Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Các biện pháp hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài bằng phiếu học tập nhằm nâng cao hứng thú khi tìm hiểu truyện ngắn hiện đại việt nam cho học sinh lớp 9 trường THCS đông tiến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.03 KB, 20 trang )

I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Dạy học theo hướng đổi mới hiện nay với phương châm phát triển năng lực
của học sinh, không chỉ chú ý tích cực hoá học sinh về hoạt động trí tuệ mà còn
chú ý rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc
sống và nghề nghiệp, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành,
thực tiễn. Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ GV – HS theo
hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Phải phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học, hình thành và phát triển năng
lực tự học (sử dụng sách giáo khoa, nghe, ghi chép, tìm kiếm thông tin,...), trên
cơ sở đó trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng tạo của tư duy. Có thể
chọn lựa một cách linh hoạt các phương pháp chung và phương pháp đặc thù
của môn học để thực hiện. Tuy nhiên dù sử dụng bất kỳ phương pháp nào cũng
phải đảm bảo được nguyên tắc “Học sinh tự mình hoàn thành nhiệm vụ nhận
thức với sự tổ chức, hướng dẫn của GV”. Một trong những đặc trưng của
phương pháp này là chú trọng rèn luyện cho học sinh biết khai thác sách giáo
khoa và các tài liệu học tập, biết cách tự tìm lại những kiến thức đã có, suy luận
để tìm tòi và phát hiện kiến thức mới... Định hướng cho học sinh cách tư duy
như phân tích, tổng hợp, đặc biệt hoá, khái quát hoá, tương tự, quy lạ về quen…
để dần hình thành và phát triển tiềm năng sáng tạo.
Như vậy để dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh giáo
viên đóng vai trò chỉ là người hướng dẫn còn học sinh phải chủ động, tự giác
sáng tạo tìm hiểu nội dung bài học có như vậy tiết học mới thành công. Để tạo
tâm thế chủ động trong giờ học, theo tôi, người học sinh phải có ý thức tốt trong
việc chuẩn bị bài trước ở nhà. Bởi khâu chuẩn bị bài trước khi đến lớp là vô
cùng quan trọng, nó giúp học sinh định hình được kiến thức, nhờ đó các em dễ
dàng tiếp thu hơn, hiểu rõ bài hơn, sâu hơn và lâu hơn.
Trong một giờ dạy học, người giáo viên dù có chuẩn bị công phu và giảng
hay đến đâu chăng nữa mà học sinh không chịu chuẩn bị bài, hoặc các em chuẩn
bị bài không kĩ, thì giờ dạy học đó cũng khó có thể được coi là thành công vì
chắc chắn sẽ không đạt được hiệu quả như mong muốn. Khâu chuẩn bị bài là


một yêu cầu quan trọng, yêu cầu chung cho tất cả các môn học. Đối với việc dạy
và học môn Ngữ văn, thì khâu chuẩn bị bài lại là yêu cầu mang tính đặc thù, đặc
1


biệt được coi trọng trong các bài đọc hiểu văn bản của bộ môn Ngữ văn bậc
THCS hiện nay.
Tuy nhiên, qua khảo sát thực tế giảng dạy của bản thân (cùng đồng
nghiệp) và việc học tập môn Ngữ văn ở trường THCS Đông Tiến hiện nay,
chúng tôi nhận thấy rằng, đa số HS ở các lớp tôi phụ trách, các em chuẩn bị bài
trên cơ sở câu hỏi Đọc - hiểu văn bản trong Sách giáo khoa (SGK) chỉ để đối
phó, chiếu lệ, hợp thức hóa. Quá trình đó đã ảnh hưởng rất lớn đến thái độ và và
làm giảm khả năng hứng thú khi tiếp nhận các văn bản mới của bộ môn Ngữ văn
của HS. Ý thức được điều đó, bản thân là một giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ
môn Ngữ văn ở trường THCS, tôi đã chủ động tìm tòi các cách giúp đỡ học sinh
trong việc chuẩn bị bài trước khi tìm hiểu các văn bản mới, để nâng cao hứng
thú và tâm thế chủ động trong giờ học Ngữ văn. Một trong những cách làm của
tôi là: “Các biện pháp hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài bằng phiếu học tập
nhằm nâng cao hứng thú khi tìm hiểu truyện ngắn hiện đại Việt Nam cho học
sinh lớp 8 trường THCS Đông Tiến ”. Ở đó tôi xây dựng một hệ thống câu hỏi
đọc – hiểu văn bản được cụ thể hóa bằng Phiếu học tập (PHT) giúp HS chuẩn bị
bài ở nhà. Hệ thống câu hỏi này được thiết kế trên cơ sở năng lực của HS.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nâng cao hứng thú học tập môn Ngữ văn của học sinh nói chung, học
sinh khối 8 nói riêng.
- Có được một số phương pháp, kĩ năng soạn bài, chuẩn bị bài Đọc - hiểu
Ngữ văn một cách hiệu quả.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Các biện pháp hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài bằng phiếu học tập nhằm
nâng cao hứng thú khi tìm hiểu truyện ngắn hiện đại Việt Nam cho học sinh lớp

8 trường THCS Đông Tiến.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tôi đã sử dụng hai nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận và thực nghiệm,
cơ bản gồm một số phương pháp sau:
- Nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết.
- Phương pháp khảo sát thực trạng.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp phân tích, so sánh, xử lí số liệu.
- Phương pháp thực nghiệm, tổng hợp.
2


