Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

một số biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường thcs

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.8 KB, 17 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỈM SƠN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC
SINH Ở TRƯỜNG THCS
Người thực hiện: Trần Thị Nga
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Ba Đình
SKKN thuộc môn: Chủ nhiệm
THANH HOÁ, NĂM 2013
1
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lí do chọn đề tài.
Như chúng ta đã biết, mục đích của giáo dục là đào tạo những con người phát
triển toàn diện mà cụ thể là đức và tài. Đến nay chúng ta đã có rất nhiều những
thành công trong công tác giáo dục. Góp phần vào sự thành công ấy có giáo dục
của bậc THCS nói riêng và ở các cấp học nói chung. Nói về giáo dục ở bậc
THCS, bên cạnh những đóng góp không nhỏ cho nền giáo dục nước nhà và rất
nhiều học sinh của chúng ta có đạo đức tốt, có năng lực và kết quả học tập cao
nhưng bên cạnh đó trong nhà trường vẫn còn tồn tại những học sinh có kết quả
giáo dục chưa cao, đặc biệt là về giáo dục đạo đức. Đó là những học sinh có thái
độ – biểu hiện đạo đức yếu kém mà ta hay gọi là học sinh cá biệt.
Đối với học sinh cá biệt chúng ta bỏ ngoài ư? Mặc kệ ư? Không! Không
thể được. Nếu chúng ta có biện pháp giáo dục phù hợp với đối tượng này thì tôi
tin rằng công sức mà chúng ta bỏ ra là không hề lảng phí. Như chúng ta đã biết,
những em học sinh cá biệt là những em thường hay có cá tính, hoặc có lí do đặc
biệt. Nếu ta phát huy được cá tính tốt, hiểu rõ nguyên nhân và có biện pháp khắc
phục hợp lí thì tất sẽ thành công, còn nếu chưa được những gì tốt đẹp nhất thì
việc làm đó cũng giúp cho học sinh cá biệt chậm lại quá trình vi phạm để rồi dần
thức tỉnh ra.
Chính vì thế mà đã có nhiều nhà giáo dục, nhà khoa học, nhà sư phạm


nghiên cứu, chỉ ra các phương pháp giáo dục học sinh cá biệt. Kết quả ấy cũng
đã được áp dụng rộng rãi và phong phú trên các trường học ở nước ta.
1. Tình hình nghiên cứu.
Để đưa ra các phương pháp giáo dục học sinh cá biệt và vận dụng các
phương pháp này, chúng ta không thể không nhắc đến tên nhà giáo học người
Liên Xô (cũ) Macarenkô, nhà giáo dục người Tiệp Khắc(cũ)- Ông tổ của nền sư
phạm cận đại Cômenxki đã nghiên cứu và áp dụng thành công vào việc giáo dục
học sinh cá biệt. Đồng thời làm phong phú và hình thành các lí luận về dạy học
áp dụng rộng rãi trên thế giới. ở Việt Nam chúng ta cũng đã có rất nhiều nhà
nghiên cứu về lĩnh vực này và đã đưa ra nhiều phương pháp giáo dục học sinh
cá biệt. Đó là những nghiên cứu của các giáo sư : Phạm Minh Hạc, Hồ Ngọc
Đại, Phạm Tất Dong, vv…Đặc biệt Bác Hồ đã từng nói:
“Hiền dữ đâu phải là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”
Câu nói đó của Bác đã thể hiện vai trò quan trọng của giáo dục đối với sự
phát triển nhân cách nói chung và trong việc giáo dục học sinh cá biệt nói riêng.
2
Hiện nay cùng với sự phát triễn của xã hội, bên cạnh những mặt tốt của

chế thị trường, những vấn đề tiêu cực, mặt xấu của xã hội cũng đang là mối lo
ngại cho toàn xã hội, bởi nó có thể len lỏi vào từng cá nhân. Với học sinh, đặc
biệt là học sinh THCS, lứa tuổi được coi là phát triển nhanh, mạnh về mặt tâm
sinh lí, cái tốt, cái xấu các em chưa dễ dàng phân biệt. Vì vậy sự xuống cấp về
mặt đạo đức của một bộ phận học sinh đang làm nhức nhối xã hội và nhà
trường, hiện tượng đó có nơi có lúc đang ngày một gia tăng, khiến cho các nhà
giáo dục và các cấp quản lý, phụ huynh và xã hội đang rất quan tâm, đặc biệt là
những người thầy giáo, cô giáo đang trực tiếp giảng dạy các em. Học sinh
trường THCS Ba Đỡnh cũng không tránh khỏi tình trạng đó.
3. Mục đích của đề tài.
- Khi nghiên đề tài: “Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở trường

THCS Ba Đình” tôi nhằm tìm ra các biện pháp giáo dục học sinh cá biệt và vận
dụng các biện pháp đó vào việc giáo dục học sinh cá biệt ở trường THCS Ba
Đình.
II. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Sau khi nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở
trường THCS Ba Đình” tôi muốn được góp một phần kinh nghiệm của mình
vào việc giáo dục học sinh cá biệt ở trường THCS Ba Đình nói riêng và ở các
trường THCS nói chung. Đồng thời góp phần vào việc kết hợp giữa “ Gia đình
– nhà trường và xã hội” trong việc giáo dục học sinh nhằm hướng con em mình
trở thành con ngoan – trò giỏi, người có ích cho xã hội.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1. Đối tượng: Khi nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp giáo dục học sinh cá
biệt ở trường THCS ”thì đối tượng nghiên cứu là học sinh lớp 9c trường THCS
Ba Đình có những biểu hiện vi phạm đạo đức và vận dụng các biện pháp giáo
dục những đối tượng học sinh này.
2. Phạm vi nghiên cứu : học sinh lớp 9c trường THCS Ba Đình, Bỉm Sơn,
Thanh Hóa.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện được đề tài này, tôi đã quan sát, tìm hiểu thực tế, phân tích
và tổng hợp từ đó rút ra kết luận và áp dụng các biện pháp thích hợp cho từng
nội dung.
3
B. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
I. Cơ sở khoa học và thực trạng học sinh cá biệt
1. Cơ sở lý luận: Thực trạng học sinh cá biệt ở trường THCS hiện nay
Lâu nay, khi đề cập đến nguyên nhân và trách nhiệm đối với học sinh cá
biệt, mọi người đều cho rằng cả ba môi trường: gia đình, nhà trường và xã hội
đều là nguyên nhân của tình trạng học sinh cá biệt và đều phải chịu trách nhiệm.
Nhưng khi đặt vấn đề đâu là nguyên nhân trực tiếp và chủ yếu đối với học sinh
cá biệt thì lại có nhiều ý kiến khác nhau.

