Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Một số biện pháp tư vấn tâm lí cho học sinh ở trường THCS dân tộc nội trú thạch thành đạt hiệu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.64 MB, 23 trang )

I. Mở đầu:
1. Lí do chọn đề tài.
Trường phổ thông Dân tộc nội trú là loại hình trường chuyên biệt mang tính
chất phổ thông, dân tộc và nội trú. Có nhiệm vụ thực hiện “giáo dục học sinh về
chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước; bản sắc văn hóa và
truyền thống tốt đẹp của các dân tộc Việt Nam; ý thức tham gia phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội ở vùng khó khăn sau khi tốt nghiệp, Giáo dục kỹ năng sống
và kỹ năng hoạt động xã hội phù hợp với học sinh dân tộc nội trú. Giáo dục lao
động, hướng nghiệp và dạy nghề truyền thống phù hợp với năng lực của học
sinh và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương”.1
Hoạt động học tập của học sinh Dân tộc nội trú Dân tộc nội trú có nhiều đặc
điểm chung với học sinh trường THCS nói chung và có đặc thù riêng phù hợp
với đặc điểm tâm lí lứa tuổi đối tượng học sinh Dân tộc nội trú.
Trường Dân tộc nội trú Thạch Thành là ngôi trường dành cho con em dân
tộc trong huyện Thạch Thành. Toàn trường có 8 lớp. Các em độ tuổi 11-15, độ
tuổi này chưa phải là người lớn nhưng cũng không còn là trẻ con, có khả năng
nhận thức nhưng những nhận thức của các em chưa thật sự chín chắn và có thể
sẽ sai lệch nếu không được định hướng. Tuy nhiệm vụ chính là học tập, nhưng
các em thường phải đối mặt với rất nhiều áp lực, từ nhiều phía gia đình, nhà
trường, xã hội. Đó là những yêu cầu, kỳ vọng của cha mẹ, ông bà, là bầu không
khí trong gia đình, là mối quan hệ giữa con cái với cha mẹ; là áp lực về học tập,
quan hệ với thầy cô, bạn bè. Bên cạnh đó, các em còn phải đối mặt với những
cám dỗ của các trò chơi, các trang thông tin mạng,… Và riêng bản thân các em
cũng lúng túng với những vấn đề mới nảy sinh: những thay đổi về tâm sinh lý,
tình bạn, tình bạn khác giới. Cá biệt, có những em vấp phải vấn đề nghiêm trọng
hơn: lệch lạc về giới tính, khủng hoảng tâm lý, bạo hành gia đình, tệ nạn xã hội,
… Đối diện với những vấn đề phức tạp đó, rất nhiều em sẽ không biết cách nhìn
nhận, sàng lọc, lựa chọn để giải quyết vấn đề như thế nào cho hợp lý. Có thể bị
mất thăng bằng bởi chính những điều tưởng như vặt vãnh ấy nếu không được
những người xung quanh quan tâm, giúp đỡ và chia sẻ kịp thời. Có thể bị mất
niềm tin, rối loạn về tâm lí, trầm cảm, hoặc có những hành động không làm chủ


được bản thân, gây ra những hậu quả khôn lường, cho nên hoạt động tư vấn tâm
lí cho học sinh THCS nói chung học sinh trường Dân tộc nội trú Thạch Thành
nói riêng là vô cùng cần thiết.
Học sinh trường THCS Dân tộc nội trú Thạch Thành ở lại tập trung tại
trường, xa nhà, ở với thầy cô nhiều hơn ở với bố mẹ. Các thầy, cô giáo không
chỉ dạy chữ mà còn giáo dục đạo đức, lối sống cho các em. Giúp các em thích
ứng với cuộc sống, các em có những hiểu biết, có kiến thức, kĩ năng để có giải
pháp hiệu quả, trước nhu cầu và thách thức cuộc sống hàng ngày. Vì vậy giáo
viên, nhất là các thầy cô chủ nhiệm cần phải cố gắng nhiều để giúp các em dễ
dàng hòa nhập với tập thể lớp, ngoài việc giúp các em cảm thấy được an toàn,
được yêu thương, được hiểu, được thông cảm và được tôn trọng. Từ đó tạo được
mối quan hệ gần gũi giữa thầy và trò, học sinh sẽ sẵn sàng bộc lộ những tâm tư
tình cảm nguyện vọng của mình cho thầy, cô và giúp các em vượt qua khó khăn.
1

. Thông tư số 01/2016/TT-BGDĐT ngày 15/01/2016 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
1


Chính vì thế mà tôi luôn không ngừng học hỏi, tích luỹ kinh nghiệm, kĩ
năng tư vấn. Để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà
trường, xuất phát từ thực tế công tác chủ nhiệm, tôi lựa chọn đề tài: “Một số
biện pháp tư vấn tâm lí cho học sinh ở trường THCS Dân tộc nội trú Thạch
Thành đạt hiệu quả” để nghiên cứu thực hiện.
2. Mục đích nghiên cứu.
Thấy rõ được đặc thù của một trường chuyên biệt - Trường THCS Dân tộc
nội trú Thạch Thành. Giúp giáo viên hiểu rõ hơn về đặc điểm tâm lí của học
sinh, nhận diện các khó khăn về tâm lí, hiểu được nguyên nhân. Đưa ra một số
giải pháp, cải tiến phù hợp, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà
trường, đáp ứng yêu cầu xã hội.

3. Đối tượng nghiên cứu:
- Công tác tư vấn tâm lí học sinh tại nhà trường.
- Học sinh trường THCS Dân tộc nội trú Thạch Thành trong 2 năm học
2016-2017 và 2017-2018.
4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: Chuyên đề về: “Tư vấn tâm lí học
đường” năm xuất bản năm 20122. Thông tư 31- BGDĐT về hướng dẫn công tác
tư vấn tâm lí học sinh. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cấp THCS 3 thuộc các
module: Module THCS 1, Module THCS 4, Module THCS 7, Module THCS 8,
Module THCS 11, Module THCS 12, Module THCS 33, ...
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Tổng hợp thống kê, phân tích các số
liệu về thực trạng. Điều tra, quan sát, kết luận.
II. Nội dung.
1. Cơ sở lí luận.
Như chúng ta đã biết, “Tư vấn tâm lí là hỗ trợ, định hướng học sinh giải
quyết những khó khăn, rắc rối trong học tập và các mối quan hệ thường ngày.
Thông qua lắng nghe, chia sẻ, các thầy cô giáo hỗ trợ và định hướng đề ra kế
hoạch kịp thời để ngăn chặn không để diễn ra theo chiều hướng tiêu cực. Chính
điều này góp phần tạo môi trường phát triển tâm lí lành mạnh cho mọi học sinh,
tạo môi trường học đường an toàn, thân thiện. Nếu không có những giải pháp,
mô hình tư vấn tâm lí phù hợp rất dễ dẫn đến việc các em hư hỏng xảy ra bạo
lực học đường, thậm chí tội phạm”4.
Đối với lứa tuổi học sinh THCS, đây là giai đoạn phát triển có nhiều khó
khăn, là giai đoạn khủng hoảng đầu đời. Do đó đời sống tâm lí các em có nhiều
thay đổi mạnh mẽ và chính những thay đổi này ảnh hưởng đến đời sống của các
em và là những nguyên nhân làm thay đổi hành vi, suy nghĩ của các em. Những
biến đổi về sinh lí, về tâm lí, sự thay đổi của điều kiện sống.
Lứa tuổi trung học cơ sở đang ngự trị quy luật về tính mất cân đối tạm thời:
Thể chất, tinh thần, tâm lí, hành vi, cảm xúc, nhận thức. Các em muốn được đối
xử như người lớn, muốn thoát khỏi sự ràng buộc của cha me, gia đình. Muốn

độc lập suy nghĩ và trong hành động, muốn thử sức mình, khẳng định mình,
. Chuyên đề về: “Tư vấn tâm lí học đường” năm xuất bản năm 2012.
. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cấp THCS.
4
. Công tác học sinh sinh viên - Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thị Nghĩa.
2
3

