Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Một số giải pháp góp phần dạy học có hiệu quả các bài pháp luật môn GDCD khối lớp 6 ở trường PTDTBT THCS luận khê

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.15 KB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THƯỜNG XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN DẠY HỌC CÓ HIỆU QUẢ
CÁC BÀI PHÁP LUẬT MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN KHỐI
LỚP 6 Ở TRƯỜNG PTDTBT THCS LUẬN KHÊ

Họ và Tên: Lê Thị Hiền
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường PTDTBT THCS Luận Khê
SKKN thuộc môn: Giáo dục công dân

0


Mục
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.2
2.3
2.3.1
2.3.2
2.3.4


2.4
3
3.1
3.2

THANH HÓA NĂM 2018
MỤC LỤC
Các phần
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài.
Mục đích nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu.
NỘI DUNG
Cơ sở lí luận.
Thực trạng của vấn đề.
Các giải pháp giải quyết vấn đề.
Giải pháp 1: Tổ chức tốt việc làm đồ dùng dạy học, sử dụng
đồ dùng dạy học của giáo viên.
Giải pháp 2: Trong quá trình dạy học giáo viên cần phải kiểm
tra bài cũ của học sinh.
Giải pháp 3: Trong tiết dạy giáo viên có thể vận dụng các
phương pháp giảng dạy, tùy theo mỗi bài, sao cho phù hợp.
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
Kết luận.
Kiến nghị.

Trang

1
2
2
3
3
3
4
4
4
7
8
10
10
17
18
18
19

1


2


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta đã xác định con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Để thực hiện
thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cần phải có những
người lao động mới phát triển toàn diện, do vậy cần phải đổi mới giáo dục.

Nhiệm vụ đổi mới giáo dục được thể hiện rõ trong Nghị quyết của Đảng, trong
Luật Giáo dục. Đặc biệt trong Nghị quyết hội nghị trung ương 8 khóa XI của
Đảng đã chỉ rõ: Giáo dục là quốc sách hàng đầu,là sự nghiệp của Đảng, Nhà
nước, của toàn dân, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển. Đổi mới
căn bản giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết từ
quan điểm chỉ đạo đến nội dung phương pháp, chuyển quá trình giáo dục từ chủ
yếu trang bị kiến thức phát triển năng lực của người học. Đồng thời Nghị quyết
cũng chỉ rõ: phải tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực,
chủ động sáng tạo, khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc.
[5]. Như vậy, mục tiêu giáo dục là trang bị cho người học những năng lực cần
thiết, đặc biệt là năng lực hành động, năng lực giao tiếp. Phương pháp giáo dục
phổ thông cũng đổi mới theo hướng “phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động,
tư duy sáng tạo của người học”.
Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị
trường thì còn một số vấn đề nhức nhối. Đó là tình trạng xuống cấp về đạo đức,
sự suy đồi về lối sống, tình trạng vi phạm pháp luật ngày một gia tăng, đặc biệt
ở lứa tuổi thanh thiếu niên. Ý thức trách nhiệm đối với bản thân, với gia đình,
với cộng đồng xã hội chưa cao là điều dễ thấy ở lứa tuổi này. Việc học tập và
hiểu biết về pháp luật của các em còn bị xem nhẹ... Là giáo viên trong nhà
trường phổ thông chúng ta không thể không suy nghĩ, nhất là đối với những giáo
viên đang giảng dạy bộ môn Giáo dục công dân.
Xuất phát từ vai trò của môn học trong việc giáo dục, hình thành nhân
cách, phẩm chất cho học sinh thì trọng tâm của môn Giáo dục công dân có vai
trò đặc biệt quan trọng là phát triển ở học sinh hệ thống thái độ, cảm xúc, tình
cảm, niềm tin đạo đức; hình thành ý thức tự giác tuân thủ pháp luật, tích cực tự
nguyện thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền hạn của công dân; hình thành
hành vi, thói quen theo chuẩn mực đạo đức xã hội, những qui định của pháp luật
và cộng đồng.
Song từ trước đến nay bộ môn Giáo dục công dân lại bị coi là môn học
phụ, giáo viên giảng dạy hầu hết là giáo viên kiêm nhiệm còn giáo viên được

đào tạo chuyên giảng dạy môn này chiếm tỷ lệ rất ít. Bên cạnh đó tài liệu tham
khảo dành cho bộ môn GDCD cũng không nhiều, trong khi đó để giảng được
một bài có kiến thức pháp luật cho học sinh dễ hiểu, tiếp thu bài nhanh là một
việc không dễ làm. Qua thực tiễn giảng dạy tôi rút ra một số kinh nghiệm xin
chia sẻ với các đồng nghiệp để cho việc dạy học bộ môn đạt được hiệu quả cao
hơn. Chính vì thế, tôi chọn đề tài: “Một số giải pháp góp phần dạy học có hiệu
2


quả các bài pháp luật môn GDCD khối lớp 6 ở trường PTDTBT THCS Luận
Khê” làm đề tài nghiên cứu cho sáng kiến kinh nghiệm của mình.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở những vấn đề đã nêu việc thực hiện đề tài này về cơ bản nhằm
đạt được các mục tiêu sau:
Tạo được hứng thú cho học sinh trong học tập ở lớp cũng như ở nhà đối với
môn học, kích thích hoạt động sáng tạo, xây dựng cơ hội khám phá, ứng dụng tri
thức bằng thúc đẩy hoạt động tìm hiểu thực hành, từ đó các em tích cực tham gia
vào bài học hơn tránh được sự nhàm chán trong phương pháp dạy và học truyền
thống; góp phần nâng cao hiệu quả dạy học đối với môn Giáo dục công dân,
hướng tới đạt được mục tiêu giáo dục mà Đảng đã đề ra.
Đảm bảo tính chính xác, khoa học, tính rõ ràng về nội dung bài học. Giáo
viên dễ dàng truyền thụ kiến thức và nhận xét đánh giá học sinh. Học sinh nhanh
chóng nắm bắt nội dung bài học, nhận biết và sửa đổi các hành vi sai trái, có
nhiều cơ hội phát huy tính tích cực, nhanh chóng nắm được kiến thức tại lớp vận
dụng vào thực tế cuộc sống hàng ngày.
Tiết kiệm được thời gian, công sức và kinh phí trong việc chuẩn bị đồ
dùng, giáo cụ trực quan trước khi lên lớp đồng thời bám sát yêu cầu của phương
pháp dạy học đổi mới kết hợp phương pháp dạy học truyền thống phù hợp với
cả 3 đối tượng học sinh và thực trạng dạy - học của nhà trường.
Vận dụng ứng dụng công nghệ thông tin, tạo trực quan sinh động (với các

bài có thiết kế trình chiếu Power Point) gắn với nội dung cụ thể của từng bài
nhằm xây dựng yếu tố hấp dẫn lôi cuốn kích thích tư duy để học sinh nhanh
chóng nắm được bài giảng, nhớ lâu, nhớ sâu nội dung bài học.
Thuận lợi, dễ dàng trong kiểm tra đánh giá khả năng nhận thức của học
sinh, dự báo sớm được kết quả học tập để có biện pháp bồi dưỡng uốn nắn kịp
thời đối với tất cả các đối tượng học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Một số giải pháp góp phần dạy học có hiệu quả các bài pháp luật môn Giáo
dục công dân khối lớp 6.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết: Nghiên cứu từ những cơ
sở lí luận về các phương pháp dạy học theo hướng tích cực, chủ động, sáng tạo.
Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế thu thập thông tin: Sử dụng khi tiến
hành điều tra về hứng thú học tập của học sinh, khảo sát về chất lượng tiếp thu
kiến thức pháp luật trước và sau khi áp dụng sáng kiến.
Phương pháp thực nghiệm: Sử dụng trong quá trình áp dụng sáng kiến.
Phương pháp thống kê, xử lí số liệu: Sử dụng sau khi thực nghiệm, tiến
hành thống kê các kết quả đạt được ở từng em, từng lớp sau mỗi tiết học pháp
luật và trong cả quá trình áp dụng sáng kiến.
3


