc khi cỏc em lm , tụi cho cỏc em trao i thụng tin v cỏc
dng thi ca nhng nm trc, qua ú giỳp cỏc em hiu cu trỳc thi, k
nng xỏc nh yờu cu ca v phng phỏp nhn dng thi mt cỏch c

bn cng nh k nng lm bi sao cho cú hiu qu nht. Tr-ớc khi thi 2 tháng
tôi cho các em luyện đề nhiu hn (1tuần/2đề). i vi dng trc nghim,
bi tp tỡnh hung, nu l câu hỏi yêu cầu khẳng định đúng sai thì phải khẳng
định tr-ớc rồi mới giải thích vì sao? Đối với câu hỏi giải thích vì sao thì phải
giải thích rõ trọng tâm, phân ý, không lan man (hỏi gì trả lời ngay vấn đề đó,
không cần dẫn dắt dài dòng). i vi cõu hi t lun tụi yờu cu cỏc em chỳ ý
cỏch trỡnh by sao cho bi vit phi cú b cc rừ rng, lụgớc. T ú cỏc em
hiu rng, tuy bi vit ca mụn GDCD khụng phi l mt bi vn nhng kt
cu chnh th ca nú cng phi theo trỡnh t nh vy.
Ngoi ra, tụi cũn ra cho cỏc em t hc nh. Theo tụi nu cỏc em
nghiờn cu ti liu hoc tho lun lm bi cng l hỡnh thc cỏc em ụn
vng kin thc Vỡ vy, tụi quỏn trit tinh thn vi cỏc em rng: trc khi lm
bi cỏc em phi c ht , nu thy phn kin thc no mỡnh cha nm vng,
cha rừ, cha thuc, thỡ em sỏch, ti liu ra c cho thuc. Sau ú, gp sỏch
li v lm theo cỏch hiu ca mỡnh.

Ngi thc hin: Lờ Th Liờn Trng THPT Qung Xng I

13


Tóm lại, để rèn luyện kỹ năng làm bài cho học sinh cần thực hiện tốt 3
bước cơ bản sau:
- Bước 1: Yêu cầu học sinh phải xác định được dạng đề bài và yêu cầu của
từng câu hỏi, kể cả các dạng câu hỏi ẩn thì học sinh phải biết phân tích đề để
tránh lạc đề.
- Bước 2: Yêu cầu học sinh lập dàn ý sơ lược cho từng câu hỏi trong đề thi,
tránh thiếu ý khi làm bài.
- Bước 3: Yêu cầu học sinh lập dàn ý chi tiết cho đề thi và hướng dẫn cách
viết cho từng dạng câu hỏi, xây dựng bố cục toàn bài theo cách phổ biến nhất

