Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

skkn phương pháp dạy học môn lịch sử địa phương trong chương trình THCS để phát huy tính năng động, sáng tạo của học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.35 KB, 21 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ :
I. LỜI MỞ ĐẦU:
1. Chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước đối với sự nghiệp Giáo dục
và đào tạo:
Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (tháng 4 năm 2001) nêu rõ "Tiếp tục nâng cao
chất luợng giáo dục toàn dân, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ
thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục; thực hiện tiêu chuẩn hóa, hiện
đại hóa xã hội". Như vậy, việc nâng cao chất lượng giáo dục nói chung, dạy các
bộ môn nói riêng đòi hỏi phải thực hiện tốt mối quan hệ giữa mục tiêu, nội dung
và đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử ở trường Trung học cơ sở hiện nay là
một vấn đề lớn, thu hút sự quan tâm không chỉ của những người làm công tác
giảng dạy mà ngay cả ở các cấp, các ngành ở Trung ương và địa phương.Theo
Luật giáo dục đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
X thông qua ngày 02 tháng 12 năm 1998 thì "Mục tiêu giáo dục đào tạo là đào
tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, có tri thức, sức khỏe,
thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công
dân đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc...". Vậy phải định hướng đổi
mới phương pháp dạy học ở trường THCS theo luật giáo dục là:
- Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo ở HS
- Bồi dưỡng phương pháp tự học
- Rèn kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn
- Tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS.
Bốn định huớng này có liên quan chặt chẽ, trong đó định hướng đầu tiên là
căn bản.
Quán triệt về tính tích cực của HS trong quá trình học tập lịch sử thì trong
một giờ học lịch sử địa phương, để phát huy tính tích cực của HS, đòi hỏi người

1
Năm học: 2010 - 2011




giáo viên phải kết hợp nhiều phương pháp trong một giờ học để gây sự chú ý và
hứng thú cho HS.
2 .Vị trí, vai trò của lịch sử địa phương:
- Lịch sử địa phương và lịch sử dân tộc có một mối quan hệ biện chứng
không thể tách rời, nằm trong cặp phạm trù "cái chung và cái riêng". Tri thức
lịch sử địa phương là biểu hiện cụ thể, sinh động và đa dạng của tri thức lịch sử
dân tộc.
Lịch sử địa phương là một bộ phận cấu thành lịch sử dân tộc. Nói cách
khác, lịch sử dân tộc được hình thành trên nền tảng khối lượng tri thức lịch sử
địa phương đã được khái quát và tổng hợp ở mức độ cao.
Chúng ta đều biết rằng, bất cứ một sự kiện, hiện tượng lịch sử nào xảy ra
đều mang tính chất địa phương, vì nó gắn với một vị trí không gian cụ thể của
một địa phương nhất định dù rằng các sự kiện đó có tính chất, quy mô và mức độ
ảnh hưởng khác nhau. Có những sự kiện, hiện tượng chỉ có tác dụng ảnh hưởng
ở một phạm vi nhỏ hẹp nhưng cũng có những sự kiện, hiện tượng mà tác động
của nó vượt ra khỏi khung giới địa phương, mang ý nghĩa quốc gia, thậm chí là ý
nghĩa quốc tế. Mặt khác, tìm hiểu về lịch sử địa phương không chỉ là việc riêng
của các nhà nghiên cứu mà còn là nhu cầu của mỗi con người.
Từ thời cổ đại, Xi-xê-rông - một chính trị gia nổi tiếng của Rô- ma cổ đã
nói: “Lịch sử là thầy dạy của cuộc sống”. Chính vì lẽ đó; sự hiểu biết về lịch sử
dân tộc còn bao hàm cả sự am tường cần thiết về lịch sử địa phương, hiểu biết về
quê hương, xứ sở, nơi chôn nhau cắt rốn của mình, hiểu từ mối quan hệ giữa lịch
sử địa phương và lịch sử dân tộc. Các nhà sử học xưa đã nói: "Sử để ghi chép
việc, mà việc thì hay hoặc dở đều làm gương răn dạy cho đời sau. Các nước ngày
xưa nước nào cũng đều có sử. "Sử phải tỏ rõ được sự phải - trái công bằng, yêu
ghét, vì lời khen của Sử còn vinh dự hơn áo đẹp của vua ban, lời chê của sử còn
nghiêm khắc hơn búa rìu, Sử thực sự là cái cân, cái gương của muôn đời".