II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
1.1. Khái niệm Chuẩn bị bài
Trong các công trình Lý luận dạy học nói chung hay các công trình
Phương pháp dạy học văn nói riêng, các tác giả thường thống nhất quan
điểm: Một giờ dạy (giờ lên lớp) được chia làm bốn giai đoạn :
- Giai đoạn mở đầu tiết học;
- Giai đoạn nghiên cứu tài liệu mới;
- Giai đoạn củng cố kiến thức;
- Giai đoạn giao nhiệm vụ về nhà.
Vậy xét về mặt lí luận dạy học, giai đoạn giao nhiệm về nhà có tầm quan
trọng trong quá trình dạy học. Trong đó sự chỉ đạo của thầy có ý nghĩa quan
trọng và được thực hiện theo nguyên tắc dạy học đảm bảo tính vừa sức chung
vừa sức riêng (ra nhiệm vụ cho phù hợp từng đối tượng học sinh). Trong giáo án
Ngữ văn hoạt động này được gọi là Hướng dẫn HS học bài ở nhà hay còn gọi là
“Dặn dò”.
Khâu dặn dò chuẩn bị bài gồm hai nội dung:
- Dặn HS học bài, làm bài tập nội dung kiến thức vừa được triển khai. Câu

hỏi, bài tập dành cho bước này thường là các đề văn nghị luận, hình thức trả lời
dài (tự luận).
- Chuẩn bị kiến thức cho bài học tiếp theo. Câu hỏi hướng dẫn HS chuẩn bị
bài mới chủ yếu sử dụng hình thức trả lời ngắn những câu hỏi trong phần cuối
mỗi văn bản trong Sách giáo khoa. (Ở đây chú trọng dạng câu trả lời ngắn qua
các dạng của phiếu học tập).
1.2. Khái niệm Phiếu học tập
1.2.1. Khái niệm
« Phiếu học tập là những tờ giấy rời, in sẵn những công tác độc lập hay làm
theo nhóm nhỏ, được phát cho học sinh để học sinh hoàn thành trong một thời
gian ngắn của tiết học. Trong mỗi phiếu học tập, có ghi rõ một vài nhiệm vụ
nhận thức nhằm hướng tới hình thành kiến thức, kĩ năng hay rèn luyện thao tác
tư duy để giao cho học sinh »
( Nguyễn Đức Thành, trong cuốn tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo
viên phổ thông, chu kì 3, Nhà xuất bản đại học sư phạm).
3


Theo tác giả Đặng Thành Hưng thì « trong phiếu học tập có thể là văn bản,
biểu, số liệu, hình ảnh, sơ đồ…tóm tắt hoặc trình bày những cấu trúc nhất định
một lượng thông tin, dữ liệu hoặc sự kiện xuất phát cần thiết cho người học »
(Sử dụng phiếu học tập trong dạy học hợp tác)
Từ những khái niệm trên, có thể hiểu Phiếu học tập (PHT) là một mảnh
giấy thường được in sẵn nhằm mục đích hỗ trợ người học sắp xếp các nội dung
kiến thức để phục vụ cho việc học và hiểu bài tốt hơn. GV có thể yêu cầu HS
điền vào khoảng trống trong tờ giấy để trả lời câu hỏi hay hoàn thành. Trong
PHT kiến thức được thể hiện dưới nhiểu dạng rất phù hợp với dạy học truyện
hiện đại đồng thời kích thích hứng thú học tập cũng như phát huy năng lực tư
duy độc lập cho học sinh.
1.2.2. Mục đích sử dụng phiếu học tập

- Giúp học sinh chuẩn bị tốt tư liệu để tham gia hoạt động học tập.
- Giúp học sinh hình thành kiến thức mới.
- Giúp giáo viên chủ động thời gian, chủ động thời gian hoàn thành tốt tiết
học.
1.2.3. Vai trò của PHT
- PHT kích thích học sinh chuẩn bị bài mới ở nhà một cách hiệu quả bằng
những định hướng cụ thể, hỗ trợ học sinh tìm kiếm và khai thác thông tin sự
kiện...nhờ đó mà tiết kiệm thời gian trên lớp, đặc biệt khi dạy các truyện ngắn
hiện đại.
- PHT là phương tiện tích cực rèn luyện kĩ năng cho học sinh. Để hoàn
thành nhiệm vụ trên phiếu học tập, học sinh phải rèn luyện kĩ năng hoạt động,
thao tác tư duy, so sánh, tổng hợp, phân tích, đánh giá, suy luận, khái quát, hệ
thống hóa.
- PHT phát huy vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo, rèn luyện năng lực tự
học, tự nghiên cứu cho học sinh. GV có thể sử dụng PHT giao cho mỗi cá nhân
hoặc nhóm học sinh, yêu cầu học sinh chủ động, tìm kiếm để hoàn thành nhiệm
vụ học tập được giao. Do đó PHT phát huy khả năng tự học, tự nghiên cứu của
học sinh.
- PHT là phương tiện để tổ chức hoạt động học tập của học sinh nhằm lĩnh
hội, củng cố kiến thức đồng thời để duy trì sự hưng phấn, thích thú của học
sinh trong giờ học.
4


1.2.4. Cấu trúc và quy trình sử dụng PHT
* Cầu trúc:
- Mỗi PHT gồm có 2 phần chính: Yêu cầu của GV và kết quả học tập của
HS. Hai phần này thể hiện vai trò chủ đạo cảu GV và sự chủ động của HS.
- Yêu cầu trên PHT : vấn đề, kiến thức trọng tâm trên PHT, có thể dưới
dạng câu hỏi, sơ đồ, biểu bảng..yêu cầu HS thực hiện.