đó là phương pháp diễn dịch hoặc theo kết cấu tổng - phân - hợp để bài làm
sâu sắc và phong phú hơn.
2.4.2. Chấm, chữa, sửa lỗi và rèn luyện kỹ năng làm bài cho học sinh
Cách 1: Ngay sau khi làm bài kiểm tra, tôi yêu cầu các em về nhà phải
làm được đề cương đáp án và hướng dẫn chấm chi tiết tới 0.25 điểm cho từng
ý, từng câu, từ đó tự chấm xem bài của mình sẽ được mấy điểm. Điều này sẽ
giúp các em cách xác định đáp án cũng như tiến trình trong bài kiểm tra để
tránh lạc đề hoặc thiếu ý.
Cách 2: Trước khi trả bài kiểm tra, tôi phát đáp án chuẩn đã làm và phân
công các em đóng vai trò là giáo viên để chấm bài cho bạn, tôi yêu cầu các em
không trao đổi thảo luận để đảm bảo tính khách quan, mỗi bài sẽ đựợc 2 em
chấm độc lập, có nhận xét chi tiết ưu, nhược điểm của từng bài. Qua đó, giúp
các em tự rút kinh nghiệm cho mình, ngoài ra có thể so sánh bài làm, cách
chấm của mình với các bạn. Cuối cùng tôi công bố điểm để các em tự đối
chiếu.
Sau mỗi bài kiểm tra, kể cả các bài kiểm tra tại lớp từ 15 phút trở lên tôi
đều rất chú trọng và quan tâm đến các em trong đội tuyển để chấm và sửa lỗi
cẩn thận chi tiết cho các em, nhận xét vào bài của các em từ lỗi chính tả cho
đến cách dùng từ, đặt câu, cách diễn đạt…
Để thúc đẩy các em làm bài tích cực, có hiệu quả và nộp bài đúng hạn,
giáo viên phải giữ đúng hẹn giao đề, chấm bài, trả bài để các em biết kết quả
và kịp thời rút kinh nghiệm. Nhưng nếu chỉ chấm chữa thôi thì chưa đủ vì bài
làm của các em thường rất lủng củng, không biết cách diễn đạt, chuyển ý, viết
dài dòng và lan man. Vì vậy, sau khi chấm chữa kỹ lưỡng, tôi đều phát đáp án
chi tiết và yêu cầu các em sau khi xem bài rút kinh nghiệm những sai sót thì
phải học thuộc đáp án. Khi trả bài tôi dành thời gian nhất định để nhận xét cụ
thể ưu, nhược điểm của từng em. Có những em tôi đã phải chữa và gạch đỏ
Người thực hiện: Lê Thị Liên – Trường THPT Quảng Xương I

14



cả bài. Mục đích là rèn luyện cho các em cách đặt vấn đề, giải quyết vấn đề,
kết luận trong bài như thế nào. Và yêu cầu các em về nhà làm lại và khắc
phục ngay nhược điểm đó, hôm sau tôi thu lại kiểm tra để thấy được sự tiến
bộ của các em.
Để học sinh thấy rõ sự quan tâm của cô giáo và thực hiện đúng yêu
cầu, tôi không bao giờ giao cho các em tự trả bài, thu bài mà chính tôi đi đến
từng lớp (vào giờ ra chơi) để trả bài, phát đáp án, đưa đề mới và thu bài của
từng em, đồng thời có thái độ nhắc nhở hoặc động viên về kết quả mà các em
đạt được. Vì thế, đã tạo cho các em thói quen: cứ thấy cô đến lớp là tự giác
nộp bài. Nếu thấy bài làm của các em có nhiều sai sót, tôi tập trung các em để
chấn chỉnh ngay. Đến cuối đợt vì thời gian còn ít mà nguồn đề còn nhiều, tôi
tăng cường làm 3 bài/tuần và tôi phải nhờ đồng nghiệp (cùng nhóm chuyên
môn) chuyên chấm còn tôi chuyên ra đề và đáp án.
Nếu chấm trả, phát đáp án mà không kiểm tra lại thì các em sẽ chủ
quan không học thuộc mà chỉ đọc qua. Cho nên, tôi đã kiểm tra lại bằng cách
ra lại câu hỏi cũ xem các em có làm đúng như đáp án đã phát không? Những
bài đầu tiên các em làm rất kém, điểm thấp, thậm chí còn sai kiến thức cơ bản
và cao nhất chỉ đạt 10/20 điểm. Đến những bài sau, kỹ năng làm bài của các
em tiến bộ rõ rệt… các em viết chắc kiến thức và biết cách trình bày, không
còn lan man thiếu ý như trước.
Trong các buổi ôn luyện hàng tuần, ngoài hình thức kiểm tra viết, tôi
còn tiến hành kiểm tra vấn đáp các em đối với mảng kiến thức cần phải thuộc
nhớ, qua đó đánh giá thực lực của các em, đồng thời có thể giải đáp những
thắc mắc mà các em đưa ra… Tôi đã làm như sau:
Bước 1: Nêu câu hỏi
Bước 2: Gọi HS lên bảng xác định yêu cầu câu hỏi và trả lời đáp án
Bước 3: Gọi HS khác nhận xét, bổ sung
Buớc 4 : Giáo viên kết luận và cho điểm