2
Năm học: 2010 - 2011


II.THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ CẦN NGHIÊN CỨU:
1. Thực trạng về vấn đề dạy học lịch sử địa phương trong chương trình
THCS
Môn lịch sử vốn có vị trí, ý nghĩa đối với giáo dục thế hệ trẻ. Từ những
hiểu biết về quá khứ, học sinh hiểu rõ truyền thống dân tộc. Tự hào với những
thành tựu dựng nước của tổ tiên, xác định vị trí trong hiện tại, có thái độ đúng
với sự phát triển hợp qui luật của tương lai. Trong nghị quyết Hội nghị Ban chấp
hành Trung ương Đảng lần thứ 2 khoá 8 (tháng 2 năm 1997) đã khẳng định vai
trò của môn lịch sử cùng các môn khoa học khác trong công tác giáo dục. Không
những ngày nay, nhà nước mới quan tâm đến giáo dục mà ngay từ năm 1998,
luật giáo dục cũng đã xác định “ phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích
cực của học sinh, bồi dưỡng năng lực học tập có lòng say mê học tập và có ý
thức vươn lên ”, cũng như các môn học khác, đặc điểm và chức năng của mình,
việc học tập lịch sử lại cần phát huy tính năng lực tích cực của học sinh.
Lòng yêu quê hương là biểu hiện quan trọng nhất của lòng yêu nước chân
chính. Từ thuở bé thơ mỗi chúng ta đều biết về con người, cảnh vật, quá khứ nơi
chôn nhau, cắt rốn của mình. Những câu hát ru, những câu chuyện cổ tích của
bà, mẹ, chị mà một phần không nhỏ nói về quê hương, đã sớm in sâu vào tâm trí
trẻ em, làm tăng thêm lòng yêu quê da diết và là tri thức ban đầu về quê hương.
Các môn học về địa phương (địa phương học ) ở trường THCS, trong đó
có những tiết lịch sử địa phương có ý nghĩa quan trọng đối với việc cung cấp, bổ
sung những kiến thức khoa học về tự nhiên, xã hội của quê hương trên mọi lĩnh
vực.Tiếc rằng, trong nhiều năm qua những tiết học về địa phương chưa được chú
trọng, thậm chí có trường còn xem là giờ phụ có thể dạy, hoặc bỏ qua. Và do
quan niệm khác nhau nên nhiều người chưa coi trọng lịch sử địa phương mặc dù
trong chương trình dạy môn lịch sử không thể thiếu mảng kiến thức này. Đây

không chỉ là thiếu sót của người dạy mà còn là một thiệt thòi cho HS khi muốn
tìm hiểu về lịch sử của dân tộc, quê hương.
3
Năm học: 2010 - 2011


Ở nước ta, việc nghiên cứu lịch sử địa phương, với tư cách là một ngành
khoa học được bắt đầu từ sau ngày hoà bình lập lại ở miền Bắc.Từ sau ngày
miền Nam giải phóng, công tác này được tiến hành trên phạm vi cả nước. Hầu
hết các tỉnh đã biên soạn được lịch sử của tỉnh và kể cả huyện, xã. Tỉnh Thanh
Hoá chúng ta cũng đã được một số tác giả như: giáo sư Phan Ngọc Liên (Chủ
tịch Hội đồng bộ môn lịch sử - Bộ giáo dục và đào tạo; Chủ tịch Hội Giáo dục
lịch sử Việt Nam) cùng một số tác giả của trường Cao đẳng Sư phạm Thanh Hoá
(nay là trường Đại học Hồng Đức) như: Hoàng Thanh Hải, Vũ Quí Thu biên
soạn và xuất bản cuốn giáo trình Lịch sử Thanh Hoá năm 1996 trước đây cho
sinh viên lấy tài liêu học tập, tuy nhiên những tài liệu viết về lịch sử về địa
phương còn quá ít, sách tham khảo cho giáo viên còn hạn chế.
Thanh Hoá là một tỉnh lớn, có bề dày lịch sử lâu đời và oanh liệt, gắn với
lịch sử chung của dân tộc. Thanh Hoá còn là mảnh đất chứa đựng trong lòng nó
tính đặc sắc của nền văn hoá các dân tộc thiểu số cũng là một tư liệu hết sức
phong phú về lịch sử địa phương. Vì lẽ đó, không có lí do nào để chúng ta những giáo viên dạy sử lại bỏ trống mảng này. Cá nhân tôi cho rằng, với nguồn
tư liệu lịch sử địa phương hết sức phong phú như vậy thì 8 tiết trong phân phối
chương trình quả là quá ít, bởi vì chúng ta có rất nhiều điều cần giảng dạy cho
các em và các em cũng có nhiều điều chưa biết.
Trong chương trình lịch sử THCS, các tiết lịch sử địa phương có mặt với
số lượng không lớn chỉ có 8 tiết trong cả bốn khối lớp ( 6,7,8,9) nếu không muốn
nói là khiêm tốn. Có lẽ vì thế, mà nhiều giáo viên chưa chú trọng, đầu tư vào các
tiết dạy chương trình lịch sử địa phương hoặc có khi còn bỏ qua. Đây là nội dung
mới được đưa vào SGK lịch sử THCS. Cho nên không tránh khỏi những khó
khăn cho giáo viên trong việc sưu tầm và lựa chọn nội dung dạy- học mang tính

địa phương, tổ chức cho học sinh học tập những nội dung mang tính địa phương.
Vấn đề đặt ra là mỗi giáo viên phải lựa chọn xác định cho mình những nội
dung và cách thức học tập phù hợp.
4
Năm học: 2010 - 2011


Có thể nói đây là phần chương trình có khả năng dung nạp lớn nhất mọi
hình thức học tập (Trên lớp, ở nhà, nội khoá, ngoại khoá, điền dã...). Cũng là
phần có điều kiện thuận lợi nhất trong việc phát huy tính năng động, sáng tạo của
học sinh, phù hợp với phương pháp dạy - học tích cực.
Vì vậy, không nên dạy một cách qua loa, đại khái hoặc bỏ qua các tiết lịch
sử địa phương.
Ở đây, tôi xin đưa ra phương hướng dạy - học bài lịch sử địa phương theo
phương pháp dạy học tích cực mà qua thực tế tôi thấy phát huy được tính năng
động, sáng tạo của học sinh.
2. Từ thực trạng trên, tôi đã đưa ra những vấn đề như sau để giải quyết :
a. Mục đích nghiên cứu:
- Nghiên cứu thực trạng dạy học môn lịch sử địa phương, từ đó tìm ra
phương pháp dạy học theo hướng tích cực để giảm bớt sự khô khan trong giờ
học và đưa ra phương pháp bổ trợ nhằm kích thích sự hứng thú trong học tập ở
các em.
b . Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: là thực trạng dạy - học lịch sử địa phương của Giáo
viên và HS ở trường THCS.
- Đơn vị nghiên cứu: Trường THCS Đông Yên - Đông Sơn gồm: 1 số Giáo
viên đã và đang giảng dạy bộ môn lịch sử.
c. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nêu ra những kinh nghiệm của bản thân sau 3 năm giảng dạy phần lịch sử
địa phương.

