Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Hướng dẫn cách làm bài nghị luận về tác phẩm truyện (đoạn trích) cho học sinh lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.72 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
1.1
1.2
1.3
1.4
2.2
2.2
2.3
2.4

Phần
1

2

3



Nội dung
Mở đầu

Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung
Cơ sở lí luận của SKKN
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN
Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động GD,


với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Kết luận, kiến nghị

Lí do chọn đề tài

Trang
2
2
3
3
3
4
4
4
5
16
17

1. MỞ ĐẦU

Như chúng ta đã biết dạy môn Ngữ văn ở trường THCS là giúp các
em biết tìm tòi, khám phá ra thế giới văn chương nghệ thuật. “Tác phẩm văn
chương dù nhỏ nhất : là một câu tục ngữ, một bài ca dao, hay lớn hơn là một
bài văn, một bài thơ, một truyện ngắn hay một bộ tiểu thuyết đều có giá tri
về nội dung và nghệ thuật của nó” [7]. Giúp học sinh đồng cảm với những
giá tri tư tưởng nhân văn cần đạt tới trong mỗi tác phẩm là nhiệm vụ của
người giáo viên dạy văn . Học văn các em sẽ hoàn thiện hơn về phẩm chất
đạo đức; bên cạnh đấy là dạy, luyện cho các em cảm thụ thơ văn và biết cách
viết văn. Vì vậy, giáo viên không chỉ hướng dẫn các em biết chủ động lĩnh



hội kiến thức, biết vận dụng kiến thức đã học cùng với hiểu biết của bản
thân về cuộc sống để chuyển tải thành sản phẩm - bài văn (kĩ năng làm
bài).Từ đó giúp các em có sự phát triển toàn diện về tâm hồn, về trí tuệ, về
tri thức thẩm mĩ.
Trong chương trình Ngữ văn 9 thì văn nghi luận gồm: nghi luận về
một đoạn thơ (bài thơ); nghi luận về một tác phẩm truyện (đoạn trích) và
nghi luận xã hội . Lâu nay nghi luận vẫn được coi là kiểu văn bản khó viết
đối với nhiều học sinh. Vì nó không chỉ đòi hỏi người viết phải có kiến thức
chính xác, sâu rộng về đời sống xã hội, về tác phẩm văn học mà còn phải có
sự tư duy lô gíc chặt chẽ với những lập luận sâu sắc thấu tình đạt lí bài văn
mới có thể hấp dẫn người đọc, người nghe. Tác phẩm bao giờ cũng là một
tổng thể giữa nội dung và phương thức (nghệ thuật - hình thức) biểu đạt.
“Nghi luận về một tác phẩm truyện (đoạn trích) là trình bày những nhận xét,
đánh giá của mình về nhân vật, sự kiện, chủ đề hay nghệ thuật của một tác
phẩm cụ thể. Những nhận xét, đánh giá về truyện phải xuất phát từ ý nghĩa
của cốt truyện, tính cách, số phận của nhân vật và nghệ thuật trong tác phẩm
được người viết phát hiện và khái quát”[1]. Nhưng trong thực tế giảng dạy,
tôi nhận thấy việc giảng dạy của giáo viên ở kiểu bài này chưa phong phú và
mang lại hiệu quả cao, dẫn đến việc nắm bắt kiến thức và làm bài của học
sinh chưa được tốt. Nhiều em chưa biết xác đinh đề đúng hướng, làm bài
thường sa vào kể nhiều, chưa kết hợp hài hòa giữa các tình tiết, sự việc...với
những nhận xét đánh giá khi viết khiến bài viết chưa sâu.
Trong khi đó, số tiết dạy và luyện tập trong chương trình quá ít (3 tiết)
nên nhiều em còn tràng màng. Tài liệu tham khảo nhiều nhưng hướng dẫn cụ
thể về các dạng đề lại chưa có. Thực tế kiểu bài này thường có trong các kỳ
thi từ khảo sát học kỳ cho đến kỳ thi học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh, thi
vào THPT.
Chính vì vậy, khi dạy môn Ngữ văn 9, tôi luôn ý thức được vai trò, vi
trí của kiểu bài này nên đặc biệt chú trọng rèn luyện kỹ năng làm bài. Xuất