Một số bậc cha mẹ than phiền về sự giáo dục của nhà trường, cho rằng
nơi đây không chú ý nhiều tới giáo dục đạo lí làm người, bảo vệ thuần phong mĩ
tục…
Nhà trường có khi lại đổ lỗi cho phụ huynh học sinh thiếu trách nhiệm với
con cái vì theo nhà trường, ngoài nhà trường, phần giáo dục thuộc về gia đình
đặc biệt là những người làm cha làm mẹ.
Một số khác lại đổ lỗi cho môi trường xã hội có nhiều phim ảnh, sách báo
đồi truỵ, khiêu dâm, người lớn sống thiếu gương mẫu…
Và cũng có một nguyên nhân nữa mà ít người để ý đến, đó là đặc điểm
sinh lí lứa tuổi ( từ 11 đến 18 tuổi ). Sau đây tôi xin đưa ra một số nguyên nhân
cơ bản
Thứ nhất: Đời sống tâm lý, sinh lí của lứa tuổi học sinh THCS
Học sinh THCS nằm trong độ từ 11 đến 15 tuổi. Đây là độ tuổi có sự
phát triển nhanh, mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần, tuổi mà các em giã từ một
thời ấu thơ non nớt, ngây thơ, tươi sáng để bước vào một tuổi lớn hơn, bắt đầu
nhìn đời bằng những tò mò, có nhiều hứa hẹn, thậm chí là rất thích thể hiện
mình là người lớn…Nhưng nhìn lại thì các em vẫn còn là lứa tuổi thơ dại, dễ bị
cám dỗ, sa ngã.
Học sinh THCS tuy là lứa tuổi phát triển nhanh, mạnh nhưng lại không
đồng đều về mặt cơ thể. Tầm vóc của các em lớn lên trông thấy, trung bình mỗi
năm cao lên được từ 5 đến 6cm. Trọng lượng cơ thể mỗi năm tăng từ 2,5 đến
6kg. ở lứa tuổi này các em thường không mập béo mà cao gầy, thiếu cân đối.
Các em có vẻ lóng ngóng vụng về, không khéo khi làm việc, thiếu thận trọng,
hay làm đổ vỡ….Điều đó gây cho các em một tâm lí khó chịu. Các em ý thức
được sự lóng ngóng vụng về của mình và cố gắng che dấu nó bằng một điệu bộ
không tự nhiên, cầu kì, tỏ ra vẻ mạnh bạo, can đảm để người khác không chú ý
đến vẻ bề ngoài của mình. Vì vậy chỉ một một sự mỉa mai, chế giễu nhẹ nhàng
4
về hình thể, tư thế đi đứng của các em thì có thể gây cho các em những phản
ứng mạnh mẽ.

Hệ thần kinh của các em còn chưa có khả năng chịu đựng những kích
thích
mạnh, đơn điệu, kéo dài…Do tác động của những kích thích như thế thường
xuyên sẽ gây cho các em tình trạng ức chế, hay xảy ra tình trạng bi kịch, bị kích
động mạnh. Vì vậy, sự phong phú của các ấn tượng, sự chấn động thần kinh
mạnh hoặc sự chờ đợi kéo dài vì những biến cố gây xúc động đều có thể tác
động mạnh đến tuổi vị thành niên, có thể làm cho một số em bị ức chế, uể oải,
thờ ơ, lơ đãng, tản mạn,… số khác lại làm những hành vi xấu, không đúng với
bản chất của các em.
Sự thay đổi về thể chất và tinh thần chưa ổn định ấy của lứa tuổi vị thành
niên làm cho các em có đặc điểm nhân cách khác với các em khi ở lứa tuổi trước
đó. Nhận thức của người vị thành niên cho thấy còn thiếu kinh nghiệm về cuộc
sống, dễ có hành động không đúng, có khi mang yếu tố cảm tính, dễ bị động, bị
lôi kéo vào những việc làm sai trái.
Từ sự phân tích trên, ta có thể kết luận: đời sống tâm lí lứa tuổi là một
nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh cá biệt ở trường THCS.
Thứ hai: Nguyên nhân từ phía gia đình
Một trong những nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến số học sinh cá
biệt ở trường THCS đó là sự tác động từ phía gia đình. Có rất nhiều người cho
đây là nguyên nhân cơ bản nhất.
Trong nhiều gia đình, cha mẹ mãi lo làm ăn, xây dựng kinh tế, thiếu thời
gian quan tâm đến việc giáo dục con cái, việc học hành của con thì phó mặc cho
nhà trường, đoàn thể. Nên việc phối hợp giáo dục chưa được quan tâm đúng
mức
Mặt khác, năng lực giáo dục, những hiểu biết về mặt phát triễn của sinh lí,
tâm lí đối với con cái của các bậc cha mẹ còn rất hạn chế, nên chưa sử dụng
được các biện pháp giáo dục cho phù hợp khi có tình huống xảy ra với trẻ. Ta
thấy rất nhiều gia đình chiều chuộng con cái từ khi còn nhỏ vì chỉ có một cậu
“ấm”. Thói quen vòi vĩnh, đòi gì được nấy, không vâng lời, việc gì cũng ỷ lại
cho bố mẹ…đã trở thành thói quen khó sửa cho các em. Hoặc nhiều cha mẹ lại