2


thích giao tiếp. Bắt đầu quan tâm tới bạn khác giới và xuất hiện những cảm xúc
mới lạ.
Vì vậy việc khắc phục những khó khăn về tâm lí cần có sự phối hợp giữa
gia đình, nhà trường và xã hội. Đặc biệt là những thầy cô giáo nếu ta không nắm
bắt được sự phát triển cũng như những thay đổi bất thường trong đời sống tâm lí
của học sinh thì sẽ không có cách thức giáo dục phù hợp và sẽ gây nên những
hậu quả ngoài ý muốn. Do đó là một giáo viên hàng ngày tiếp xúc với các em
ngoài việc giảng dạy ta còn phải quan tâm, nắm bắt được diễn biến tâm lí của
các em để kịp thời động viên, nhắc nhở, có những giải pháp hợp lí, giáo dục học
sinh phát triển toàn diện.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Trường THCS Dân tộc nội trú Thạch Thành thuộc hệ thống trường chuyên
biệt, thực hiện nhiệm vụ quan trọng là chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục học sinh
là con em đồng bào dân tộc, góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho đồng bào
vùng dân tộc thiểu số của địa phương. Trường được chính thức thành lập ngày
11 tháng 11 năm 1999. Trong quá trình xây dựng và phát triển theo đường lối
của Đảng về đổi mới Giáo dục, đặc biệt sau khi có Nghị quyết “về đổi mới căn
bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội

nhập quốc tế”5, được sự quan tâm của Huyện uỷ, UBND, Phòng GD&ĐT, cùng
với sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của đội ngũ CBGVNV, nhà trường đã
nhiều năm liên tục đạt danh hiệu tiên tiến xuất sắc cấp huyện, cấp tỉnh. Học sinh
nhà trường ngoan ngoãn, hiền lành, đa phần là chăm chỉ học tập và rèn luyện.
Các em được sự ưu đãi đặc biệt về chế độ của Nhà nước, sinh hoạt, học tập tập
trung tại trường, trong tuần, trong tháng không có sự quản lí trực tiếp của cha
mẹ, chỉ nhờ vào sự quản lí của thầy cô giáo, tổ quản lí học sinh của nhà trường.
Học sinh trường Dân tộc nội trú Thạch Thành hằng năm được tuyển chọn từ
các xã vùng cao trong huyện, chủ yếu là con em dân tộc Mường. Các em được
sự ưu đãi đặc biệt về chế độ của Nhà nước, sinh hoạt, học tập tập trung tại
trường, trong tuần, trong tháng không có sự quản lí trực tiếp của cha mẹ, chỉ nhờ
vào sự quản lí của thầy cô giáo, tổ quản lí học sinh của nhà trường.
Khó khăn, hạn chế:
* Cán bộ quản lý và giáo viên:
Công tác tư vấn tâm lí học sinh được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của ngành
giáo dục, sự đồng tình của toàn xã hội và cha mẹ học sinh. Nhà trường cũng rất
chú trọng đến công tác này, tuy vậy mới ở mức độ bề nổi, chưa có các quy định
cụ thể để tìm ra hướng đi bài bản, khoa học góp phần ngăn chặn, đẩy lùi các hạn
chế phát sinh do vấn đề tâm lý gây ra. Công tác tư vấn tâm lí học sinh ở trường
Dân tộc nội trú Thạch Thành chưa có giáo viên chuyên trách. Từ năm 2017 do
chính sách tinh giảm biên chế, một số nhân viên hành chính của nhà trường bị
cắt hợp đồng vì thế, nhà trường không có nhân viên quản lý học sinh, không có
y tế học đường, việc quản lí học sinh ở khu nội trú ngày càng khó khăn hơn. Có
giai đoạn chưa kí được hợp đồng nhân viên phục vụ, mọi công tác chăm sóc,
nuôi dạy, quản lý học sinh hoàn toàn do giáo viên đảm nhiệm.
5

. Nghị

quyết số 29-NQ/TW Trung ương 8 khoá XI.

3


Từ năm học 2016–2017 đến nay nhà trường đã thành lập tổ tư vấn, tổ đã
xây dựng kế hoạch, có những biện pháp, quan tâm phát hiện những vấn đề về
tâm lí, những vướng mắc, những lí do mắc lỗi để có phương pháp giải quyết phù
hợp. Tổ tư vấn đã tổ chức những buổi nói chuyện trực tiếp với học sinh, lắng
nghe ý kiến các em. Song đôi lúc cũng không thể giải quyết được triệt để. Bởi
hiểu tâm lí con ngưòi không phải là đơn giản, đôi khi có nhiều mâu thuẫn, phức
tạp, cần phải có thời gian tìm hiểu, tháo gỡ.
* Về học sinh:
Ngoài những khó khăn chung về lứa tuổi, các em còn gặp nhiều khó khăn
trong học tập, sinh hoạt. Một số em ngày từ những ngày đầu tựu trường trường,
thường nhớ nhà, khóc nhiều, xin được về. Nhiều em sống không ngăn nắp, chưa
có tính kỉ luật, thích thì làm, không thích thì thôi. Một số em nói dối bố mẹ, thầy
cô, bỏ trốn ra ngoài chơi game. Giáo viên chủ nhiệm trong các buổi sinh hoạt 15
phút đầu giờ, cuối tuần đã nhắc nhở, đưa ra lớp kiểm điểm, hạ hạnh kiểm trong
tuần, thông báo về gia đình, đề nghị nhà trường hình thức xử lí. Với những
trường hợp vi phạm nhiều lần, không sửa đổi, nhà trường đã phối hợp với gia
đình xử lí và có hình thức kỉ luật. Song việc học sinh vi phạm kỉ luật, không
thực hiện đúng nội quy của nhà trường vẫn còn. Trong khi đó, trên báo chí, trên
các trang mạng xã hội, lại đầy những thông tin bất lợi đối với các em, các em
chưa đủ sức sàng lọc để lựa chọn, giữ lại những điều tốt và loại bỏ cái xấu.
Đối với học sinh dân tộc thiểu số: “Ý chí rèn luyện, óc quan sát, trí nhớ,
tính kiên trì, tính kỉ luật chưa cao. Việc học chưa được đề cao vì thiếu động cơ
thúc đẩy. Nhận thức cảm tính khá tốt nhưng về tư duy một bộ phận các em chưa
biết lật đi lật lại vấn đề, suy nghĩ thiếu sâu sắc, nhiều khi rập khuôn máy móc”6.

Học sinh có biểu hiện chưa nghiêm túc trong giờ học


Học sinh trường Dân tộc nội trú Thạch Thành cũng có chung những đặc
điểm tâm lí đó. Đa phần các em đến từ các xã vùng cao 135 trong huyện. Tổng
số học sinh toàn trường là 240 em, có bao nhiêu học sinh thì có bấy nhiêu cá
tính, tính cách khác nhau: có nhiều em bản tính tốt chăm chỉ học tập, có ý thức
tu dưỡng rèn luyện đạo đức; có em ham chơi, nghịch ngợm, có em đam mê chơi
điện tử, bỏ bê, sao nhãng việc học tập, có em có biểu hiện thích bạn khác giới.
Có em lại có hoàn cảnh gia đình nhà quá nghèo, bố mẹ đi làm ăn xa ở với ông
bà, ông bà lại già không còn đủ điều kiện chăm sóc cháu, mọi việc học tập, sinh
hoạt phó mặc cho nhà trường. Có những em bố mẹ ly hôn, ảnh hưởng đến tâm lí,
các em không yên tâm học hành, buồn chán không thiết học. Học sinh xuống
6

.

Về đặc điểm tâm lí của học sinh dân tộc thiểu số - Theo tiến sĩ Phạm Hồng Quang.
4


trường cũng là lần đầu tiên xa nhà, mọi cái đề lạ lẫm và bỡ ngỡ (nhất là học sinh
lớp 6) các em còn rụt rè, thiếu tự tin. Do điều kiện sống, môi trường tiếp xúc,
đặc điểm ngôn ngữ của các em bị hạn chế. Giai đoạn đầu, học sinh lớp 6 đến
trường luôn nhớ nhà, khóc suốt ngày, đòi về nhà. Một số học sinh ở các lớp lớn
có tâm lý thích làm người lớn, có biểu hiện ăn chơi, đua đòi, thích thể hiện, hay
lí lẽ và chống đối, có em thì nảy sinh tình cảm khác giới…
Hầu hết những thách thức của học sinh ngày nay vượt quá sự hiểu biết,
chuyên môn sư phạm được đào tạo của giáo viên nói chung, trường Dân tộc nội
trú Thạch Thành nói riêng.
Bản thân là giáo viên trong nhà trường được trực tiếp đứng lớp, thường
được phân công làm giáo viên chủ nhiệm, tôi đã nhận thấy rất rõ điều này, giúp
các em tránh rơi vào sự khủng hoảng tâm lý. Các em xem thầy cô như một chỗ

dựa tinh thần. Thầy cô là người có những định hướng đúng đắn cho các em con
đường phải đi, giúp các em tìm lại niềm tin, niềm vui trong cuộc sống. Đó là
những điều mà người thầy cần phải thực hiện được để đáp ứng nhu cầu được tư
vấn tâm lý, một nhu cầu có thực và vô cùng bức thiết của học sinh trong trường
Dân tộc nội trú. Công việc này đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm phải bỏ ra nhiều thời
gian, công sức và tâm huyết, bởi nó không dễ dàng, đôi lúc rất phức tạp và khó
khăn có thể thầy cô chưa đủ kinh nghiệm và vốn sống. Có giáo viên tuổi đã cao
lại khó tìm được tiếng nói chung với học sinh. Hoặc có giáo viên do hoàn cảnh
công việc gia đình không đủ thời gian giải quyết vấn đề trọn vẹn, có những
trường hợp giáo viên không đủ năng lực để giải quyết vấn đề mà học sinh đặt ra.
Kết quả công tác tư vấn tâm lí
Năm học


số

Số HS
được
tư vấn

2015-2016
2016-2017

30
29

8
7

Thành

công

Không
thành
công

5
5

2
2

Hạnh kiểm

Học lực

Tốt

Khá

TB

Giỏi

Khá

TB

25
25


5
5

0
0

6
7

14
13

10
9

DH

của
lớp
TT

3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
Công tác tư vấn tâm lí học sinh ở trường Dân tộc nội trú Thạch Thành chưa
có giáo viên chuyên trách. Nhà trường đã có tổ tư vấn nhưng các đồng chí trong
tổ đều làm việc kiêm nhiệm nên việc dành thời gian cho công tác tư vấn chưa
được nhiều. Do đó, giáo viên chủ nhiệm vẫn giữ vai trò chủ đạo trong công tác
tư vấn tâm lí cho học sinh. Vì giáo viên chủ nhiệm là người các em gần gũi nhất,
luôn quan tâm, chia sẻ, tạo mọi điều kiện, giúp các em dễ dàng hòa nhập với tập
thể lớp, các em coi thầy cô chủ nhiệm là chỗ dựa tinh thần, các em cảm thấy