Người thực hiện: Lê Thị Liên – Trường THPT Quảng Xương I

15


Một giờ kiểm tra vấn đáp tại lớp

2.5. Phân loại học sinh trong quá trình bồi dưỡng
Đây là khâu khá quan trọng trong quá trình bồi dưỡng vì có phân loại
được học sinh thì giáo viên mới có thể có phương pháp phù hợp với khả năng
của từng em và các em mới có khả năng đạt được kết quả như mong muốn.
Sau đó lập bảng theo dõi ghi chép cẩn thận vào sổ (Nhật ký dạy đội tuyển)
của mình để chỉ cho các em thấy được các em đã khắc phục nhược điểm ở
những bài sau như thế nào.
Qua việc lập bảng theo dõi như trên giáo viên sẽ rút ra được lỗi
thường gặp phổ biến của các em để sau một thời gian nhất định sẽ kiểm tra lại
để nắm được mức độ tiến bộ của từng em.
Năm học 2009-2010 đội tuyển có 10 em dự thi và các em đều có
điểm mạnh điểm yếu khác nhau như:
- Em Bùi Thị Nhung, Nguyễn Thị Minh, Lê Thị Thu, Hoàng Thị Diệu… rất
chịu khó và chăm chỉ nhưng vốn từ và hiêu biết xã hội của các em có hạn chế,
viết chậm nên bài làm thường mắc các lỗi diễn đạt và kỹ năng vận dụng, giải
quýêt vấn đề.
- Ngược lại, các em Bùi Thị Hoài, Nguyễn Thị Trang, Trần Thị Lan, Bùi Thị
Loan… lại có vố kiến thức thực tế phong phú, khả năng nắm bắt vấn đề
nhanh, biết cách trình bày bài, song thiếu tính cẩn thận, thường vội vàng chủ
quan nên đôi khi hay bị sót ý, mất điểm trong bài tập tình huống trong bài.
Hoặc có em kiến thức chắc chắn, chịu khó đọc tài liệu nhưng tâm lý khi đi thi
Người thực hiện: Lê Thị Liên – Trường THPT Quảng Xương I


16


lại không ổn định và mất bình tĩnh. Cũng có em sức viết dài nhưng hay dàn
trải, phân chia thời gian không hợp lý dẫn đến bài làm không trọn vẹn, thiếu
thời gian.
Năm học 2010-2011 vừa qua, trong đội tuyển có em Mai Thị Phương
lớp 12C5 học khối A, dù được chọn bổ sung vào sau so với các bạn (đầu năm
học lớp 12), dù em có một nhược điểm lớn đó là chữ viết không cẩn thận,
nhưng tư duy nhanh và đặc biệt là khả năng nhớ và vận dụng rất tốt nên tôi đã
quyết định lấy em vào danh sách dự thi. Tôi giao nhiệm vụ cho em từng bước
phải cải thiện chữ viết và cách trình bày bài của mình qua mỗi bài kiểm tra ở
lớp cũng như ở nhà, tôi còn kiểm tra vở ghi trên lớp thường xuyên để nhắc
nhở em sửa lỗi. Và sau học kỳ I, nhược điểm đó đã đựợc đẩy lùi, điều vui hơn
đó là em đã đạt giải nhì với số điểm rất cao: 17 điểm.
Từ thực tế đó tôi nhận thấy, phát hiện chính xác khả năng và phân
loại đúng học sinh càng sớm càng tốt. Phân loại học sinh chủ yếu dựa vào khả
năng quan sát, tiếp cận trong quá trình bồi dưỡng và giảng dạy trên lớp của
giáo viên. Ngoài ra, qua hệ thống trả lời câu hỏi vấn đáp trực tiếp hoặc bài
kiểm tra viết. Đối với những em có khả năng nhớ chậm, khái quát vấn đề còn
hạn chế, giáo viên cần khoanh vùng kiến thức và nhắc trước cho các em có sự
chuẩn bị để các em có thể tự tin trong quá trình học. Đối với học sinh có khả
năng tư duy tốt, tôi sẽ đưa ra yêu cầu cao hơn. Để đánh giá, theo dõi mức độ
tiến bộ của các em, sau mỗi lần kiểm tra, tôi căn cứ vào điểm để chia các em
theo nhóm. Thông thường là 3 ->4 nhóm. Chẳng hạn nhóm 1 là những em có
số điểm cao nhất, ít nhược điểm. Nhóm 2, 3, 4 tương tự như vậy xét theo điểm
từ cao xuống thấp. Đồng thời lập bảng thống kê ghi rõ ưu, nhược điểm của
từng em qua bài kiểm tra. Qua việc lập bảng theo dõi như trên, giáo viên sẽ
rút ra được một số lỗi phổ biến thường gặp ở tất cả các em. Ngoài ra, qua đó