- Nghiên cứu thực trạng công tác giảng dạy môn lịch sử địa phương ở trường
THCS Đông Yên trong điều kiện giáo dục hiện nay.
- Tổ chức thử nghiệm phương pháp dạy học tích cực để gây sự hứng thú
trong giờ học lịch sử địa phương.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn lịch sử
địa phương ở trường THCS.
5
Năm học: 2010 - 2011


d. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp tổng hợp những kinh nghiệm của đồng nghiệp và của bản
thân.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu và các văn bản về lí luận có liên quan đến
đề tài.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I. CÁC BIỆN PHÁP VÀ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
*CÁC BIỆN PHÁP:
Phương hướng dạy học các bài lịch sử địa phương trong chương trình
THCS để phát huy tính năng động, sáng tạo của học sinh.
1. Tìm hiểu quan niệm về “Chương trình lịch sử địa phương”.
Khái niệm “Địa phương” trong điều kiện phát triển của đất nước hiện nay
và đối với học sinh trong đó có không ít em sinh trưởng trong các gia đình đã xa
quê từ lâu, đang sinh sống ở thành phố, thị xã, có thể hiểu “Quê hương” là “Quê
cũ” (cố hương), “Nguyên quán”...Cũng có thể hiểu là nơi đang sống, là “Trú
quán”, “Quê mới”... Có thể hiểu là xã, phường, huyện, khu phố, tỉnh, thành phố,
thậm chí trong trường hợp sưu tầm tài liệu khó khăn, có thể quan niệm là cả
vùng, miền...
Như vậy, quan niệm về “chương trình địa phương” không chỉ thu hẹp trong

một xã, một huyện mà hiểu rộng cả một vùng, miền. Nhưng tinh thần cơ bản là
làm cho học sinh biết hoà nhập với xã hội, biết vận dụng kiến thức vào thực tiễn,
có ý thức và biết cách học hỏi trong thực tế cuộc sống.
2. Một số hình thức, phương pháp dạy - học bài “ chương trình địa
phương” môn lịch sử:
2.1. Chuẩn bị tài liệu:
Muốn có một giờ học lịch sử địa phương đạt hiệu quả, ngoài phương pháp
tiến trình giáo viên tổ chức cho HS một số hoạt động phát huy tính tích cực,
6
Năm học: 2010 - 2011


hăng say của HS. Giáo viên nên hướng dẫn, tổ chức cho học sinh có thời gian
chuẩn bị trước ở nhà ( Có thể khoảng một tuần, nửa tháng ). Các khoá học trước
đây, HS ở các lớp khối lớp 6, 7, 8, 9 có tài liệu về lịch sử địa phương, nhưng
chỉ ở con số một lớp khoảng 15 đến 20 em là có sách để nghiên cứu. Như vậy,
việc chuẩn bị trước tư liệu rất quan trọng.
* Ví dụ:
a. Bài :Cuộc khởi nghĩa Bà Triệu
- Trong chương trình SGK lớp 6, học kì II- tiết 33: yêu cầu học sinh chuẩn
bị trước tư liệu viết về Bà Triệu, sưu tầm bản đồ, tranh ảnh...
- Giáo viên có thể đưa ra câu hỏi cho HS về nhà chuẩn bị như: Bà Triệu
tên thật là gì ?, Bà quê ở đâu ? Nguyên nhân nổ ra cuộc khởi nghĩa của Bà ? Đền
thờ Bà nay ở huyện nào ?...
- HS sưu tầm những câu ca, bài đồng dao viết về Bà Triệu mang tính địa
phương như bài:
"Có bà Triệu tướng
Vâng lệnh trời ra.
Trị voi một ngà,
Dựng cờ mở nước.

Lệnh truyền sau trước
Theo gót bà Vương"
(Đồng dao)
- GV gợi ý cho HS về nhà sưu tầm thơ ca dân gian viết về bà Triệu được
lưu truyền trong nhân dân mà các bà, các chị, vẫn thường hát ru em bé thuở ấu
thơ như:
"Ai qua Nông Cống tỉnh Thanh
Dừng chân nhớ Triệu Thị Trinh anh hùng"
Hoặc:
"Tùng sơn nắng quyện mây trời
Dấu chân Bà Triệu rạng ngời sử xanh"
7
Năm học: 2010 - 2011


(Thơ ca dân gian)
Và HS sưu tầm thơ của Hồ Chủ Tịch viết về bà Triệu...để khắc sâu hình
ảnh ngưòi nữ anh hùng dân tộc, tiếp đó giáo viên có thể cho HS chuẩn bị trước
các ảnh tư liệu về Bà Triệu: tranh ảnh vẽ về chân dung, về cuộc khởi nghĩa và về
đền thờ Bà...
b.Ví dụ : Khu di tích lịch sử Lam Kinh
- Đối với bài dạy này giáo viên cho HS chuẩn bị trước về tiểu sử và sự
nghiệp của danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi và Lê Lợi, cùng với một số
thủ lĩnh khác cũng ở quê Thanh như: Nguyễn Chích, Lê Lai, Lê Thận, Lê Lý...
- Ngoài ra GV còn ra câu hỏi cho HS về nhà tìm tài liệu chuẩn bị trước như:
- Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở đâu ? Có những anh hùng hào kiệt và những
người yêu nước nào tìm về hưởng ứng cuộc khởi nghĩa...?
- Em hiểu gì về câu nói: "Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi" ?
- HS sưu tầm câu chuyện kể về Lê Lợi, tranh ảnh về cuộc khởi nghĩa...
* Giáo viên lưu ý cho học sinh có những câu ca dao, câu chuyện ca ngợi

