Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Hướng dẫn học sinh lớp 9 về cách làm bài văn nghị luận, yên định tác phẩm truyện có hiệu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.28 KB, 24 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ

Dạy Ngữ văn nói chung, dạy phân môn Tập làm văn kiểu bài Nghị
luận về tác phẩm truyện nói riêng ở khối lớp 9 trường Trung học cơ sở là
dạy cho các em học sinh lứa tuổi 14, 15 - lứa tuổi hồn nhiên, trong sáng,
năng động và nhạy cảm… ham thích tìm tòi, khám phá thế giới văn chương
nghệ thuật. Tác phẩm văn chương nghệ thuật là thành quả sáng tạo của nhà
văn, nhà thơ. .
Tác phẩm văn chương dù nhỏ nhất: là một câu tục ngữ, một bài ca dao,
hay lớn hơn là một bài văn, một bài thơ, một truyện ngắn hay một bộ tiểu
thuyết đều có giá trị về nội dung và nghệ thuật của nó. Làm thế nào để giáo
viên giúp học sinh đồng cảm với những giá trị tư tưởng nhân văn cần đạt tới
trong mỗi tác phẩm là nhiệm vụ giảng dạy của giáo viên dạy Ngữ Văn.
Cái khó trong việc dạy Ngữ văn, nhất là dạy Tập làm văn kiểu bài
Nghị luận về tác phẩm truyện là làm sao hướng cho học sinh tìm ra cái
hay, cái đẹp trong các tác phẩm.
Dưới đây là kinh nghiệm Hướng dẫn học sinh lớp 9 cách làm bài văn
Nghị luận về tác phẩm truyện có hiệu quả mà bản thân tôi - một giáo viên
trực tiếp giảng dạy Ngữ văn 9, đã đúc kết được qua nhiều năm.

1


B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ
Kiểu bài Nghị luận về tác phẩm văn học nói chung, tác phẩm
truyện nói riêng là một kiểu bài nghị luận văn học có vị trí quan trọng trong
chương trình Tập làm văn lớp 9. Thông qua việc đọc và học tác phẩm văn
học, học sinh chẳng những đã có một vốn khá phong phú về kiến thức văn
học về tác phẩm, thể loại… và cũng đã được nâng cao dần về năng lực cảm
thụ, phân tích, bình giá tác phẩm… Đó là một thuận lợi. Nhưng mặt khác,


cũng cần nắm vững yêu cầu và mức độ cần đạt của kiểu bài Nghị luận về tác
phẩm trong chương trình Tập làm văn lớp 9 không đồng nhất yêu cầu và
mức độ phân tích tác phẩm (Đọc -hiểu văn bản) trong chương trình văn học
và khi làm bài Tập làm văn ở lớp 9.
Một tác phẩm văn học bao giờ cũng là một tổng thể hoàn chỉnh giữa
nội dung và phương thức biểu đạt, tức là nghệ thuật. Nghị luận một tác phẩm
truyện là trình bày những nhận xét, đánh giá của mình về nhân vật, sự kiện,
chủ đề hay nghệ thuật của một tác phẩm cụ thể. Những nhận xét, đánh giá về
truyện phải xuất phát từ ý nghĩa của cốt truyện, tính cách, số phận của nhân
vật và nghệ thuật trong tác phẩm được người viết phát hiện và khái quát. Các
nhận xét, đánh giá về tác phẩm truyện trong bài nghị luận phải rõ ràng, đúng
đắn, có luận cứ và lập luận thuyết phục. Bài nghị luận về tác phẩm truyện
phải có bố cục chặt chẽ, mạch lạc, có lời văn chuẩn xác, gợi cảm. Như
vậy,để đáp ứng yêu cầu làm một bài văn nghị luận về tác phẩm truyện, người
giáo viên cần cho học sinh hiểu rõ tính chất tổng hợp của kiểu bài nghị luận
này.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
1. Về phía giáo viên:
2


không ít thầy cô còn e ngại khi dạy phân môn Tập làm văn. Qua nhiều năm
theo dõi phong trào thi giáo viên giỏi các cấp và thao giảng ở trường, giáo
viên thường chỉ đăng kí (tiết dạy tự chọn) dạy phân môn Đọc - hiểu văn bản
và Tiếng Việt.
Về phía học sinh, các em thường dựa vào văn mẫu hoặc dựa vào các
ý trong đề cương hay trong dàn ý thầy cô cho sẵn mà viết lại nên rất hạn chế
về mạch cảm xúc (không chân thật, còn gượng ép…). Rất ít học sinh chịu
khó tìm tòi, khám phá ra các ý mới, ý riêng, ý sâu sắc, ý hay do chính bản
thân các em cảm nhận, thật sự rung động với tác phẩm.

Đa số các em học sinh thường không tìm hiểu kĩ đề bài và tìm ý, lập
dàn ý trước khi bắt tay vào làm bài viết của mình nên thường lệch lạc kiểu
bài, nhầm lẫn các dạng đề. Đề bài Nghị luận về tác phẩm truyện thường có
các dạng đề mệnh lệnh và đề “mở”. Các mệnh lệnh thường gặp là “suy nghĩ”
(về nhân vật, về tác phẩm…), “cảm nhận của em” (về nhân vật, về tác
phẩm…). Các đề “mở” thường gặp là: “Chi tiết cái bóng trong Chuyện
người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ”; “Nguyên nhân cái chết của Vũ
Nương” (Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ).
Đối tượng nghị luận có thể là tác phẩm, nhân vật, tư tưởng, những đổi
thay trong số phận nhân vật… theo phạm vi vấn đề trong các bài Đọc - hiểu
tác phẩm truyện ở SGK đòi hỏi các em phải có tư duy kiến thức, tích hợp,
tổng hợp và phân tích mới đảm bảo được yêu cầu của từng đề bài văn.