các em sẽ biết được mình đang ở vị trí nào để nỗ lực cố gắng nhiều hơn. Tất
nhiên, chỗ đứng của các em sẽ liên tục thay đổi qua các bài kiểm tra. Điều này
sẽ tạo được không khí thi đua lẫn nhau trong đội tuyển, đối với những em
được xếp ở tốp đầu phải thường xuyên cố gắng thì mới giữ được thứ hạng cao
mà mình đã có, còn một số em xếp cuối chắc chắn phải phấn đấu vươn lên.
2.6. Tăng cường trao đổi, giao lưu, lắng nghe ý kiến phản hồi từ học sinh
Trong quá trình giảng dạy, tôi luôn tạo nhiều cơ hội cho học sinh được
bày tỏ ý kiến và trao đổi thông tin với giáo viên để từ đó biết được các em
đang cần gì, thiếu gì? Chẳng hạn, sau mỗi buổi học thỉnh thoảng tôi thường

Người thực hiện: Lê Thị Liên – Trường THPT Quảng Xương I

17


trao đổi với các em rất thân mật gần gũi với các câu hỏi thăm dò như: Theo
các em phương pháp dạy của cô như thế được chưa, các em có hiểu không?...

Thảo luận ngoài giờ

Từ đó tạo cho các em tâm lý tin cậy, gần gũi mạnh dạn hơn để bày
tỏ những vấn đề còn băn khoăn vướng mắc.Giáo viên có thể làm được điều
này bằng cách:
- Khích lệ học sinh suy nghĩ và đặt câu hỏi.
- Lắng nghe và trả lời ý kiến của các em, biểu dương những ý kiến có tính
chất đổi mới, sáng tạo.
- Tổ chức thảo luận theo nhóm nhỏ để các em có thể phát biểu ý kiến của
mình.
- Kể những tấm gương tốt ở các đội tuyển năm trước cho các em nghe để học
tập, noi theo.

- Thường xuyên động viên khích lệ các em hoàn thành tốt nhiệm vụ hàng
ngày.
- Giao nhiệm vụ có tính chất thử thách để các em có động cơ phấn đấu.
2.7. Yêu cầu cao và giao nhiệm vụ cho học sinh
Căn cứ vào kết quả chia nhóm, xếp loại học sinh trong suốt quá trình bồi
dưỡng, tôi giao nhiệm vụ cụ thể cho từng em. Chẳng hạn, những em có kết
quả làm bài ổn định chắc chắn, xếp ở tốp 1 tôi yêu cầu khi đi thi các em phải
đạt số điểm là 17 trở lên, tức là phải đạt giải cao. Tương tự như vậy tôi
Người thực hiện: Lê Thị Liên – Trường THPT Quảng Xương I