nhân vật lịch sử ở địa phương trở thành tài sản chung của cả nước.
+ Ví dụ: Truyện Sự tích Hồ Gươm:
- Viết về ông Lê Lợi sau khi đánh thắng giặc Minh, đất nước thanh bình,
vua Lê Lợi trả gươm thần cho Long Quân, qua đây để nói về danh nhân đất mẹ
Hương Trù Sơn, huyện Lôi Dương (nay là huyện Thọ Xuân-Thanh Hoá) là của
nhân dân địa phương Thọ Xuân nhưng trở thành tác phẩm truyện cổ tích dân
gian nổi tiếng của cả nước.
Dựa vào kết quả đã chịu khó sưu tầm, chuẩn bị tài liệu có sẵn, giờ học lịch
sử địa phương sẽ rất sôi nổi và có hiệu quả.
2.2. Dạy học bằng hình thức tổ chức trò chơi:
Cách dạy bằng hình thức này vừa gây được hứng thú cho học sinh vừa
phát huy được tính tích cực, năng động, sáng tạo ở các em . Quan trọng hơn nữa
là giúp các em thể hiện được năng khiếu của chính mình, giúp các em tự tin hơn,
hoà nhập vào tập thể lớp mà không thấy tự ti về sức học của mình. Nhất là học
8
Năm học: 2010 - 2011


sinh vùng nông thôn như nơi tôi đang giảng dạy, tôi thấy nhiều em còn nhút
nhát, rụt rè chưa mạnh dạn xây dựng bài, đóng góp ý kiến cho bạn và trong các
hoạt động tập thể.
Áp dụng hình thức dạy học này, tôi thấy các em khắc phục được phần nào
sự nhút nhát, tự ti bởi nhiều em học sinh có dịp thể hiện mình ở các lĩnh vực: Hội
hoạ, kể chuyện về các cuộc khởi nghĩa, ngâm thơ ca ngợi các anh hùng, các nữ
tướng...
2.3. Thi vẽ tranh, đọc thơ, ngâm thơ, kể chuyện, tường thuật lại các
cuộc khởi nghĩa ở địa phương.
a. Giáo viên cho học sinh có năng khiếu hội hoạ lên vẽ những hình ảnh tiêu biểu
(Danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, vẽ chân dung các anh hùng ở Thanh Hoá,
vẽ các lược đồ khởi nghĩa, ...) biểu tượng của quê hương và cho các em đặt lời

bình cho những bức vẽ đó.
- Cụ thể: HS ở các tổ ( nhóm) cử đại diện tổ mình lên dự thi vẽ tranh, bức
tranh của tổ (nhóm) nào đẹp, đầy đủ chi tiết và bố cục, sẽ được đánh giá cao hơn
các nhóm khác.
+ Ví dụ : HS học tiết: Khởi nghĩa Bà Triệu, các em vẽ hình ảnh Bà Triệu
cưỡi voi ra trận hoặc học sinh vẽ lăng Bà Triệu ở núi Tùng (Thanh Hoá) và các
em tự viết lời bình cho bức tranh, thay mặt cho tổ đọc lên ý tưởng đó.
- Đối với HS khối lớp 8, GV có thể cho các em thi vẽ : "Công sự phòng thủ Ba
Đình" khi dạy cho các em bài: Thanh Hoá trong phong trào Cần Vương cuối thế
kỷ XIX.
b. Giáo viên có thể cho học sinh thi ngâm thơ, đọc thơ những bài ca dao,
bài thơ, câu thơ viết ca ngợi các anh hùng ở địa phương gắn với tiết lịch sử mà
cả lớp đang học.
- HS khối lớp 6 thi ngâm thơ hoặc hát ru về Bà Triệu khi các em học tiết
lịch sử : Cuộc khởi nghĩa Bà Triệu.
''Ru con con con ngủ cho lành,
Để mẹ gánh nước đổ bành con voi
9
Năm học: 2010 - 2011


Muốn coi lên núi mà coi
Coi Bà Triệu tướng cỡi voi đánh cồng.
Túi gấm cho lẫn túi hồng,
Têm trầu cánh kiến cho chồng ra quân"
(Ca dao)
- HS khối lớp 7 thi kể chuyện về ông Lê Lợi. Vì sao ông Lê Lai lấy mình
cứu chúa để giải thích cho câu hỏi ở trên HS đã chuẩn bị ở nhà.
Các tổ thi với nhau, tổ nào kể chuyện hay hấp dẫn, đầy đủ tình tiết thì tổ
đó được điểm cao

c. HS khối lớp 8, 9 các em có thể thi về tường thuật lại một khu căn cứ ở
địa phương.
+ Ví dụ: Lớp 8, GV cho HS thi giữa các tổ, với nội dung thuật lại căn cứ
Ba Đình ở trên lược đồ...
-Từ những hình thức thi ở trên, giờ học sẽ cuốn hút HS và tạo nên sự
hứng thú nơi các em, tiết học sẽ sôi nổi và căn bản HS sẽ tiếp cận với bài học
được tốt hơn.
2.4. Trò chơi đố kiến thức:
Giáo viên tổ chức cho học sinh chơi ô chữ. Những kiến thức trong các ô
chữ là tên các địa danh gắn với bài học lịch sử địa phương mà HS ở tiết đó các
em học, các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, những tác phẩm văn học viết về
các cuộc khởi nghĩa, các anh hùng đánh thắng giặc ngoại xâm, các nữ tướng...
nổi tiếng của địa phương. Cũng có thể cho học sinh bắt thăm trả lời các câu hỏi
về kiến thức liên quan đến bài học lịch sử địa phương.
Giáo viên chuẩn bị ô chữ trước, có thể cắt dán giấy màu, hay kẻ sẵn ra
bảng phụ. Ô chữ có hàng dọc và hàng ngang, yêu cầu HS lên bảng điền đúng
hoặc dán chữ đúng trên giấy màu.
Các HS trong lớp xung phong lên bảng và các bạn khác nhận xét. Em nào
tìm được từ khoá sẽ được cả lớp vỗ tay tán thưởng.
2.5. Hoạt động ngoại khoá:
10
Năm học: 2010 - 2011