Từ đó dẫn đến học sinh khối lớp 9 viết bài tập làm văn kiểu bài
Nghị luận về tác phẩm truyện thường khô cứng, sáo rỗng, lúng túng và
máy móc…
Bài viết số 6 (Lớp 9A và 9B Năm học 2014-2015)
Đề bài: Suy nghĩ về tình cảm gia đình trong chiến tranh qua
truyện ngắn “Chiếc lược ngà " của Nguyễn Quang Sáng.
Kết quả của thực trạng:
Điểm TB trở lên là 75%, điểm yếu là 25%

3


Lớp

Sĩ số

Giỏi

SL

HS

Khá

TL%

SL

TL%

TB
SL

Yếu

TL%

SL

TL%

9A

31

1

3,2


5

16,1

17

54,9

8

25,8

9B

29

1

3,5

4

13,8

17

58,6

7


24,1

Cộng 60

2

3,3

9

15,0

34

56,7

15

25,0

Kết quả của thực trạng trên đã thôi thúc tôi đúc rút kinh nghiệm Hướng
dẫn học sinh lớp 9 cách làm bài văn Nghị luận về tác phẩm truyện có
hiệu quả.
III. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
III.1. GIẢI PHÁP
Muốn khắc phục được thực trạng trên, người giáo viên dạy Ngữ văn
cần phải tìm ra giải pháp tối ưu.
Dạy phân môn Tập làm văn nhất là kiểu bài Nghị luận về tác phẩm
truyện, giáo viên phải tìm tòi nghiên cứu kĩ về tác phẩm, phải thực sự nhập

tâm vào cốt truyện, vào nhân vật, phải đặt mình trong hoàn cảnh nhân vật
sống, nhân vật suy nghĩ và hành động… đòi hỏi giáo viên phải vận dụng,
tổng hợp nhiều kiến thức, kể cả vốn sống, vốn tư tưởng, tình cảm.
Bản thân tôi là giáo viên nhiều năm dạy khối lớp 9 ở Trường THCS ,
trong quá trình giảng dạy, tôi luôn trân trọng, đánh giá cao những bài làm có
nét riêng, thể hiện được những cảm xúc chân thật , sáng tạo của các em đối
với một tác phẩm, một nhân vật, một vấn đề hay một khía cạnh của vấn đề
thể hiện trong tác phẩm… Đó cũng chính là nguồn động viên không nhỏ
giúp tôi đầu tư và quyết định tổng kết kinh nghiệm này, góp phần nâng cao
chất lượng dạy và học của giáo viên - học sinh. Đồng thời qua đây, xin được
góp một tiếng nói riêng, một ý kiến nho nhỏ cho phong trào “Dạy Tốt - Học
Tốt” của Trường tôi nói riêng và cho ngành Giáo dục huyện Yên Định nói
chung.
III.2. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
4


III.2.1. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề
Tìm hiểu đề được xem là khâu đầu tiên, có vai trò quyết định
hướng đi cho người làm bài. Nếu phân tích đúng yêu cầu của đề bài thì sẽ
tìm ra được hướng đi đúng. Ngược lại, nếu phân tích sai thì sẽ không đáp
ứng được yêu cầu của đề, đôi khi còn bị lệch đề, lạc đề. Chính vì thế mà
người giáo viên phải hướng dẫn học sinh phải biết phân tích kĩ đề. Một đề
bài văn Nghị luận về tác phẩm truyện không bao giờ đồng nhất một dạng đề
đơn điệu. Trái lại, nó có rất nhiều dạng, nhưng chủ yếu ở lớp 9 thường gặp 3
dạng đề cơ bản sau đây:
Dạng đề I:
Suy nghĩ về nhân vật, tác phẩm hoặc một khía cạnh nhân vật, tác
phẩm.
Ví dụ như đề bài: Suy nghĩ về nhân vật anh thanh niên trong

truyện ngắn: “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long. (SGK Ngữ văn 9,
tập 1).
Dạng đề II:
Phân tích đặc điểm nhân vật, tác phẩm hoặc một khía cạnh về
nhân vật, tác phẩm.
Ví dụ như đề bài: Phân tích diễn biến cốt truyện trong truyện ngắn
“Làng” của Kim Lân. (SGK Ngữ văn 9, tập 2).
Dạng đề III:
Phân tích để nêu ra nhận xét hoặc làm sáng tỏ một vấn đề
Ví dụ như đề bài: Suy nghĩ về lí tưởng sống của thanh niên trong
truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê. (SGK Ngữ văn 9,
tập 2).
Tuỳ theo mỗi dạng đề bài, giáo viên hướng dẫn học sinh các thao
tác làm bài khác nhau.

5


* Đối với dạng đề I và dạng đề II học sinh thường hay nhầm
lẫn, giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh biết phân biệt rõ thế nào là suy
nghĩ về nhân vật, về tác phẩm? Thế nào là phân tích nhân vật, tác phẩm?
Dạng đề I: Suy nghĩ về nhân vật, tác phẩm hoặc một khía
cạnh về nhân vật, tác phẩm là nghiêng về cảm nhận chủ quan của người
viết về nhân vật, tác phẩm hay một khía cạnh nào đó về nhân vật, tác phẩm
(không nhất thiết phải phân tích đầy đủ từng đặc điểm của nhân vật hoặc đầy
đủ giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm), có thể chọn những gì mình
cảm nhận sâu sắc nhất mà thôi.
Ví dụ đề bài: Suy nghĩ về nhân vật anh thanh niên trong truyện
ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long. (SGK Ngữ văn 9, tập 1).
Giáo viên có thể hướng học sinh cảm nhận, suy nghĩ về nét nổi bật của nhân

vật này là sống có lí tưởng, yêu nghề, giỏi chuyên môn, quan tâm chu đáo
với mọi người, khiêm tốn...
Dạng đề II: Phân tích nhân vật, tác phẩm hay một khía cạnh
về nhân vật, tác phẩm là yêu cầu người viết tìm hiểu, đánh giá và nhận xét
đầy đủ từng đặc điểm nhân vật, từng giá trị nội dung, nghệ thuật của tác
phẩm.
Ví dụ đề bài sau: Phân tích diễn biến tâm trạng của bé Thu trong
truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng. (SGK Ngữ văn
9, tập 2). Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu diễn biến tâm trạng bé Thu
lúc chưa nhận ra ba (Em lạnh lùng, xa lánh, cứng đầu... em không thể chấp
nhận người không giống trong tấm hình chụp với má) và lúc nhận ra ba (Em
đã hôn ba cùng khắp, hôn đầu, hôn cổ và hôn cả vết sẹo của ba...). Sự trái
ngược, đối lập trong hành động của bé Thu chính là thống nhất trong tư
tưởng, tình cảm của bé Thu đối với ba đó là tình yêu thương ba sâu sắc.
* Đối với dạng đề III: Phân tích để nêu ra nhận xét hoặc làm
sáng tỏ một vấn đề, người giáo viên phải biết tích hợp các kiến thức
chương trình Tập làm văn ở các lớp dưới để nâng cao yêu cầu giải quyết đề
bài văn dạng này.