được an toàn, được yêu thương, được hiểu, được thông cảm. Từ đó tạo được mối
quan hệ gần gũi giữa thầy và trò, học sinh sẽ sẵn sàng bộc lộ những tâm tư tình
cảm nguyện vọng của mình cho thầy, cô và giúp các em vượt qua khó khăn. Các
thầy cô vừa là cha mẹ vừa là anh chị, vừa là bạn của các em, gần gũi chăm sóc
chia sẻ, mọi nỗi vui buồn, có lúc phải động viên dỗ dành. Hầu hết giáo viên chủ
nhiệm là người thực hiện công việc này nhiều nhất. Do bản tính nhút nhát, ít
giao tiếp, nhiều em ít chia sẻ, không dám thổ lộ với các thầy cô giáo bộ môn mà
chỉ dám bày tỏ với thầy cô chủ nhiệm.
Cùng với giáo viên chủ nhiệm, các thầy cô giáo bộ môn đã cung cấp thông
tin, hỗ trợ phương pháp tư vấn. Ban giám hiệu và tất cả giáo viên trong trường
5


rất chú ý và quan tâm đến vấn đề này, phân công giáo viên trực 24/24 giờ có sổ
theo dõi các hoạt động học tập, rèn luyện của học sinh, nhằm nắm bắt thông tin
và có hướng giải quyết kịp thời. Tuy vậy để hiểu được tâm lí con người không
phải dễ, có rất nhiều trường hợp rất khó, phức tạp nếu không khéo lại xảy ra hậu
quả sai lầm.
Với những thuận lợi và khó khăn trên bản thân tôi đã dành nhiều thời gian,
tìm tòi, nghiên cứu, vận dụng trong thực tế giảng dạy tìm ra các giải pháp sao
cho có hiệu quả nhất để làm tốt công tác tư vấn tâm lí cho học sinh ở trường Dân
tộc nội trú. Để ngôi trường Dân tộc nội trú thật sự trở thành: “Trường là nhà,
thầy cô là cha mẹ, bạn bè là anh em”, giúp các em nhanh chóng hoà nhập với
cuộc sống mới, môi trường mới, bản thân tôi đã áp dụng những biện pháp như
sau:

Khu Kí túc xá học sinh

3.1. Tìm hiểu, thu thập thông tin học sinh.
3.1.1. Nắm bắt được các thông tin về học sinh:

Để nắm bắt được tâm tư, tình cảm, ước muốn, nguyện vọng, sở thích, của
học sinh, việc tìm hiểu thông tin là việc làm cần thiết, nó là cơ sở ban đầu, và
cũng là điều kiện quan trọng để hiểu về học sinh lớp mình chủ nhiệm. Khi nhận
lớp chủ nhiệm, giáo viên cần nắm bắt về hoàn cảnh gia đình, ước muốn, sở
trường, những khó khăn nếu có. Giáo viên có thể sàng lọc chọn ra những học
sinh có hoàn cảnh đặc biệt. Cần tự hình thành cho mình một mạng lưới thu thập
thông tin riêng từ các nguồn: bạn bè, cha mẹ, GV bộ môn, thầy cô giáo cũ của
các em. Tuy nhiên, trong cuộc sống, không có gì là không thể xảy ra. Vì vậy, đối
với những học sinh được đánh giá là yên tâm, hoặc thật bình thường về hoàn
cảnh, về tâm lý, cũng không nên chủ quan cho rằng không cần phải quan tâm
đến các em. Bởi cuộc sống càng hiện đại thì càng phức tạp, có nhiều điều bất
thường xảy ra trong cuộc sống mà không ai có thể lường hết được. Cho nên giáo
viên chủ nhiệm lớp phải thể hiện sự quan tâm của mình đến với tất cả đối tượng
học sinh, nhưng cũng phải đặt trọng tâm, trọng điểm ở một số học sinh các biệt.
Mỗi một gia đình có một hoàn cảnh riêng, có một phong cách sống, một
quan niệm riêng, gọi là nếp nhà, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình
thành nhân cách học sinh. Các em là người chịu tác động trực tiếp, tất cả niềm
vui, nỗi buồn, sự thất bại, hay thành công. Với một số học sinh, gia đình không
phải là chốn bình yên, không phải là nơi mà em muốn quay về sau mỗi ngày đi
học, bởi ở nhà, "Bố mẹ chỉ biết dùng từ thô tục chửi con, đánh con. Con sợ đòn
roi, nhưng con không sợ bố mẹ, không nể bố mẹ”. Có em, vì cha mẹ không có
con trai, nên cho em ăn mặc, rèn cho con những hành vi giống con trai. Đến
6


trường, em hung hăng, nghênh ngang thể hiện bản lĩnh "đàn anh" của mình. Và
còn biết bao tình huống mà người giáo viên chủ nhiệm phải đối diện khi quản lý
một lớp học: các em có mâu thuẫn với giáo viên bộ môn và yêu cầu thích học cô
giáo này, không học với cô giáo kia, mâu thuẫn với bạn bè dẫn đến xô xát, muốn
nghỉ học vì chán nản chuyện gia đình, vì hoàn cảnh khó khăn,… Ở tuổi mới lớn,

vì luôn muốn được quan tâm, đôi khi các em thổi phồng vấn đề của mình lên
quá mức, khiến cho việc nhỏ trở nên trầm trọng. Nếu không được kịp thời giúp
đỡ, khi cảm thấy không ai quan tâm đến mình, các em sẽ tự giải quyết vấn đề và
thông thường đó là những cách xử lý tiêu cực, đôi khi gây ra hậu quả vô cùng
trầm trọng.
Thiết nghĩ, trước những tình huống nảy sinh trong quá trình dạy học, với tư
cách là giáo viên chủ nhiệm, người thầy cần phải có đủ thời gian, đủ kiên nhẫn,
đủ bản lĩnh và quan trọng nhất là phải có đủ tình thương để có thể lắng nghe,
thông cảm, thấu hiểu, chia sẻ và định hướng cho các em cách giải quyết những
vấn đề khó khăn trong cuộc sống. Tuy nhiên, ta không nên chờ đến khi thật sự
có vấn đề rồi mới đi tìm cách giải quyết, mà phải phát hiện được vấn đề khi nó
còn manh nha, tiềm ẩn, để ngăn chặn kịp thời những tình huống xấu phát sinh.
Năm học 2017-2018, tôi nhận chủ nhiệm lớp 9. Có một học sinh nữ rất
ngoan luôn là học sinh giỏi từ lớp 6 đến lớp 8. Đầu năm lớp 9, em có biểu hiện
lơ là trong học tập. Trong giờ học em không tập trung, mắt lơ đãng nhìn ra
ngoài, hay nghỉ học và còn đi học muộn, bài vở không chuẩn bị chu đáo, luôn bị
đội cờ đỏ nhắc nhở, hạ loại làm ảnh hưởng đến phong trào thi đua của lớp. Sinh
hoạt cuối tuần, lớp có đưa em ra kiểm điểm, hạ loại. Thấy vậy, một hôm tôi gọi
em lại hỏi em chỉ trả lời: “Em xin lỗi cô, em biết là mình đã sai, em xin hứa sẽ
sửa chữa và không vi phạm nữa”. Nhìn nét mặt của em tôi thấy em rất buồn, mắt
rớm lệ và em quay đi. Lật lại tập phiếu điều tra đầu năm, không thấy em ghi
điều gì đặc biệt. Nhưng lòng tôi vẫn phân vân. Ngày hôm sau tôi đã tìm hiểu
được hoàn cảnh gia đình em: Mẹ chẳng may mắc phải căn bệnh hiểm nghèo,
không thể đi lại được. Nhà nghèo, bố đi làm ăn mãi tận miền Nam kiếm tiền gửi
về mua thuốc cho mẹ. Tất cả mọi công việc gia đình chỉ một mình em lo toan và
chăm sóc mẹ. Nghe nói tôi giật mình suýt nữa thì tôi đã phạt em nếu cứ cứng
nhắc áp dụng kỷ luật mà không cần hỏi han, có thể sẽ gây một chấn động tâm lý
cho học sinh.
Từ đấy ngoài giờ ra chơi, hoặc thời gian rảnh rỗi tôi thường tâm sự trò
chuyện với học sinh để biết được hoàn cảnh của các em. Tôi luôn chú ý xây

dựng mối quan hệ tốt với học sinh trên sơ sở thương yêu, tôn trọng và chân
thành với nhau. Giáo viên chủ nhiệm phải thực sự tin tưởng vào các em, tạo điều
kiện để các em phát huy năng lực, sở trường. GV cũng cần tạo cho các em có
cảm giác an toàn trong lớp học bằng cách xây dựng một bầu không khí "gia
đình", để các em thật sự cảm thấy trường, lớp chính là nhà, bạn bè, thầy cô là
những người thân yêu, khi vui có thể cùng nhau cười, khi buồn có thể dựa vào
mà khóc. Cần tìm hiểu để nắm bắt được năng lực, sở trường của học sinh. Việc
làm này tưởng như không liên quan đến hoạt động tư vấn tâm lý, nhưng thật ra
lại hỗ trợ đắc lực cho việc củng cố, kích thích ở học sinh lòng tự tin, giúp các em
đủ niềm tin để đưa ra những quyết định đúng đắn. Nếu thấy các em cần giúp đỡ,
hãy giúp đỡ thật khéo léo, tế nhị.
7