Giáo viên có thể dẫn học sinh đi tham quan các địa danh lịch sử, danh lam
thắng cảnh, tham quan nơi diễn ra các cuộc khởi nghĩa, thăm các đề thờ, các di
tích lịch sử, tham quan bia tưởng niệm các anh hùng... gắn với các tiết học lịch
sử ở địa phương để giúp học sinh từ những hoạt động thực tế nhận thấy được ý
nghĩa của bộ môn lịch sử nói chung và phần lịch sử địa phương nói riêng.
Ví dụ:

a- Học về Khu di tích lịch sử Lam Kinh ở khối lớp 7: Giáo viên nên tổ
chức cho học sinh đi tham quan khu di tích lịch sử Lam Kinh ở xã Xuân Lam
huyện Thọ Xuân.
b-Hoặc tham quan thành nhà Hồ ở làng Tây Giai trong địa phận núi Yên
Tôn, sử cũ gọi là thành Tây Đô ở xã Vĩnh Long và Vĩnh Tiến huyện Vĩnh Lộc.
c -Trường THCS Đông Yên nơi tôi đang giảng dạy, trong năm học 20092010 và năm học 2010-2011 này, nhà trường và tổ bộ môn đã kết hợp tổ chức
cho HS các khối lớp 6, 7, 8, 9 toàn trường học các tiết lịch sử ngoại khoá ngoài
trời: tham quan các di tích lịch sử đã được xếp hạng ngay ở địa bàn xã nhà như:
+ Đền thờ Nguyễn Nhữ Soạn ở làng Cẩm Nga và đền thờ Lê Đình Chiêu ở
làng Yên Bằng.
Nguyễn Nhữ Soạn là một công hầu trong 8 vị công hầu của dòng họ
Nguyễn ở làng Cẩm Nga và là một trong 7 danh nhân tiêu biểu của Đông Sơn,
người đã có công lớn trong các cuộc đấu tranh chống quân xâm lược Minh.
HS đến những nơi đó, các em đã được các trưởng họ, trưởng tộc giới thiệu
về thân thế của các công hầu, được hiểu biết thêm về chiến công của họ và bồi
dưỡng thêm lòng tự hào về các anh hùng hào kiệt của chính quê hương mình, các
em thêm hiểu biết về những trang lịch sử hào hùng của địa phương Thanh Hoá,
và từ đó càng thêm yêu quê hương của mình. Tiết học cũng làm cho các em
mạnh dạn, thân thiện và gần gũi với mọi người hơn.
+ Trường chúng tôi còn tổ chức cho HS ở các khối lớp đi tham quan thành
Hoàng Nghiêu - căn cứ Nguyễn Chích, khu di tích lịch sử cấp tỉnh ở xã Đông
Nam - Đông Sơn.
11
Năm học: 2010 - 2011


Đây cũng là một tiết học lịch sử địa phương ở ngoài trời được HS
và phụ huynh nhiệt tình ủng hộ. Có thể nói, tiết học này mang lại nhiều bổ ích và
lí thú cho cả giáo viên và học sinh. HS đến thành được nghe cô giáo Hiệu trưởng
Nguyễn Thị Ly và giáo viên dạy bộ môn lịch sử giới thiệu về thành.

Các em được tận mắt trông thấy thành xây, thành đắp với 5 cửa và vẫn
còn dấu tích. Thành xây bằng đất được trồng tre gai, mỗi thành cao hàng chục
mét, dài hàng trăm mét và rộng khoảng 20m mà cách đây hơn 600 năm, nghĩa
quân của Nguyễn Chích đã xây dựng để chống quân giặc và mới thấy được cái
tài của một nhà binh lược, sự tinh tường quân sự của người tướng tài ( Khai quốc
công thần) Nguyễn Chích..Và đặc biệt cả thầy và trò chúng tôi được các đồng
chí lãnh đạo địa phương dẫn dắt, chỉ dẫn đi suốt hành trình của bài học hôm đó,
HS được xem một thung bằng phẳng rộng mấy chục ha nằm gọn trong dãy núi
Hoàng Nghiêu, dòng sông Hoàng Nghiêu lượn theo hình dãy núi chảy qua thung
toạ nên một phong cảnh sơn thuỷ hữu tình, nơi đây đã để lại một dấu son không
thể phai mờ.
d- Với bài “Cuộc khởi nghiã Bà Triệu": Đông Sơn là vùng lân cận với
Hậu Lộc nên tổ chức cho các em đi tham quan lăng Bà Triệu... nghe hát dân ca,
ca dao ca ngợi về Bà...
- Nếu có điều kiện giáo viên nên mời các bác ở ban văn hoá xã, những
người cao tuổi ở địa phương, ở làng và xã đến gặp gỡ nói chuyện với các em về
những khu di tích của xã, những công thần khai quốc, nói chuyện về lịch sử quê
hương...để các em hiểu thêm giá trị của lịch sử nơi sinh ra chính mình.
Hình thức học tập hoạt động ngoại khoá có lợi tạo tâm lí thoải mái theo
phương châm “ Học mà chơi, chơi mà học”, tạo cho các em học sinh những kĩ
năng giao tiếp với môi trường bên ngoài, có năng lực quan sát, giúp học sinh
phát triển toàn diện hơn. Nhưng hình thức học tập này có thực hiện được tốt hay
không chắc chắn còn phụ thuộc nhiều vào yếu tố địa lý, điều kiện sống. Với
những học sinh sống ở thành phố, thị trấn thì hình thức học tập bằng hoạt động
ngoại khoá dễ dàng thực hiện được hơn rất nhiều so với học sinh ở vùng nông
12
Năm học: 2010 - 2011