quá khắt khe, bảo thủ gây cho trẻ những phản ứng gay gắt. Cũng có những gia
đình ít quan tâm, buông lỏng cho trẻ tự do hành động khiến cho trẻ hư hỏng lúc
nào không hay.
5
Bên cạnh đó lại những gia đình mà cha mẹ lại là người rượu chè, thiếu
gương mẫu không làm tròn nhiệm vụ của người làm cha làm mẹ, người công
dân… Điều đó cũng khiến cho tâm lí vốn chưa ổn định và chưa có sự chọn lọc
ở các em trở nên buồn chán và dẫn đến lơ là, chán nản trong học tập, dễ bị bắt
trước và bị kẻ xấu lôi kéo và dẫn đến những hành vi xấu ( đánh bài, đánh
“chát”, chơi bi ăn tiền, tụ tập chơi điện tử và nhiều thứ khác…)
Hoặc có nhiều gia đình kinh doanh làm ăn bất chính để kiếm tiền như
buôn bán văn hoá phẩm đồi trụy, mua bán ma túy, tổ chức đánh bạc, chứa gái
mại dâm…
….cũng là môi trường gây độc cho trẻ.
Còn một lí do mà ta không thể bỏ qua, đó là nhiều trẻ em sinh ra trong gia
đình quá nghèo túng, nên chúng mặc cảm về bản thân gia đình mình, chúng
cảm thấy thua kém bạn bè, thiếu thốn. Thế rồi chúng lơ là, bỏ bê việc học tập,
thường xuyên vi phạm những nội qui, qui định của trường, lớp. Thậm chí có em
vì không có tiền thoả mãn nhu cầu cá nhân, sở thích, những cuộc vui chơi…
chúng sinh ra trộm cắp, lừa dối.
Một số em do cha mẹ đánh cãi nhau, bất hòa, ly hôn nên em ở với mẹ thí
thiếu bố, em ở với bố thì thiếu mẹ. Thậm trí có nhiều gia đình bố mẹ bị đi cải tạo
nêm con cái không được nuôi dạy cẩn thận.
Trên đây là những nguyên nhân từ phía gia đình dẫn đến tình trạng học
sinh cá biệt. Các bậc cha mẹ cần lưa tâm chú ý để giáo dục con cái mình. Cha
mẹ phải là tấm gương đầu tiên cho con cái noi theo.
Thứ ba: Nguyên nhân từ nhà trường
Nhà trường là môi trường giáo dục học sinh theo hệ thống và có phương
pháp nhất. Nhưng có thể nói, hiện nay trong nhà trường còn tồn tại một kỉ luật
học đường chưa thật nghiêm.

Ta thấy rõ, thầy cô giáo và nhà trường ngoài các biện pháp nhắc nhở,
cảnh báo, đuổi học không được phép răn đe học sinh hư, học sinh chậm tiến
bằng hình phạt khác. Vì lẽ đó cũng hình thành ở học sinh tâm lí “nhờn” với thầy
cô giáo, hỗn với người trên tuổi.
Bên cạnh đó, việc giảng dạy các môn đạo đức (dạy làm người ), dạy pháp
luật lại chưa được chú trọng. Trong nhà trường, đội ngũ cán bộ giáo viên giảng
dạy môn đạo đức và pháp luật còn rất hạn chế, không có hoặc ít giáo viên
chuyên ngành được đào tạo dạy đạo đức và pháp luật.
Mặt khác, trong nhà trường có một số giáo viên chủ nhiệm hoặc giáo viên
bộ môn đã không thực sự quan tâm đến học sinh, đặc biệt là học sinh cá biệt.
6
Với học sinh cá biệt, giáo viên cần quan tâm nhiều hơn để giúp đỡ, khuyến
khích động viên các em tu dưỡng, rèn luyện nhân cách đạo đức của mình. Đôi
khi giáo viên thiếu kinh nghiệm, lại không được chuẩn bị đầy đủ chu đáo về
kiến thức, kĩ năng nên dễ
giải quyết các tình huống gay cấn bằng thói quen, bằng kinh nghiệm, bằng trực
giác. Vì thế khó tránh khỏi những sai lầm. Ví dụ thiên về trừng phạt nặng, có
thái độ cứng rắn đến mức độ thờ ơ, lạnh nhạt trái với lòng tin và mong đợi của
học sinh. Trong tình thế này , người ta còn lẫn lộn giữa tâm lí học tội phạm với
tâm lí trẻ khó giáo dục.Thầy cô ra lệnh, cấm đoán nhiều điều càng kích thích trí
tò mò của học sinh và lại bị vi phạm. Thế là cái vòng luẩn quẩn xuất hiện: thầy
cô, cha mẹ liên tục giao việc, nêu yêu cầu để trẻ làm. Không hoàn thành được,
thế là ở nhà trẻ bị cha mẹ quở mắng, đến trường lại cũng bị thầy cô khiển trách.
Hệ quả là chúng chán nản, rã rời, hết có phản ứng này đến phản ứng khác.
Các nhà sư phạm non tay lại không thông cảm, mà lại dùng kỉ luật cứng nhắc
bắt trẻ vào khuôn phép. Thế là mọi sự giáo dục lại không có hiệu quả.
Cái sai lầm về nghệ thuật giáo dục dẫn đến hình thành ở học sinh thói xấu
như sợ sệt, nói dối, ác cảm với thầy cô giáo…
Thái độ thờ ơ, ác cảm với học sinh cá biệt ở một số nhà giáo dục cũng do
họ không hiểu được tâm lí của lứa tuổi này. Thái độ quá tự tin, chủ quan vào tài