Hãy chủ động gần gũi trò chuyện với các học sinh có vấn đề nếu xét thấy
các em chưa đủ mạnh dạn tìm đến với mình. Khi học sinh thật sự cần được tư
vấn, có một nguyên tắc vàng mà GV phải thuộc lòng: "Luôn luôn lắng nghe,
luôn luôn thấu hiểu".

Cô giáo trò chuyện học sinh

3.1.2. Quan sát biểu hiện hành vi của học sinh
Quan sát để phát hiện những thay đổi trong hành vi, những hiện tượng bất
thường trong đời sống, sinh hoạt của các em, quan sát những biểu hiện của học
sinh có nguy cơ rối nhiễu tâm lý. Đó có thể là những biểu hiện nhỏ: đi chậm,
không mang giày khi học tiết Thể dục, nói tục, cáu gắt với bạn, hay nghỉ học
không xin phép, bỏ tiết, hay sử dụng điện thoại, hay ngủ trong lớp học. Và
nghiêm trọng hơn, như vi phạm kiểm tra, vô lễ với giáo viên, đánh bạn. Với
những học sinh vốn ngoan ngoãn, chăm chỉ thì một biểu hiện nhỏ nhất cũng là
điều cần lưu ý. Bởi mỗi biểu hiện là dấu hiệu của sự thay đổi tâm lí, từ sự quan

sát đó mà giáo viên biết để có cách sử lí phù hợp. Kịp thời trấn chỉnh những
hành vi tiêu cực của học sinh.

GV hướng dẫn HS gấp chăn màn

Học sinh tự gấp chăn màn

Học sinh căng thẳng về mặt tâm lí biểu hiện sự mệt mỏi, thất vọng, lo lắng,
buồn rầu thu mình kéo dài vài giờ hoặc vài ngày có thể do những rắc rối cuộc
sống thường nhật như: Áp lực trong thi cử, cãi nhau với bạn, chia tay bạn, tham
gia quá nhiều hoạt động hoặc kì vọng cao, cha mẹ li hôn hoặc li thân, thành viên
trong gia đình bị ốm hay qua đời, các vấn đề về kinh tế (bố mẹ làm ăn thua lỗ,
phá sản). Trong học tập, học sinh chịu nhiều tác động, áp lực không chỉ ở yêu
cầu, nội dung kiến thức môn học mà còn ở phương pháp giảng dạy, thái độ của
giáo viên…
8


Bên cạnh việc quan sát những hành vi chưa chuẩn mực của học sinh, giáo
viên còn quan sát đến cả sự tiến bộ của các em, động viên khích lệ các em ngày
một tiến bộ hơn, bởi học sinh được thầy cô khen ngợi kịp thời sẽ tạo được niềm
tin, sự tự tin, vững tâm hơn. Tất cả những điều đó là động lực cho các em tiến bộ
nhanh hơn. Các em sẽ phát huy được những năng khiếu, sở trường của mình, và
tạo nên phong trào thi đua trong lớp, giúp các em khác cùng tiến bộ.
3.1.3. Tìm ra những nguyên nhân dẫn đến hành vi chưa chuẩn mực của học
sinh.
Trên cơ sở quan sát những biểu hiện của học sinh, giáo viên tìm ra được
những nguyên nhân dẫn đến những biểu hiện tâm lí đó. Có thể do một số nguyên
nhân sau:
- Do muốn sự thu hút sự chú ý của người khác, thích thể hiện mình. Thu hút

sự chú ý và thể hiện quyền lực là hai mục đích phổ biến nhất của hành vi tiêu
cức ở học sinh. Muốn thu hút sự chú ý của bố mẹ, thầy cô, bạn bè, các em có thể
làm những điều mà có thể người lớn cảm thấy khó chịu, nhưng các em vẫn nghĩ
là mình đã là người lớn, đủ để nhận biết các vấn đề mà không cần sự chỉ bảo của
ai. Không chịu lắng nghe ý kiến của người khác, hành động theo ý chủ quan của
bản thân, theo sự phán quyết của cá nhân mình, thậm chí các em còn quậy phá,
trêu ngươi, thách thức, cãi lại người lớn. Lứa tuổi này các em cũng có nhiều thay
đổi mạnh mẽ cả về thể chất, về tâm lí. Trong gia đình, các em có sự tham gia
tích cực vào các hoạt động và nhiệm vụ của gia đình giao cho. Các em thể hiện
sự tích cực, chủ động và độc lập trong khi hoàn thành các nhiệm vụ như một
người lớn muốn mở rộng các mối quan hệ với người lớn và mong muốn người
lớn nhìn nhận mình một cách bình đẳng, không muốn bị coi là trẻ con như trước
đây. Bên cạnh đó, người lớn lại không coi các em đã trở thành người lớn. Lúc
nào cũng coi các em là trẻ con chưa biết gì, có gia đình bố mẹ lo lắng, bao bọc
quá mức. Điều này làm các em mất tính chủ động, và có cảm giác như mình bị
coi thường. Có gia đình do quá lo lắng, nghiêm khắc quá, có nhiều biện pháp
cứng rắn, nên các em ít sự chia sẻ, sợ bị mắng chửi, có thể gây ra xung đột tạm
thời giữa các em với người lớn.
- Muốn trả đũa: Trong những trường hợp nếu học sinh cảm thấy bị tổn
thương vì không được yêu quí không được đối xử công bằng, không được tôn
trọng, bị trừng phạt, nên cố gắng đáp trả bằng hành động, lời nói, bằng sự im
lăng, hoặc từ chối không làm, nhìn với ánh mắt thù địch.
- Né tránh, rút lui nếu bị ai đó chế nhạo thì lại càng tiếp tục thể hiện hành
động không tham gia, mặc kệ, hoặc có khi lẩn trốn.
- Nguyên nhân nữa là học sinh muốn tìm kiếm sự phấn khích, tìm kiếm sự
chấp nhận của bạn bè. Do những đặc điểm về sinh lí ở tuổi vị thành niên muốn
có những trải nghiệm mới, chưa từng có, có cảm giác mạnh, phức hợp. Các em
thích thực hiện những hành vi nguy hiểm như: Hút thuốc lá, thuốc lào, sử dụng
chất kích thích, phá hoại tài sản của người khác.
- Học sinh ở lứa tuổi này luôn có xu hướng thích nghi tuyệt đối với môi

trường xung quanh. Các em sống theo nguyên tắc: suy nghĩ “theo mọi người”,
hành động “như mọi người”, không nên tách mình khỏi bạn bè. Sống kiểu đàn
anh, kiểu người quân tử, bảo kê nên có thể bất chấp làm những điều lẽ ra không
nên làm. Điều tồi tệ sẽ xảy ra nếu trẻ rơi vào môi trường khó xử. Các em sẽ rất
9