thôn chứ chưa nói đến vùng sâu, vùng xa. Nói như vậy, không phải là không

thực hiện được. Nếu cố gắng chúng ta vẫn tổ chức được các hoạt động ngoại
khoá như thế. Tuy nhiên, vẫn không tránh khỏi những điều bất cập.
2.6. Đàm thoại - phát vấn
Đây cũng là phương pháp không thể thiếu trong tiết học lịch sử địa
phương. Học sinh phát biểu, nêu ý kiến, nhận xét về nội dung lịch sử địa
phương. Mỗi học sinh có mỗi cách nhận xét, đánh giá. Giáo viên sẽ là người
định hướng, rút ra nhận định khái quát cuối cùng.
Ví dụ 1: Với bài “Cải cách của Hồ Quí Ly”. Phần lịch sử ở lớp 7 yêu cầu
HS trả lời câu hỏi bằng thảo luận nhóm
Câu hỏi:
a. Vì sao Hồ Quí Ly thực hiện các biện pháp cải cánh đất nước ?
b. Em nhận xét, đánh giá như thế nào về nhân vật Hồ Quí Ly ?
Ví dụ 2: Còn bài “Thanh Hoá trong phong trào Cần Vưong cuối thế kỷ
XI X”, giáo viên có thể đặt câu hỏi:
Câu hỏi:
a. Nêu đặc điểm, ý nghĩa lịch sử của phong trào Cần Vương Thanh Hoá ?
b. Em hãy sưu tầm những mẩu chuyện về phong trào Cần Vương chống
Pháp ở Thanh Hoá ?
Học sinh sẽ thảo luận nhóm với những câu hỏi trên và đưa ra ý kiến của
mình.
2.7.Trò chơi hướng dẫn viên du lịch:
- Giáo viên tổ chức cho HS chơi trò chơi "Hướng dẫn viên du lịch" xen
vào các tiết dạy lịch sử địa phương để các em có thêm "ngòi nổ" trong thảo luận,
HS sẽ mạnh dạn hơn trước đám đông để trình bày ý kiến. Đây là trò chơi mang
tính sáng tạo của giáo viên, nó không có trong bài giảng, trò chơi này giúp các
em tự tin và hứng thú hơn trong giờ học lịch sử.

13
Năm học: 2010 - 2011



Cụ thể giáo viên cho HS làm hướng dẫn viên du lịch thành nhà Hồ,
khu di tích lịch sử Lam Kinh...
II. THỰC HIỆN SƯ PHẠM:
Dưới đây là giáo án “Chương trình lịch sử địa phương " (Tiết 64)
SGK lớp 7, học kỳ II áp dụng cho địa phương Đông Sơn -Thanh Hoá.
Tiết 64:

Sưu tầm lịch sử địa phương

A. Mục tiêu cần đạt:
- Giúp học sinh:
+ Tiếp tục chương trình lịch sử địa phương ở lớp 6, giúp học sinh hiểu biết
sâu rộng hơn địa phương Đông Sơn nói riêng, Thanh Hoá nói chung về các mặt
đời sống và văn hoá tinh thần, truyền thống lịch sử xưa và hiện nay. Trên cơ sở
bồi dưỡng tình yêu quê hương, giữ gìn và phát huy bản sắc và tinh hoa của địa
phương Đông Sơn -Thanh Hoá trong sự giao lưu với cả nước.
B.Phương tiện dạy học:
-Bản đồ huyện Đông Sơn
-Tài liệu tham khảo về Đông Sơn như: Nền văn hoá Đông Sơn (Tiến sĩ
Nguyễn Tài Sáng)
-Tranh ảnh về các di tích lịch sử ở huyện Đông Sơn.
C.Tổ chức các hoạt động trên lớp:
1. ổn định lớp:
2. Kiểm tra bài cũ : - Lịch sử địa phương là gì ?
3. Bài mới:
* Hoạt động 1:
1. Tổng kết, đánh giá công việc sưu tầm những câu chuyện lịch sử,
những di tích lịch sử, giới thiệu những làng nghề truyền thống, những câu
dân ca, những bức tranh vẽ...về địa phương (Đông Sơn - Thanh Hoá ).