năng giáo dục cũng tạo nên tình trạng mạnh ai nấy làm, thậm chí trở thành tình
trạng “ trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. Điều đó cũng giống như cảnh gia
đình lộn xộn, đổ vỡ, trẻ bị bỏ rơi, thiếu sự quan tâm chăm sóc, thiếu tình thương,
dần dần thoát li khỏi ảnh hưởng giáo dục cần thiết.
Tóm lại việc nghiên cứu phát hiện đúng nguyên nhân khó giáo dục ở học
sinh là vô cùng quan trọng đối với tất cả các giáo viên và cả các bậc cha mẹ. Nó
cũng giống như việc chuẩn đoán bệnh của thầy thuốc trước khi bắt tay vào chữa
trị
Thứ tư: Nguyên nhân từ phía xã hội
Việc chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường đã gây ra những biến
đổi xã hội rất lớn, có ảnh hưởng không nhỏ đối với lứa tuổi học sinh. Những mặt
trái từ phía xã hội như buôn lậu, nghiện hút, cờ bạc, đề đóm, mại dâm….và các
hành vi phạm pháp khác của người lớn đã ảnh hưởng tiêu cực đến các em.
Do sự quản lí không chặt chẽ của các nhà chức trách, do lợi nhuận kinh tế
của các nhà kinh doanh, buôn bán không cần để ý đến đã ảnh hưởng đến ai. Ra
đường ta thấy đầy rẫy những quán “chát”, “Game”, quán bi-a và nhiều loại quán
7
khác đã rất thu hút trẻ như một “ma lực”. Bao nhiêu hình ảnh, bao nhiêu câu
chuyện không lành mạnh đã tiêm vào đầu trẻ như một liều thuốc rất không bổ.
Mặt khác do trẻ em a dua theo bạn bạn bè, bị bạn bè rủ rê lôi kéo vào
những hoạt động xấu gây tác hại cho gia đình, nhà trường và xã hội
Hoặc cũng có thể do hoàn cảnh sống đã tác động đến trẻ. ở đâu có tệ nạn
xã hội xảy ra nhiều thì ở đó tập trung nhiều trẻ em phạm pháp
Trên đây là những nguyên nhân cơ bản, dẫn đến tình trạng học sinh cá
biệt – khó giáo dục. Chúng ta và tất cả những người làm công tác giáo dục cần
tìm ra nguyên nhân cụ thể đối với từng học sinh cá biệt để có biện pháp giáo dục
đạt hiệu quả nhất.
2. Cơ sở thực tiễn: Thực trạng học sinh cá biệt lớp 9c trường THCS Ba
Đỡnh.
2.1 Tình hình thực tế .

Lớp 9C tôi chủ nhiệm 37 HS phần lớn là HS phường Ba Đình, phường Lam
Sơn, nhiều em có hoàn cảnh đặc biệt : cha mẹ li hôn, cha thì nghiện ngập, đi lao
động nước ngoài, 1 số gia đình cha mẹ lao động tự do. Các em ít được sự quan
tâm sống thiếu tình yêu thương đùm bọc của người thân, thiếu sự quan tâm
chăm sóc giáo dục. Vì thế mà việc học tập của các em sa sút, rèn luyện đạo đức
cũng bị hạn chế, những ời nói tự do thô tục thiếu văn hóa càng được biểu hiện
rất rõ trong tâm hồn các em. Khi nhận lớp thời gian đầu tôi đã nhận ra một số
bạn nữ tâm sinh lí phát triển nên có những biểu hiện về tình cảm khác giới tâm lí
các em có độ lì , các bạn nam hiếu động nói năng tự do, thô tục thiếu văn hóa và
thường xuyên bỏ học để vui với các trò chơi điện tử, có những em gia đình đã
bất lực, phó mặc cho nhà trường quản lí. Cái khó khăn của tôi là mới nhận lớp
nên tìm hiểu đối tượng tính cách , hoàn cảnh của mỗi em chưa được nhiều về
thời gian . Vì thế, tôi suy nghĩ, trăn trở tìm ra giải pháp đúng đắn phù hợp với
từng đối tượng tâm sinh lý HS – HS cá biệt.
THỐNG KÊ HOÀN CẢNH GIA ĐÌNH HỌC SINH
Số HS Hoàn cảnh gia đình
2 em cha mẹ công chức, điều kiện khá giả quan tâm chăm sóc chu đáo
5 em Cha mẹ bỏ nhau sống với ông bà nội, ngoại
20 em Cha mẹ làm nghề lao động tự do, lao động nước ngoài, ít quan tâm
đến việc học tập của các em
10 em Hộ nghèo, gia đình khó khăn
Chất lượng hạnh kiểm năm học trước 2011 - 2012
Tốt (%) Khỏ (%) Trung Bỡnh (%) Yếu (%) Kộm (%)
20 20 40 20 0
8
2.2 Tình hình nhà trường
Như trên chúng ta đã biết, việc thay đổi cách sống, cách sinh hoạt của cộng
đồng tất sẽ dẫn đến sự thay đổi của trẻ em ( trẻ thường lấy người lớn làm gương,
các gương xấu dễ bị tiếp thu hơn). Học sinh THCS Ba Đỡnh cũng nằm trong
tình trạng chung của học sinh THCS trên địa bàn của thị xã. Trong những năm

qua, do có sự đi lại thuận lợi, cơ sở vật chất trường lớp được khang trang hơn,
chất lượng và thành tích của nhà trường được nâng lên ( trong đề tài này tôi
chưa nói đến thành tích của học sinh và nhà trường) nên có một số học sinh ở
khác phường xin về học . Trong số các em chuyển về trường học có nhiều em
chăm ngoan học giỏi, song vẫn có một số em thuộc dạng học sinh cá biệt.
Những học sinh này kết hợp với số học sinh hư trong trường làm tăng thêm số
lượng học sinh cá biệt, một số học sinh lớp 9C là điển hình.
Mặt khác, phần lớn phụ huynh học sinh còn hạn chế về kiến thức, kinh
nghiệm giáo dục con em, sự quan tâm, quản lý con cái còn chưa đúng mức.
Nhiều gia đình chưa thực sự phối hợp với nhà trường trong việc giáo dục con cái
- phó mặc cho nhà trường. Nhiều phụ huynh nhà trường cần găp thì không đến,
có phụ huynh đến thì thái độ lại khó chịu. Nhiều học sinh bố mẹ không quản lý
được như để cho con em đi chơi lêu lổng, nói dối ( ban đêm không học vẫn tụ
tập để đi chơi ngoài đường từ đó nảy sinh nhiều vấn đề về đạo đức).
Hiện nay nhà trường có 16 lớp học, mỗi khối có 4 lớp nhìn chung các em đều
chăm ngoan, học giỏi , song rải ở các lớp vẫn có những học sinh cá biệt đạo đức
yếu kém là do bố mẹ thiếu quan tâm hoặc biện pháp giáo dục thiếu tính hợp lý.
Một số do mâu thuẫn cá nhân có tính chất phân biệt đẳng cấp giàu nghèo và bị
một số thanh niên xấu rủ rê, cổ vũ khích lệ dẫn đến đánh nhau. Một số khác do
động cơ học tập không cao dẫn đến thờ ơ với việc học tập.
II. Một số biện pháp và kết quả giáo dục học sinh cá biệt
A. Biện pháp giáo dục học sinh cá biệt
Việc giáo dục học sinh cá biệt cần có sự phối kết hợp giữa gia đình – nhà
trường – xã hội, nhất định sẽ nâng cao được chất lượng giáo dục. Hồ Chủ Tịch
đã từng căn dặn: “ Giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần, cần có sự giáo
dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường
được tốt hơn. Giáo dục nhà trường dù có tốt đến mấy nhưng thiếu giáo dục trong
gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn”. Vì vậy,
9
1. Đối với nhà trường.