6


Ví dụ đối với đề bài: Suy nghĩ về tình cảm gia đình trong chiến
tranh qua tuyện ngắn “Chiếc lược ngà " của Nguyễn Quang Sáng.
(SGK Ngữ văn 9, tập 2). Học sinh không phải đơn thuần tập trung phân
tích những biểu hiện cụ thể tình cảm cha con của hai nhân vật ông Sáu và bé
Thu mà còn phải trình bày những cảm nhận của mình về tình cảm cha con
hết sức cảm động trong hoàn cảnh éo le của thời chiến tranh: chịu đựng
nhiều thiệt thòi mất mát…; khơi gợi nhiều xúc cảm cho người đọc niềm cảm
động, khâm phục, quý mến… Từ đó suy nghĩ về tình cảm cha con, tình cảm

gia đình trong hoàn cảnh hiện tại: phải biết trân trọng, giữ gìn, vun đắp…

Qua việc phân tích ba dạng đề nêu trên, giáo viên giúp học sinh
nhận thức được tầm quan trọng của việc phân tích, tìm hiểu đề và biết vận
dụng thành thạo, linh hoạt để hình thành những thao tác và kĩ năng phân tích
đề chính xác, làm cơ sở cho việc tìm ý. Tuỳ theo yêu cầu của mỗi dạng đề
như: nghị luận toàn bộ tác phẩm, nghị luận một vấn đề trong tác phẩm hay
nghị luận có kết hợp giải quyết một vấn đề có liên quan, mà xác định nội
dung và trình tự phân tích.
III.2.2. Hướng dẫn học sinh tìm ý
Một bài Nghị luận tác phẩm văn học nói chung và Nghị luận
về tác phẩm truyện nói riêng muốn hay, trước hết phải có ý hay. Vậy ý hay
là gì? và thế nào là ý hay? Làm thế nào để tìm ra được những ý hay cho bài.
Ý hay trước hết phải là ý đúng, ý sâu, ý mới, ý riêng. Ý đúng, ý
sâu phải là ý của mình khám phá mới hay. Cho nên tìm ra ý mới, ý riêng, ý
đúng, ý sâu là công việc quyết định nhất và tất nhiên cũng là khó khăn nhất.
Muốn tìm được ý đúng, ý hay, ý sâu sắc, người giáo viên phải
hướng học sinh Đọc - hiểu tác phẩm truyện. Đọc - hiểu trước hết là phải đọc
kĩ tác phẩm để nắm cốt truyện, chủ đề, các ý chính, các chi tiết tiêu biểu của
từng ý, các dẫn chứng thuyết phục… Không đọc kĩ tác phẩm, học sinh khó
lòng nắm được ý đồ của tác giả, dễ dàng bỏ qua những điểm đặc sắc về nội
dung cũng như nghệ thuật của tác phẩm; từ đó phân tích hời hợt, đánh giá
chung chung. Bởi để viết ra được một tác phẩm, người nghệ sĩ đã phải trải

7


qua những trăn trở, họ tự đặt ra những yêu cầu, những định hướng khắt khe:
Viết về vấn đề gì? Viết về đối tượng nào? Viết cho ai? Viết như thế nào? Họ
đã phải thai nghén tác phẩm truyện - đứa con tinh thần của họ - suốt bao

tháng, bao năm.
Ví dụ đề bài: Suy nghĩ về nhân vật anh thanh niên trong truyện
ngắn: “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long. (SGK Ngữ văn 9, tập
1).
* Bài viết phải đảm bảo các ý sau:
 Tìm ý cho phần Mở bài:
Giới thiệu chung về tác giả và hoàn cảnh ra đời tác phẩm:
- Tác giả:
+ Nguyễn Thành Long (1925 – 1991) quê ở huyện Duy Xuyên, tỉnh
Quảng Nam, Viết văn từ thời kì kháng chiến chống Pháp.
+ Ông là cây bút chuyên viết truyện ngắn và kí. Ông là một cây bút cần
mẫn và nghiêm túc trong lao động nghệ thuật, lại rất coi trọng thâm nhập
thực tế đời sống. Sáng tác của Nguyễn Thành Long hầu như chỉ viết về
những vẻ đẹp bình dị của con người và thiên nhiên đất nước.
- Tác phẩm “Lặng lẽ Sa Pa":
+ Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” là kết quả của chuyến đi lên Lào Cai
trong mùa hè năm 1970 của tác giả. Truyện rút từ tập “Giữa trong xanh” in
năm 1972.
+ Suy nghĩ chung về nhân vật anh thanh niên.
b. Tìm ý cho phần Thân bài:
- Anh thanh niên là nhân vật trung tâm của truyện, chỉ xuất hiện trong
giây lát nhưng vẫn là điểm sáng nổi bật nhất trong bức tranh mà tác giả thể
hiện.
- Hoàn cảnh sống và làm việc: một mình trên đỉnh Yên Sơn cao 2600 mét,
với công việc “đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, dự

8


vào việc báo trước thời tiết hằng ngày”. Công việc đòi hỏi phải tỉ mỉ, chính

xác và có tinh thần trách nhiệm cao.
- Gian khổ nhất đối với anh là phải sống trong hoàn cảnh cô độc, một
mình trên đỉnh núi cao hàng tháng hàng năm. Điều ấy khiến anh trở thành
một trong những người “cô độc nhất thế gian” và “thèm người” đến nỗi
thỉnh thoảng phải ngăn cây chặn đường dừng xe khách qua núi để gặp người
trò chuyện.
- Ý thức công việc và lòng yêu nghề của mình. Thấy được công việc lặng
thầm này là có ích cho cuộc sống và cho mọi người (cụ thể khi ấy là phục vụ
cho cuộc kháng chiến chống Mĩ; Góp phần bắn rơi nhiều máy bay Mĩ trên
cầu Hàm Rồng, Thanh Hóa). Anh thấy cuộc sống và công việc của mình thật
có ý nghĩa, thật hạnh phúc.
- Yêu sách và rất ham đọc sách – những người thầy, người bạn tốt lúc nào
cũng sẵn sàng bên anh.
- Anh không cảm thấy cô đơn vì biết tổ chức, sắp xếp cuộc sống khoa
học, ngăn nắp, chủ động, ngoài công việc anh còn chăm hoa, nuôi gà, nhà
cửa và nơi làm việc nhỏ nhắn, xinh xắn, gọn gàng và khá đẹp.
- Ở người thanh niên ấy còn có những nét tính cách và phẩm chất rất đáng
quí: sự cởi mở, chân thành, rất quí trọng tình cảm con người, khao khát gặp
gỡ mọi người.
- Anh còn là người rất khiêm tốn, thành thực. Cảm thấy công việc và
những lời giới thiệu nhiệt tình của bác lái xe về mình là chưa xứng đáng,
đóng góp của mình chỉ là bình thường nhỏ bé so với bao nhiêu người khác.
Khi ông họa sĩ muốn kí họa chân dung, anh từ chối, e ngại và giới thiệu
những người khác cho ông vẽ.
- Anh còn là người rất ân cần chu đáo, hiếu khách: Trao gói tam thất cho
bác lái xe, tiếp đón nồng nhiệt, chân thành tự nhiên với ông học sĩ và cô kĩ
sư, tặng hoa, tặng làn trứng tươi cho hai vị khách quí…
c. Tìm ý cho phần Kết bài:

9



- Chân dung tinh thần của người thanh niên làm công tác khí tượng kiêm
vật lí địa cầu đã hiện lên rõ nét và đầy sức thuyết phục với những phẩm chất
tốt đẹp, trong sáng về tinh thần, tình cảm, cách sống và những suy nghĩ về
nghề nghiệp, cuộc sống.
- Đó là một trong những con người lao động trẻ tuổi, làm công việc lặng
lẽ mà vô cùng cần thiết, có ích cho nhân dân, đất nước.
Sau đây là các dạng câu hỏi gợi ý, giúp học sinh tìm ý:
* Câu hỏi tìm hiểu tác giả, xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác
Hỏi: Tác giả của tác phẩm truyện sẽ nghị luận là ai? Có những nét gì
nổi bật trong cuộc đời và sự nghiệp sáng tác? Sống trong thời kì nào? Có nét
riêng, nét độc đáo gì về phong cách cá nhân? (Chuyên sáng tác về mảng đề
tài nào? Sự nghiệp sáng tác ra sao?)
Hỏi: Tác phẩm truyện trên được trích từ đâu? Được sáng tác trong
hoàn cảnh nào? Tác phẩm được đánh giá như thế nào? Có phải là tác phẩm
tiêu biểu cho sự sáng tác văn chương của tác giả không? …
* Câu hỏi tìm hiểu giá trị nội dung
Hỏi: Đề bài gồm mấy ý? Ý nghĩa cụ thể, ý nghĩa khái quát là gì?
Những ý nào tập trung biểu hiện chủ đề, tư tưởng của truyện? Nội dung có
thể hiện được những vấn đề lớn, bức xúc mà xã hội quan tâm hay không? Có
giá trị nhân văn như thế nào?
Hỏi: Nhân vật chính của truyện là ai? Đại diện cho từng lớp con
người nào trong xã hội? Có những nét tính cách như thế nào? Nét tính cách
nào là tiêu biểu nhất? Nét tính cách đó được thể hiện qua những chi tiết nào?
(diện mạo, cử chỉ, lời nói, hành động, tư tưởng, tình cảm, nội tâm…?)
* Câu hỏi tìm hiểu giá trị nghệ thuật
Hỏi: Tác phẩm truyện được viết theo phong cách nào? có nét gì sáng
tạo riêng trong nghệ thuật tạo tình huống? có hình tượng nghệ thuật nào độc
đáo? ngôn ngữ diễn đạt, cấu trúc bố cục của truyện có đặc sắc?


10


Hỏi: Tác phẩm truyện trên có tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của
tác giả không? Có thể hiện được bản lĩnh sáng tạo của một nhà văn đầy tài
năng và tâm huyết cho một thời đại, một trào lưu văn học không?
* Câu hỏi gợi mở những hướng xem xét mới
Hỏi: Có thể so sánh, đối chiếu với những tác giả, tác phẩm nào để
phân tích tác phẩm được sâu rộng, toàn diện hơn?
Hỏi: Tác phẩm truyện có ảnh hưởng gì trong thời đại tác giả đương
sống và đối với các thời đại sau này? Tại sao tác phẩm được mọi người yêu
thích?
Với ngần ấy câu hỏi, không thể nào giáo viên giảng giải một cách cặn
kẽ, tỉ mỉ trong quá trình phân tích một đề bài trên lớp. Do đó đòi hỏi người
giáo viên phải biết chọn lựa nhưng câu hỏi tìm ý cho phù hợp, có tác dụng
khơi nguồn cảm xúc cho các em học sinh. Hay nói cách khác, người giáo
viên phải biết chọn điểm đột phá. Bởi mỗi tác phẩm truyện (dù là ngắn hay
dài) đều là một kho báu vừa lộ thiên vừa bí mật về nội dung và nghệ thuật.
Nhiệm vụ của người giáo viên là giúp cho các em học sinh biết cách khám
phá kho báu ấy, nhất là phần sáng tạo kì công của tác giả.
Nhưng bắt đầu từ đâu và như thế nào? đây là vấn đề nghệ thuật giảng
dạy. Nếu khéo léo khám phá sẽ có được nhiều cảm xúc, hứng thú gợi mở
cho các em học sinh niềm yêu thích, tích cực tư duy làm bài. Bài nghị luận
của các em sẽ sâu sắc, tinh tế và chân thật. Nếu không khéo sẽ làm cho các
em nhàm chán và bài viết của các em trở nên lạc lỏng, hời hợt, tẻ nhạt.
III.2.3. Hướng dẫn Học sinh Lập dàn ý
Muốn có một bài văn nghị luận hay, đảm bảo đáp ứng các yêu cầu
của đề bài một cách rõ ràng, chặt chẽ, có hệ thống, mạch lạc, lập luận thuyết
phục… người giáo viên phải hướng dẫn học sinh làm tốt bước lập dàn ý này.

Có thể hướng dẫn học sinh sắp xếp các ý theo trình tự nội dung, nghệ thuật,
rồi đến nhận xét, đánh giá, suy nghĩ của bản thân, nhưng có thể sắp xếp đan
xen giữa nội dung, nghệ thuật và nhận xét, đánh giá, suy nghĩ của bản thân.
Cũng có khi việc sắp xếp không bị gò bó theo một trật tự cố định nào. Trong
trường hợp này, đòi hỏi học sinh phải có bản lĩnh viết văn, phải có dụng ý
11


nghệ thuật trong cách sắp xếp trình bày lập luận để đạt được mục đích yêu
cấu của đề bài, làm sáng tỏ vấn đề. Có thể nói một bài văn hoàn chỉnh được
ví như một ngôi nhà thì dàn ý là cái sườn thiết kế nên ngôi nhà ấy. Viết một
bài văn nghị luận cũng thế. Thông thường dàn bài chung cho bài văn nghị
luận về tác phẩm truyện theo một trình tự như sau:
1. Mở bài: Giới thiệu tác phẩm truyện hay một đoạn trích (tùy
theo yêu cầu cụ thể của đề bài)và nêu ý kiến đánh giá sơ bộ của mình.
2. Thân bài: Nêu các luận điểm chính về nội dung và nghệ thuật
của tác phẩm; có phân tích,chứng minh bằng các luận cứ tiêu biểu và
xác thực.
3. Kết bài: Nêu nhận định, đánh giá chung của mình về tác phẩm
truyện hoặc đoạn trích.
Điểm lưu ý trong cách làm bài văn nghị luận là trong bài văn không
phải bao giờ các ý cũng được trình bày dàn đều nhau mà nên có chỗ đậm,
chỗ nhạt, chỗ nói kĩ, chỗ nói lướt qua. Cho nên, ngay ở khâu lập dàn ý, sau
khi sắp xếp ý, ta nên cân nhắc, định trước tỉ lệ dành cho mỗi ý trong bài để
chủ động xây dựng một bài văn cân đối, có chiều sâu, tạo được điểm nhấn
hấp dẫn, lôi cuốn người đọc. Thông thường ý được nói kĩ là trọng tâm.
Ví dụ với đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về nhân vật bé Thu trong
truyện ngắn “Chiếc lược ngà’’ của Nguyễn Quang Sáng. (Ngữ văn 9 –
Tập 1).
A. Mở bài:

- Giới thiệu được tác giả, tác phẩm và nhân vật bé Thu với tài năng
miêu tả tâm lý nhân vật.
- Cảm nhận chung về nhân vật bé Thu.
B. Thân bài:
1. Khái quát cảnh ngộ gia đình và tính cách nổi bật của bé Thu:

12


- Đất nước có chiến tranh, cha đi công tác khi Thu chưa đầy một tuổi,
lớn lên em chưa một lần gặp ba được ba chăm sóc yêu thương, tình yêu Thu
dành cho ba chỉ gửi trong tấm ảnh ba chụp chung cùng má.
- Bé Thu - nhân vật chính của đoạn trích “Chiếc lược ngà’’- một cô bé
hồn nhiên ngây thơ, có cá tính bướng bỉnh nhưng yêu thương ba sâu sắc.
2. Diễn biến tâm lý của bé Thu trước khi nhận anh Sáu là cha:
- Yêu thương ba nhưng khi gặp anh Sáu, trước những hành động vội
vã thái độ xúc động, nôn nóng của cha… Thu ngạc nhiên lạ lùng, sợ hãi và
bỏ chạy… những hành động chứa đựng sự lảng tránh đó lại hoàn toàn phù
hợp với tâm lí trẻ thơ bởi trong suy nghĩ của Thu anh Sáu là người đàn ông
lạ lại có vết thẹo trên mặt giần giật dễ sợ.
- Trong hai ngày sau đó Thu hoàn toàn lạnh lùng trước những cử chỉ
đầy yêu thương của cha, nó cự tuyệt tiếng ba một cách quyết liệt trong
những cảnh huống mời ba vào ăn cơm, xử lí nồi cơm sôi, và thái độ hất tung
cái trứng cá trong bữa cơm… Từ cự tuyệt nó đã phản ứng mạnh mẽ… nó
căm ghét cao độ người đàn ông măt thẹo kia, nó tức giận, và khi bị đánh nó
đã bỏ đi một cách bất cần…. Đó là phản ứng tâm lí hoàn toàn tự nhiên của
một đứa trẻ có cá tính mạnh mẽ… Hành động tưởng như vô lễ đáng trách
của Thu lại hoàn toàn không đáng trách mà còn đáng thương, bởi em còn
quá nhỏ chưa hiểu được những tình thế khắc nghiệt éo le của đời sống. Đằng
sau những hành động ấy ẩn chứa cả tình yêu thương ba, sự kiêu hãnh của trẻ

thơ về một tình yêu nguyên vẹn trong sáng mà Thu dành cho ba.
3. Diễn biến tâm lý của Thu khi nhận ba:
- Sự thay đổi thái độ đến khó hiểu của Thu, không ương bướng mà
buồn rầu nghĩ ngợi sâu xa, ánh mắt cử chỉ hành động của bé Thu như thể
hiện sự ân hận, sự nuối tiếc, muốn nhận ba nhưng e ngại vì đã làm ba giận.
- Tình yêu thương ba được bộc lộ hối hả ào ạt mãnh liệt khi anh Sáu
nói “Thôi ba đi nghe con”. Tình yêu ấy kết đọng trong âm vang tiếng “Ba”;
trong những hành động vội vã: chạy nhanh như con sóc, nhảy thót lên, hôn
ba nó cùng khắp; trong lời ước nguyện mua cây lược, tiếng khóc nức nở…

13


Đó là cuộc hội ngộ chia tay đầy xúc động, thiêng liêng đã tác động sâu sắc
đến bác Ba và mọi người…
- Sự lý giải nguyên nhân việc hiểu lầm của bé Thu đựợc tác giả thể hiện
thật khéo léo đó là do vết thẹo trên mặt người ba khi hiểu ra sự thực Thu
“nằm im lăn lộn thở dài như người lớn”. Vết thẹo không chỉ gây ra nỗi đau
về thể xác mà còn hằn nên nỗi đau về tinh thần gây ra sự xa cách hiểu lầm
giữa cha con bé Thu. Nhưng chiến tranh dù có tàn khốc bao nhiêu thì tình
cảm cha con anh Sáu càng trở lên thiêng liêng sâu lặng.
4. Khẳng định lại vấn đề:
- Ngòi bút miêu tả tâm lý khắc hoạ tính cách nhân vật tinh tế thể hiện
được ở bé Thu một cô bé hồn nhiên ngây thơ, mạnh mẽ cứng cỏi yêu ghét
rạch ròi. Trong sự đối lập của hành động thái độ trước và sau khi nhân ba lại
là sự nhất quán về tính cách về tình yêu thương ba sâu sắc.
- Những năm tháng sống gắn bó với mảnh đất Nam Bộ, trái tim nhạy
cảm, nhân hậu, am hiểu tâm lý của trẻ thơ đã giúp tác giả xây dựng thành
công nhân vật bé Thu.
- Suy nghĩ về đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh, trân trọng

tình cảm gia đình trong cuộc sống hôm nay.
C. Kết bài:
Khẳng định thành công, đồng thời bộc lộ ấn tượng sâu đậm nhất về
nhân vật cũng như toàn bộ tác phẩm.
Trên đây là một dàn ý tiêu biểu cho một bài văn Nghị luận về
tác phẩm truyện, học sinh có thể dựa vào ý trên để thiết lập cho những bài
văn cụ thể khác. Lưu ý khi lập dàn ý cần tránh các lỗi sau:
- Thiếu ý: là có thể thiếu một trong số ý lớn so với yêu cầu đề bài hoặc
một số ý nhỏ. Ví dụ: cảm nghĩ của em về nhân vật bé Thu trong truyện
ngắn “Chiếc lược ngà’’ của Nguyễn Quang Sáng. (Ngữ văn 9 – Tập 1)
thân bài gồm có 4 ý lớn:
1. Khái quát cảnh ngộ gia đình và tính cách nổi bật của bé Thu