2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận.
Để đáp ứng mục tiêu giáo dục của Đảng và Nhà nước ta: Nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học…; trong
giảng dạy môn Giáo dục công dân không chỉ đơn giản là truyền thụ tri thức cho
học sinh mà phải tổ chức cho học sinh hoạt động, thông qua hoạt động sẽ hình
thành cho các em tình cảm, niềm tin đạo đức và hành vi pháp luật; đặc biệt hình
thành thói quen đạo đức và ý thức pháp luật ở mỗi học sinh.

Ở môn Giáo dục công dân cấp trung học có sở gồm 2 phần chính, đó là các
bài về đạo đức được dạy ở học kỳ I và các bài có kiến thức pháp luật được dạy ở
học kỳ II. Để giảng dạy tốt một bài học có nhiều kiến thức pháp luật khó, trừu
tượng và khô khan thì đòi hỏi người giáo viên phải tạo được sự hứng thú cho
học sinh. Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học là vấn đề mà bất kì giáo viên
nào khi lên lớp cũng đều mong muốn mình có thể làm tốt, song thực tế không
phải ai cũng thành công.
Vậy làm thế nào để học sinh thực sự có hứng thú, yêu thích môn học... Đó
là yêu cầu đặt ra cho giáo viên, người có vai trò tổ chức hoạt động này.
2.2. Thực trạng vấn đề.
Môn Giáo dục công dân trong chương trình giáo dục phổ thông đóng vai
trò to lớn trong việc giáo dục học sinh ý thức và hành vi người công dân, góp
phần trang bị cho học sinh năng lực để tự điều chỉnh bản thân trong xã hội hiện
đại. Tuy nhiên, vấn đề dạy và học bộ môn này trong nhà trường hiện nay vẫn
còn những hạn chế bất cập đó là:
- Nhận thức và thái độ đối với bộ môn:
Xã hội nói chung, ngành giáo dục nói riêng và cả người dạy và người học
và cả những người quản lí chưa nhận thức hết tầm quan trọng của bộ môn đã
góp phần quan trọng trong việc hình thành phát triển nhân cách của học sinh,
vẫn còn chú trọng các bộ môn khoa học nhằm nâng cao trí tuệ chưa chú trọng
nâng cao nhân cách cho học sinh, nghĩa là chỉ chú ý rèn tài mà chưa rèn đức.
Biểu hiện cụ thể là: học sinh và cả giáo viên chủ quan, coi môn học chỉ là môn
phụ, và chỉ ý thức được rằng miễn là day - học đủ bài, đúng chương trình là đạt
yêu cầu. Và sách tham khảo, sách bài tập còn ít, đặc biệt sách viết về phương
pháp dạy bộ môn lại càng hạn chế.
Môn Giáo dục công dân chưa được xem như một công cụ để học sinh đem
kiến thức được học trong nhà trường vận dụng giải quyết những vấn đề đang
diễn ra trong cuộc sống.
- Về nội dung chương trình:
Nội dung chương trình của bộ môn Giáo dục công dân còn nhiều điều chưa

hợp lí: nặng giáo dục chính trị, nhẹ kỹ năng sống, coi trọng lí thuyết chưa chú ý
vận dụng, thực hành, chưa yêu cầu thể hiện qua việc làm và hành vi cụ thể trong
đời sống. Nhiều bài học trong sách giáo khoa còn khô khan, gượng ép, chưa phù
4


hợp với đặc điểm tâm lí của học sinh. Mặt khác một số kiên thức về chính trị,
pháp luật, nhà nước... còn khá trừu tượng, khó kiểu đối với học sinh trung học
cơ sở.
- Phân phối thời gian:
Thời lượng dành cho môn Giáo dục công dân chỉ có một tiết trên tuần mà
kiến thức thì nhiều nên học sinh càng cảm thấy ngại học. Không những thế, giáo
viên không có nhiều thời gian giảng dạy cặn kẽ cho học sinh một nội dung, vấn
đề nào đó. Thời gian không nhiều thời lượng chương trình trong sách giáo khoa
phải đảm bảo nên việc dạy học mang nặng tính “cưỡi ngựa xem hoa”, làm sao
để trả bài đầy đủ.
- Phương pháp dạy học:
Mặc dù việc đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá cũng đã có
nhiều chuyển biến nhưng kết quả của việc đổi mới vẫn còn chưa rõ ràng. Trên
thực tế trong những giờ lên lớp giáo viên chủ yếu vẫn dạy chay, hoặc có tổ chức
đàm thoại thảo luận nhưng vẫn mang tính hình thức... giờ dạy nhàm chán thiên
về rao giảng đạo lí, lệ thuộc nhiều vào sách giáo khoa và tài liệu hướng dẫn
giảng dạy, thiếu sáng tạo trong cách tổ chức hoạt động dạy học... khiến cho học
sinh thiếu hứng thú trong học tập. Nguyên nhân chủ yếu là do sự đầu tư cho giờ
dạy còn hạn chế dẫn đến giờ học khô khan không đọng lại trong tâm trí học sinh
một hình ảnh hoặc ấn tượng nào. Thứ hai vì trình độ chuyên môn của giáo viên
còn hạn chế (giáo viên thường là chéo ban - không được đào tạo cơ bản) nên
những nội dung bài dạy còn chưa sâu, chưa kỹ.
- Về thiết bị dạy học:
Nhiều nơi chủ yếu chỉ sử dụng các thiết bị dạy học môn học tối thiểu do Bộ

quy định, chưa quan tâm đến việc tự làm thiết bị, đồ dùng dạy học. Việc áp dụng
công nghệ thông tin trong dạy học môn Giáo dục công dân đang được bước đầu
thực hiện nhưng còn lúng túng, hiệu quả chưa cao.
- Về chỉ đạo quản lí:
Nhiều cấp quản lí chưa thực sự quan tâm đến môn Giáo dục công dân, vẫn
còn coi đó là môn phụ nên chưa tạo điều kiện về bố trí giáo viên và các điều
kiện cần thiết khác để giáo viên giáo dục công dân nâng cao chất lượng dạy học.
- Việc kiểm tra đánh giá:
Việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập còn nặng về hình thức, phổ biến vẫn
là kiểm tra kiến thức, chưa chú trọng kiểm tra đánh giá năng lực, phẩm chất của
học sinh.
Trong năm học 2014 -2015, tôi đã tiến hành khảo sát hứng thú học tập của
học sinh. Với 10 câu hỏi cho một phiếu thăm dò, được phát đều cho 125 học
sinh trong lớp. Sau khi thống kê thu được kết quả như sau:
Câu 1: Em có hứng thú học môn Giáo dục công dân ở trường trung học cơ
sở hay không?
Có hứng thú: 10 học sinh
5