Phần này học sinh đã có thời gian chuẩn bị từ rất lâu, giáo viên đã yêu cầu
mỗi học sinh sưu tầm từ 5-10 câu chuyện lịch sử, giới thiệu được một số làng
nghề, sưu tầm 5-10 câu ca...càng gần gũi nơi mình sống càng tốt.
14
Năm học: 2010 - 2011


Học sinh trên cơ sở đã chuẩn bị, đọc các câu ca dao, kể câu chuyện.. nói
về địa phương Thanh Hoá ở trước lớp.
Giáo viên tổng kết, đánh giá bổ sung thêm cho học sinh thêm những câu
chuyện lịch sử, những câu ca, làng nghề khác về địa phương mà các em chưa
biết như :
- Câu chuyện về tướng Nguyễn Chích, nhà thờ Nguyễn Chích ở xã Đông
Ninh (Đông Sơn),
- Di tích lịch sử núi Đọ ở xã Thiệu Khánh (Đông Sơn) nay thuộc huyện
Thiệu Hoá...
-Làng Mai Chữ (Đông Nam, Đông Sơn): Nghề làm giấy và nấu rượu.
-Làng nghề chạm khắc đá, đục đá ở thị trấn Nhồi (Đông Hưng)
-Làng Vồm (Thiệu Khánh, Đông Sơn), nay thuộc huyện Thiệu Hoá...
Qua đó, giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh thảo luận:
Câu hỏi:
a. Những câu chuyện lịch sử, những di tích lịch sử, câu ca dao, những bức
tranh...về địa phương em vừa sưu tầm thể hiện điều gì ?
b. Nhận xét về các khu di tích lịch sử ở địa phương đó. Nếu ở địa bàn nơi
em ở, em sẽ có ý thức giữ gìn ra sao ?
c. Em hãy nêu lên cảm tưởng của mình về những trang lịch sử Thanh Hoá,
những người anh hùng sinh ra và có công trạng với non sông, đất nước ?
*Hoạt động 2:
2. Thi vẽ tranh, đặt lời bình qua những hình ảnh phác hoạ về Đông
Sơn, Thanh Hoá.

- Giáo viên cho học sinh có năng khiếu hội hoạ vẽ những hình ảnh nổi
tiếng của Đông Sơn,Thanh Hoá lên bảng, hoặc lên giấy A4 và mời những học
sinh khác đặt lời bình hay làm thơ về những hình ảnh đó.
+ Cụ thể giáo viên cho HS vẽ:
- Thành Hoàng Nghiêu - căn cứ Nguyễn Chích,
- Vẽ chân dung vua Lê Lợi,
15
Năm học: 2010 - 2011


- Vẽ các làng nghề truyền thống như: Làng nghề chạm khắc đá ở thị trấn
Nhồi...
- Vẽ tranh các di tích, đền thờ người có công với nước ở quê em...
Tiếp theo giáo viên cùng các bạn trong lớp nhận xét đánh giá về những lời
bình, những bài thơ, câu thơ ,bức tranh vẽ... của các em. Các em HS làm tốt sẽ
được điểm thưởng cao.
*Hoạt động 3:
3. Tổ chức trò chơi đố kiến thức:
-GV tổ chức cho HS trò chơi: HS các tổ thi bắt thăm trả lời các câu hỏi về
kiến thức liên quan đến bài học như: các nhân vật lịch sử, di tích lịch sử, các
danh lam thắng cảnh... ở địa phương nơi HS cư trú.
+ Cụ thể: GV chuẩn bị câu hỏi ghi ra các tờ giấy nhỏ, gấp kín để trên bàn
GV hoặc một chậu cây cảnh có treo và gắn các câu hỏi. GV gọi lần lượt đại diện
của 4 tổ lên bắt thăm các câu hỏi và trả lời, tổ (nhóm) nào trả lời đúng sẽ được
ghi điểm, tổ nào không trả lời được thì 3 tổ còn lại xung phong trả lời câu hỏi đó
và được tính điểm.
* Câu hỏi như sau:
1. Nêu hiểu biết của em về ông Nguyễn Chích ?.
2. Năm 2010 cả nước kỉ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, làng nghề
thủ công truyền thống nào ở Đông Sơn đã vinh dự đúc những chiếc trống đồng

dâng lên Đại lễ ?.
3. Nhân dân huyện Đông Sơn đã vinh dự được đón Bác Hồ về thăm vào
ngày tháng năm nào, ở đâu ?.
4. Em hãy kể tên các di tích lịch sử ở trong địa bàn xã nhà ? .
- Sau khi các tổ trả lời xong câu hỏi bắt thăm, GV nhận xét đúng hoặc sai và đưa
ra đáp án:
* Đáp án:

16
Năm học: 2010 - 2011


. HS trả lời được : Nguyễn Chích (1382-1448) là công thần khai quốc nhà Hậu
Lê, người tham gia khởi nghĩa Lam Sơn. Ông quê ở xã Đông Ninh, huyện Đông
Sơn.
- Ông có công lao xây dựng căn cứ quân sự Hoàng Nghiêu – Đông Nam,
Đông Sơn...
- Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, ông đã hiến kế chuyển địa
bàn hoạt động từ Thanh Hoá vào Nghệ An và được Lê Lợi đánh giá cao....
2. Xã Đông Tiến, huyện Đông Sơn đã đúc chiếc trống đồng thứ 99 và 100
phục vụ Đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội.
3. Rừng Thông – Đông Sơn được Bác Hồ về thăm vào ngày 20-2-1947.
4. Xã Đông Yên có các di tích lịch sử như sau:
- Đền thờ Nguyễn Nhữ Soạn ( khai quốc công thần trong khởi nghĩa Lam
Sơn ) được công nhận Di tích lịch sử cấp quốc gia.
- Đền thờ Nguyễn Trung Nghĩa – Di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh.
- Từ đường họ Lê Văn - thờ Quận công Lê Đình Chiêu: Di tích lịch sử văn
hoá cấp tỉnh.
Cuối cùng, GV tổng hợp kết quả của các tổ và nhóm ở trong lớp sau khi
HS đã thi xong trò chơi trên, tổ nào trả lời đúng ghi được nhiều điểm sẽ được