18


‘khoán” chỉ tiêu cụ thể cho từng em và đảm bảo rằng tất cả các em đều phải
có giải. Để không tạo áp lực cho các em, tôi luôn làm công tác tư tưởng, động
viên khích lệ để các em hiểu: Mọi sự nỗ lực, cố gắng của cả cô và trò do
chính các em quyết định, vì thế cần phải có quyết tâm cao để chứng minh
rằng: Thi GDCD không dễ và để đạt được kết quả cao như các môn khác cũng
là điều không đơn giản. Ngoài ra để động viên các em, tôi còn treo giải
thưởng cho em nào đạt hoặc vượt chỉ tiêu cô yêu cầu. Tất nhiên, không phải
em nào cũng được kết quả như mong muốn, nhưng ít nhất các em đã biết
được mục tiêu của mình là gì để bước vào kỳ thi với tâm lý tự tin và quyết
tâm cao nhất.
2.8. Tranh thủ sự đồng thuận của các lực lượng giáo dục trong và ngòai
nhà trường
Trong thực tế có người cho rằng, bồi dưỡng học sinh giỏi là trách
nhiệm của đồng chí giáo viên được nhà trường phân công. Điều đó chỉ đúng
một phần nhất định. Vì để công tác bồi dưỡng học sinh giỏi đạt hiệu quả cao
phải có sự hỗ trợ đắc lực của các đồng chí giáo viên trong tổ chuyên môn, sự
chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu, sự quan tâm đồng tình, động viên khích lệ

của phụ huynh học sinh và các giáo viên trong trường tạo điều kiện giúp đỡ.
Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi của trường THPT Quảng Xương I trong
những năm gần đây liên tục đạt kết quả cao, trước hết là có đường lối chỉ đạo
đúng đắn của BGH nhà trường, sự quan tâm, tạo điều kiện thực sự cho giáo
viên dạy đội tuyển. Trong năm học 2010-2011 nhà trường đã tạo lập được quỹ
hỗ trợ cho giáo viên dạy đội tuyển. Khác với trước đây, đội tuyển do một cá
nhân phụ trách, nhưng hiện nay giao trách nhiệm cho tổ trưởng chuyên môn
và các giáo viên khác cùng cộng đồng trách nhiệm, phối hợp dạy hỗ trợ lẫn
nhau. Để có sự đồng thuận và nhất trí giữa nhà trường và gia đình, sau khi học
sinh làm đơn xin tham gia đội tuyển chính thức, nhà trường tổ chức họp phụ
huynh các đội tuyển để trao đổi, từ đó sự quan tâm của phụ huynh được tăng
lên. Đến ngày chuẩn bị đi thi, nhà trường tổ chức gặp mặt các đội tuyển vừa
để căn dặn vừa động viên giao nhiệm vụ cho các em. Trong các buổi trao
phần thưởng học sinh giỏi hàng năm, một thành phần không thể thiếu trong
buổi lễ đó là các bậc phụ huynh trong đội tuyển. Tất cả những việc làm đó
đều thể hiện rằng: Để có chất lượng học sinh giỏi thực sự vững bền trước hết
cần có sự đồng tâm của tập thể sư phạm nhà trường, sự nỗ lực của thầy và trò,
sự đồng thuận của phụ huynh học sinh.

Người thực hiện: Lê Thị Liên – Trường THPT Quảng Xương I

19


III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ
1. Kết quả đạt được
Với những việc đã làm như trên đối chứng với cách làm trước đây, tôi
đã thu đựơc những kết quả rất khích lệ, đựơc lãnh đạo Sở, lãnh đạo nhà
trường, đồng nghiệp và các trường bạn ghi nhận. Góp một phần vào thành tích
chung của nhà trường trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi nhiều năm nay,

xứng đáng là một trong những trường có chất lượng dạy tốt học tốt trong tỉnh.
Có thể nói, sự kiên trì tận tâm và lòng nhiệt tình trong chuyên môn của
bản thân cùng với sự miệt mài chăm chỉ, nỗ lực của các em học sinh đã được
đền đáp. Liên tục trong nhiều năm đội tuyển môn GDCD không những đã đạt
chỉ tiêu nhà trường đề ra (xếp từ thứ 1 đến thứ 10 toàn tỉnh) mà còn hoàn
thành xuất sắc với kết quả rất cao và giữ vững trong nhiều năm. Từ năm học
2005-2006 đến năm học 2010-2011 đã có 55/59 em đạt giải (trong đó giải
nhất: 6 em, giải nhì: 19 em, giải ba: 21 em, giải khuyến khích: 9 em)