- Kết quả học tập: dưới mỗi yêu cầu là phần để trống đẻ HS hoàn thành.
Đây là cơ sở quan trọng để đánh giá HS.
* Quy trình sử dụng: cơ bản có những bước sau:
- Bước 1: Xác định dung lượng kiến thức sử dụng trong PHT, sau đó
chuyển thành dạng PHT.
- Bước 2: Phát PHT cho hS, hướng dẫn HS thực hiện trên PHT.
- Bước 3: GV đánh giá, nhận xét kết quả trên PHT của HS, từ đó điều chỉnh
HS học tập.
1.2.5 Các dạng PHT
Tùy thuộc vào mục tiêu, nội dung bài học có thể thiết kế PHT dưới các
dạng khác nhau. Tuy nhiên với truyện ngắn hiện đại Việt Nam có các dạng như:
Dạng 1: Dạng câu hỏi
Dạng 2: Dạng sơ đồ, bảng biểu, hình ảnh.
Dạng 3: Dạng hình vẽ....
2.Thực trạng của vấn đề
2.1. Thực trạng chung
Trong sách giáo khoa hiện nay, phần hướng dẫn học bài không sử
dụng PHT, mà đưa ra những câu hỏi Đọc – hiểu văn bản để HS chuẩn bị bài.
Song hệ thống câu hỏi gợi ý ở một số bài trong SGK còn quá chung
chung, thậm chí ở một số văn bản hệ thống câu hỏi đã không đi theo sự
lôgic của văn bản hoặc có nhiều câu hỏi mức độ khó…Vì vậy HS gặp
nhiều khó khăn trong việc soạn bài tại nhà.
Mặt khác, dung lượng kiến thức các bài thuộc truyện ngắn hiện đại Việt
Nam trong chương trình Ngữ văn 8 khá nhiều. GV chưa tìm ra được biện pháp
phù hợp để kích thích sự tìm tòi khám phá của HS. Từ đó, dẫn đến hiện tượng
HS về nhà không biết soạn bài theo câu hỏi hướng dẫn trong SGK. Việc sao
chép từ sách Học tốt, bài tập cũ (của HS những năm trước đó) là điều không thể
tránh khỏi. Và như thế việc học bài mới trở thành một vòng luẩn quẩn, bởi các
5



em đã không có sự hợp tác làm việc, không có sự phân công cụ thể từ giai đoạn
đoạn cuối của hoạt động này để bắt nguồn cho giai đoạn tiếp theo của bài học
mới. Vì vậy trong giờ học, GV khó phát huy hết được khả năng phát hiện và giải
quyết vấn đề giúp HS xử lí linh hoạt nhữnng tình huống, những yêu cầu khác
nhau.
Qua khảo sát thực tế (dự giờ thăm lớp) và thực tế giảng dạy của bản thân
nhều năm qua ở trường THCS Đông Tiến, tôi thấy:
2.1.1. Về phía giáo viên
- Đa số thầy cô giáo chọn cách hướng dẫn HS chuẩn bị bài ở nhà bằng
cách trả lời các câu hỏi ở phần cuối bài đọc hiểu văn bản vào một cuốn vở riêng
(Gọi là vở Soạn văn). Phương pháp này còn nặng về hình thức, HS sử dụng câu
hỏi SGK có suy nghĩ trả lời nhưng chưa thật hứng thú, đôi khi suy nghĩ áp đặt
tài liệu làm mất đi tính sáng tạo trong khi tiếp cận tác phẩm văn học.
- Trong giáo án Ngữ văn hiện nay cụm từ Hướng dẫn HS học bài ở nhà
(hoặc là cụm từ “dặn dò”) thường được thể hiện bằng một dòng ngắn ngủi: Về
nhà học bài và soạn bài tiếp theo. Thời lượng GV dành cho hoạt động ấy cũng
rất ít, thậm chí có giáo viên còn không kịp dặn dò HS vì hết thời gian tiết học.
- Khi giảng dạy các giờ đọc - hiểu văn bản, nhất là các văn bản truyện hiện
đại Việt Nam ở lớp 8, GV thường ít chủ động về mặt thời gian, xảy ra hiện
tượng “Cháy giáo án”. GV thật sự lúng túng trong việc phân phối thời gian
giữa các khâu, các phần. (Chẳng hạn như: Các phần tìm hiểu về tác giả, tác
phẩm; đọc văn bản; giải thích từ khó; tóm tắt văn bản…trong giờ còn nặng về
hình thức rất mất thời gian.) Dẫn đến phần tìm hiểu chi tiết văn bản chưa kĩ,
chưa phát huy hết tính sáng tạo cho HS trong giờ học. Giờ học ở các tiết này, vì
vậy thiếu chiều sâu, ít có liên hệ, so sánh.
2.1.2. Về phía học sinh
- HS có soạn bài, song đa số các em soạn theo cảm tính, thậm chí sơ sài.
Do đó, giờ học Ngữ văn HS càng ngày càng ít xung phong phát biểu xây dựng
bài. Đặc biệt là ở các lớp 8, 9. HS ngại trình bày ý kiến cá nhân dẫn đến giờ học

trầm, GV nói nhiều hơn HS. Vì thế ảnh hưởng lớn đến hứng thú tiếp nhận kiến
thức mới của học sinh trong giờ Ngữ văn.
- Thậm chí đối với HS yếu kém, các em còn không cần đọc văn bản truyện
trước khi trả lời câu hỏi ở phần Đọc - hiểu văn bản. Các em thực hiện công việc
6