phát từ tầm quan trọng và thực trạng của việc làm văn nghi luận về tác phẩm
truyện của học sinh lớp 9A,9B do tôi phụ trách, tôi đã quyết đinh chọn
nghiên cứu đề tài: “Hướng dẫn cách làm bài nghị luận về tác phẩm
truyện (đoạn trích) cho học sinh lớp 9”. Nhằm trao đổi với đồng nghiệp
một vài kinh nghiệm, qua đó giúp học sinh nắm vững hơn phương pháp làm
kiểu bài này. Nâng cao chất lượng bài thi, bài kiểm tra, kết quả học tập của
các em và chất lượng của nhà trường .
1.2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua các tiết học của môn Ngữ văn mà giáo dục nhân cách, lối
sống, khơi gợi trong các em lòng thương yêu con người, yêu quê hương, đất
nước, ngoài ra còn rèn luyện cho mỗi học sinh cách giao tiếp bằng ngôn ngữ
nói và ngôn ngữ viết. Muốn vậy, giáo viên cần giúp các em cảm nhận, phân
tích tốt mỗi tác phẩm. Qua những tiết dạy lý thuyết yêu cầu các em nắm
vững kỹ năng kiểu bài nghi luận về tác phẩm truyện (đoạn trích): bố cục, tìm
ý, lập dàn ý, cách viết. Học sinh biết phân biệt các dạng đề để khi làm bài
với dung lượng kiến thức phù hợp, vừa đủ (không bi sa đề). Đồng thời
hướng dẫn các em cách thực hành, xác đinh các luận điểm cần có trong bài


và luôn phải cân nhắc sắp xếp cái nào trước, cái nào sau, chọn từ nào cho
chuẩn xác, hấp dẫn mới diễn đạt. Sau quá trình giảng dạy, giáo viên đưa ra
cách thức kiểm tra học sinh như : làm bài tập trên lớp, làm bài tập ở nhà, qua
các giờ kiểm tra đinh kỳ để khảo sát được thực chất cách viết, chất lượng bài
viết văn của học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu: nghi luận về tác phẩm truyện (đoạn trích)
- Đối tượng ứng dụng: học sinh lớp 9 trường THCS Đinh Tường, Yên
Đinh, Thanh Hóa.
- Nghiên cứu đề tài giúp học sinh nắm được một số biện pháp nâng
cao kỹ năng làm bài văn nghi luận về tác phẩm (đoạn trích)

1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu sau :
+ Phương pháp điều tra, khảo sát
+ Phương pháp nghiên cứu khoa học
+ Phương pháp thực nghiệm
+ Phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh số liệu, đối chiếu...

2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Nghi luận là văn bản trình bày ý kiến bàn luận, đánh giá theo một
quan điểm nhất đinh những sự kiện, vấn đề chính tri, xã hội, lich sử, văn
hóa, tư tưởng ...nhằm thuyết phục người đọc (người nghe) theo quan điểm
nào đó.
Nghi luận về tác phẩm truyện là trình bày những nhận xét, đánh giá
của mình về nhân vật, sự kiện chủ đề hay nghệ thuật của một tác phẩm cụ
thể phải xuất phát từ ý nghĩa của cốt truyện, tính cách, số phận của nhân vật
và nghệ thuật trong tác phẩm được người viết phát hiện và khái quát.[1]
Để học sinh nắm được cách làm bài văn nghi luận về tác phẩm truyện
(đoạn trích): trước hết cần giúp học sinh củng cố và khắc sâu kiến thức lí
thuyết của kiểu bài này. Từ việc nắm chắc khái niệm đến cách trình bày dàn
ý của bài văn. Đây là kiến thức cơ bản nhưng lại rất cần thiết cho quá trình
học và làm bài. Tiếp đến hướng dẫn học sinh cách làm bài cụ thể như: đọc
kỹ đề, xác đinh xem mệnh đề yêu cầu gì.
Ví dụ, các em phân biệt các từ trong đề có từ “suy nghĩ” khác yêu cầu
phân tích như thế nào?. Hướng dẫn học sinh tìm ý bằng cách đặt câu hỏi.
Khâu quan trọng để giúp các em làm bài được tốt cần biết cách lập dàn ý
theo từng dạng đề như: nghi luận về nhân vật hoặc khía cạnh về nhân vật
trong tác phẩm; nghi luận về một tác phẩm (đoạn trích); nghi luận nêu nhận
xét để làm sáng tỏ một vấn đề (một nhận đinh); nghi luận tổng hợp về