14


2. Diễn biến tâm lý của bé Thu trước khi nhận anh Sáu là cha
3. Diễn biến tâm lý của Thu khi nhận ba
4. Khẳng định lại vấn đề
Học sinh viết bài có thể thiếu một trong các ý lớn trên
- Lạc ý: là những ý không đúng với yêu cầu về nội dung và phương
pháp nghị luận nêu trong đề bài.
- Lặp ý: là ý sau lặp lại hoàn toàn ý trước. Với đề bài : “Suy nghĩ về
tình cha con trong chiến tranh qua truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của
Nguyễn Quang Sáng” nếu học sinh không khéo triển khai tình cảm của bé
Thu với cha và ngược lại tình cảm của ông Sáu với bé Thu thì sẽ dễ lặp ý.
- Ý không phù hợp với nội dung: Đề yêu cầu nêu suy nghĩ về nhân
vật mà dàn bài lại đưa ra ý phê phán thái độ của nhân vật hoặc đề ra phương
hướng giải quyết khác như nêu quan niệm sống, đấu tranh chống chủ nghĩa
cá nhân tiêu cực hay sa vào bình luận về giá trị tác phẩm và những đóng góp

của tác giả.
- Sắp xếp ý lộn xộn: Là sắp xếp không theo thứ tự nào, đảo lộn cả giá
trị nội dung, nghệ thuật.
Phần luyện viết đoạn văn và liên kết đoạn văn với mục đích để rèn
kĩ năng diễn đạt cũng vô cùng quan trọng. Giáo viên hướng dẫn học sinh
viết đoạn văn và liên kết đoạn văn như sau:
III.2.4. Hướng dẫn Học sinh Viết đoạn và liên kết đoạn
Dựa vào dàn ý, các em có thể viết thành đoạn, thành bài. Các em
được giáo viên hướng dẫn viết từng đoạn tiêu biểu: đoạn mở bài, đoạn thân
bài, đoạn kết bài.
4. 1 Đoạn mở bài
Là đoạn văn khởi đầu của bất cứ bài văn nào. Nó là đoạn giới thiệu vấn
đề được nghị luận trong bài văn, đồng thời khơi gợi, lôi cuốn người đọc sự
chú ý đối với vấn đề đó.

15


a. Nguyên tắc mở bài:
- Cần nêu đúng vấn đề đặt ra trong đề bài
- Chỉ được phép nêu những ý khái quát (học sinh không được lấn sang
phần thân bài: giảng giải, minh hoạ hay nhận xét, đánh giá ý kiến nêu trong
đề bài
b. Cách mở bài:
Có rất nhiều cách mở bài. Tuỳ dụng ý của người làm mà có thể vận
dụng một trong những cách sau đây:
- Mở bài trực tiếp: Giới thiệu ngay vấn đề cần nghị luận
- Mở bài gián tiếp: Nêu ra những ý kiến có liên quan đến vấn đề cần
nghị luận (từ khái quát đến cụ thể, so sánh đối chiếu, tương đồng, tương
phản…)


Sau đây là mấy cách mở bài tham khảo cho đề bài: Cảm nhận của em
về truyện ngắn “Lặng lẽ SaPa” của Nguyễn Thành Long. (Ngữ văn 9Tập 1).
* Cách trực tiếp:
“Nguyễn Thành Long (1925 – 1991) quê ở huyện Duy Xuyên,
tỉnh Quảng Nam, viết văn từ thời kì kháng chiến chống Pháp. Ông là cây
bút chuyên viết truyện ngắn và kí. Một cây bút cần mẫn và nghiêm túc
trong lao động nghệ thuật, lại rất coi trọng thâm nhập thực tế đời sống.
Sáng tác của Nguyễn Thành Long hầu như chỉ viết về những vẻ đẹp bình
dị của con người và thiên nhiên đất nước. Truyện ngắn “Lặng lẽ SaPa”
là kết quả của chuyến đi lên Lào Cai trong mùa hè năm 1970 của tác giả.
Truyện rút từ tập “Giữa trong xanh” in năm 1972. Truyện đã để lại ấn
tượng đặc biệt cho bạn đọc về những con người lao dộng bình dị cống
hiến cho sự nghiệp xây dựng đất nước”.
* Cách gián tiếp:

16


“Viết về đề tài cuộc sống mới con người mới có nhiều nhà văn đã
rất thành công, trong số đó có Nguyễn Thành Long. Ông là nhà văn đã
góp một tiếng nói ca ngợi cuộc sống mới và tái hiện một cách đầy đủ
những vẻ đẹp của con người mới. Vẻ đẹp của người lao động và ý nghĩa
của những công việc thầm lặng cống hiến cho đất nước. Niềm hạnh phúc
của con người trong lao động có ích cho Tổ quốc. Truyện ngắn “Lặng lẽ
Sa Pa” đã thể hiện đậm nét chủ đề tư tưởng ấy, để lại cho độc giả những
ấn tượng sâu sắc khó quên.”
Phần thân bài là phần gồm có nhiều đoạn văn, thường là mỗi đoạn văn
trình bày một ý (được đánh dấu bằng hình thức từ chỗ viết hoa lùi đầu dòng
đến chỗ chấm xuống dòng). Giáo viên hướng dẫn học sinh viết các đoạn văn

và liên kết các đoạn văn như sau:
4. 2. Đoạn thân bài
Trước hết, giáo viên nên xác định vai trò của phần thân bài cho học
sinh nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của nó trong một bài văn. Phần thân
bài sẽ lần lượt trình bày, giải thích, nhận xét, đánh giá… các luận điểm của
vấn đề được đặt ra trong đề bài (thực hiện vừa đủ, không thiếu, không thừa
các nhiệm vụ đã đề ra ỏ phần mở bài).
Ở từng luận điểm, cần có sự phân tích, chứng minh cụ thể, chính xác
bằng những dẫn chứng sinh động trong tác phẩm.
Giữa các luận điểm, đoạn văn cần có sự liên kết, chuyển tiếp một cách
linh hoạt, uyển chuyển, tránh gò bó, máy móc, công thức.
Dưới đây là hai trong những đoạn thân bài của đề bài: Phát biểu cảm
nghĩ về nhân vật bé Thu trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà’’ của
Nguyễn Quang Sáng. (Ngữ văn 9 - Tập 1).
Đoạn văn 1
“Bé Thu yêu thương ba vô cùng nhưng khi gặp anh Sáu, trước
những hành động vội vã, thái độ xúc động, nôn nóng của cha, Thu ngạc
nhiên lạ lùng, sợ hãi và bỏ chạy(1). Những hành động chứa đựng sự lảng
tránh đó lại hoàn toàn phù hợp với tâm lí trẻ thơ bởi trong suy nghĩ của