chuẩn bị bài một cách bắt buộc, thụ động, phụ thuộc vào tài liệu và hoàn toàn
không nắm được nội dung văn bản.
Nguyên nhân cơ bản và trực tiếp có thể thấy ngay là:
- Về phía GV: ít chú trọng đến chức năng của giai đoạn này, trong giáo án
việc giao nhiệm vụ về nhà chưa được đầu tư đúng mức. Phân bố thời gian
không hợp lí giữa các hoạt động. Hoạt động giao nhiệm vụ về nhà nằm ở cuối
tiết nên tâm lí cả GV và HS đều mỏi mệt, … Dẫn đến việc GV thực hiện cho
“có”, thiếu chiều sâu.
- Về phía HS: Chuẩn bị bài chưa kĩ hoặc đối phó qua loa, không chịu phát
huy tính sáng tạo, hứng thú trong việc chuẩn bị bài cho tiết Ngữ văn.
Như trên đã phân tích, thì hệ quả của nó là HS không chuẩn bị được bài
học tiếp theo, đối phó, thiếu chiều sâu. Đa số GV không nhắc nhở đến việc học
cũng như cách học của từng đối tượng HS. HS yếu kém rất cần sự hướng dẫn
cụ thể của GV.
Xuất phát từ thực tế đó, tôi chọn giải pháp thiết kế PHT giúp HS chuẩn bị
bài để tăng sự hứng thú và tích cực tham gia học tập trên lớp cho HS lớp 8A
trường THCS Đông Tiến.
3. Biện pháp và tổ chức thực hiện hoạt động giao nhiệm vụ về nhà cho
HS lớp 8 bằng PHT
3.1. Biện pháp :
3.1.1. Biện pháp 1. Giáo viên nghiên cứu kĩ nội dung các truyện ngắn hiện
đại Việt Nam ở lớp 8 để thiết kế bộ PHT cho HS chuẩn bị bài mới
a. Nắm bao quát các tiết học các văn bản truyện ngắn hiện đại Việt Nam

được phân phối học ở ngay đầu học kì I (Chương trình Ngữ văn 8) gồm 7 tiết:
- Tiết 1, 2: Tôi đi học
- Tiết 5, 6: Trong lòng mẹ
- Tiết 9: Tức nước vỡ bờ
- Tiết 13, 14: Lão Hạc
b. Nghiên cứu kĩ và nắm vững các kiến thức cần cung cấp cho HS ở các tiết
học nêu trên.
c. Nghiên cứu kí hệ thống câu hỏi Đọc - hiểu văn bản sau các văn bản học.
3.1.2. Biện pháp 2. Giáo viên nắm vững quy trình thiết kế PHT giao nhiệm
vụ về nhà cho học sinh
a. Xác định ý tưởng
7


Điều này thể hiện định hướng của GV về phương pháp dạy học, cách thiết
kế bài dạy trên lớp cho HS. Việc các định ý tưởng tiến hành bài học phải bao
quát những thao tác: Phân tích nội dung học tập, định hướng phương pháp, kĩ
thuật, biện pháp và hình thức dạy học, nhận thức môi trường và các điều kiện
hộc tập, cách thức tổ chức các PHT thành hệ thống như thế nào cho phù hợp. Nó
cũng phải cho thấy rõ vấn đề hay nhiệm vụ học tập chủ yếu của bài học.
b. Xác định cách trình bày nội dung học tập và hình thức thể hiện trong
PHT
Việc xác định vấn đề hay nhiệm vụ của bài học đã phải làm từ khi xây dựng
ý tưởng. Ở bước này cần cụ thể hóa và làm cho ý tưởng đó được chính xác hơn
trong nội dung các PHT. Tương ứng với các yêu cầu cần giải quyết vấn đề thì
HS cần thực hiện những thao tác nào, lựa chọn kiến thức ra sao…Từ đó xây
dựng bộ phiếu sao cho thích hợp với nội dung hệ thống câu hỏi Đọc – hiểu văn
bản của bài học, phù hợp về logic, cấu trúc và kĩ thuật.
Dưới đây là các dạng PHT áp dụng khi chuẩn bị bài trước khi học truyện
ngắn hiện đại Việt Nam từ 1930 -1945:

Dạng 1: Dạng câu hỏi, HS trả lời ngắn qua 1 số câu hỏi của phiếu học tập
như sau:
Dạng 1.a. Tóm tắt trình tự sự kiện (biết – hiểu):
Sau khi đọc kĩ văn bản, em hãy liệt kê các sự kiện quan trọng theo trình tự
sau :
(1)… …………………………………………………………………….......
(2)…………………………………………………………………………....
(3)…………………………………………………………………………....
Dạng 1.b. Em đóng vai là người hỏi, người đánh giá, người phê bình
(phân tích/vận dụng)
Tên HS:…………………………………Tác phẩm:………………............
Nhiệm vụ của em là viết ra và trả lời một số câu hỏi về tác phẩm này:
Điều gì làm em ngạc nhiên? Em có thắc mắc về những điều đã xảy ra hay
không? Nghĩa của các từ này là gì? Tính cách nhân vật như thế nào? Tại sao
tác giả sử dụng văn phong đó
Dạng 1.c. Điểm sáng thẩm mĩ: từ ngữ/ hình ảnh (hiểu)
Nhiệm vụ của em là tìm ra một số từ đặc biệt trong tác phẩm, đó là những
từ: mới, quan trọng, hấp dẫn, khó hiểu...
8


Từ
Trang số, đoạn
Lí do chọn
............................
........................
.......................
- Người liên hệ:
Em hãy tìm ra mối liên hệ giữa tác phẩm và kinh nghiệm sống của em, với
những gì xảy ra trong nhà trường hay trong địa phương, cũng có thể tìm mối liên

hệ giữa tác phẩm này và những tác phẩm khác cùng chủ đề mà em đã học, đã
đọc...
Dạng 2: Dạng vẽ sơ đồ, bảng biểu, hình ảnh:
- Sơ đồ tóm tắt cốt truyện:
Nhân vật chính là ai?...............................................