truyện.
Trong quá trình dạy cần tích hợp kiểu bài với các giờ dạy văn bản
trên lớp. Giáo viên khi dạy văn bản không thể nghèo nàn cảm xúc. Bởi


những trang truyện hay, những số phận của các nhân vật trong truyện đều có
cuộc đời riêng, có tình cảm, tư tưởng, nội tâm…phong phú và đa dạng, cần
hướng cho học sinh biết cách trình bày, đánh giá về nhân vật, sự kiện, chủ đề
…. Đồng thời biết kết hợp nhiều phép lập luận (giải thích, chứng minh, phân
tích…); phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trong quá trình dạy học kiểu bài văn nghi luận về tác phẩm truyện
(đoạn trích), bản thân tôi làm bảng thống kê khi chưa áp dụng những biện
pháp này trong năm học 2015-2016, kết quả thu được như sau:
Lớp
Sĩ số Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
9A
38
3

7.9
9
23.7
19
50.0
7
18.4
9B
36
2
5.5
6
16.7
20
55.6
8
22.2
Qua số liệu khảo sát trên cho thấy chất lượng dạy và học kiểu bài nghi
luận về tác phẩm truyện (đoạn trích), còn rất nhiều hạn chế. Thực trạng của
vấn đề này đó là:
Chương trình: Cấu trúc chương trình của kiểu bài văn nghi luận ở lớp
9 tổng có 3 tiết (2 tiết lí thuyết, 1 tiết thực hành; và một bài viết ở nhà (Bài
tập làm văn số 6). Với thời lượng tiết dạy trên lớp ít nhưng việc vận dụng để
làm bài thi lại nhiều, đôi khi yêu cầu cao nên giáo viên cần phải đưa ra
phương pháp cụ thể để học sinh làm bài tốt.
Theo yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học mỗi giáo viên đều thay
đổi phương pháp giảng dạy để đáp ứng được yêu cầu của bài, tạo được hứng
thú cho học sinh khi học. Tuy nhiên với kiểu bài này, trong giờ dạy kiến thức
và luyện cách làm bài giáo viên hướng dẫn còn chung chung theo các tiết
trong sách giáo khoa, chưa chỉ rõ yêu cầu của từng dạng đề cụ thể. Vì vậy,

khi học sinh làm bài không cần biết dạng đề nào cứ thấy tác phẩm truyện là
chỉ biết phân tích nhân vật hay toàn bộ tác phẩm mà chưa biết lồng ghép các
đơn vi kiến thức.
Có lẽ ngoài nguyên nhân khách quan từ xã hội, phần cũng vì tư tưởng
làm văn nghi luận khó nên các em chưa có sự chuyên tâm trong quá trình
học và làm bài. Ngay từ khâu tiếp cận với văn bản, một số em chưa chiu đọc
trước tác phẩm nhiều lần, soạn bài để đối phó, học trên lớp không chú ý
nghe thầy cô giáo giảng, dẫn đến khi làm bài không nhớ rõ cốt truyện, diễn
biết ra sao. Do vậy, khi viết không có kiến thức diễn đạt, hoặc diễn đạt các ý
lộn xộn, khiến giáo viên đọc bài có tâm trạng thất vọng. Một vấn đề mà ở
kiểu bài này học sinh thường mắc, nhiều em chưa biết nghi luận vấn đề theo
yêu cầu đề bài quy đinh, thường làm chung chung theo một kiểu là phân tích
tác phẩm, phân tích nhân vật. Nhiều em còn sa vào tình trạng kể lại tác phẩm
(đoạn trích) mà không dừng lại ở sự việc, tình tiết để nhận xét, đáng giá,
thẩm bình làm toát lên nội dung và nghệ thuật - cái “thần” trong tác phẩm.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Củng cố và khắc sâu kiến thức lí thuyết kiểu bài nghị luận
về tác phẩm truyện (đoạn trích)
Phần này các em thường chủ quan, một phần do thói quen ngại lập
dàn ý dẫn đến khi làm bài thường thiếu ý (thiếu luận điểm), ngay cả phần
mở bài cũng thiếu ý mới chỉ giới thiệu được tác giả, tác phẩm mà chưa có
phần nhận đinh khái quát về tác phẩm.
2.3.1.1. Yêu cầu học sinh nắm chắc khái niệm:
Nghi luận về tác phẩm truyện (đoạn trích) là trình bày những nhận
xét, đánh giá của mình về nhân vật, sự kiện, chủ đề hoặc nghệ thuật của một
tác phẩm cụ thể.
- Lời văn: Những nhận xét, đánh giá về truyện mà người viết phát