17


Thu anh Sáu là người đàn ông lạ lại có vết thẹo trên mặt giần giật dễ
sợ(2). Trong hai ngày sau đó Thu hoàn toàn lạnh lùng trước những cử
chỉ đầy yêu thương của cha, nó cự tuyệt tiếng ba một cách quyết liệt trong
những cảnh huống mời ba vào ăn cơm, xử lí nồi cơm sôi, và thái độ hất
tung cái trứng cá trong bữa cơm (3). Từ cự tuyệt nó đã phản ứng mạnh
mẽ… nó căm ghét cao độ người đàn ông mặt thẹo kia, nó tức giận, và khi
bị đánh nó đã bỏ đi một cách bất cần (4). Đó là phản ứng tâm lí hoàn toàn

tự nhiên của một đứa trẻ có cá tính mạnh mẽ(5). Hành động tưởng như
vô lễ đáng trách của Thu lại hoàn toàn không đáng trách mà còn đáng
thương, bởi em còn quá nhỏ chưa hiểu được những tình thế khắc nghiệt
éo le của đời sống (6). Đằng sau những hành động ấy ẩn chứa cả tình yêu
thương ba, sự kiêu hãnh của trẻ thơ về một tình yêu nguyên vẹn trong
sáng mà Thu dành cho ba (7).”
Đoạn văn 2
“Trước khi nhận ra cha, thái độ của bé Thu là thế, vậy mà khi nhận
ra cha mình thái độ của Thu đã thay đổi đến khó hiểu (1). Em không
ương bướng mà buồn rầu nghĩ ngợi sâu xa, ánh mắt cử chỉ hành động
của bé Thu như thể hiện sự ân hận, sự nuối tiếc, muốn nhận ba nhưng e
ngại vì đã làm ba giận (2). Tình yêu thương ba được bộc lộ hối hả ào ạt
mãnh liệt khi anh Sáu nói “Thôi ba đi nghe con” (3). Tình yêu ấy kết
đọng trong âm vang tiếng Ba trong những hành động vội vã: chạy nhanh
như con sóc, nhảy thót lên, hôn ba nó cùng khắp, trong lời ước nguyện
mua một cây lược, tiếng khóc nức nở (4). Đó là cuộc hội ngộ chia tay
đầy xúc động, thiêng liêng đã tác động sâu sắc đến bác Ba, mọi người (5).
Sự lý giải nguyên nhân việc hiểu lầm của bé Thu đựợc tác giả thể hiện
thật khéo léo đó là do vết thẹo trên mặt người ba khi hiểu ra sự thực Thu
“nằm im lăn lộn thở dài như người lớn” (6). Vết thẹo không chỉ gây ra
nỗi đau về thể xác mà còn hằn nên nỗi đau về tinh thần gây ra sự xa cách
hiểu lầm giữa cha con bé Thu (7). Nhưng chiến tranh dù có tàn khốc bao
nhiêu thì tình cảm cha con anh Sáu càng trở lên thiêng liêng sâu lặng
(8).”
Trên đây là hai đoạn văn tiêu biểu của phần thân bài (gồm nhiều đoạn),
giáo viên có thể hướng dẫn học sinh viết các đoạn khác nhau của các đề
18


khác. Dù là đoạn văn nào thì giáo viên cũng phải phân tích cho học sinh

thấy rõ các cách trình bày nội dung một đoạn văn. Thế là phải tích hợp với
kiến thức Tiếng Việt ở lớp dưới. giáo viên nhắc lại các cách trình bày tiêu
biểu mà học sinh thường vận dụng viết đoạn văn nghị luận (gồm bốn cách:
diễn dịch, qui nạp, móc xích và song hành) nhưng đôi khi để nhấn mạnh ý
chính, ý khái quát của vấn đề cần phân tích, ta cũng có thể viết đoạn văn hỗn
hợp như đoạn văn thân bài trên. Đoạn thân bài trên được phân tích cách trình
bày như sau:
Đoạn văn 1 ở trên gồm 7 câu:
Câu (1) là câu diễn đạt ý chính của đoạn: nêu khái quát tình yêu
thương sâu sắc của Thu dành cho cha và biểu hiện tâm lí của Thu trước khi
Thu nhận ra cha (Câu này còn gọi là câu chủ đề).
Từ câu (2) (3) (4) (5) (6) là các câu phân tích, diễn giải cho ý chính,
cụ thể hóa ý chính: Những biểu hiện tâm lí của bé Thu. Đó là những lí lẽ và
dẫn chứng cụ thể, tiêu biểu, chính xác, sinh động.
Câu (7) (câu cuối) là câu mang ý nghĩa tổng hợp ý của toàn đoạn:
Khẳng định tình yêu thương sâu sắc của Thu đối với cha.

Cách trình bày đoạn văn 2 cũng tương tự như đoạn văn 1
Giáo viên hướng dẫn học sinh cách liên kết hai đoạn văn
* Về hình thức:
Đoạn 2 liên kết với đoạn 1 bằng phép thế (từ “ thế” thay thế cho
những sự việc đã trình bày ở đoạn 1) và bằng phép nối (từ “ mà”).
* Về nội dung:
Đoạn 2 liên kết với đoạn 1 qua diễn biến tâm lí của bé Thu trước khi
nhận cha và sau khi nhận cha bằng câu “Trước khi nhận ra cha, thái độ
của bé Thu là thế, vậy mà khi nhận ra cha mình thái độ của Thu đã thay
đổi đến khó hiểu”.

19



Mục đích của bài văn Nghị luận về tác phẩm truyện là trình bày
những nhận xét, đánh giá của mình về nhân vật, sự kiện hay chủ đề, tư tưởng
và nghệ thuật của một tác phẩm cụ thể. Nhiệm vụ đó được thực hiện ở phần
thân bài, giáo viên tiến hành hướng dẫn học sinh viết Đoạn kết bài.
4. 3. Đoạn kết bài
Đoạn kết bài phải thể hiện đúng quan điểm đã trình bày ở phần thân
bài, chỉ nêu những ý nhận xét, đánh giá khái quát, không trình bày lan man
hay lặp lại ý diễn giải, minh hoạ, cụ thể, chi tiết. Cũng không nên lặp lại
nguyên văn lời lẽ của phần mở bài. Khác với mở bài, phần kết bài thiên về
đánh giá, tổng kết vấn đề.
Có nhiều cách kết bài khác nhau, tuỳ theo dụng ý của người viết:
- Có khi kết bài là tóm tắt, khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật
của tác phẩm.
- Có khi kết bài là tổng hợp những cảm nhận sâu sắc về nhân vật, tác
giả, tác phẩm.
- Có khi kết bài lại là liên tưởng đến các vấn đề khác có liên quan.
Vì vậy, để hướng dẫn học sinh viết được những kết bài sâu sắc, người
giáo viên cần phải giúp học sinh nhận thức được tầm quan trọng của đoạn
kết bài (không chỉ khép lại, hoàn chỉnh bài văn mà còn làm cho bài văn thêm
khái quát, nâng cao về mọi mặt: tư tưởng, tình cảm, chủ đề, quan niệm sống
tốt đẹp…).
Từ khâu tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý, viết đoạn và liên kết đoạn là
cả một quá trình lao động nghệ thuật sáng tạo giúp các em hiểu ra chân lí ấy
sẽ là con đường ngắn nhất hướng các em yêu thích văn chương và có hứng
thú khi làm bài tập làm văn kiểu bài Nghị luận về tác phẩm văn học nói
chung và tác phẩm truyện nói riêng. Có thể nói, hướng dẫn học sinh cách
làm bài văn Nghị luận về tác phẩm truyện tức là đi tìm và khám phá ra cái
hay, cái đẹp trong văn chương nghệ thuật.
IV. KIỂM NGHIỆM