khó thích nghi với môi trường mới, phải chuyển đổi các định hình của cuộc sống
đã có trước đây. Những suy luận để đi đến đánh giá chỉ có thể có được khi dựa
vào ý kiến của người khác, nên rất dễ bị a dua.
Khi thấy học sinh có những hành vi tiêu cực này, làm ảnh hưởng đến phong
trào thi đua, học tập của lớp, thầy cô giáo chủ nhiệm lo lắng, cứ nghĩ dùng biện
pháp mạnh để thay đổi hành vi không mong muốn này. Song phản ứng của thầy
cô giáo không khéo có ảnh hưởng rất lớn đến tâm lí, cảm xúc của học sinh. Các
em không bằng lòng với những hình phạt mà cô giáo chủ nhiệm đưa ra. không
những không sửa đổi. Các em có những phản ứng tiêu cực: Bằng lòng khiên
cưỡng, hoặc phản ứng lại, có thể ngấm ngầm chống đối theo hình thức khác.
Như vậy là hành vi đó của các em không những không thay đổi mà lại vô tình
củng cố những hành vi không phù hợp của các em
Ví dụ: Ở trong lớp, giáo viên chủ nhiệm, gặp phải một học sinh có tính mè
nheo, xin xỏ để không bị phạt, cuối cùng giáo viên quyết định không phạt em đó
nữa, để em đó chấm dứt mè nheo, vậy là giáo viên này đã vô tình củng cố tính
cách này của em. Học sinh đó nghĩ rằng mè nheo đôi khi giúp em có được kết
quả tốt. Cho nên mỗi một tình huống thầy cô giáo phải rất cẩn trọng để có giải
pháp phù hợp và đạt kết quả cao.
3.2. Cách xử lí tình huống của giáo viên chủ nhiệm
3.2.1. Đối với những lỗi nhỏ thường gặp
Thông thường học sinh hay mắc các lỗi nhỏ như: Nói tục, chửi bậy, quên
đeo khăn quàng, quên đồ dùng học tập, nói chuyện riêng trong lớp, không làm
bài tập đầy đủ, có những biểu hiện hơi qua khích... Trong trường hợp này giáo

viên không nên quá gay gắt chỉ nên áp dụng biện pháp quản lí nhẹ nhàng, có thể
áp dụng một số cách như sau:
- Nói chuyện với học sinh khi đang có hành vi không phù hợp, thể hiện cho
học sinh là cô giáo đã biết hành vi đó và có ý nhắc nhở.
- Khi học sinh đang nói chuyện giáo viên đi về phía học sinh có hành vi đó
đứng trước mặt dừng lại, im lặng, không nói gì cho đến khi nào học sinh ấy
không còn biểu hiện hành vi ấy nữa.

Giáo viên chỉ dẫn nhắc nhở học sinh học bài

- Nhắc nhở chung cả lớp thực hiện những hành vi chuẩn mực, sẽ làm người
khác khó chịu, gây ảnh hưởng đến người khác, khuyên các em chung nên làm
theo.
- Nêu hành vi ấy hỏi cả lớp các bạn nghĩ gì về việc làm này để tranh thủ sự
ủng hộ của đa số học sinh.
10


- Sắp xếp lại chỗ ngồi để học sinh không có cơ hội nói chuyện như chuyển
lên bàn đầu gần bàn giáo viên.
- Có thể giải thích nhẹ nhàng cho học sinh hiểu.
- Hoặc dùng ánh mắt biểu thị không bằng lòng.
- Gặp riêng trò chuyện, nhắc nhở, không nên thực hiện những hành vi đó.
3.2.2. Với những lỗi lớn hơn.
Học sinh có thể lặp đi lặp lại những lỗi của mình, không có ý thức sửa lỗi,
có những hành động ảnh hưởng đến học tập, gia đình, nhà trường. Nếu không
sửa chữa sẽ có nguy cơ hình thành nhân cách xấu. Giáo viên chủ nhiệm nên nói
chuyện riêng với học sinh về những hành vi mà các em đã làm, chỉ nói về hành
vi đó sai ở chỗ nào tuyệt đối không được lăng mạ, sỉ mắng, nói học sinh ấy nhân
cách tồi, bản tính xấu, mà nên đưa ra lời khuyên. Giáo viên chủ nhiệm cố gắng

lắng nghe ý kiến các em, bình tĩnh, kiên nhẫn nhìn nhận sự việc, không được
nóng vội. Thể hiện cho học sinh thấy thầy cô luôn quan tâm đến em, luôn có ý
tốt bảo vệ em, và tôn trọng, tin tưởng em, hỏi học sinh xem em đã có cách giải
quyết như thế nào. Học sinh sẽ cảm nhận được thiện chí của thầy cô, sẽ mở lòng
để chia sẻ. Sau đó chỉ ra cái được và cái chưa được trong những giải pháp em
vừa nêu ra, và đưa ra ý kiến giúp học sinh tháo gỡ khó khăn sửa chữa lỗi lầm.

Giáo viên nói chuyện chuyên đề Giáo dục giới tính với học sinh

Trong thực tế giảng dạy giáo viên thường gặp một số hành vi của học sinh:
- Xin phép ra ngoài quá nhiều: Có những học sinh trong tiết học có 45 phút
mà xin ra ngoài nhiều lần, hành vi này được diễn ra thường xuyên trong các giờ
học, làm cho giáo viên bực mình và có thể coi đó là sự thiếu tôn trọng giáo viên,
nhiều giáo viên phàn nàn coi đây là hành vi vô ý thức, coi thường giờ học, nhác
học, trốn tránh việc học. Giáo viên biểu hiện sự bực tức, la mắng học sinh, có
khi không cho học sinh đó ra ngoài. Trong trường hợp này, sau tiết học giáo viên
nên hỏi học sinh đó khi chỉ có một mình, xem em đó có chuyện gì, lí do gì mà ra
ngoài nhiều, vì có thể em có vấn đề về sức khoẻ, hoặc về cảm xúc. Học sinh đó
cảm nhận được sự quan tâm của thầy cô. Giáo viên khuyên học sinh không vì lí
do tế nhị thì hành vi ra ngoài nhiều lần là không nên, ảnh hưởng đến Thầy cô,
bạn bè trong quá trình truyền thụ, lĩnh hội kiến thức. Chắc chắn học sinh sẽ
không lặp lại hành vi đó.
- Có những học sinh có biểu hiện không tôn trọng giáo viên: nói năng cộc
lốc, không nghe lời, dùng lời lẽ chê bai, thái đọ xấc xược, hoặc cãi láo. Những
hành vi này vậy bất luận trường hợp nào học sinh ấy học sinh không được phép
như vậy. Song giáo viên không nên nổi nóng với học sinh mà bình tĩnh ứng xử
bình thường, không được hằn hoc, chửi, làm lớn chuyện, cho các em là những
người vô học không thể giáo dục được. Mà bình tĩnh tìm nguyên nhân vì sao em
11



lại có thái độ đó, lí giải nhẹ nhàng, luôn có lòng vị tha trước lỗi lầm của học
sinh, vẫn chăm sóc, quan tâm, coi như không có chuyện gì xảy ra. Học sinh sẽ tự
cảm thấy xấu hổ trước những hành vi mà mình đã gây nên, sẽ chuộc lỗi bàng
những việc làm có ý nghĩa tích cực, và sẽ luôn kính trọng thầy cô hơn.

Học sinh tham gia Câu lạc bộ Thể dục thể thao

Có một học sinh nam lớp 9A, năm học 2017 – 2018, em này có những hành
vi như đã nêu trên hay nói ngang, không bằng lòng với bạn việc gì dù là việc
nhỏ cũng sẵn sàng lao vào đánh bạn, lại còn lười học, hay vi phạm các qui định
của nhà trường, bị các bạn cô lập, em tìm kết bạn giao du với bạn bè bên ngoài,
ảnh hưởng đến phong trào thi đua và xếp loại lớp. Lớp đã đề nghị cô giáo chủ
nhiệm đưa lên nhà trường, mời gia đình đến để thi hành kỉ luật. Qua tìm hiểu bố
em là người rất nóng tính, ít kìm chế, chỉ nghe cô giáo gửi tin nhắn về thông báo
lỗi của em là đã bị bố đánh, mẹ em thì bỏ bố con em để đi theo người khác. Là
giáo viên chủ nhiệm tôi nhiều lần gọi em ra tâm sự nhắc nhở, tìm hiểu sở thích,
năng khiếu của em. Không phê phán một cách thái quá, hay gay gắt, chỉ vì ảnh
hưởng đến xếp loại thi đua của lớp. Mà phối hợp với tổ chức đội gắn các em
vào hoạt động em ưa thích, vào đội văn nghệ, thể thao của nhà trường, yêu cầu
các bạn trong lớp quan tâm đến em, chia sẻ, giúp đỡ em khi em gặp khó khăn,
để em không bị cô lập. Như vậy, em vừa nhận ra sự yêu thương của thầy cô, bạn
bè, vừa không tìm kiếm bạn bên ngoài (Nhất là những thiếu niên hư hỏng để dẫn
đến hậu quả đáng tiếc).
- Ngoài ra có một số em nam rất thích chơi game. Các em ham chơi, mang
theo điện thoại đến trường, giấu thầy cô chơi thâu đêm. Qua trao đổi
cùng gia đình, bố có chia sẻ: “Vợ chồng tôi học ít nên không hiểu được nhiều,
nên việc dạy dỗ đều trông mong hết cả vào thầy cô, vả lại vợ chồng tôi đi làm
ăn xa để cháu ở nhà với bà nội, bà già rồi cũng chẳng quản được cháu”. Trong
trường hợp này không được sự ủng hộ của gia đình, không huy động được ảnh