giải thưởng cao.
Có thể nói, trò chơi này thu hút được sự chú ý của HS, các em trở nên
nhanh nhẹn, tích cực hơn trong qúa trình học tập.
*Hoạt động 4: Củng cố bài học:
-GV sơ kết lại tiết học, ra câu hỏi bài tập về nhà cho HS
- HS về nhà sưu tầm tiếp các bài học về lịch sử của địa phương nơi em ở.
C. KẾT LUẬN:
Có những tiết “ Chương trình địa phương” kết hợp được tất cả các hình
thức dạy - học nói trên nhưng có những bài chỉ vận dụng một trong số các hình
thức dạy học đó tuỳ thuộc vào tính chất của từng phân môn và hoàn cảnh, vị trí
địa lý, điều kiện của từng địa phương. Trong các giờ “Chương trình địa phương”
17
Năm học: 2010 - 2011


môn lịch sử có tiết tôi đã sử dụng kết hợp các phương pháp nói trên, có tiết tôi
chọn lọc, sử dụng một trong các phương pháp ấy. Và tôi thấy đạt được hiệu quả.
Đó là các em hào hứng sôi nổi học tập, chăm chú và thích thú. Các em bớt đi sự
rụt rè, nhút nhát, phát huy được năng lực chủ động sáng tạo, ít nhiều bộc lộ được
năng khiếu sở trường của chính mình.
I. Kết quả đạt được:
-Đề tài này được áp dụng rộng rãi cả cấp học ở các lớp 6, 7, 8, 9 chủ yếu
là chương trình lịch sử địa phương.
Năm học 2009-2010, tôi được phân công giảng dạy môn lịch sử ở lớp 6, 7,
8, 9, tôi đã áp dụng đề tài này và thu được kết quả sau:
- 90 % HS thích học môn lịch sử và phần lịch sử địa phương, HS cho rằng
lịch sử là môn học bổ ích, các em cảm tấy thích học và yêu thích môn lịch sử.
-10 % HS còn lại ở các khối lớp học cho rằng: lịch sử là môn học bổ ích
nhưng khô khan, thiếu sinh động, quá nhiều mốc thời gian và khó nhớ.
Học kì I-Năm học :2009-2010

Lớp

Giỏi

dạy
Số
lượng
Lớp6B
/32 HS
Lớp7A
/28 HS
Lớp8B
/30 HS
Lớp9B
/27 HS

SL

Trung

Khá

TL
(0/0)

SL

Yếu

bình


TL
(0/0)

SL

TL
(0/0)

SL

TL
(0/0)

02

6, 25

16

50

12 37, 5

02

6, 25

03


10, 7

12

42, 8

11 39, 2

02

7, 14

03

10

13

43, 3

11 36, 7

03

10

02

7, 4


11

40, 7

10

04

14, 8

37

Trung bình

Ghi

trở lên

chú

SL

TL
(0/0)

18
Năm học: 2010 - 2011


Học kì II Năm học :2009-2010

Lớp

Trung

dạy

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

bình trở

Số
lượng

lên
SL

TL
(0/0)

Lớp6B
/32 HS
Lớp7A
/28 HS
Lớp8B

/30 HS
Lớp9B
/27 HS

SL

TL
(0/0)

SL

TL
(0/0)

SL

TL
(0/0)

SL

Ghi
chú

TL
(0/0)

04

12, 5


18

56, 25

10

31, 25

0

100

05

17, 85

15

53, 57

8

28, 5

0

100

04


13, 3

16

53, 3

10

33, 3

0

100

04

14, 8

15

55, 55

8

29, 62

0

100


Cả năm: Năm học :2009-2010
Lớp dạy

Trung

Số lượng

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

bình trở
lên

SL
Lớp 6B
/32 HS
Lớp 7A
/28 HS
Lớp 8B
/ 30HS
Lớp 9B
/27 HS

06


TL

SL TL

(%)

(%)

18, 75 24

SL

TL

SL TL

(%)

(%)

SL

chú

TL
(%)

75


04

12, 5

0

100

07

25

18

64, 28

03

10, 71

0

100

06

20

20


66, 7

04

13, 33

0

100

18, 51 18

66, 7

04

14, 81

0

100

05

Ghi

19
Năm học: 2010 - 2011



Từ những kết quả trên, bản thân tôi mạnh dạn đưa ra sáng kiến nhỏ này
trong công việc dạy- học lịch sử địa phương,và khó tránh khỏi những khiếm
khuyết.Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của Nhà trường và các bạn đồng
nghiệp để rút kinh nghiệm cho bản thân. Tôi xin chân thành cảm ơn!
II. Kiến nghị:
- Để dạy học lịch sử địa phương đạt kết quả được tốt hơn, nhà trường hỗ
trợ ít kinh phí cho HS đi thực địa, học tiết lịch sử ở ngoài trời.
D.TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Tài liệu tham khảo: Sách Lịch sử Thanh Hoá -Nhà xuất bản Thanh Hoá -1996
2. Nền văn hoá Đông Sơn - Tiến sĩ Nguyễn Tài Sáng- năm 2007.
3. Một số vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học môn Lịch sử ở trường THCSBộ Giáo Dục và đào Tạo -2002.
4. Một số tài liệu sách, báo phục vụ bài giảng: Di tích lịch sử núi Đọ, làng Mai
Chữ (Đông Nam, Đông Sơn), làng nghề chạm khắc đá Nhồi, làng Vồm (Thiệu
Khánh, Thiệu Hoá…)
Đông Sơn, ngày 22 tháng 3 năm 2011
Người thực hiện:

Nguyễn Thị Hiền

20
Năm học: 2010 - 2011


NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRƯỜNG
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................


NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC HUYỆN
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................

21
Năm học: 2010 - 2011



×