Câu chuyện xảy ra ở đâu ?......................................
Nhân vật chính gặp phải vấn đề gì ?
…………………………………………………………
Điều gì xảy ra khi bắt đầu câu chuyện ?...............
Nhân vật chính đã phản ứng thế nào ?
…………………………………………………
Nhân vật chính đã giải quyết vấn đề như thế
nào ?...........................................................................
Vấn đề đã được giải quyết như thế nào …………………
- Sơ đồ thông tin cơ bản về nhà văn hoặc sơ đồ tính cách nhân vật:
Ví dụ :

9


Dạng 3: Dạng hình vẽ....
- Vẽ tranh theo tưởng tượng chân dung nhân vật trong tác phẩm (vận
dụng)
Đối với các dạng này, GV cho HS hoạt động ở nhà độc lập (cá nhân) như
một nhật kí đọc sách. Sau đó, HS trao đổi với bạn học (cặp hoặc nhóm nhỏ) để
làm phong phú hơn việc tìm tác phẩm trước ở nhà.
c. Tập hợp thông tin, dữ liệu
Các nguồn thông tin, dữ liệu có thể là có trong các tài liệu hướng dẫn
giảng dạy, sách hướng dẫn học tập, báo chí chuyên ngành, các tạp chí văn học…

Việc tập hợp dữ liệu cần trung thành với ý tưởng ban đầu vừa đủ về khối
lượng vừa đủ về nội dung để có PHT đảm bảo chất lượng và luôn có tính chất
mới mẻ.
d. Trình bày phiếu học tập
- Trình bày trên một mặt giấy với ngôn ngữ chính xác, dễ hiểu đối với HS
- Trên phiếu có thể sử dụng cả kênh hình lẫn kênh chữ, hình thức đa dạng
để HS có hứng thú thực hiện công việc chuẩn bị bài.
e. In ấn và photo phiếu học tập tương ứng với số HS của lớp
Ở giải pháp này GV nên chú ý phân loại PHT, để phát phù hợp với từng đối
tượng HS.
3.2. Tổ chức thực hiện:
3.2.1. Bước 1: GV nêu các yêu cầu đối với HS trong việc chuẩn bị bài ở
nhà trước khi học bài mới
- Yêu cầu đầu tiên và quan trọng nhất đối với người học văn ở phần học
này là phải đọc tác phẩm, đoạn trích. Trước khi soạn bài nhất thiết các em phải
đọc tác phẩm. Việc làm này rất cần thiết, bởi vì chỉ với 45 phút trên lớp thầy cô
không thể cho HS đọc kĩ văn bản. Từ việc đọc trước tác phẩm, các em tiến hành
thực hiện trả lời câu hỏi và yêu cầu trong PHT, bước đầu nắm được tinh thần,
nội dung cơ bản của tác phẩm để vừa chủ động chuẩn bị bài vừa tạo được nền
kiến thức giúp cho việc tiếp thu bài trên lớp hiệu quả hơn.
- Yêu cầu HS suy ngẫm và tự tìm cách trả lời những câu hỏi SGK. Chỉ khi
không thể trả lời, hoặc đã trả lời xong mới cầu viện đến tài liệu hoặc mở tài liệu
ra để kiểm chứng lại. Việc làm này có ý nghĩa rất lớn:
+ Nếu các em trả lời chưa đúng, chưa đủ, các em sẽ kịp thời bổ sung.
10


+ Nếu các em trả lời đúng, các em sẽ cảm thấy thích thú và "tự phục mình".
Đó sẽ là nguồn cảm hứng quý giá, là động lực thúc đẩy để các em yêu thích
môn học này hơn, tự tin hơn trong học tập.

3.2.2. Bước 2: Lựa chọn đối tượng HS để phát PHT yêu cầu các em
hoàn thành trước khi học các văn bản mới
Đây là bước rất quan trọng, GV cần có sự phân hóa các đối tượng HS để
phát PHT cho phù hợp. Ví dụ:
- Đối với HS yếu và trung bình trở lên: Phát PHT dạng 1.a, 1.b và dạng 2
- Đối với HS khá giỏi: Phát thêm PHT dạng 1.c.
- Đối với HS có năng khiếu: Phát PHT dạng 3.
3.2.3. Bước 3 : Tổ chức thảo luận, báo cáo nhóm hoặc cá nhân để xử lí
công khai trước lớp
Đây là hoạt động phát triển các kĩ năng học tập hợp tác, giúp HS thực hiện
nhiệm vụ chia sẻ và tương tác. Từ đó, các em nảy sinh nhiều ý tưởng hơn, nhiều
giải pháp hơn để việc học tập đạt hiệu quả cao nhất.
Đây cũng là hoạt động có ý nghĩa quyết định cho việc khai thác, khám phá
kiến thức cho giờ lên lớp tiếp theo. Nếu HS có sự chuẩn bị tốt sẽ có nhiều vấn
đề để các em trình bày quan điểm, chia sẻ kiến thức hoặc tranh luận, mở rộng
hay thậm chí có thể đặt lại CH đối với những vấn đề còn chưa rõ hoặc muốn sự
giải thích ở GV, người mà các em tin cậy.
GV cần có cách nhận xét, động viên khuyến khích các em chuẩn bị PHT
chất lượng, sáng tạo. Việc làm này thực sự đã khơi nguồn cảm hứng học tập cho
học sinh, kích thích sự chủ động tìm tòi, đào sâu suy nghĩ khi học Ngữ văn nói
chung, các văn bản truyện ngắn hiện đại Việt Nam nói riêng.
Như tôi đã nói ở phần đặt vấn đề, các văn bản văn học Việt Nam nói chung
và văn bản truyện hiện đại nói riêng nếu người học không có sự chuẩn bị chu
đáo thì sẽ rất khó khăn trong việc tiếp nhận kiến thức mới. Qua các phiếu HT,
GV hướng dẫn và tổ chức cho HS chuẩn bị bài bằng cách làm việc, từ những
công việc cụ thể, vừa sức đến khám phá, phân tích, … hiệu quả giờ dạy - học
truyện ngắn hiện đại Việt Nam ở lớp 8 đạt hiệu quả hơn
4. Thiết kế PHT để giao nhiệm vụ về nhà qua một bài cụ thể
Ví dụ: Cuối tiết học văn bản “Tức nước vỡ bờ”(Trích “Tắt đèn” - Ngô Tất
Tố) - tiết 9, Ngữ văn 8, học kì I.