12


hưởng của gia đình đối với học sinh. Tôi đã phối hợp với cô giáo dạy Tin học tổ
chức tiết hoạt động ngoại khoá tìm hiểu các thông tin về Intenet để phục vụ cho
việc học tập, cách sử dụng game online hợp lí và tác hại của game online. Mời
một số học sinh cũ ra trường ngày xưa có nghiện game nhưng nay đã trưởng
thành để nói chuyện. Hướng dẫn các em dành thời gian sử dụng máy tính, tìm
tòi các nội dung thiết thực hơn. Đưa ra một số dẫn chứng học sinh sử dụng điện
thoại không để chơi game, mà nghiên cứu tạo ra phần mềm dành cho người
khiếm thị (như đài báo đã đưa tin). Ngoài những lúc rảnh rỗi, cho học sinh làm
việc, tuyên dương khuyến khích những gì các em đã đạt được dần các em sẽ
lãng quên trò chơi vô bổ này. Cho các em tham gia vào câu lạc bộ thể dục thể
thao của nhà trường, ngoài giờ học tập luyện thể dục thể thao, tham gia các trò
chơi lành mạnh, hấp dẫn, bổ ích. Đề nghị tổ tư vấn nhà trưởng tổ chức lớp giáo
dục kĩ năng sống. Bởi theo quan sát, các em nghiện game online, phần lớn thiếu
kĩ năng sống, sống âm thầm, ít giáo tiếp, giao tiếp thiếu tự tin. Qua lớp học này
các em tự tin với cuộc sống thật của mình, không sống ảo. Tôi yêu cầu gia đình
không cho tiền ăn quà vặt, và nhờ một số em nam, ngoan, học giỏi trong lớp,
quan tâm, chia sẻ gần gũi chơi cùng, học cùng với các em để em lấy lại những
phần kiến thức bị hỏng. Có em đầu năm học là một học sinh có kết quả học yếu
nhưng đến cuối năm em vươn lên học sinh trung bình, nhiều môn học còn đạt
điểm tốt.

Một buổi giáo dục giới tính, tư vấn tâm lí cho
học sinh toàn trường

Học sinh tham gia buổi truyền thông
nói không với xâm hại trẻ em và bạo lực
học đường


- Theo chuyên gia tâm lí học sinh lứa tuổi này đang ở tuổi dậy thì homone
tăng trưởng phát triển nên việc các em có nảy sinh tình cảm khác giới. Mặt khác
xã hội ngày càng phát triển học sinh được tiếp xúc với công nghệ, với mạng xã
hội, điện thoại di động nên có học sinh có biểu hiện nảy sinh tình cảm khác giới
ngay từ lớp 6. Lứa tuổi này các em chưa biết cách kìm chế cảm xúc, có thể thấy:
Bạn hát hay, bạn giúp mình vấn đề nào đấy, bạn học giỏi, bạn nói dễ nghe, bạn
cười có duyên, hoặc diễn viên Hàn Quốc đẹp trai, xinh gái, diễn viên trong các
nhóm nhạc… dẫn tới sống ảo. Hoặc một số học sinh ở độ tuổi lớn hơn, muốn
thử tìm cảm giác mới, hoặc muốn thể hiện với bạn bè, các em cứ nghĩ là mình
hơn người khác nên mới có bạn trai bạn gái, có em lại thích bạn đơn phương. Là
học sinh trường DTNT, các em ăn ở, sinh hoạt tại trường, thường xuyên tiếp
xúc, gặp gỡ, trò chuyện, giúp đỡ nhau, nên nảy sinh tình cảm khác giới (trường
hợp này rất ít). Có nhiều em giấu thầy cô giáo vì sợ thầy cô đánh giá các em là
người hư hỏng. Xét về góc độ tâm lí việc các em nảy sinh tình cảm với bạn cũng
13


là điều dễ hiểu, giáo viên không nên coi đó là vấn đề nghiêm trọng, là vi phạm
đạo đức. Mà thầy cô giáo phải thể hiện sự cảm thông, chia sẻ, gần gũi tâm sự,
chỉ cho các em về vấn đề giới tính, tôn trọng tình cảm của các em, khuyên nhủ
các em thời điểm nào là phù hợp, có tình yêu bền vững, đây là thời điểm chưa
thích hợp, và chuyện tình cảm không phải ngày một ngày hai mà các em có thể
chấm dứt được. Lúc này, các em rất muốn chỉ dẫn về giới tính, nhưng không biết
nói chuyện với ai, với bố mẹ thì sợ. Nghe nói con biết yêu bố mẹ, thầy cô lo
lắng, thậm chí có người cho đó là hư hỏng, ra sức ngăn cấm, dùng lời lẽ để
mắng nhiếc, sỉ nhục, doạ nạt rồi còn cấm không cho đi học vì sợ con tiếp tục
yêu. Nếu người lớn có những cách sử lí không khéo các em hụt hẫng về tình
cảm, dễ bị tổn thương dẫn đến trầm cảm, chán đời có khi xảy ra hậu quả nghiêm
trọng tự tử. Nên giáo viên chủ nhiệm, trong chuyện này phải rất khéo léo, tế nhị,

mới giúp học sinh giải quyết được chuyện tình cảm này.
Khi thầy cô lắng nghe và thể hiện sự thấu hiểu, các em sẽ dễ dàng bày tỏ
những điều đang chất chứa trong lòng. Tuy nhiên, việc cần làm của giáo viên
chủ nhiệm không phải là chỉ ra cho các em vấn đề nằm ở đâu và giải quyết vấn
đề thay cho các em, mà là tạo điều kiện để học sinh tự nói ra những tình cảm
thực của mình, tự nhìn nhận, đánh giá và tự giải quyết, để cho các em hiểu rõ
điều quan trọng của mỗi người là phải biết kìm chế cảm xúc để hướng tới những
điều cần thiết hơn, có ý nghĩa hơn. Thế nhưng làm thế nào để các em nhận rõ
được vấn đề.
Thầy cô giáo nói chung, giáo viên chủ nhiệm nói riêng, phải hình thành và
trang bị cho học sinh những tri thức khoa học, thái độ và quan niệm đúng đắn về
những hiện tượng của đời sống giới tính, sinh lí tính dục, về cấu trúc và chức
năng của các hệ cơ quan của cơ thể, nhất là hệ cơ quan sinh dục; về sự cư xử
đúng đắn, về những vấn đề đạo đức giới tính, thẩm mỹ giới tính, tình yêu, hôn
nhân và đời sống gia đình… Có thể thông qua các câu chuyện kể, giáo viên chủ
nhiệm giúp cho các em có bản lĩnh vững vàng bước vào đời sống xã hội, biết
bảo vệ, giữ gìn sức khoẻ cho người bạn và cho chính mình, có khả năng chống
chọi lại những cạm bẫy, quyến rũ của lối sống ăn chơi đồi truỵ, biết phê phán,
bác bỏ những quan niệm không đúng về tình bạn, tình yêu… Qua các buổi trò
chuyện, giáo viên chủ nhiệm giúp cho các em biết trân trọng và bảo vệ những
giá trị cao cả và thiêng liêng của tình bạn thân thiết và gắn bó, của tình yêu sâu
nặng và chung thuỷ, biết được cái hay cái đẹp của nếp sống văn hoá văn minh.

GVCN kết hợp với nhà trường tuyên truyền
phòng chống ma túy, HIV/AIDS

Học sinh biểu diễn văn nghệ

14



Giáo viên chủ nhiệm là người gần gũi các em nhất nên dễ dàng giúp các em
hiểu và biết cách phòng tránh an toàn. Ngoài ra cần trao đổi với phụ huynh, bình
tĩnh, gần gũi con, trò chuyện, cảm thông, chia sẻ với con, cho con những lời
khuyên, sự định hướng, tuyệt đối không nên dùng những lời nói xúc phạm đến
người bạn khác giới của con, mà cũng luôn tỏ ra tôn trọng người bạn đó. Khi các
em hiểu nhìn nhận được vấn đề các em sẽ có mối quan hệ chừng mực, cân bằng
tình cảm, yên tâm học tập, rèn luyện, tư tưởng không bị chao đảo, tư tưởng tình
cảm hướng tới những điều tích cực hơn.
3.3. Xây dựng môi trường tâm lý thuận lợi cho học sinh, giáo viên cần tổ
chức các hoạt động tập thể, vui chơi, hoạt động lao động hướng nghiệp
3.3.1. Tổ chức các hoạt động văn hoá, văn nghệ thể dục thể thao:

Học sinh trường dân tộc nội trú biểu diễn các tiết mục văn nghệ

Học sinh cùng vui Tết Trung thu

Ngoài giờ học chính khoá, học sinh trường DTNT có nhiều thời gian cùng
nhau vui chơi, tham gia nhiều hoạt động bổ ích, luyện tập thể thao, giao lưu văn
hoá văn nghệ theo kế hoạch hoạt động của nhà trường, của đội thiếu niên, phát
động. Vào những ngày lễ, ngày kỉ niệm lớn, nhà trường thường xuyên tổ chức
các hoạt động văn hoá, văn nghê, thể dục thể thao, các lớp cùng tổ chức tham
gia. Các em tự sắp xếp, dàn dựng, dưới sự chỉ dẫn của thầy cô chủ nhiệm. Hầu
hết các em rất thích, nhiệt tình ủng hộ và tham gia. Giáo viên căn cứ vào sở
thích, năng khiếu của học sinh lớp mình sắp xếp hợp lí, bố trí thời gian luyện tập
hợp lí. Trong các buổi hoạt động ngoại khóa học sinh có cơ hội bộc lộ những
năng lực,sở trường của bản thân, rèn luyện cho mình những phẩm chất tốt bản
thân không còn tự ti, mặc cầm mà các em tự tin hơn. Các hoạt động này đã tạo
cho học sinh có môi trưòng tâm lí thuận lợi.
3.3.2. Tổ chức học sinh tham gia lao động hướng nghiệp:

15


Trong đời sống học sinh, nhiều căn bệnh về tâm lí ngày càng nhiều, làm nảy
sinh nhiều vấn đề xã hội hết sức bức xúc, học sinh gặp nhiều khó khăn khi thay
đổi môi trường sống. Khả năng tự lập thấp. theo tổ chức UNESCO mục đích của
việc học: “Học để biết - Học để làm - Học để chung sống - Học để khẳng định
mình”. Đó là mục tiêu toàn diện mà nền giáo dục đang theo đuổi. Để đáp ứng
mục tiêu đó, ngoài việc dạy chữ, ban giám hiệu nhà trường, cùng tập thể giáo
viên luôn có những đổi mới phương pháp, có những biện pháp phù hợp, tạo cho
học sinh có môi trường tốt nhất để các em học tập, rèn luyện. Học sinh dân tộc
bản tính hiền lành, nhút nhát, ít giao tiếp, giao tiếp thụ động, trầm tính, sống
hướng nội, không sôi nổi, năng động như học sinh miền xuôi, nhưng rất thích
lao động. Thiếu tính ngăn nắp. Các em một vài tuần mới về nhà, để giảm bớt nỗi
nhớ nhà và hoà nhập với cuộc sống nhà trường đã trang bị cho học sinh những
kiến thức thực tế và kỹ năng sống cần thiết. Giáo viên chủ nhiệm trực tiếp rèn kĩ
năng năng sống từ những công việc đơn giản nhất như: Xếp chăn màn khi ngủ
dậy, đánh răng rửa mặt, vệ sinh thân thể, giữ vệ sinh chung, kĩ năng làm việc nhóm.

Học sinh dọn vệ sinh trường lớp

Học sinh chăm sóc vườn sả

Tổ chức cho các em trồng rau sạch, cải thiện bữa ăn hàng ngày, các em đã
trồng một vườn sả, phân công nhau chăm sóc, bán lấy tiền gây quĩ đội.

Học sinh chăm sóc vườn rau sạch

Thông qua các buổi lao động các em có ý thức làm việc, trân trọng những
sản phẩm do mồ hôi công sức mình làm ra, biết được giá trị của vật chất, sống

tiết kiệm hơn, chống lãng phí. Chi tiêu hợp lí, có kĩ năng làm việc. Cũng trong
lao động con người trở nên hoạt bát, lanh lẹ, thông minh hơn.
3.3.3. Tổ chức các hoạt động ngoại khoá, tham quan du lịch
Bên cạnh việc tổ chức các hoạt động văn hoá, văn nghệ thể dục thể
thao,tham gia lao động hướng nghiệp, giáo viên chủ nhiệm còn phối hợp với tổ
chức đội thường xuyên tổ chức hoạt động ngoại khóa cho học sinh tham gia.
16


Thông qua các hoạt động ngoại khoá như: Tìm hiểu kiến thức lịch sử, ngoại
khoá văn học, tổ chức đi tham quan di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh. Qua
các hoạt động đó học sinh được trang bị nhiều kiến thức bổ ích, rèn luyện kĩ
năng sống, có nhiều cơ hội hoà nhập với bên ngoài xoá đi khoảng giữa xã hội và
nhà trường, giúp các em phát triển toàn diện. Các em không còn thời gian rảnh
rỗi để tìm đến các trò chơi vô bổ khác như chơi game, lướt mạng. Học sinh có
nhu cầu hướng thiện. Qua đó bồi dưỡng về phẩm chất, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ
và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo,
xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học
lên phổ thông trung học.

Hoạt động tiến bước lên đoàn của học sinh trường DTNT

Năm học 2017 – 2018, tôi trực tiếp chủ nhiệm lớp 9A. Để động viên các em
hăng say, phấn khởi trong học tập, tôi hứa nếu lớp trong năm học đạt lớp tiên
tiến cô sẽ đề nghị nhà trường tạo điều kiện cho các em đi tham quan thành nhà
Hồ. Cả lớp thích thú, các em động viên nhau cố gắng phấn đấu, học tập và thực
hiện nghiêm túc mọi nội qui, qui định của nhà trường, cuối năm lớp đạt danh
hiệu tiến tiến. Tôi giữ lời hứa đề nghị nhà trường, kết hợp với liên đội tổ chức
cho học sinh đi tham quan Thành nhà Hồ.
Trong hai năm gần đây, trường DTNT đã tổ chức cho học sinh khá giỏi đi

thăm quan các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh ở địa phương: Lam Kinh,
thành nhà Hồ, Chiến khu Ngọc Trạo, Lăng Bác, Bảo tàng các dân tộc Việt
Nam... Từ đó tạo được không khí phấn khởi, thi đua, hăng say học tập trong nhà
trường. Các em luôn nỗ lực phấn đấu để giành được kết quả học tập tốt nhất.
Cũng chính những chuyến thăm quan đó ngoài việc cung cấp cho các em kiến
thức về lịch sử, văn hoá, xã hội của quê hương, đất nước, mà còn giáo dục cho
các em tình yêu quê hương, sự gắn bó tự hào,ý thức giữ gìn những thành quả
của cha ông để lại. Qua các hoạt động ngoài khoá các em thấy dễ hoà đồng, thân
thiện với nhau hơn sống sôi nổi hơn, giao tiếp cởi mở hơn, giáo viên dễ nắm bắt
tâm lí của các em, hiểu rõ về học trò, tạo sự gắn bó giữa cô và trò.
17


Học sinh thăm quê hương Bác Hồ

Học sinh thăm lăng Bác Hồ

Màn đồng diễn sân trường của học sinh

HS tham gia văn nghệ ở địa phương

Với phương châm: học mà chơi, chơi mà hoc. Bản thân tôi vừa là giáo viên
dạy môn ngữ văn, vừa là giáo viên chủ nhiệm. Trong quá trình giảng dạy, tôi đã
tổ chức giờ học ngoại khoá văn học. Thực hiện vào các buổi chiều học sinh tự
học. Các tiết học ngoại khoá này vừa giúp các em củng cố kiến thức, vừa tạo
không khí vui tươi cho học sinh. Giáo viên giao cho học sinh nội dung hoạt
động. Mỗi tổ một nhóm. Học sinh là người đạo diễn. Hoạt động này, do chính
các em thiết kế và thực hiện chương trình. Các em đã bộc lộ và phát huy được
khả năng của bản thân. Nhiều em đã bộc lộ được khả năng sáng tạo, năng khiếu
riêng của mình,Giúp giáo viên nhận biết được tâm lí, sở trường, tích cách của

các em, có thể hướng các em phát huy được khả năng của bản thân. Những hoạt
động ngoài nhà trường thông thường sẽ giúp cho thầy và trò gần gũi, gắn bó với
nhau, dễ cảm thông cho nhau. Việc để học sinh tự thực hiện hoạt động ngoài giờ
lên lớp vừa tạo điều kiện cho các em thể hiện các kỹ năng sống cần có: kỹ năng
hoạt động nhóm, kỹ năng hợp tác, kỹ năng thể hiện sự tự tin, kỹ năng giao tiếp,
… Trong quá trình làm việc, các em sẽ thắt chặt thêm tình đoàn kết, sẽ có được
những kỷ niệm khó quên thời niên thiếu của mình, gắn bó với trường hơn.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động tư vấn tâm lí cho
học sinh.
Qua thời gian áp dụng thực hiện sáng kiến, kết quả thu được như sau:
Năm học


số

Số HS
ĐTV

Thành
công

2017- 2018

27

9

9

Không

thành
công
0

Hạnh kiểm
Tốt Khá TB
25

2

0

Học lực
Giỏi

Khá

TB

DHTĐ
của lớp

8

12

7

TT


Như vậy, sau áp dụng sáng kiến trên, số lượng học sinh được tư vấn tăng
lên, kết quả thành công trong quá trình tư vấn thành công hơn. Cụ thể số học
sinh giáo viên tư vấn tâm lí tăng lên 2 em. Tất cả các em được tư vấn đều không
18