Trường học là cơ sở chính - chủ đạo trong quá trình giáo dục với ý nghĩa nó
là nhà điêu khắc chính tạo nên tâm hồn con người. Trường học để lại dấu ấn
không phai mờ trên bộ mặt văn hoá của tất cả những ai đã học tập ở đó. Trường
học chân chính lấy làm tự hào là tất cả những người lớn tuổi đều hãnh diện tự
coi mình là học trò của các em. Trường học là nơi hình thành và bảo vệ cái cốt
lõi đạo đức của người công dân. Những mối quan hệ lẫn nhau được hình thành
trong tập thể của trường học. Vì vậy để cho trường học giảm bớt tình trạng học
sinh cá biệt thì nhà trường nên có những biện pháp như sau:
Tăng cường những giờ giảng có hiệu quả và chất lượng về luân lí đạo đức,
pháp luật cho học sinh. ở mỗi lớp, nhà trường chọn ra số học sinh cá biệt, tập
trung lại và cho giáo viên có kinh nghiệm, có trình độ chuyên môn về đạo đức,
về pháp luật để bồi dưỡng. Những học sinh này cần được truyền thụ kiến thức
đạo đức ( bài học làm người, các phẩm chất và bổn phận đạo đức của công dân )
và kiến thức pháp luật để các em biết và giác ngộ, sửa chữa dần dần những việc
làm, hành vi không phù hợp với chuẩn mực của xã hội. Vì vậy, trong trường
học, cần có giáo viên dạy pháp luật nói riêng và dạy giáo dục công dân nói
chung có trình độ và chuyên môn vững vàng để truyền đạt đến học sinh một
cách có hiệu quả. Mặt khác, giáo viên chủ nhiệm và các giáo viên bộ môn cần
có sự quan tâm chú ý đến học sinh lớp mình, đặc biệt là học sinh cá biệt. Giáo
viên chủ nhiệm là người chịu trách nhiệm trước nhà trường, trước cha mẹ học
sinh về sự phát triển nhân cách của từng học sinh theo mục tiêu giáo dục.
Do đó, đối với học sinh cá biệt, bản thân tôi đưa ra một số biện pháp sau đây:
Thứ nhất: Biện pháp xây dựng lại niềm tin
Bình thường, trẻ em vốn có niềm tin vào “thế giới” người lớn, hồn nhiên
và yêu thương ông bà, cha mẹ, anh chị em cũng như những người xung quanh.
Vì những lí do xã hội và hoàn cảnh phức tạp của cá nhân mà niềm tin của
các em bị phai nhạt và đổ vỡ, thậm chí các em có những tình cảm ngược lại: oán
giận xã hội, căm ghét gia đình và những người xung quanh, mặc cảm về chính
bản thân, về thân phận bất hạnh của mình. Vì vậy, nhà giáo dục như chúng tôi
nên thực hiện theo các yêu cầu sau:

Từ những phút đầu tiên tiếp xúc với trẻ, phải tạo cơ hội để các em có cái
nhìn đúng đắn ( không bị khúc xạ, xuyên tạc, làm méo mó đi ) về thế giới khách
quan, về các mối quan hệ giữa người với người. Từng bước, từng bước khôi
phục lại, nâng dần lên, hiểu đúng các quy tắc xã hội và những tiêu chuẩn đạo
đức nhân cách, những tiêu chuẩn hành vi, gợi lên lòng tin của các emg với mọi
10
người, với cuc sống ( mà trước đó do bị cuộc sống vùi dập trong nỗi bất hạnh
khiến chúng nhìn hoàn toàn ngược lại). Theo thời gian phải đồng thời gợi mở
vạch ra cho các em thấy những khía cạnh sai lầm, những ngộ nhận trong cách
nhìn người, nhìn việc, xem xét các mối quan hệ để cảm hoá và tạo điều kiện cho
các em tự cảm hóa mình.
Nên tổ chức các hoạt động ( lao động, văn nghệ, thể thao… ). Để trẻ tiếp xúc

giao lưu với nhau, với cộng đồng ở dạng trong sáng, dần dà trẻ sẽ nhận ra cái
đúng, phát hiện ra thái độ lệch lạc, cực đoan của mình để từ đó tự điều chỉnh. Có
như vậy chúng mới có cơ sở để tin rằng: Người với người là bạn, nam nữ bình
đẳng, giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn là điều tất nhiên, là việc làm cần thiết và
phải làm trong thực tế. Với ai cũng vậy, nhận thức được các qui tắc tối thiểu: ăn
thì phải làm, nhận được sự giúp đỡ phải cảm ơn…Có thể nói: được học kiến
thức và được thử nghiệm trong thực tế niềm tin của trẻ được khôi phục dần dần
và đó là cơ sở để ta phê phán cái sai, ủng hộ và làm theo cái đúng trong những
lần sau:
Quá trình xây dựng lại niềm tin cần vạch ra bức tranh tổng thể, vì cuộc sống
buông thả vô nguyên tắc cuối cùng sẽ gặm nhấm, làm tiêu tan cuộc sống lành
mạnh của mỗi người.
Cần chú ý là khi khôi phục lại niềm tin phải hết sức tế nhị, không bao giờ tỏ
ra nghi ngờ hoặc chế nhạo sự non nớt, sự sai lầm của trẻ, kể cả việc bác bỏ thẳng
thừng thô bạo các quan niệm sai lầm của trẻ. Thế giới tâm hồn trẻ cực kỳ phong
phú nhạy cảm, dù hế sức gần gủi với trẻ chắc chắn chúng vẫn còn nhiều điều bí
ẩn, khó lòng thấu hiểu hết. Sự khéo léo ứng xử về sư phạm phải tinh thông, có