hiện và khái quát nên phải xuất phát từ cốt truyện, tính cách số phận nhân

vật và nghệ thuật của tác phẩm.
- Bố cục: Bài viết phải có bố cục mạch lạc; nhận xét về tác phẩm phải
đúng đắn, rõ ràng; có luận cứ và lập luận thuyết phục, lời văn chuẩn xác và
gợi cảm.[ 1]
2.3.1.2. Dàn ý chung
a. Mở bài: - Nêu tác giả, tác phẩm
- Bước đầu nêu nhận đinh, đánh giá sơ lược về tác phẩm
b. Thân bài:
- Nhận xét, đánh giá về nội dung (sử dụng các thao tác phân tích - tổng hợp,
lí lẽ, dẫn chứng...)
- Nhận xét, đánh giá về nghệ thuật của tác phẩm.
c. Kết bài:
- Nêu nhận đinh, đánh giá chung của mình về tác phẩm truyện (đoạn trích)
- Liên hệ đến bản thân.
2.3.2 Hướng dẫn học sinh cách làm bài cụ thể
2.3.2.1. Hướng dẫn học sinh khâu tìm hiểu đề
Một đề bài tập làm văn còn được xem là một bài toán nghệ thuật ngôn
từ. Bởi bao giờ trong một đề tập làm văn cũng có những yêu cầu bắt buộc
mà người thực hiện đề bài phải tìm ra phương pháp giải. Vì thế bước phân
tích đề được xem là khâu đầu tiên, có vai trò quyết đinh “dẫn đường, chỉ lối”
cho người làm bài. Nếu phân tích đúng yêu cầu của đề bài thì sẽ tìm ra được
hướng đi đúng. Ngược lại nếu phân tích sai thì sẽ không đáp ứng được yêu
cầu của đề, đôi khi cò bi sa đề, lạc đề.
Ví dụ: Các đề bài sau:
- Đề 1: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ
Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ.
- Đề 2: Phân tích diễn biến cốt truyện trong truyện ngắn “Làng” của Kim
Lân.[4]
+ Trước hết học sinh cần xác đinh được: (Kiểu bài; nội dung yêu cầu; phạm
vi kiến thức)

+ Qua các dạng đề giáo viên cần hướng dẫn học sinh phân biệt các từ ngữ
trong đề Đề có từ “suy nghĩ” khác đề yêu cầu “phân tích” như thế nào?
- Với dạng đề yêu cầu: “Suy nghĩ”... Thường khi giáo viên chưa hướng dẫn
học sinh làm bài hay nhầm lẫn coi những đề này là như phân tích. Nhưng
thực tế khi làm bài ở mỗi đề lại khác nhau về cách hiểu và cảm.
Suy nghĩ về nhân vật, tác phẩm hoặc một khía cạnh về nhân vật, tác
phẩm là nghiêng về cảm nhận chủ quan của người viết, không nhất thiết phải
phân tích đầy đủ giá tri nội nội dung, nghệ thuật của tác phẩm, có thể chọn
những gì mà mình cảm nhận sâu sắc nhất mà thôi.
VD: Đề bài: Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng”- Kim
Lân.
Giáo viên hướng dẫn học sinh cảm nhận, suy nghĩ về nét nổi bật của nhân
vật này là tình yêu làng quyện với lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến
được bộc lộ trong hoàn cảnh nào? Tình cảm ấy có đặc điểm gì ở hoàn cảnh
cụ thể lúc bấy giờ? (Thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp)
Những chi tiết nghệ thuật nào chứng tỏ một cách sinh động, thú vi về tình
yêu làng và lòng yêu nước ấy (về tâm trạng, cử chỉ, lời nói...)
Với dạng đề này, yêu cầu học sinh phải đọc kĩ tác phẩm, nếu không
đọc kĩ, thì không thể tìm ra được những ý hay, đặc sắc. Các em sẽ dễ rơi vào
công thức chung chung, suy nghĩ hời hợt không khám phá ra nét mới trong
tình cảm đối với làng quê của nhân vật ông Hai. Đó là một trường hợp tiêu
biểu cho những chuyển biến mới trong đời sống tình cảm của người nông


dân Việt Nam thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Nếu học sinh
không đọc kĩ từng trang truyện, thì làm sao thấu hiểu được nỗi lòng của ông
Hai với cuộc đấu tranh nội tâm đau đớn và vật vã...để cuối cùng nhân vật
mới đi đến quyết đinh dứt khoát: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây
thì phải thù”.
- Dạng đề có từ “Phân tích......”