mắc lỗi, ngoan ngoãn, chăm chỉ, kết quả học tập cao hơn, có bốn em từ học sinh
trung bình vươn lên đạt học sinh khá, có hai em từ học sinh khá đạt học sinh
giỏi.
III. Kết luận, kiến nghị.
1. Kết luận.
Sự nghiệp giáo dục được xác định là "Quốc sách hàng đầu" nhằm nâng cao
dân trí, đào tạo nhân tài cho đất nước. Chăm lo sự nghiệp giáo dục, Đảng, Nhà
nước ta rất coi trọng và đề cao vai trò của người cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ
địa phương trong công cuộc xây dựng đất nước nói chung và xây dựng vùng
cao, vùng sâu, vùng dân tộc nói riêng. Tuy nhiên, thực tế hiện nay ở những vùng
cao, vùng sâu, vùng khó khăn, đội ngũ cán bộ người dân tộc còn thiếu, trình độ
dân trí còn thấp, kinh tế - xã hội chậm phát triển so với các vùng khác, hệ thống
trường Phổ thông Dân tộc Nội trú ra đời với đặc trưng là trường chuyên biệt có
nhiệm vụ chính trị quan trọng: tạo nguồn đào tạo cán bộ cho các dân tộc, trước
hết là giáo viên, cán bộ y tế, cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, cán bộ chuyên
môn kỹ thuật. Việc mở trường Phổ thông Dân tộc Nội trú còn nhằm đào tạo lực
lượng lao động có trình độ văn hóa, kỹ thuật, có sức khỏe và phẩm chất tốt để
tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước.
Trong những năm tiếp theo, Đảng và Nhà nước sẽ tiếp tục quan tâm đến sự
nghiệp giáo dục cho con em đồng bào dân tộc thiểu số. Hệ thống các trường phổ
thông DTNT thực sự là vườn ươm tài năng cho con em đồng bào các dân tộc; là
nơi đào tạo nguồn nhân lực quan trọng cho bộ máy cấp ủy, chính quyền cơ sở,
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó
khăn

Mục tiêu giáo dục của trường Dân tộc nội trú Thạch Thành cũng không
nằm ngoài mục tiêu đó. Và để đáp ứng nhu cầu xã hội, sự nghiệp giáo dục của
nước nhà, bên cạnh truyền thụ tri thức, vấn đề tư vấn tâm lí học sinh cần đặc biệt
quan tâm.
Như vậy, để học sinh phát triển toàn diện cả về nhân cách, kiến thức thì
việc tư vấn tâm lý cho học sinh là vô cùng cần thiết và có ý nghĩa. Là giáo viên
công tác ở trường Dân tộc nội trú đã dạy học và làm chủ nhiệm nhiều năm,
nhiều học trò đã từng được tôi giúp nhiều thoát khỏi những khủng hoảng về mặt
tâm lí, để học tập tiến bộ, có phẩm chất đạo đức tốt. Vai trò của công tác tư vấn
tâm lí học đường trong trường Dân tộc nội trú là vô cùng quan trọng. Giúp các
em không chỉ khoẻ về chất, mà từng bước hoàn thiện nhân cách, lối sống lành
mạnh,có kĩ năng sống, cách ứng sử phù hợp trong cách mối quan hệ xã hội.Một
ngôi trường có thể đem lại những cảm xúc cho các em, mỗi ngày đến trường là
một ngày vui, niềm vui khi tiếp cận tri thức, sự hào hứng khi có bạn bè… thì
ngoài những điều kiện tốt về cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, chương trình học
thì một trong những yếu tố vô cùng quan trọng là lưu tâm đến quá trình phát
triển tâm lí lứa, hiểu những sự đổi thay để làm bạn, đồng hành với học sinh,
khuyến khích học sinh phát triển, hướng đến những điều tốt đẹp. Để làm được
điều này mỗi thầy cô giáo phải là người tham vấn tích cực. đặc biệt là giáo viên
chủ nhiệm. Vai trò của giáo viên chủ trong công tác tư vấn học sinh nhằm phòng
ngừa, hỗ trợ học sinh rèn luyện kỹ năng sống; tăng cường ý chí, niềm tin, bản
lĩnh, thái độ ứng xử phù hợp trong các mối quan hệ xã hội; rèn luyện sức khỏe
19


thể chất và tinh thần, góp phần xây dựng và hoàn thiện nhân cách. Giáo viên chủ
nhiệm cũng là người trực tiếp hỗ trợ và can thiệp (khi cần thiết) đối với học sinh
đang gặp phải khó khăn về tâm lý trong học tập và cuộc sống để tìm hướng giải
quyết phù hợp, giảm thiểu tác động tiêu cực có thể xảy ra; góp phần xây dựng
môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện và phòng, chống bạo lực học

đường.
2. Kiến nghị.
2.1. Đối với ngành giáo dục:
+ Cần xây dựng chương trình đào tạo những giáo viên làm công tác tư vấn
học đường, ở các cấp học.
+ Trong các nhà trường nói chung, trường DTNT nói riêng phải có giáo viên
có chuyên môn nghiệp vụ về tâm lí học đường.
+ Trước mắt mở các lớp chuyên đề tập huấn, bồi dưỡng, các buổi ngoại khoá
giao lưu với các chuyên gia tư vấn, và cung cấp tài liệu về tư vấn tâm lí học
đường cho giáo viên.
+ Cấp huyện có trách nhiệm hỗ trợ kinh phí cho tổ tư vấn các trường hoạt
động.
2.2. Đối với nhà trường:
+ Tiếp tục xây dựng, duy trì tổ tư vấn.
+ Nhà trường xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện, chỉ đạo theo dõi, kiểm
tra, giám sát, hoạt động của tổ tư vấn. Để tổ tư vấn hoạt động thường xuyên, có
như vậy mới kịp thời phát hiện được những diễn biến tâm lí học sinh,
+ Chuyên môn nhà trường xây dựng kế hoạch dạy học lồng ghép trong các
tiết sinh hoạt, hoạt động ngoại khoá, các tiết học có liên quan với nội dung tư
vấn tâm lí cho học sinh.
2.3. Đối với tổ tư vấn trong nhà trường.
+ Tổ tư vấn phối hợp,thường xuyên trao đổi thông tin với cha mẹ học sinh,
giáo viên chủ nhiệm để xây dựng kế hoạch tư vấn.
+ Tổ tư vấn xây dựng nội dung tư vấn theo các chuyên đề, thành bài giảng
riêng, hoạc thông qua các hoạt động trải nghiệm, hoạt động ngoại khoá.
Trên đây là kinh nghiệm của bản thân tôi tích luỹ được trong những năm
làm công tác chủ nhiệm ở trường Dân tộc nội trú Thạch Thành, chắc không thể
tránh khỏi những nhược điểm nhất định, rất mong được đồng nghiệp và các cấp
quản lý chân thành góp ý để công tác tư vấn tâm của giáo viên trong nhà trường
nói chung, Giáo viên chủ nhiệm nói riêng của ngày càng đạt hiệu quả cao hơn.

Xin chân thành cảm ơn.
Thạch Thành, ngày 20 tháng 4 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến của bản thân,
không sao chép của người khác.
Xác nhận của nhà trường
Người thực hiện

Nguyễn Thị Chín

20


MỤC LỤC

Phần
I.
1.
2.
3.
4.
II.
1.
2.
3.
3.1
3.2
3.3
4.
III.
1

2

Nội dung
Mở đầu
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung
Cơ sở lí luận của đề tài
Thực trạng vấn đề
Các giải pháp tổ chức thực hiện
Tìm hiểu, thu thập thông tin học sinh.
Cách xử lí tình huống của giáo viên chủ nhiệm.
Xây dựng môi trường tâm lí thuận lợi cho học
sinh,giáo viên cần tổ chức các hoạt động tập thể ,vui
chơi, hoạt động lao động hướng nghiệp.
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt
động tư vấn tâm lí học sinh.
Kết luận, kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị

Trang
1
1
2
2
2
2

2
3
5
6
10
15
18
19
19
20

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
. Thông tư số 01/2016/TT-BGDĐT ngày 15/01/2016 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo.
2
. Chuyên đề về: “Tư vấn tâm lí học đường” năm xuất bản năm 2012.
3
. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cấp THCS.
4
. Công tác học sinh sinh viên - Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thị
Nghĩa.
5
. Nghị quyết số 29-NQ/TW Trung ương 8 khoá XI.
6
. Về đặc điểm tâm lí của học sinh dân tộc thiểu số - Theo tiến sĩ Phạm Hồng
Quang.


22


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH
XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Chín
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên – Trường THCS Dân tộc nội trú
Thạch Thành

TT
1.
2.
3.
4.

Tên đề tài SKKN
Kinh nghiệm dạy thơ đường ngữ
văn 7
Tổ chức dạy tác phẩm văn học
nhằm phát huy tính tích cực của
học sinh
Vận dụng bản đồ tư duy trong
dạy học ngữ văn 9
Hướng dẫn làm kiểu bài nghị
luận về một tác phẩm truyện
trong ngữ văn 9

Cấp đánh giá

xếp loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh…)

Kết quả
đánh giá
xếp loại

Năm học đánh
giá xếp loại

(A, B, hoặc C)

Ngành giáo dục
cấp huyện

Loại B

2000 - 2001

Ngành giáo dục
cấp huyện

Loại B

2009 - 2010

Ngành giáo dục
cấp huyện


Loại B

2011 - 2012

Ngành giáo dục
cấp huyện

Loại B

2013 - 2014

23



×