như vậy trẻ mới tin ta và từ đó chúng mới tin vào bản thân chúng và vào cuộc
sống nói chung.
Thứ hai: Biện pháp khuyến khích và trừng phạt.
1.1 Trừng phạt.
Trừng phạt phải được đối tượng nhận thức tiếp thu như là hình thức đặc biệt
của yêu cầu chung đối với hành vi sai trái của các em. Trong nội dung trừng
phạt đồng thời nên có các nội dung:
- Phê phán, chỉ trích việc làm sai trái
- Lời chỉ dẫn sửa chữa hoặc qui tụ hành vi để khắc phục sai phạm đó.
- Cảnh báo, răn đe sự việc tái diễn để phòng ngừa về sau
11
- Trừng phạt được áp dụng để sửa trị những lỗi lầm của trẻ sai phạm ở mức
độ nặng nề ( như chúng đã xúc phạm thô bạo bạn bè, mọi người, luôn luôn bộc
lộ tính
hung tợn, tính chấp nhặt trả thù khiến cho trẻ khác sợ hãi) .
Nhưng trừng phạt phải chặt chẽ, thích đáng, tránh tạo cơ hội để trẻ bộc lộ sự
ranh mãnh đối phó theo kiểu đạo đức giả. Khi trừng phạt phải vạch rõ lý do
chính đáng đảm bảo cho việc trừng phạt đạt hiệu quả mong đợi của mọi người,
làm cho đối tượng chuyển biến thái độ hành vi. Thực hiện việc trừng phạt phải
được dư luận của nhóm đồng tình ủng hộ.
Phải nhạy bén linh hoạt thay đổi hình thức phạt khi cần thiết và cũng không
nên trừng phạt một cách máy móc hình thức. Tối kị việc trừng phạt hàng loạt trẻ
với một hình thức sáo mòn nào đó. Khi bản thân trẻ đã hiểu rõ tính nết và cung
cách giáo dục của nhà giáo dục mà người đó lại không chịu cải tiến hình phạt, rễ
dẫn đến thái độ khinh nhờn của trẻ, vì chúng cho rằng như vậy là tắc trách, là
không khách quan. Vì vậy đối với mỗi đối tượng, phải sâu sát với chúng và cá
biệt hoá cả cách thức trách phạt thì hiệu quả mới tốt. Ví dụ: có trẻ phải cương
quyết, có trẻ phải dùng áp lực, dư luận tập thể; có trẻ phải tâm tình thuyết phục,
thậm chí mời gia đình giáo dục. Việc thực hiện thực hiện trừng phạt không nên
hấp tấp vội vã, tránh tình trạng để trẻ có lỗi chưa đủ thời gian tự xem xét đã

phạt.
Về tâm lý khi trẻ vừa rơi vào tâm lý xung đột, sự cuồng nhiệt chưa lắng lại,
người phạm lỗi chưa có đủ thời giờ để suy ngẫm, phân tích cảm nhận rõ ràng,
nếu ta phạt ngay dễ dẫn đến sự phân tán trong dư luận và bản thân trẻ cũng chưa
có đủ điều kiện để tiếp thu.
Vậy, việc phạt trẻ phải đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng, đúng mức sẽ có
tính giáo dục cao.
1.2. Khuyến khích – khen thưởng
Có nhiều người cho rằng không nên áp dụng biện pháp này đối với học sinh
cá biệt. Tuy vậy, trong giáo dục sự nâng đỡ, khuyến khích cái tốt, cái thiện dù là
nhỏ đều rất cần cho sự khôi phục lại niềm tin của người lầm lỗi.
Nếu trừng phạt thực hiện 3 chức năng ( Giúp trẻ ý thức đầy đủ về khuyết
điểm, từ đó thừa nhận không thể dung thứ được những sai phạm như vậy, và từ
việc ý thức như vậy sẽ tìm cách khắc phục sai phạm, khuyết điểm và tự điều
chỉnh hành vi của mình) thì khen thưởng, khuyến khích cũng có ba chức năng
như vậy.
12
Nhìn chung việc kết hợp cả khuyến khích và trừng phạt được kết hợp một
cách hệ thống liên tục sẽ giúp trẻ hiểu rõ, phân biệt được cái tốt cái xấu, cái gì
được xã hội chấp nhận, cái gì không thể và không được làm. Từ đó khuyến
khích trẻ làm theo cái tốt loại dần những sai trái. Đến một mức phát triển cao
chúng sẽ hình thành được năng lực tự nhận xét, phê phán, chỉ trích mọi hành vi
sai trái của mình. Đặc biệt đối với trẻ thiếu thốn tình cảm gia đình thì sự yêu
thương thông cảm khiến chúng có sức cảm hoá rất mạnh.
Tuy nhiên khuyến khích phải mang tính cá biệt hoá sao cho phù hợp với đối
tượng. Có trẻ cần tuyên dương công khai, có trẻ cần trao tặng phẩm, có trẻ chỉ
cần ánh mắt thông cảm, động viên là đủ.
Việc đề xuất và tổ chức thực hiện khuyến khích phải được người có uy tín,
được trẻ tin tưởng, tránh trường hợp người có va chạm với trẻ lại làm việc khen
chê đó. Khen thưởng đối với loại trẻ này phải nhằm vào sự cố gắng thực sự của