Bình thường: 76 học sinh
Không hứng thú: 39 học sinh
Câu 2: Theo em, có nên học môn Giáo dục công dân ở trường trung học cơ
sở hay không?
Nên học: 30 học sinh
Bình thường: 76 học sinh
Không nên học: 19 học sinh.
Câu 3: Theo em, học môn Giáo dục công dân ở nhà trường có tác dụng hay
không?
Rất có tác dụng: 25 học sinh

Có tác dụng: 80 học sinh
Không có tác dụng: 20 học sinh.
Câu 4: Theo em, học môn Giáo dục công dân ở trường trung học cơ sở
đem lại cho em kiến thức về:
Đạo đức: 15 học sinh
Pháp luật: 9 học sinh.
Tất cả các kiến thức (đạo đức và pháp luật): 101 học sinh.
Câu 5: Em thích học môn Giáo dục công dân ở phần nào (đạo đức hay
pháp luật)?
Đạo đức: 76 học sinh.
Pháp luật: 49 học sinh
Câu 6: Theo em, phần kiến thức pháp luật học có khó hay không?
Khó: 95 học sinh
Không khó: 30 học sinh
Câu 7: Trong giờ học môn Giáo dục công dân, khi cô giáo giao nhiệm vụ
về nhà sưu tầm tài liệu tham khảo cho bài học sau em thường làm gì?
Sưu tầm tài liệu: 96 học sinh
Không làm gì hết: 29 học sinh.
Câu 8: Nếu ngày hôm sau có môn Giáo dục công dân thì em dành thời
gian học là bao nhiêu?
30 phút: 95 học sinh
Một tiếng: 17 học sinh
Trên một tiếng: 04 học sinh
Không học: 09 học sinh.
Câu 9: Trong giờ học môn Giáo dục công dân em thường làm gì?
Ghi chép bài và hăng hái phát biểu: 21 học sinh
Bình thường: 79 học sinh
Không phát biểu: 25 học sinh
Không ghi chép: 0 học sinh .
6



Câu 10: Nếu có bài kiểm tra 15 phút hay kiểm tra học kì em có sử dụng
tài liệu không?
Có sử dụng: 104 học sinh
Không sử dụng: 21 học sinh.
Từ kết quả khảo sát trên cho thấy học sinh chưa có hứng thú học môn
Giáo dục công dân, đặc biệt là ở các bài pháp luật, các em cảm thấy có nhiều
kiến thức mới và khó hiểu, thêm vào đó việc dành thời gian cho môn học không
nhiều. Vì vậy kết qua học tập của học sinh chưa cao, điều đó được thể hiện:
Xếp loại học lực
Tổng
Năm Khối
số
Giỏi
Khá
T.bình
Yếu
Kém
học
lớp
học
TL
TL
TL
TL
TL
SL
SL
SL

sinh SL % SL
%
%
%
%
20146
125
4 3,2 17 13,6 99 79,2 5
4
0
0
2015
Như vậy, hiện nay học sinh vẫn chưa có được những nhận thức đúng đắn
về ý nghĩa của môn học, chưa yêu thích, say sưa với việc học tập môn Giáo dục
công dân. Giáo viên chưa tạo ra được hứng thú cho học sinh trong quá trình tiếp
nhận bài học, đặc biệt các bài học về pháp luật. Vậy để những bài học về pháp
luật thực sự ngấm vào tâm hồn, nhận thức của học sinh thì cần tạo được sự say
mê, sự hứng thú học tập của các em, để việc hiểu biết pháp luật thực sự là nhu
cầu ở các em đòi hỏi người giáo viên cần có những giải pháp và biện pháp tối ưu
nhất. Tôi xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp sau:
2.3. Các giải pháp để giải quyết vấn đề.
Để có một tiết dạy tốt, theo tôi cách dạy của giáo viên là quan trọng nhất. Thầy
là người gợi mở, học sinh tự do phát triển. Giáo viên dẫn dắt vấn đề, đưa kiến thức
và tình huống bên ngoài cuộc sống để cho giờ học thêm sinh động. Giờ học, học
sinh phải được “phát ngôn” theo sự hiểu biết của mình gắn với bài học, giúp học sinh
say mê với môn học. Giáo viên như một người bạn, người tâm giao, có vướng mắc
là các em hỏi ngay mà không ngại.
Với sách giáo khoa, giáo viên dựa vào khung sườn từ đó có cách gợi mở
với mỗi bài học để học sinh chủ động. Từ kiến thức nền đó, giáo viên “biến hóa”
để học sinh hiểu bài, biết thế nào là tốt - xấu, cách xử lí tình huống khi gặp nguy

hiểm...Tuy nhiên, cũng có cái khó là đồ dùng dạy học còn hạn chế, tranh ảnh
minh họa ít, phần lớn giáo viên phải tự chuẩn bị, tự làm, việc sưu tầm tư liệu có
thể mất khá nhiều thời gian.
Thực tế, nếu dập khuôn theo sách giáo khoa thì môn Giáo dục công dân là
khô cứng, giáo điều, học sinh rất khó hiểu. Mà ở phần pháp luật các bài đều có
nội dung liên quan đến các quyền cơ bản của công dân được quy định theo Hiến
pháp, đi cùng là một số văn bản pháp luật khác.
Qua việc trực tiếp giảng dạy môn Giáo dục công dân ở trường PTDTBT
THCS Luận Khê, tôi nhận thấy để giảng tốt một bài có kiến thức pháp luật cho
học sinh trong giờ học môn Giáo dục công dân cần chú ý các giải pháp sau để
7


nâng cao hứng thú học tập của học sinh cũng như nâng cao chất lượng của bộ
môn này.
2.3.1. Giải pháp 1: Tổ chức tốt việc làm đồ dùng dạy học, sử dụng đồ dùng
dạy học của giáo viên.
Để tiết dạy môn Giáo dục công dân nói chung và dạy phần pháp luật ở khối
lớp 6 nói riêng đạt được mục tiêu giáo dục đòi hỏi người giáo viên phải có sự
chuẩn bị kỹ càng, chu đáo về nội dung cũng như đồ dùng dạy học. Trong các bài
dạy để phát huy tính chủ động, sáng tạo và gây hứng thú học tập cho học sinh,
giáo viên phải xác định phần nào, mục nào cần chuẩn bị trên phiếu học tập, trên
bảng phụ, giấy khổ to hay máy chiếu phục vụ có hiệu quả nhất cho tiết học thì
giáo viên phải chuẩn bị trước. Đặc biệt là tranh ảnh, tư liệu cuộc sống là công cụ
cụ thể hóa kiến thức trừu tượng phần pháp luật ở lớp 6, vì thế giáo viên cần sử
dụng triệt để “kênh hình” này. Sử dụng tranh ảnh góp phần tạo nên sự hứng thú
học tập ở học sinh, tiếp thu kiến thức một cách trực quan, cụ thể, dễ hiểu.
Ví dụ, khi dạy bài 14 - Giáo dục công dân 6 “ Thực hiện trật tự an toàn
giao thông”.
Ở mục: 3. Nhận biết tín hiệu đèn giao thông và một số biển báo giao thông

thông dụng.
Sách giáo khoa môn Giáo dục công dân lớp 6 không có mục tín hiệu đèn
giao thông cũng như các loại biển báo giao thông in màu đen - trắng nên học
sinh rất khó phân loại. Vì thế giáo viên phải chuẩn bị đồ dùng dạy học trực quan,
đó là tín hiệu đèn giao thông và biển báo giao thông in màu để học sinh dễ phân
loại và nhớ được kiến thức bài học.
Tín hiệu đèn giao thông:

CẤM ĐI

PHẢI DỪNG LẠI TRƯỚC
VẠCH DỪNG, TRƯỜNG HỢP
ĐÃ ĐI QUÁ VẠCH DỪNG
THÌ ĐƯỢC ĐI TIẾP

ĐƯỢC ĐI

8


Các loại biển báo giao thông thông dụng:
Biển báo cấm: Hình tròn, nền màu trắng có viền đỏ, hình vẽ đen thể hiện
điều cấm.