Yêu cầu người viết tìm hiểu, đánh giá và nhận xét đầy đủ từng đặc
điểm nhân vật, từng giá tri nội dung nghệ thật của tác phẩm.
Với dạng đề này, đôi khi học sinh cho là dễ, song giáo viên cần lưu ý khi
làm bài tránh sa vào kể lể nhiều mà không kết hợp với nhận xét, đánh giá
của người viết. (Thông qua các tình tiết liên quan đến nhân vật để bộc lộ
cảm xúc của mình)
- Dạng đề có nhận đinh, học sinh phải giải thích nhận đinh rồi mới chứng
minh qua tác phẩm.
ví dụ: Trong văn bản Tiếng nói văn nghệ, Nguyễn Đình Thi viết:
Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những chất liệu mượn ở
thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói
lên một điều gì mới mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ,
anh muốn đem một phần của mình góp vào đời sống xung quanh.
(SGK Ngữ văn 9, NXB Giáo dục, tập
hai)
Từ truyện ngắn Làng hãy viết bài văn làm sáng tỏ điều mới mẻ, lời nhắn
nhủ mà nhà văn Kim Lân muốn đem góp vào đời sống.[4]
Với đề bài này, khi làm bài các em cần xác lập được các ý sau:
- Giải thích sơ lược ý kiến
- Điều mới mẻ trong truyện ngắn Làng (về nội dung và nghệ thuật biểu
hiện)
- Lời nhắn nhủ mà nhà văn muốn gửi đến bạn đọc qua tác phẩm
- Đánh giá, tổng hợp vấn đề
2.3.2.2. Hướng dẫn học sinh tìm ý
Sau khi đọc kĩ tác phẩm (truyện), khám phá ra những cái hay, cái đẹp,
cái đặc sắc trong từng yếu tố nội dung, nghệ thuật và nhân vật, học sinh tự
đặt ra và trả lời những câu hỏi để có những ý lớn, ý nhỏ…của bài văn rồi sắp
xếp thành một dàn ý hoàn chỉnh trước khi viết bài…
Dưới đây là các dạng câu hỏi gợi ý giúp học sinh tìm ý:
- Câu hỏi tìm hiểu tác giả, xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác:

+ Tác giả của tác phẩm truyện sẽ nghi luận là ai? Có những nét gì nổi bật
trong cuộc đời và sự nghiệp sáng tác? Sống trong thời kì nào? Có nét riêng,
nét độc đáo gì về phong cách cá nhân? Chuyên sáng tác về mảng đề tài nào?
Sự nghiệp sáng tác ra sao?
+ Tác phẩm truyện trên được trích từ đâu? Được sáng tác trong hoàn cảnh
nào? Tác phẩm được đánh giá như thế nào? Có phải là tác phẩm tiêu biểu
cho sáng tác văn chương của tác giả không?
- Câu hỏi tìm hiểu giá tri nội dung:
+ Đề tài bao gồm mấy ý? Ý nghĩa cụ thể? Ý nghĩa khái quát là gì? Những ý
nào tập trung biểu hiện chủ đề, tư tưởng của truyện? Nội dung có thể hiện
được những vấn đề lớn, bức xúc mà xă hội quan tâm hay không? Có giá tri
nhân văn như thế nào?
+ Nhân vật chính của truyện là ai? Đại diện cho tầng lớp con người nào
trong xã hội? Có những tính cách như thế nào? Nét tính cách nào là tiêu biểu
nhất?Nét tính cách đó được biểu hiện qua những chi tiết nào? (Diện mạo, cử
chỉ, lời nói, hành động, tư tưởng, tình cảm, nội tâm…?)
- Câu hỏi tìm hiểu giá tri nghệ thuật:
+ Tác phẩm truyện được viết theo phong cách nào? Có nét gì sáng tạo riêng