trẻ.
Khuyến khích là nhằm khơi gợi những nhân tố tích cực trong trẻ, giúp trẻ
hiểu rõ
các phảm chất, các năng lực, tính cách của mình. Điều đó làm cho trẻ tin tưởng
ở bản thân mình, hình thành ở trẻ tư tưởng phấn đấu trở thành người tốt hơn.
Cần khuyến khích cùng với giao việc cụ thể, tổ chức các hoạt động tạo cơ hội
cho trẻ bộc lộ tiềm năng, thử thách tự sửa chữa trong thực tế.
Tóm lại, việc khuyến khích trong giáo dục học sinh các biệt cũng là một
trong những biện pháp quan trọng, tạo cơ hội cho trẻ tự sửa chữa, vươn lên và
trở thành người học sinh tốt hơn.
2.Đối với gia đình.
Nhà trường cần kết hợp với gia đình để giáo dục học sinh các biệt. Người
giáo viên chủ nhiệm có học sinh các biệt cần phải kết hợp với gia đình để trao
đổi và tư vấn các biện pháp giáo dục trong gia đình . Phần lớn các gia đình đặc
biệt các gia đình ở nông thôn ( địa bàn phường Ba Đỡnh) trình độ, biện pháp
giáo dục còn hạn chế, do vậy cần có sự hỗ trợ, tư vấn, kết hợp của giáo viên về
biện pháp giáo dục.
Trong phạm vi gia đình, những người làm cha làm mẹ dù có bận như thế
nào thì mỗi ngày nên dành một thời gian nhất định để quan tâm đến trẻ. Cha
mẹ phải biết phòng ngừa các hành vi xấu của con bằng các biện pháp giáo dục
cẩn thận và đặc biệt khi trẻ có các hành vi hư hỏng thì phải phương pháp giáo
dục một cách đúng đắn . Khi con cái đã mắc các sai lầm khuyết điểm thì các bậc
cha mẹ có thể thực hiện theo những điều sau đây:
13
+ Tránh vội vàng qui kết cho con theo kiểu áp đặt, chụp mũ ( lười, ngang
bướng, hư hỏng, đồ bỏ đi, vô dụng, đồ ăn cắp, …) mà phải tự đặt ra câu hỏi đâu:
“ Vì đâu có thái độ, hành vi sai trái? ” và tìm căn nguyên để khắc phục.
+ Khi giáo dục trẻ cần có thái độ bình tĩnh, tránh tức giận, bực bội cá
nhân. Nên có lời khuyên giải một cách chân tình thể hiện tình thương và trách
nhiệm.

+ Nên tìm mặt tích cực để tìm cách khuyến khích, động viên và khuyến
khích mặt tích cực của trẻ.
+ Tránh tình trạng bênh vực hành vi xấu của trẻ, tô vẽ nên “ bức tranh vô
tội” của trẻ hoặc là đánh giá một cách bi quan không thể giáo dục.
+ Đứng trước hành vi sai trái của trẻ thì tránh đối xử một cách thô bạo với
trẻ (hắt hủi, đánh đập…). Vì như vậy sẽ đẩy trẻ lún sâu vào những sai phạm, có
những tiêu cực, khó lường, gây nên những vết thương sâu sắc trong tâm hồn trẻ.
+ Đối với những đứa trẻ trái tính trái nết, do dối loạn tâm lí thì phải quan
tâm xem xét các mặt sinh hoạt trong gia đình và bản thân trẻ, phải chăm sóc
chữa trị chúng theo các biện pháp y học.
Với các biện pháp cơ bản như trên, mong các bậc cha mẹ lưu tâm và tìm
thêm biện pháp khác phù hợp với đặc điểm con trẻ để giáo dục chúng phát triển
tốt
về tư cách, giỏi về văn hoá
3. Đối với các tổ chức xã hội
Nhà trường cần có nội dung, mục tiêu giáo dục trong nhà trường vào các tổ
chức xã hội ở địa phương như: Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến
binh, Hội người cao tuổi… nhằm thống nhất, định hướng, tác động đối với quá
trình hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.
Các cơ quan truyền thông và báo chí xuất bản phim ảnh nên tăng cường
những phim tốt và những chương trình, ấn phẩm tốt nhằm giáo dục hướng trẻ vị
thành niên. Ngăn chặn những sản phẩm văn hoá có tính đầu độc. Chương trình
truyền thanh và truyền hình nên mở rộng, tăng cường các tiết mục thông tin giáo
dục đại chúng, trong đó có chương trình hướng dẫn về sức khoẻ, y tế, cộng
đồng…giải trí lành mạnh.
Mặt khác, cần tăng cường các hoạt động nghiệp vụ về pháp luật của các
cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc phát hiện, điều tra, xử lí đối với trẻ em vị
thành niên phạp tội. Cảnh sát khu vực, cảnh sát phụ trách xã, công an xã cần chú
ý đến trẻ vị thành niên để theo dõi, ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội của trẻ.
14

Nhà trường phối hợp với địa phương tổ chức cho học sinh tham gia tích
cực vào tất cả các hoạt động văn hoá, xã hội như: xoá đói, giảm nghèo, đền ơn
đáp nghĩa, gia đình văn hoá mới, dọn dẹp đường làng ngõ xóm….Nhằm góp
phần cải tạo môi trường gia đình và xã hội ngày càng tốt đẹp hơn đối với quá
trình hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.
B. Kết quả đạt được được trong quá trình giáo dục học sinh cá biệt
Với những biện pháp nêu trên, trong quá trình giảng dạy ở nhà trường
THCS, tôi đã mạnh dạn áp dụng để giáo dục học sinh cá biệt ở lớp mình chủ
nhiệm và đồng giáo dục học sinh trong trường thì kết quả đạt được rất khả quan.
Em Nguyễn Thanh Phong, ban đầu tôi nhận lớp em có thái độ vô lễ, nói
năng thiếu văn hóa và “bất cần”, thường lôi kéo bạn bè làm theo ý của mình.
Trước những hành vi đó tôi cũng luôn nhắc nhở giáo dục em trước lớp song
không có kết quả gì. Suy nghĩ để tìm ra giải pháp, tôi đã gặp riêng tìm hiểu hoàn
cảnh gia đình, lúc đó tôi biết được Phong có hoàn cảnh thật đáng thương: cha thì
nghiện ma túy, mẹ thì lao động tự do, em ít được sự quan tâm và yêu thương của
gia đình. Có lẽ vì thế em chán trường, không muốn học. Phong tâm sự: Em đến
trường cốt để hòa đồng với bạn bè song nhiều bạn thường chế giễu và mỉa mai
“con của thằng nghiện”, những lời lăng nhục của bạn bè càng khiến em cảm
thấy nhục nhã nên em phải thể hiện mình trước mọi người để bạn bè không làm
những điều đó, mong cô hiểu cho em. Nghe Phong tâm sự tôi cảm động và xót
xa phân tích cho em hiểu được những điều em cần sửa chữa và phải làm gì cho
đúng đạo lí. Phong đã hiểu và xin lỗi, hứa với tôi sẽ tiến bộ. Từ lần gặp đó cho
đến hôm nay Phong đã có thay đổi và ý thức học tập tốt hơn.
Em Hà Thị Thủy, HS có thể xem là “đại ca” của tốp nữ. Đầu năm em
thường bỏ học đi chơi với bạn trai, trang phục đến trường thường bắt chước theo
kiểu ca sĩ, không phù hợp với tuổi HS. Khi giáo viên nhắc nhở thì em có những
hành vi thiếu văn hóa. Lúc đó tôi rất buồn vì trong lớp cũng có một vài em đạo
đức kém như vậy. Lo lắng suy nghĩ để tìm ra một giải pháp giáo dục các em như
thế nào? Tôi gặp riêng em tâm sự và hiểu được cái suy nghĩ của Thủy đó là ưa
nhẹ nhàng, tế nhị kín đáo bởi vì tuổi nhỏ em không được sự chăm sóc yêu