Biển báo nguy hiểm: Hình tam giác đều, nền màu vàng có viền đỏ, hình
vẽ màu đen thể hiện điều nguy hiểm cần đề phòng.

Biển hiệu lệnh: Hình tròn, nền màu xanh lam, hình vẽ trắng nhằm báo
điều phải thi hành. [1]


9


2.3.2. Giải pháp 2: Trong quá trình dạy học giáo viên cần phải kiểm tra bài
cũ của học sinh.
Để đạt hiệu quả chất lượng bộ môn, ngay trong mỗi bài, mỗi tiết phải đảm
bảo hiệu quả chất lượng. Trước khi dạy bài mới, cần phải kiểm tra bài cũ, có thể
kiểm tra ở đầu tiết dạy, cũng có thể lồng ghép trong suốt tiết dạy. Đây là khâu
quan trong, giúp giáo viên biết được sự tiếp thu kiến thức bài cũ của học sinh,
ổn định nề nếp học sinh vào đầu tiết, học sinh chú tâm theo dõi bài, tiếp thu bài
mới có kết quả cao hơn. Có thể tổ chức cho học sinh thi đua trong suốt tiết học,
chia lớp thành hai đội để thi đua trong từng tiết dạy (giúp học sinh có sự cạnh
tranh trong các hoạt động của tiết).
Ví dụ, khi dạy bài 18 - Giáo dục công dân lớp 6 “ Quyền được bảo đảm
an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín”. Trước khi vào bài lớp, giáo
viên có thể đặt câu hỏi để dẫn dắt học sinh vào bài: Trong chương trình Giáo
dục công dân lớp 6, các em đã được học các quyền tự do, dân chủ nào của công
dân?.
Học sinh trả lời, giáo viên nhận xét và kết luận: Trong chương trình Giáo
dục công dân lớp 6, các em đã được học các quyền tự do, dân chủ là:
- Quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, thân thể, sức khỏe, danh dự và
nhân phẩm.
- Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở.
Và hôm nay, cô và các em sẽ tìm hiểu thêm một quyền tự do, dân chủ nữa của
công dân, đó là: Quyền được bảo đảm an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện
tín.
2.3.3. Giải pháp 3: Trong tiết dạy giáo viên có thể vận dụng các phương
pháp giảng dạy, tùy theo mỗi bài, sao cho phù hợp.
Một số phương pháp được vận dụng cụ thể như sau:
Đưa thực tiễn, tư liệu cuộc sống vào bài giảng, làm cho bài giảng phong

phú, sinh động, học sinh dễ hiểu và có ấn tượng sâu sắc về bài học.
Những tư liệu này phải phong phú, cập nhật những vấn đề mang tính thời
sự mà học sinh quan tâm. Muốn vậy, đòi hỏi người giáo viên phải thường xuyên
theo dõi những vấn đề của xã hội đặc biệt khi đọc các thông tin trên báo, mạng
Internet, truyền hình... giáo viên phải lưu lại những vấn đề có thể phục vụ cho
bài giảng.
Biện pháp này sử dụng được hầu hết các bài trong chương trình của bộ
môn, trong các tiết dạy khi đưa thêm các tư liệu cuộc sống vào bài tiết học trở
nên sinh động, gần gũi dễ hiểu hơn học sinh có hứng thú học.
Ví dụ, khi dạy bài 16 - Giáo dục công dân lớp 6 “ Quyền được pháp luật
bảo hộ về tính mạng, thân thể, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm” giáo viên có
thể đưa nhiều thông tin về các vụ việc xâm hại thân thể, sức khỏe của người
khác, đặc biệt là các vụ việc xâm hại tình dục ở trẻ em được đăng trên các
phương tiện truyền thông cho học sinh tham khảo để các em tự hiểu nội dung,
10


hậu quả của việc vi phạm quyền này...Thông qua đó các em biết bảo vệ thân thể,
sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của mình; đồng thời biết tôn trọng sức khỏe,
tính mạng, danh dự, nhân phẩm của người khác và biết phản đối những hành vi
xâm hại thân thể, tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của công dân.
Phương pháp nêu gương.
Khi giảng mỗi bài cần đưa gương tốt về người thật, việc thật; đồng thời cả
gương xấu (nếu có) để học sinh tránh. Những tấm gương nêu ra phải được nhiều
học sinh biết, đặc biệt là những tấm gương ở trường, lớp và ở địa phương mình.
Ví dụ, khi dạy bài 15 - Giáo dục công dân lớp 6: "Quyền và nghĩa vụ học
tập" giáo viên có thể đưa những tấm gương có thành tích cao trong học tập ở trong
trường, lớp. Bên cạnh đó cũng đưa ra các điển hình lười học trong trường, lớp để từ
đó giúp các em rút ra bài học cho bản thân. Cụ thể bằng các câu hỏi sau:
Câu hỏi 1: Hãy nêu một vài tấm gương có thành tích học tập tốt ở trường, lớp

mà em biết?
Học sinh trả lời: Đó là bạn Lang Thị Ngát ở 8A, Lang Thị Phương Linh lớp
8A, Vi Thị Đức lớp 7A, Dương Lang Thành lớp 7A, Lang Thị Lá lớp 9A...
Câu hỏi 2: Hãy nêu một vài trường hợp điển hình về lười học, hay vi phạm
nội qui của trường, của lớp mà em biết?
Học sinh trả lời: Ví dụ như bạn Cầm Thanh Duy lớp 7A, Cầm Văn Tuấn lớp
8B, Lang Xuân Thắng lớp 9C, Lò Văn Giang lớp 9C...
Như vậy, thông qua phương pháp nêu gương này các em đã biết phân biệt
được hành vi đúng với hành vi sai trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ học tập.
Hành vi đúng: Chăm chỉ học tập, luôn luôn có gắng vượt khó, vươn lên trong
học tập; biết vận dụng những điều đã học vào trong cuộc sống...
Hành vi sai: Lười học, không có sự cố gắng vươn lên trong học tập, học vẹt, lí
thuyết suông; thiếu tôn trọng thầy cô giáo...
Phương pháp thảo luận nhóm.
Về bản chất: Thảo luận nhóm là phương pháp dạy học, trong đó học được
chia thành các nhóm nhỏ và trong một thời gian nhất định các nhóm cùng nhau
thảo luận để giải quyết những vấn đề mà giáo viên đặt ra.
Tác dụng: Đây là một phương pháp hiện đại được sử dụng rộng rãi nhằm
giúp học sinh tham gia một cách chủ động vào quá trình học tập. Học sinh có
thể hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau; giúp học sinh hiểu vấn đề
một cách sâu sắc, giáo dục tính độc lập, tư duy phê phán, biết lắng nghe ý kiến
của người khác, hình thành quan điểm, lập trường cá nhân; phát triển năng lực
giao tiếp và ý thức trách nhiệm của học sinh. [3]
Cách thực hiện:
Để đạt hiệu quả cao, khi sử dụng phương pháp này đòi hỏi phải có sự
chuẩn bị.
GV giới thiệu chủ để thảo luận.
11