* Đối với kiến thức vừa học:
11


HS có thể chọn làm một số câu hỏi sau:
- Cảm nhận về nhân vật chị Dậu qua văn bản “Tức nước vỡ bờ” (Dành cho
HS yếu, TB).
- Qua hoàn cảnh gia đình chị Dậu, em có suy nghĩ gì về số phận người
nông dân ở xa hội cũ (Dành cho HS khá, giỏi).
* Chuẩn bị học bài “Lão Hạc”(Nam Cao)
Hướng dẫn HS chuẩn bị các nội dung sau:
- Đọc kĩ văn bản và các câu hỏi SGK.
- Sưu tầm: Tác phẩm của Nam Cao, ảnh chân dung tác giả, nhận định hoặc
các bài viết về Nam Cao…
- Photo PHT và giao nhiệm cho từng đối tượng HS:
Phiếu HT (1): Hoàn thành các chi tiết cần thiết trong bảng sau về nhà
văn Nam Cao

PHT (2): Tóm tắt tác phẩm: Có thể cho các em chọn 2 dạng):
- Tóm tắt bằng cách điền các vấn đề trọng tâm của văn bản (như trên).
- Tóm tắt bằng sơ đồ nhân vật (như trên đã trình bày).
PHT (3): Nhiệm vụ của em là tìm ra một số chi tiết miêu tả hình ảnh,
tâm trạng của lão Hạc
Thời điểm
Trước khi
bán chó

Hình ảnh
lão Hạc


Tâm trạng lão
Hạc

Suy nghĩ
của ông giáo

.............................
.............................

............................
............................
..
............................
............................
............................
...
............................
............................

..........................
..........................

Sau khi
bán chó

.............................
.............................
.............................

Nhờ vả

ông giáo

.............................
.............................

Nhận xét của
em
về lão Hạc
.........................
.........................

.......................... .........................
.......................... .........................
.......................... .........................
..........................
..........................

.........................
.........................
12


.............................

Cái chết
của lão

.............................
.............................
.............................


............................
...
............................
............................
............................
...

..........................

.........................

..........................
..........................
..........................

.........................
.........................
.........................

PHT (4): Sơ đồ tính cách nhân vật lão Hạc

PHT (5) Tìm những câu văn thể hiện sự nhận thức của nhân vật ông giáo
về lão Hạc?
Từ đó nêu lên quan niệm của nhà văn Nam Cao về con người, về cuộc đời.
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………..........

PHT (6) Qua các nhân vật Chị Dậu trong văn bản “Tức nước vỡ bờ”, bé

Hồng trong “Trong lòng mẹ”) và lão Hạc trong truyện ngắn này, em có nhận
xét gì về số phận con người trong xã hội cũ. Từ đó, em thấy điều gì trong tấm
lòng của các nhà văn?
- GV thu một số phiếu học tập của HS chấm lấy điểm (Phụ lục đã dẫn)
5. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
5.1. Quá trình thực nghiệm:
Bước 1: Báo cáo trước lãnh đạo nhà trường và tổ chuyên môn về kế hoạch
áp dụng SKKN: Báo cáo, trao đổi với đồng nghiệp trong đơn vị về nội dung,
phương pháp của bài soạn thực nghiệm, những điểm mới thể hiện trong giáo án.
Bước 2: Chọn đối tượng là HS lớp 8A và 8C - trường THCS Đông Tiến.
- Lớp 8A: lớp thực nghiệm - Giao nhiệm vụ về nhà bằng PHT.
- Lớp 8C: lớp đối chứng - không sử dụng PHT khi giao nhiệm vụ về nhà.
Bước 3: Tiến hành kiểm tra trước tác động nhằm đo thái độ hứng thú học
tập của HS trong giờ học đọc hiểu văn bản.
Kết quả cho thấy hứng thú học tập ở hai lớp là tương đương nhau.
13


Bước 4: Tiến hành phương pháp thực nghiệm
- Thời gian: Học kì I, năm học 2017 - 2018 và lấy kết quả của hai lớp 8A
và 8C để đối chứng:
- Cả hai lớp đều tiến hành cùng một nội dung trong chương trình Ngữ văn
8, học kì I. Lãnh đạo nhà trường và tổ chuyên môn dự giờ, góp ý kiến rút kinh
nghiệm:
Tôi chuẩn bị các giáo án thuộc các tiết: 1, 2; 5, 6; 9 và 13, 14 bằng hai
phương án:
Phương án 1: Áp dụng các biện pháp hướng dẫn HS chuẩn bị bài bằng
PHT như dự kiến nêu trên.
Phương án 2: Soạn theo phương pháp bình thường, không áp dụng các
biện pháp hướng dẫn HS chuẩn bị bài bằng PHT.