thương của mẹ, cho nên em khao khát tình mẹ. Hiểu được tâm sự của em tôi đã
tìm ra được phương pháp giáo dục em Thủy theo một chiều hướng tốt. Một lần
em đã xin được gặp tôi nói: cô ơi giờ em mới thấm thía lời cô nói. Em cảm ơn
cô nhiều.
Em Nguyễn Văn Thắng sinh ra trong một gia đỡnh rất hạnh phỳc, nhưng
em đó bị sự cỏm dỗ của bạn bố, thường xuyên bỏ học đi chơi điện tử. Tôi đó đến
15
gia đỡnh nhiều lần thỡ được biết mẹ rất nuông chiều, con thích gỡ được nấy. Tôi
đó xin phộp gia đỡnh để phân tích cái đúng cái sai để gia đỡnh và em hiểu được
cần phải học tập như thế nào là tốt nhất, không nên chiều chuộng con cái. Ban
đầu gia đỡnh khụng hợp tỏc, rồi thời gian người mẹ đó hiểu được nuông chiều
con cái là tác hại lớn. Từ đó cả hai phía kết hợp với nhau để giáo dục em và kết
quả học kỡ II em đó đi học đều đặn, ghi bài đầy đủ, chăm chỉ học tập hơn.
Trong lớp tôi còn rất nhiều học sinh cá biệt. Tuy thời gian chủ nhiệm các
em có một năm chưa đủ để hiểu hết được tâm tư tình cảm của các em. Song có
một điều tôi nhận ra rằng: người giáo viên không chỉ truyền thụ kiến thức cho
các em mà còn phải rèn luyện đạo đức, mình phải thực sự là người mẹ thứ hai,
các em như những đứa con yêu đấu của mình. Khi làm công tác chủ nhiệm, thực
sự tìm hiểu hoan cảnh sống của học sinh để cảm thông chia sẻ với những em có
số phận bất hanh, phải gần gũi yêu thương và hiểu được tính cách của từng em
trong lớp để có một phương pháp giáo dục rèn luyện đạo đức cho học sinh một
cách có hiệu quả. Điều quan trọng giáo viên phải có tõm huyết với nghề nghiệp,
yờu thương học sinh. Đặc biệt giáo viên chủ nhiểm phải có thời gian tỡm hiểu
tớnh cỏch và hoàn cảnh từng em trong lớp, có thể cảm nhận được các em suy
nghĩ gỡ để có phương pháp giáo dục đúng đắn. Đối với những HS chậm tiến bộ
GV kiờn trỡ từng bước, có cái tâm của người Mẹ. Với một phương pháp giáo
dục đa dạng và linh hoạt, tôi tin rằng sẽ đạt hiệu quả cao trong rèn luyện đạo đức
cho học sinh.
Chất lượng hạnh kiểm cuối năm học 2012 - 2013
Tốt (%) Khỏ (%) Trung Bỡnh (%) Yếu (%) Kộm (%)

89 11 0 0 0
C. KẾT LUẬN
Thực trạng học sinh cá biệt ở trường THCS hiện nay đang trở thành vấn
đề nhức nhối cho gia đình, xã hội, đặc biệt là cho người làm công tác giáo dục.
Số học sinh cá biệt hầu như trường nào cũng có, nó tồn tại ở nhiều dạng và
nhiều hình thức khác nhau.
Để khắc phục tình trạng đó, tôi đã mạnh dạn đưa ra những nguyên nhân,
biện pháp khác phục và đã đạt được kết quả trong quá trình thực hiện. Vậy các
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến trẻ hư đó là: do đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi, do
ảnh hưởng từ phía gia đình, do nhà trường và do tác động từ phía xã hội. Cùng
16
với mỗi nguyên nhân đó là các biện pháp khắc phục trong nhà trường, gia đình
và xã hội.
Về mặt nghiệp vụ, đề tài này giúp tôi có kĩ năng và thao tác của người tập
làm công tác nghiên cứu. Đồng thời là giáo viên dạy Ngữ văn nó còn giúp tôi
trau dồi kiến thức, nâng cao tay nghề để giảng dạy có hiệu quả tốt nhất.
Trong khuôn khổ của một đề tài nghiên cứu, tôi mong đồng nghiệp xem
đây như một ý kiến nhỏ góp tiếng nói chung trong việc giáo dục số học sinh cá
biệt. Đề tài như một tài liệu tham khảo để bạn đọc, các bậc cha mẹ, nhà trường
và xã hội có thể lựa chọn giáo dục cho con em mình.
Tuy nhiên trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu tôi sẽ không tránh khỏi
những hạn chế. Vì vậy rất mong sự đóng góp ý kiến của đông đảo bạn đọc, của
các đồng nghiệp để bài viết sau tốt hơn, hoàn thiện hơn.
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị
(Đã ký)
Hoàng Mạnh Hùng
Tôi xin cam đoan sáng kiến kinh
nghiệm này do tôi nghiên cứu và thực
hiện.
Bỉm Sơn, Tháng 3 năm 2013

Người viết
Trần Thị Nga
17

×