GV sử dụng bảng phụ để ghi câu hỏi thảo luận nhóm.
HS chuẩn bị bảng phụ để ghi ý kiến đóng góp của các bạn trong nhóm.
Chia lớp thành 4 đến 6 nhóm nhỏ, mỗi nhóm từ 6 đến 8 học sinh, có đủ các
thành phần giỏi, khá, trung bình, yếu.
Phân công nhóm trưởng, thư kí ghi ý kiến (luân phiên thay đổi thư kí để
học sinh thể hiện kỹ năng của mình)
Khi thảo luận, các thành viên của nhóm ngồi đối diện nhau, nhóm trưởng
điều khiển thảo luận, động viên các bạn của nhóm đóng góp ý kiến. Thư kí ngồi
ở giữa để ghi ý kiến của các thành viên vào bảng phụ.
Giáo viên yêu cầu học sinh bất kì đọc câu hỏi thảo luận.
Giáo viên qui định thời gian thảo luận. (Trong khi thảo luận, giáo viên cần
bao quát lớp, kịp thời nhắc nhở, uốn nắn học sinh chưa chú tâm còn lơ là…)
Nếu chỉ có một câu hỏi thảo luận thì các nhóm thảo luận cùng câu hỏi đó.
Nếu có nhiều câu hỏi thảo luận thì mỗi nhóm thảo luận một câu hoặc 2 -3 nhóm
thảo luận một câu. Khi hết thời gian thảo luận, các nhóm treo kết quả của nhóm
mình lên bảng và cử đại diện nhóm trình bày.
Khi nhóm này trình bày thì nhóm khác bổ sung. Cả lớp nhận xét, bổ sung.
Giáo viên chốt lại vấn đề và nhận xét tinh thần thảo luận của các nhóm,
tuyên dương nhóm có ý đúng nhiều nhất, động viên các nhóm chưa tốt.
Ví dụ, khi dạy bài 14 - Giáo dục công dân lớp 6 “Thực hiện trật tự an
toàn giao thông”.
Giáo viên nêu vấn đề: Theo em, những nguyên nhân nào dẫn đến tai nạn
giao thông? Nguyên nhân nào là phổ biên?
Tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm (nhóm 2 bàn).
Thời gian thảo luận: 3 phút
Đại diện các nhóm báo cáo kết quả thảo luận, các nhóm khác trao đổi, bổ sung.
Giáo viên kết luận: Các nguyên nhân dẫn đến tai nạn giao thông là:
Do ý thức của người tham gia giao thông chưa tốt;
Do đường hẹp và xấu;
Do người và phương tiện tham gia giao thông ngày càng nhiều;

Do phương tiện giao thông xuống cấp, quá hạn sử dụng không đảm bảo an
toàn…
Trong đó, nguyên nhân phổ biến dẫn đến tai nạn giao thông là do ý thức
của người tham gia giao thông (kém hiểu biết pháp luật về an toàn giao thông
hoặc biết nhưng không tự giác chấp hành).[2]
Phương pháp giải quyết vấn đề (hay còn gọi là phương pháp xử lí tình
huống).
Về bản chất: Giải quyết vấn đề là xem xét, phân tích những vấn đề /tình
huống cụ thể thường gặp phải trong đời sống thường ngày và xác định cách giải
quyết, xử lí vấn đề/ tình huống đó một cách có hiệu quả.
12


Tác dụng: Phương pháp này giúp học sinh giải quyết tích cực, hiệu quả đối
với những khó khăn, thách thức của cuộc sống thực tiễn, để có một cuộc sống có
chất lượng, an toàn và lành mạnh.
Cách thực hiện:
Giáo viên đưa tình huống cho học sinh xác định, nhận dạng.
Thu thập thông tin liên quan để giải quyết tình huống.
Liệt kê những cách giải quyết có thể có.
Phân tích, đánh giá các cách giải quyết và lựa chọn cách giải quyết tối ưu.
Rút kinh nghiệm cho việc giải quyết những vấn đề, tình huống khác.
Ví dụ, khi dạy bài “Quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, thân thể,
sức khỏe, danh dự và nhân phẩm”.
Giáo viên đưa ra tình huống: “Nam và Sơn ngồi cạnh nhau, Sơn mất bút
tìm không thấy liền đổ tội cho Nam lấy cắp. Hai người to tiếng với nhau rồi
Nam xông vào đánh Sơn chảy máu mũi. Cô giáo chủ nhiệm mời hai bạn về văn
phòng nhà trường để giải quyết”.
Hỏi:
1. Em hãy nhận xét cách cư xử của Nam và Sơn?

2. Nếu là một trong hai bạn đó, em sẽ xử sự như thế nào?
3. Là bạn cùng lớp, em sẽ làm gì?
HS suy nghĩ và trả lời.
GV liệt kê các câu trả lời lên bảng. Học sinh cả lớp nhận xét, bổ sung.
GV nhận xét, bổ sung và kết luận:
Trả lời: 1. Nhận xét: Cách cư xử của cả Nam và Sơn đều sai.
Nam sai: Vì không khéo léo giải quyết mà đánh Sơn chảy máu mũi. Như
vậy, Nam đã xâm hại đến thân thể, sức khỏe của Sơn.
Sơn sai: Chưa có chứng cứ đã khẳng định Nam lấy cắp bút. -> Sơn đã xâm
phạm đến danh dự và nhân phẩm của Nam.
2. Nếu em là Sơn, em phải khéo léo hỏi bạn.
Nếu em là Nam, em phải bình tĩnh giải quyết.
3. Là bạn cùng lớp, em sẽ can ngăn không cho hai bạn đánh nhau, giúp hai
bạn giải quyết, làm rõ sự việc.
Phương pháp đóng vai.
Về bản chất: Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành,
“làm thử” một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Học sinh
sẽ đóng vai các nhân vật, thể hiện cách xử lí giải quyết tình huống trên cơ sở trí
tưởng tượng và ý nghĩa sáng tạo của các em. Đây là phương pháp nhằm giúp
học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự việc cụ
thể mà các em vừa thực hiện hoặc quan sát được. Việc “diễn” không phải là
phần chính của phương pháp này mà điều quan trọng là sự thảo luận sau phần
diễn ấy.
13