- Thời gian tiến hành thực nghiệm: Tuân theo kế hoạch dạy học của nhà
trường và Thời khóa biểu để đảm bảo tính khách quan .
- Thực hiện dạy- học và quan sát học sinh trên lớp để thấy khả năng thực
hiện giáo án của giáo viên và hứng thú của học sinh.
Bước 5: Trao đổi – rút kinh nghiệm:
- Gặp gỡ, trao đổi với học sinh sau mỗi lần tiến hành thực nghiệm để đo
được mức độ hứng thú của các em trong mỗi giờ học.
- Gặp gỡ, trao đổi rút kinh nghiệm trong tổ chuyên môn.
5.2. Kêt quả thu được như sau:
5.2.1.Lớp không sử dụng PHT trong việc chuẩn bị bài
Lớp Sĩ số

8C

31

Số HS có
thái độ bình thường
với môn học.
SL Tỉ lệ %
SL
Tỉ lệ %

Số HS hứng thú
với môn học
8

25,9

12


38,7

Số HS
không hứng thú
với môn học
SL
Tỉ lệ %
11

35,4

14


5.2.2. Lớp sử dụng PHT trong việc chuẩn bị bài
Lớp Sĩ số

8A

36

Số HS có
thái độ bình thường
với môn học.
SL Tỉ lệ %
SL
Tỉ lệ %

Số HS hứng thú

với môn học
20

55,5

10

27,7

Số HS
không hứng thú
với môn học
SL
Tỉ lệ %
6

16,8

Tóm lại, sử dụng PHT trong việc giao nhiệm vụ về nhà cho HS lớp 8A
chuẩn bị bài trước khi học các văn bản thuộc truyện ngắn hiện đại Việt Nam là
một trong những phương tiện giảng dạy hiệu quả chương trình Ngữ văn bậc
THCS. Cụ thể là:
a) Về phía GV:
- Tránh được tình trạng “cháy giáo án” khi giảng dạy các tiết thuộc truyện
ngắn hiện đại, tức là HS hoàn toàn chủ động về thời gian trong giảng dạy.
- Kiến thức truyền thụ sâu sắc hơn.
- Thực hiện tốt việc tương tác giữa thầy và trò trong tiết học. Đã chuyển
trọng tâm từ hoạt động của thầy sang hoạt động của trò.
- Phát huy tính chủ động sáng tạo cho HS trong giờ dạy học.
b) Về phía HS:

Dựa trên các kết quả thực nghiệm sư phạm và thông qua việc xử lí số liệu
thu được, chúng tôi nhận thấy hứng thú và chất lượng học tập của học sinh lớp
thử nghiệm (lớp 8A) luôn cao hơn lớp đối chứng (8C):
- Học sinh lớp 8A có hứng thú say mê, tích cực, chủ động suy nghĩ trong
việc tìm tòi kiến thức khi học các văn bản thuộc truyện ngắn hiện đại Việt Nam
(chương trình Ngữ văn 8, học kì I). Học sinh lĩnh hội và nắm được kiến thức bài
học một cách nhanh nhất, chắc chắn và nhớ lâu kiến thức đã học.
- Các em đã mạnh dạn, chủ động tranh luận cởi mở, sôi nổi, tự tin hơn khi
đưa ra ý kiến của mình, lắng nghe ý kiến đóng góp, phê bình của các bạn. Từ đó
giúp HS biết vận dụng kiến thức của bài học vào thực tiễn cuộc sống và liên hệ
rộng và sâu với các tác phẩm cùng đề tài khác.

15


- Đã giúp học sinh từ chỗ học tập thụ động, chuyển sang hoạt động chủ
động, học sinh tích cực chiếm lĩnh kiến thức và kĩ năng thu thập, xử lý trình bày
trao đổi thông tin thông qua.
Kết quả kiểm tra cho thấy việc hướng dẫn HS chuẩn bị bài bằng PHT trước
khi học các văn bản truyện ngắn hiện đai Việt Nam đã khơi dậy được sự say mê
hứng thú, tìm tòi khám phá tác phẩm văn chương. Các em đã tiếp thu bài và hiểu
bài tương đối sâu sắc. Nhờ đó mà chất lượng học tập cũng được nâng lên rõ rệt.
Tuy nhiên, số học sinh chưa thật sự hứng thú với việc học Văn còn chiếm tới
16,8%, chứng tỏ HS chưa có thói quen chuẩn bị bài thật chu đáo trước khi đến
lớp. Điều này cũng có thể lí giải được vì không thể ngay lập tức HS có sự thay
đổi về cách học, cách chuẩn bị bài như SKKN tôi đã trình bày.
Ở lớp không áp dụng thực nghiệm, phần lớn các câu hỏi GV đưa ra trong
tiết học, các em trả lời mà chưa xác định chính xác yêu cầu, trả lời không rõ ý,
hoặc phụ thuộc vào tài liệu có sẵn … Nên hứng thú học tập chưa cao, tình trạng
trầm lắng trong giờ Đọc - hiểu văn bản truyện ngắn hiện đại Việt Nam vẫn tiếp

diễn.
Như vậy, có thể thấy được tính khả thi của sáng kiến kinh nghiệm này. Đề
tài đã thực sự phát huy được tính tích cực tự giác, tính sáng tạo, hứng thú học
tập của HS trong giờ học Ngữ văn, tư duy các em cũng phát triển hơn. Nhờ đó,
kết quả học tập bộ môn cũng được nâng cao.