Niềm vui của cô và trò

Người thực hiện: Lê Thị Liên – Trường THPT Quảng Xương I

20


Báo cáo kinh nghiệm bồi dưỡng HSG

Đó là những con số biết nói, là những minh chứng mà thầy và trò chúng
tôi đã đạt được. Chỉ tính trong 6 năm liên tục trở lại đây, số lượng học sinh
tham gia đăng ký dự thi tăng lên, số học sinh đạt giải cấp tỉnh hàng năm ngày
càng nhiều cả về số lượng và chất lượng, đặc biệt trong 5 năm liên tục đội
tuyển do tôi phụ trách đều có học sinh đạt giải nhất và 5 năm liên tục bộ môn
được xếp thứ nhất, nhì toàn tỉnh:
Số HS đạt giải
Số HS đạt
Xếp thứ tự trong
Khuyến
Năm học
giải /Số HS

dự thi

2005-2006
2006- 2007
2007- 2008
2008- 2009
2009-2010
2010-2011
Tổng

9/9

8/10
10/10
9/10
9/10
10/10
55/59

Nhất

Nhì

Ba

0
1
1
1
2

1
6

2
3
4
3
2
5
19

7
3
3
2
4
2
21

khích

0
1
2
3
1
2
9

toàn tỉnh


3
1
1
1
1
2

Người thực hiện: Lê Thị Liên – Trường THPT Quảng Xương I

21


2. Kết luận
Theo tôi: “Dạy học là một nghệ thuật”! Điều này càng đúng hơn trong
công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, bởi vì bồi dưỡng học sinh giỏi là một quá
trình công phu, nhiều thử thách đối với cả thầy và trò. Cho nên, ngoài trình độ
chuyên môn, kinh nghiệm uy tín thì giáo viên dạy GDCD phải thực sự nhiệt
tình, tâm huyết trong giảng dạy để khơi dậy được ở học sinh sự yêu thích môn
học và thắp lên niềm tin vững chắc cho các em đi đến thành công.
Mặc dù trong quá trình thực hiện tôi đã áp dụng 8 giải pháp trên
nhưng vẫn còn nhiều khía cạnh khác chưa nghiên cứu. Đề tài chắc chắn còn
nhiều khiếm khuyết, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các bạn
đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn.
3. Đề xuất kiến nghị
3.1. Đối với Bộ GD&ĐT:
- Nên đưa môn GDCD vào chương trình thi tốt nghiệp THPT để đảm bảo
yêu cầu: “Học gì thi nấy”.
3.2. Đối với Sở GD&ĐT:
- Cần có chương trình và tài liệu hướng dẫn ôn thi học sinh giỏi môn

GDCD để tạo điều kiện cho giáo viên ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của
công tác bồi dưỡng học sinh giỏi.
-Cần tổ chức các đợt hội thảo chuyên đề báo cáo kinh nghiệm về công tác bồi
dưỡng HSG để GV có điều kiện học hỏi lẫn nhau.
3.3. Đối với các trường THPT:
- Quan tâm, có chế độ ưu đãi thực sự xứng đáng đối với giáo viên bồi
dưỡng đội tuyển học sinh giỏi.
- Làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục để đầu tư nhiều hơn về điều kiện
vật chất, kinh phí cho công tác bồi dưỡng học sinh giỏi trong các nhà trường.
- Không ngừng yêu cầu giáo viên tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao năng
lực chuyên môn, tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy để phát huy tốt
năng lực học của trò và năng lực sư phạm của thầy.
Quảng Xương, này 20/5/2011
Người viết
Lê Thị Liên

Người thực hiện: Lê Thị Liên – Trường THPT Quảng Xương I

22



×