Tác dụng: Rèn luyện kỹ năng ứng xử cho học sinh, học sinh có hứng thú
với hoạt động, làm nảy sinh sức sáng tạo của học sinh trong việc tìm kiếm cách
xử lí và thể hiện cách ứng xử…
Chuẩn bị: Tình huống sắm vai, có chủ đề sát với nội dung bài học. (Giáo

viên cung cấp cho học sinh ở phần dặn dò của tiết trước hoặc nêu nội dung tình
huống để học sinh tự xây dựng tình huống sắm vai).
Phân công: có thể cho học sinh lớp, cho nhóm hoặc cho đội.
Học sinh tự phân vai.
Cách tiến hành: Chọn học sinh (lớp, nhóm hoặc đội): Làm người điều khiển.
- Giới thiệu chủ đề tiểu phẩm.
- Giới thiệu các vai diễn lần lượt xếp hàng ngang cúi chào khán giả
- Tuyên bố tiểu phẩm sắm vai của chúng em xin phép được bắt đầu.
Người dẫn chuyện đọc tình huống hay câu chuyện to và rõ mới gây hứng
thú cho người nghe.
Các vai diễn phải nhập vai, hóa trang đơn giản, thu hút sự chú ý của
người xem.
Giáo viên nhận xét:
Tiểu phẩm sắm vai, cách thể hiện các vai diễn.
Ngợi khen cách diễn xuất tốt, nhập vai.
Động viên các vai diễn còn lúng túng, chưa nhập vai.
Ví dụ, khi dạy bài 17: “Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở” - Giáo dục
công dân lớp 6.
Giáo viên cho học sinh sắm vai.
Tình huống:“Hai chú công an đang truy đuổi một tên tội phạm đã có lệnh
truy nã. Hắn chạy vào một ngõ hẹp rồi mất hút. Sau đó hai chú công an gặp ông
Nam và hỏi, ông Nam nói không thấy, hai chú công an đề nghị ông Nam cho
vào nhà khám nhưng ông Nam không đồng ý. Biết rằng chỉ cần mất cảnh giác
một chút là tên này xổng mất, nên hai chú công an bàn nhau, quyết định cứ
xông vào nhà ông Nam khám xét ”.
Giáo viên cung cấp tình huống ở phần dặn dò của tiết 29.
Học sinh phân công sắm vai tập trước.
- Người dẫn chuyện bắt đầu đọc tình huống. (Đọc to và rõ).
- Cùng lúc đó, tên tội phạm chạy từ cửa lớp vào tìm chỗ trốn.
- Hai chú công an truy đuổi theo và gặp ông Nam.

- Hai chú công an hỏi ông Nam và xin cho vào nhà khám.
- Ông Nam khoát tay không cho vào nhà khám.
- Hai chú công an đi lại kề tai nói nhỏ với nhau. Và cả hai đều xông
vào nhà khám mặc cho ông Nam ngăn cản.
Giáo viên nêu câu hỏi
14


Câu 1: Hai chú công an có xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở
của ông Nam không?
Câu 2: Theo em, trong trường hợp này hai chú công an nên làm thế nào?
Học sinh trao đổi.
Giáo viên hướng dẫn học sinh trả lời bằng cách dựa vào Điều 22 của Hiến
pháp 2013 ( trích):
2. “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý
vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng ý”.
3. Việc khám xét chỗ ở theo luật định. [4]
Học sinh trả lời: dựa vào qui định trên.
Câu 1: Hai chú công an đã vi phạm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của
ông Nam. Vì ông Nam chưa đồng ý cho vào nhà khám xét.
Câu 2: Theo em, hai chú công an nên làm: Để một người ở lại canh giữ tên
tội phạm còn người kia đi xin giấy phép khám nhà. Khi có giấy phép mới được
vào nhà khám và bắt tên tội phạm.
Giáo viên nhân xét các vai diễn
- Ngợi khen các vai diễn tốt, nhập vai.
- Động viên các vai diễn chưa tốt.
Phương pháp trò chơi.
Để tạo hứng thú trong học tập cho học sinh trong giờ dạy của mình giáo
viên có thể tổ chức một số trò chơi trong tiết dạy.
Biện pháp này có thể dùng trong giới thiệu bài, củng cố bài học giúp các

em khắc sâu hơn kiến thức của bài, tạo được sự hứng thú, phát huy được tính
chủ động, tích cực, nâng cao sự chú ý, làm giảm đi sự căng thẳng mệt mỏi, rèn
luyện kỹ năng ứng xử giao tiếp.
Căn cứ vào mục tiêu, nội dung bài học giáo viên sáng tạo trò chơi.
Trò chơi “Hái hoa dân chủ”.
Giáo viên chuẩn bị một số câu hỏi sát nội dung, mục tiêu bài học và mỗi
câu được xếp vào một cái hoa gắn vào cành cây, đặt trước lớp.
Cho học sinh thi đua giữa các nhóm.
Đại diện nhóm lên hái hoa và trả lời.
Qui định luật chơi:
- Học sinh đại diện nhóm lên hái hoa, trả lời đúng thì được 10 điểm.
- Nếu học sinh nhóm bổ sung đúng được 5 điểm.
- Học sinh nào lên hái hoa rồi thì không được lên hái nữa.
- Tổng kết điểm: Nhóm nào nhiều điểm sẽ thắng.
- Thời gian cho trò chơi (3 phút).
Trò chơi “tiếp sức”.
15


Chia lớp thành 2 đội: Đội A và Đội B (Giáo viên chia 2 cột trên bảng cho
2 đội)
Mỗi đội chọn đại diện 5 học sinh. Sử dụng phấn khác màu cho mỗi đội.
Ví dụ, khi dạy bài 12 - Giáo dục công dân lớp 6: “Công ước Liên hợp
quốc về quyền trẻ em”.
Câu hỏi: 1. Nêu các việc làm thực hiện quyền trẻ em?
2. Nêu các việc làm vi phạm quyền trẻ em?
Giáo viên chia lớp thành hai đội: đội A và đội B (chia bảng thành hai cột:
cột A và cột B).
Yêu cầu: Đội A trả lời câu hỏi 1, Đội B trả lời câu hỏi 2.
Học sinh trong đội thay nhau lên ghi kết quả vào cột của đội mình.

Giáo viên qui định thời gian: 3 phút. Mỗi câu trả lời đúng được 10 điểm.
Đội A
Đội B
- Tổ chức tiêm phòng cho trẻ em.
- Đánh đập trẻ em.
- Trẻ em đến tuổi đều được đi học. - Bắt trẻ em làm việc quá sức.
- Tổ chức dạy nghề miễn phí cho - Lôi kéo, lợi dụng trẻ em để buôn ma
trẻ em có hoàn cảnh khó khăn.
túy.
- Tổ chức trại hè cho trẻ em.
- Cha mẹ li hôn, không ai chăm sóc con
cái.
- Bắt trẻ em nghiện hút phải đi cai
nghiện
Đội A: đúng 4 ý: đạt 40 điểm.
Đội B: đúng 4 ý, sai 1 ý: Bắt trẻ em nghiện hút phải đi cai nghiện là việc
làm thực hiện quyền trẻ em. Như vậy đội B đạt 40 điểm.
Giáo viên tuyên bố: Đội A : 40 điểm; Đội B : 40 điểm. Cả hai đội ngang tài,
ngang sức, bằng điểm nhau. Cả lớp tuyên dương cả hai đội và thưởng cho hai
đội một tràng pháo tay.
Mọi người chúng ta có lẽ cũng biết ngày nay công nghệ thông tin là một
thành phần quan trọng và không thể thiếu trong trường học. Và đặc biệt công
nghệ thông tin phục vụ trong việc giảng dạy đối với bộ môn Giáo dục công dân
mang lại hiệu quả rất cao.
Khi sử dụng giáo án điện tử, tôi thực hiện trò chơi:“nhanh tay, nhanh mắt”.
Ví dụ, dạy bài 14: “ Thực hiện trật tự an toàn giao thông” - Giáo dục công
dân 6.
Đến phần rèn luyện kỹ năng, cho học sinh chơi trò chơi.
Giáo viên sưu tầm các loại biển báo giao thông liên quan đến nội dung
bài học.