16


III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Trong một giờ lên lớp giai đoạn nào cũng có những mục đích, chức năng
riêng. Khi định hướng thiết kế hoạt động dạy – học, GV phải chú ý phân bố
lượng thời gian hợp lí. Công việc cho từng giai đoạn phải được chú tâm thực
hiện trọn vẹn. Sự linh động, sáng tạo là điều cần thiết, nhưng thực hiện như thế
nào cũng phải bám sát nguyên tắc dạy học, không được xem nhẹ thậm chí bỏ
qua một giai đoạn nào (cụ thể là giai đoạn giao nhiệm vụ về nhà) như chúng tôi
đã đề cập trong bài viết GV không nên chủ quan và “đổ” lỗi cho HS không thực
hiện các yêu cầu của mình khi chuẩn bị bài dạy trong khi chính mình lại thực
hiện một cách qua loa trước. Chuẩn bị bài bằng PHT là một cách làm hữu ích,
hỗ trợ học tập của học sinh có hiệu quả, kích thích được sự hứng thú học tập của
học sinh và góp phần nâng cao chất lượng dạy học. Song, việc sử dụng phiếu
học tập trong nhà trường chưa nhiều. Do đó, chưa rút ra nhiều bài học kinh
nghiệm cần thiết.
3.2. Kiến nghị
Qua tổ chức thực hiện cũng như qua kết quả nghiên cứu bước đầu từ thực
tế giảng dạy, tôi có một vài kiến nghị, đề xuất như sau:
* Đối với giáo viên:
- Nghiên cứu này thực hiện trong giờ học Ngữ văn 8 là một giải pháp tốt
nhưng để sử dụng hiệu quả, đòi hỏi người GV phải biết thiết kế, sáng tạo những

mẫu PHT đa dạng và phong phú, phù hợp với thiết kế giáo án của bản thân. Vì
vậy, GV phải đầu tư công phu và mất nhiều thời gian. Mặt khác GV Ngữ văn
cần trau dồi kĩ năng sử dụng CNTT để thiết kế PHT; đồng thời chuẩn bị về cơ
sở vật chất như khâu in ấn, giấy photo…cho HS.
- Sử dụng PHT phải kết hợp khéo léo với các phương pháp dạy học khác
để tạo nên sự cộng hưởng và đạt hiệu quả cao.
* Đối với HS:
- Rèn thói quen thực hiện công việc chuẩn bị ở nhà một cách hiệu quả và
sáng tạo. Tránh lối chuẩn bị thụ động áp đặt và đơn điệu.
17


- Học sinh rèn luyện cho mình thói quen học tập tích cực, chủ động; rèn
luyện kỹ năng diễn đạt trước lớp.
* Đối với nhà trường và các câp quản lí giáo dục:
- Định kỳ tổ chức bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, phương pháp
giảng dạy cho giáo viên. Giáo viên cần được các cấp lãnh đạo có thẩm quyền
tạo điều kiện để rèn luyện kĩ năng xây dựng PHT, kĩ năng ứng dụng CNTT trong
giảng dạy.
- Tôi cũng rất mong muốn được nhà trường và các cấp quản lí giáo dục
quan tâm, giúp đỡ tạo điều kiện để có thể sử dụng phương pháp này trong giảng
dạy bộ môn Ngữ văn ở các lớp khác trong những năm học tiếp theo để có thể
rút ra được những kết luận chính xác hơn, góp phần cùng toàn trường, toàn
ngành và toàn xã hội nâng cao chất lượng giáo dục.
Đề tài này được đúc kết từ những trải nghiệm của bản thân, do đó không
thể tránh khỏi những hạn chế và bất cập. Tôi rất mong nhận được những đóng
góp quý báu của đồng nghiệp, Hội đồng khoa học nhà trường, đặc biệt là những
thông tin phản hồi từ phía học sinh để đề tài này hoàn thiện hơn.

XÁC NHẬN CỦA

THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 10 tháng 03
năm 2019
Tôi cam đoan SKKN này là của bản
thân, không sao chép nội dung của
người khác.
Người thực hiện

Doãn Thị Thủy

XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GIÁO DỤC

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cùng học sinh khám phá qua mỗi giờ văn, Đặng Thiêm, Nxb Giáo dục,
Hà Nội, 2005
2. Dạy đọc hiểu văn bản nghệ thuật trong chương trình Ngữ văn THCS,
Nguyễn Xuân Nam (Luận văn- Đại học Vinh), 2012
3. Sách giáo khoa Ngữ văn 8(Tập 1), Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nxb Giáo
dục, Hà Nội, 2005
4. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên phổ thông, chu kì 3,
Nguyễn Đức Thành, Nhà xuất bản Đại học sư phạm.
5. Sử dụng phiếu học tập trong dạy học hợp tác (Nguyễn Thành Hưng)

19



CÁC ĐỀ TÀI SKKN CỦA TÁC GIẢ ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG CẤP
PHÒNG GD & ĐT, CẤP SỞ GD & ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN ĐÁNH
GIÁ ĐẠT TỪ LOẠI C TRỞ LÊN
Năm học
2010- 2011

2012 - 2013
2018 - 2019

Tên đề tài

Xếp
Cấp
loại
B
Cấp huyện

Một số vấn đề về phương
pháp giảng dạy pháp luật ở
THCS
Phương pháp dạy-học văn tự B
sự ở lớp 6.
Các biện pháp hướng dẫn học A
sinh chuẩn bị bài bằng phiếu
học tập nhằm nâng cao hứng
thú khi tìm hiểu truyện ngắn
hiện đại Việt Nam cho học
sinh lớp 8 trường THCS
Đông Tiến


Cấp huyện
Cấp huyện (Quyết định số
242/ QĐ- PGD ngày
10/05/2016 của trưởng
phòng GD&ĐT về việc
công nhận đề tài khoa học,
SKKN nghành giáo dục
năm 2018 – 2019.

20



×