20


Với tâm huyết giảng dạy thật hiệu quả kiểu bài phân tích tác phẩm
truyện và qua tích luỹ một vài kinh nghiệm hướng dẫn học sinh phân tích đề,
tìm ý, lập dàn ý, viết đoạn và liên kết đoạn, tôi đã giúp học sinh của các lớp
do chính tôi trực tiếp giảng dạy đạt được kết quả tốt trong các bài kiểm tra
Học kì II chất lượng bài sau cao hơn bài trước và thi Tuyển vào lớp 10 luôn
đảm bảo chỉ tiêu chất lượng từ 85% trở lên và chất lượng năm sau cao hơn
năm trước.
Đa số bài làm của các em đều đáp ứng được yêu cầu của đề; khai
thác được ý hay, ý sâu sắc; phân tích tinh tế, có cảm xúc, biết tìm tòi và sáng
tạo mang phong cách riêng, không còn gượng ép, máy móc hay khuôn sáo,
không còn phụ thuộc vào văn mẫu, hay dàn ý cô cho sẵn.
Rất ít bài làm sơ sài, ý nghèo nàn hoặc không tìm được ý, thiếu ý,
lặp ý, lạc ý hoặc sắp xếp ý lộn xộn.

Theo dõi tỷ lệ học sinh làm bài văn Nghị luận về tác phẩm truyện
trong hai năm (2013 - 2014; 2014 – 2015), tôi đã thống kê được chất lượng
bài làm của học sinh như sau:
Năm học 2014-2015
Lớp

Sĩ số

Điểm TB trở lên là 75%, điểm yếu là 25%
Giỏi

SL


HS

Khá

TL%

SL

TL%

TB
SL

Yếu

TL%

SL

TL%

9A

31

1

3,2


5

16,1

17

54,9

8

25,8

9B

29

1

3,5

4

13,8

17

58,6

7


24,1

Cộng 60

2

3,3

9

15,0

34

56,7

15

25,0

Năm học 2015-2016
Lớp

Sĩ số
HS

Điểm TB trở lên là 93,4%, điểm yếu là 6,6%
Giỏi

SL


TL%

Khá
SL

TL%

TB
SL

TL%

Yếu
SL

TL%

21


9A

38

3

7,9

10


26,3

22

57,9

3

7,9

9B

38

6

15,8

10

26,3

20

52,6

2

5,3


Cộng 76

9

11,8

20

26,3

42

55,3

5

6,6

Chính hiệu quả đạt được trên, đã động viên, thôi thúc tôi hoàn
thành kinh nghiệm giảng dạy này.

C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Nghị quyết Trung ương Đảng đã nhiều lần khẳng định “Đổi mới
phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học, bậc học... áp dụng những phương
pháp dạy học hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo,
năng lực giải quyết vấn đề...”. Ngoài những mục tiêu chung của nhà trường
phổ thông, môn Ngữ văn ở nhà trường Trung học cơ sở còn có mục tiêu cụ
thể của nó. Là bộ môn thuộc nhóm Khoa học xã hội, điều đó nói lên tầm
quan trọng của nó trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học

sinh. Vì vậy người giáo viên dạy văn có tâm huyết phải luôn luôn tìm tòi,
khám phá để có phương pháp dạy học tối ưu cho từng bài học, từng tiết học
cụ thể.
Đối với thi sĩ, sáng tác được một câu thơ, một bài thơ hay là niềm
hạnh phúc. Còn đối với người giáo viên dạy Ngữ văn chúng tôi, việc nghiền
ngẫm, trao đổi với nhau qua bao tháng năm trên bục giảng để hiểu được
đúng, thấm được sâu từng trang truyện, từng nhân vật, từng yếu tố nội dung
và nghệ thuật của tác phẩm mà nhà văn muốn gửi gắm vào đó một lời nhắn
nhủ, một tư tưởng tình cảm mới mẻ, tốt đẹp… là nguồn vui lớn, say mê với
đời, với sự nghiệp dạy Văn. Và đối với tôi, việc tích luỹ một vài kinh
nghiệm hướng dẫn học sinh cách làm tốt bài văn Nghị luận về tác phẩm
truyện là điều tôi tâm đắc. Dẫu còn không ít thiếu sót và vụng về trong cách
trình bày, diễn đạt… nhưng tôi xin gửi trọn niềm tin yêu vào những gì mình
đã viết, đã đúc kết được trong sáng kiến kinh nghiệm này.

22


Tôi xin ghi lại những chân thành trong nhiệt tình giảng dạy qua từng
trang viết. Rất mong những ý kiến đóng góp, những lời chỉ bảo của bạn bè,
của đồng nghiệp và của những ai có duyên nợ với nghề: DẠY VĂN - DẠY
NGƯỜI.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Yên Định, ngày 5

tháng 4 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.


TƯ LIỆU THAM KHẢO

 “Phương pháp làm bài Nghị luận tác phẩm Văn học 9” của Hoàng
Đức
(NXB Trẻ - Thành phố Hồ Chí Minh)
 “Hiểu Văn, dạy Văn” của Nguyễn Thanh Hùng
(NXB Trẻ - Thành phố Hồ Chí Minh)
 “Đọc Văn, học Văn” của Trần Đình Sử
(NXB GD 2002)
 “Để hiểu thêm một số tác giả và tác phẩm Văn học Việt Nam hiện
đại” của Nguyễn Ngọc Thu
(NXB GD)
 Sách Ngữ văn 9 hiện hành (SGK & SGV)
(NXB GD)
23


 “Tài liệu tham khảo Kĩ năng làm văn nghị luận” của Vụ GD – TH
(NXB GD)
 “Tiếp cận và đánh giá tác phẩm truyện sau Cách mạng tháng Tám”
của
Nguyễn Văn Long
(NXB GD)

24



×