Yêu cầu học sinh phân loại chúng thuộc loại nào trong các loại sau:
- Biển báo cấm?
16


- Biển báo nguy hiểm?
- Biển báo hiệu lệnh?
Giáo viên chia lớp làm hai đội : A và B. Giáo viên nêu luật chơi.
Khi giáo viên cho chiếu ảnh lên (sau 3 giây). Các đội có quyền trả lời bằng
cách giơ tay. Nếu đội trả lời trước mà trả lời sai thì đội sau có quyền trả lời, nếu
trả lời đúng sẽ hưởng trọn số điểm.
Mỗi biển báo giao thông đoán đúng được 10 điểm.
Đáp án sẽ được chiếu lên ngay sau khi đội trả lời xong.
Thời gian chơi: 3 phút.
Đội nào điểm cao sẽ chiến thắng.
Giảng dạy bằng máy chiếu. Đây là phương pháp dạy mới rất có hiệu quả,
có nhiều tranh ảnh sinh động, trực quan, gây sự hứng thú, say mê học tập, kích
thích tư duy học sinh.
Việc tiến hành thực nghiệm trong tiết học thông qua các trò chơi. Xét trên
phương diện hiệu quả còn phải phụ thuộc nhiều yếu tố khách quan và chủ quan,
giáo viên phải biết vận dụng một cách linh hoạt, tùy thuộc vào khả năng, năng
lực của từng em, từng lớp cho dù cách thức tiến hành giống nhau hay cùng một
bài giảng. Điều quan trọng hơn hết giáo viên phát triển mặt tích cực, mặt ưu
điểm và hạn chế tối đa mặt nhược điểm mỗi trò chơi mà trên thực tiễn áp dụng
đã đúc kết.
Với các giải pháp trên tôi mới chỉ thực hiện với các em học sinh khối lớp 6.
Trong năm học 2016 -2017 và các năm học tới tôi sẽ tiến hành áp dụng các
phương pháp này ở các khối lớp 7,8,9 để góp phần nâng cao chất lượng môn Giáo
dục công dân nói riêng và chất lượng giáo dục của nhà trường nói chung. Song do
yếu tố vùng miền cũng như tùy vào từng bài học mà giáo viên cần sử dụng linh

hoạt các phương pháp trên, không nhất thiết phải đưa tất cả các phương pháp vào
một tiết dạy mà chúng ta có thể sử dụng 1,2 hoặc 3 phương pháp sao cho phù hợp
với nội dung bài học cũng như trình độ nhận thức của học sinh.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Với những biện pháp mà tôi vận dụng trong bài dạy của mình, ngay trong
năm học đầu tiên tôi áp dụng đề tài tôi nhận thấy:
- Đối với bản thân:
Khi vận dụng phương pháp này vào trong giảng dạy một cách linh hoạt hơp
lí đã làm cho giờ học thêm sinh động hấp dẫn, giàu cảm xúc và hướng vào việc
tổ chức cho học sinh hoạt động, giúp các em tích cực nhận thức và hành động,
tự phát hiện và giải quyết vấn đề do bài học đặt ra. Bản thân khắc phục tính chất
áp đặt đơn điệu, thụ động, hình thức trong việc đổi mới phương pháp dạy học.
- Đối với nhà trường:
Qua việc thực hiện sáng kiến chất lượng giáo dục bộ môn đã tăng lên rõ rệt,
các phương pháp dạy học phục vụ tốt cho việc giảng dạy góp phần giáo dục đạo
đức và ý thức pháp luật học sinh trong nhà trường.
17


Học sinh đã có sự nhận thức đúng đắn về môn học và có ý thức học tập tự
giác, nghiêm túc, sau mỗi tiết học là sự háo hức chuẩn bị cho những bài sau.
Không còn tình trạng chán nản, chốn tránh, xa dời bộ môn mà đã tạo ra cho các
em hứng thú học tập.
Trên thực tế thì hầu hết các em học sinh được tham gia những tiết học đều
tỏ ra hứng khởi trong việc học tập, các em đều đã biết và có ý thức tiếp thu và
vận dụng những kiến thức đã học có hiệu quả.
Như vậy chúng ta thấy việc áp dụng các phương pháp dạy học trên đã
mang lại kết quả đáng mừng. Các em đã có hứng thú học tập, đã đầu tư thời gian
và công sức vào việc học tập. Chất lượng của các bài kiểm tra đã nâng lên rõ rệt,
điều đó được thể hiện qua bảng số liệu sau:

Năm học

Khối
lớp

Tổng
số HS

Xếp loại học lực
Giỏi

Khá

T.bình

Yếu

Kém

SL

%

SL

%

SL

%


SL

%

SL

%

2015-2016

6

125

8

6,4

30

24

83

66,4

4

3,2


0

0

2016-2017

6

107

12

11,2

36

33,6

57

53,3

2

1,9

0

0


Việc nâng cao chất lượng bộ môn là một trong những vấn đề quan trọng trong
nhà trường hiện nay. Xác định được nhiệm vụ trên bản thân tôi không ngừng cố
gắng, nỗ lực, phấn đấu trong giảng dạy, học hỏi tìm tòi, sáng tạo qua việc ứng
dụng đổi mới phương pháp, tạo được không khí học tập sinh động thoải mái,
nhẹ nhàng, học sinh thích học môn Giáo dục công dân, nhất là tham gia các trò
chơi, biết tự đặt ra tình huống sắm vai, tự học ở nhà, tự giải quyết tình huống …
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Việc vận dụng các phương pháp giáo dục đòi hỏi người giáo viên phải kiên
trì nghiên cứu làm thế nào để sử dụng có chất lượng, hiệu quả từng phương pháp
một, và qua một lần sử dụng một phương pháp nào đó rút kết kinh nghiệm để
đạt chất lượng hiệu quả lần sau cao hơn lần trước. Với sự linh hoạt xử lí trong
quá trình giảng dạy, áp dụng sáng tạo các phương pháp đặc trưng của bộ môn,
học sinh hiểu bài, nắm vững kiến thức, biết vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc
sống…giúp cho hiệu quả chất lượng bộ môn ngày một nâng cao.
Có những giáo viên dạy môn Giáo dục công dân chéo ban có lần tâm sự
với tôi rằng: Dạy môn này nhìn bề ngoài có vẻ rất đơn giản, dễ ăn và rất dễ dạy,
song đi sâu vào thực tế lại rất khó và cực.
Quả thật chính trong cái khó và cái cực ấy, người giáo viên chúng ta đã tìm
ra ý nghĩa của nghề mình chọn. Chính vì vậy điều tôi muốn nói rằng trong đề tài
này là quá trình giảng dạy người giáo viên cần tạo niềm tin cho các em trước,
phải sử dụng các phương pháp giảng dạy một cách linh hoạt. Vì theo tôi nghĩ
không có một phương pháp nào là vạn năng. Mà muốn có được tiết học thành
công, đặc biệt là với môn Giáo dục công dân người giáo viên phải tạo được
18


hứng thú, sự chú ý cho học sinh trong quá trình tiếp thu bài học. Để làm tốt việc
này thì yêu cầu người dạy phải luôn luôn biết cách sử dụng linh hoạt các phương

pháp dạy học trong giảng dạy, phù hợp với từng nội dung bài học. Có như thế
giờ dạy môn Giáo dục công dân mới thật sự mang lại hiệu quả cao và sẽ xoá tan
trong ký ức của học sinh, để các em không xem là môn học phụ.
Để cải thiện chất lượng môn dạy, không chỉ có giáo viên cần cố gắng mà
học sinh cũng phải có ý thức hơn trong việc học. Thử hỏi nếu giáo viên dạy hay,
tiết học sinh động, hấp dẫn nhưng học sinh không học bài, không chuẩn bị bài,
không đọc sách giáo khoa thì kết quả sẽ không thay đổi. Vì vậy để nâng cao chất
lượng bộ môn Giáo dục công dân cần có sự quan tâm của tất cả mọi người và
toàn xã hội.
Như trên tôi đã trình bày, việc tìm kiếm tư liệu và chọn lọc các biện pháp
phù hợp với từng bài dạy kết hợp với các phương pháp dạy học đổi mới khác sẽ
đạt hiệu quả nâng cao chất lượng bài dạy không chỉ đối với môn Giáo dục công
dân mà còn ở tất cả các môn học khác. Tôi thiết nghĩ điều đó hoàn toàn khả thi
trong từng tiết dạy của các bộ môn bởi lẽ:
Phương pháp giáo dục “Lấy học sinh làm trung tâm”, coi thiết bị dạy học
như một nguồn thông tin dẫn học sinh tự tìm tòi để tiếp cận và vận dụng những
tri thức mới vào thực tiễn.
Việc xây dựng các biện pháp đổi mới để giảng dạy đối với những môn học
không có sẵn thiết bị là điều vô cùng cần thiết và cũng không tốn kém, dễ làm,
dễ sử dụng. Đồng thời dễ chỉnh sửa để giảng dạy phù hợp với nhiều đối tượng
học sinh ở các lớp khác nhau, hơn nữa có thể tái sử dụng cho những năm sau và
lại dễ phổ biến rộng rãi nhờ sự phát triển của công nghệ thông tin như hiện nay.
3.2. Kiến nghị
Để phát huy được cách tổ chức dạy học tích cực ở trường THCS nói chung
và trường PTDTBT THCS Luận Khê nói riêng, tôi kiến nghị:
- Đối với đồng nghiệp: Để dạy tốt, dạy hay thì đòi hỏi người giáo viên cần:
+ Không ngừng bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, nâng cao ý thức chấp hành
pháp luật, học hỏi trau dồi chuyên môn nghiệp vụ;
+ Trong quá trình dạy học phải nắm rõ nội dung giáo dục một cách chính
xác, khoa học cũng như các đối tượng học sinh để sử dụng các phương pháp dạy

học sao cho phù hợp;
+ Tích cực làm đồ dùng dạy học cũng như sử dụng đồ dùng dạy học, đổi
mới phương pháp dạy học, vận dụng các phương pháp dạy học một cách linh
hoạt để phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh.
+ Thường xuyên cập nhật các thông tin mới nhất thông qua các phương
tiện thông tin đại chúng để kịp thời uốn nắn, giáo dục học sinh.
- Đối với nhà trường:
Tạo điều kiện về kinh phí và có hình thức khen thưởng, động viên xứng
đáng hơn đối với các thầy cô giáo nhiệt tình trong công tác, có nhiều sáng tạo và
vận dụng phương pháp dạy học đổi mới góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
19


- Đối với Sở, phòng Giáo dục và đào tạo:
+ Nên thường xuyên mở các lớp học chuyên đề, lớp bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ để các giáo viên có cơ hội học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn
cũng như đổi mới phương pháp dạy học. Đối với những sáng kiến kinh nghiệm
hay được công nhận, xếp loại cao cần cho giáo viên trong toàn tỉnh, toàn huyện
tham khảo.
+ Các cấp, các ngành tạo điều kiện trang bị đầy đủ và cập nhật hơn về các
thiết bị công nghệ thông tin, tài liệu (Hiến pháp, các văn bản pháp luật...), tranh
ảnh... phục vụ công tác dạy và học cũng như tạo điều kiện về vật chất và tinh
thần để thực hiện sáng kiến kinh nghiệm. Các cấp lãnh, đạo quản lí cần chú ý
đến việc đào tạo, sử dụng và bồi dưỡng đúng đắn đội ngũ giáo viên giảng dạy
môn Giáo dục công dân.
Sau 2 năm thực hiện đề tài đã giúp ích cho bản thân tôi rất nhiều trong quá
trình giảng dạy cũng như góp phần nâng cao chất lượng bộ môn Giáo dục công
dân trong nhà trường. Giảng dạy kiến thức pháp luật cho đối tượng học sinh
trung học cơ sở không phải là một việc dễ dàng, song không phải là không làm
được. Để các em hiểu bài, nắm được các quy định của pháp luật, biết cách cư

xử, sống và thực hiện theo quy định của pháp luật thì phải tạo được hứng thú,
tạo ấn tượng sâu sắc về bài học cho các em. Thời gian tới tôi sẽ tiếp tục áp dụng
các biện pháp giảng dạy này vào các bài giảng để góp phần đào tạo những công
dân có đủ các phẩm chất đạo đức và năng lực cần thiết đáp ứng được yêu cầu
của đất nước hiện nay.
Tuy nhiên, vì thời gian ngắn cũng như kinh nghiệm giảng dạy chưa nhiều
nên những điều tôi viết trên đây sẽ còn nhiều khuyết điểm. Song khi thực hiện
bản sáng kiến này tôi mong muốn lấy những điều mình đã làm và đã có kết quả
tốt được giới thiệu với đồng nghiệp để các bạn tham khảo đồng thời cùng bàn
luận thêm nhằm góp thêm ý kiến vào phong trào đối mới phương pháp dạy và
học.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
Thanh Hóa, ngày 05 tháng 03 năm 2018.
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình viết, khống sao chép nội
dung của người khác.
( Kí và ghi rõ họ tên)

Lê Thị Hiền
20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT
TÊN SÁCH
1
Sách giáo khoa GDCD 6
2

Sách Chuẩn kiến thức, kĩ năng môn GDCD
THCS.
3
Tài liệu tập huấn giáo viên dạy học, kiểm tra,
đánh giá theo chuẩn kiến thức, kỹ năng trong
chương trình giáo dục phổ thông môn Giáo dục
công dân THCS.
4
Hiến pháp 2013.
5

Văn kiện Đại hội Đảng XI.

NHÀ XUẤT BẢN
Giáo dục.
Giáo dục.
Giáo dục.

Lao động xã hội
Chính trị Quốc gia

Thể thức trình bày
- 0,5 đ
Lỗi chính tả, văn phong khoa học - 0

21


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG

ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Lê Thị Hiền
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường PTDTBT - THCS Luận Khê

TT
1.

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh
giá xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh...)

Một số giải pháp nâng cao Phòng Giáo
dục và đào
hứng thú học tập môn Giáo dục
tạo.
công dân ở lớp 7A trường

Kết quả
đánh giá
Năm học
xếp loại
đánh giá
(A, B,
xếp loại
hoặc C)
B

2013 - 2014

PTDTBT THCS Luận Khê.
2.

Một số giải pháp góp phần dạy Phòng Giáo
dục và đào
học có hiệu quả các bài pháp
tạo.
luật môn Giáo dục công dân

A

2017 - 2018

khối lớp 6 ở trường PTDTBT
THCS Luận Khê.

22



×