trong nghệ thuật tạo tình huống ? Có hình tượng nghệ thuật nào độc đáo?
Ngôn ngữ diễn đạt, cấu trúc bố cục của truyện có đặc sắc gì?
+ Tác phẩm truyện trên có tiêu biểu trong phong cách nghệ thuật của tác giả
không? Có thể hiện được bản lĩnh sáng tạo của một nhà văn đầy tài năng và
tâm huyết cho một thời đại, một trào lưu văn học không?
- Câu hỏi gợi mở:
+ Có thể so sánh, đối chiếu với tác giả, tác phẩm nào để phân tích tác phẩm
được sâu rộng, toàn diện hơn?
+ Tác phẩm truyện có ảnh hưởng gì trong thời đại của tác giả đương sống và
đối với thời đại sau này? Tại sao tác phẩm được mọi người yêu thích?

Với những câu hỏi như trên, giáo viên không thể giảng giải một cách
cặn kẽ, tỉ mỉ trong quá trình phân tích một đề bài trên lớp. Do đó đòi hỏi
giáo viên phải biết chọn lựa những câu hỏi tìm ý cho phù hợp, có tác dụng
khơi nguồn cảm xúc cho các em học sinh.
Ví dụ:
Đề bài :“Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của Kim
Lân.
Khi tìm ý cho đề văn trên, giáo viên nên gợi ý cho các em suy nghĩ theo các
câu hỏi sau:
- Nhà văn Kim Lân có sở trường gì trong sáng tác truyện ngắn ?
- Làng là một truyện ngắn ra đời trong hoàn cảnh nào ? Tình yêu làng, yêu
nước của nhân vật ông Hai được bộc lộ trong tình huống nào ? Tình cảm ấy
có đặc điểm gì mới so với vẻ đẹp trong nét tính cách truyền thống của người
nông dân ? (Về tâm trạng, cử chỉ, hành động, lời nói…)
- Em có nhận xét, đánh giá, suy nghĩ gì về tư tưởng, tình cảm của người
nông dân trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp qua nhân vật
ông Hai? (Những nhận thức, tình cảm đúng đắn cao đẹp: sự nhiệt tình, hăng
hái tham gia kháng chiến, lòng tin tưởng tuyệt đối vào kháng chiến, vào lãnh
tụ…)
- Nhân vật ông Hai để lại tình cảm gì trong lòng em ? (Sự yêu mến, trân
trọng và cảm phục, tự hào…)
Sau khi hướng dẫn tìm ý, tôi nhận thấy các em đã biết xác đinh các
luận điểm đầy đủ, biết cách lập một dàn ý. Đây sẽ là cở sở để hoàn thiện một
bài văn.
2.3.2.3. Hướng dẫn học sinh lập dàn ý theo từng dạng đề
- Đề văn nghi luận về tác phẩm truyện( đoạn trích) có cách biểu hiện rất đa
dạng với nhiều mức độ yêu cầu khác nhau, với nhiều dạng khác nhau , tuy
nhiên nó được thể hiện qua 4 dạng đề cơ bản sau:
a. Dạng đề 1: Phân tích (cảm nhận) một tác phẩm truyện (đoạn trích)
Với dạng đề này, khi tiếp xúc khá nhiều học sinh thắc mắc, băn khoăn

là có nên phân tích toàn bộ tác phẩm truyện hay không? Hay chỉ thông qua
các sự việc chính trong truyện? Phân tích nội dung thì phải phân tích như thế
nào? Để làm rõ điều này giáo viên hướng dẫn học sinh cách làm cụ thể.
- Trước tiên có thể chọn phân tích theo bố cục của truyện, hoặc theo sự việc
xảy ra qua nhân vật chính và phụ.Với cách phân tích thứ nhất học sinh cần
nắm chắc bố cục, các sự việc chính liên quan đến nhân vật, lần lượt phân
tích từng phần. Giáo viên nên hướng dẫn học sinh đi từ hoàn cảnh ra đời đến
khái quát được cốt truyện. Các em có thể lồng phân tích nội dung với nghệ
thuật khi làm bài hoặc tách tùy ý song cần có sự chuyển ý mạch lạc, rõ ràng.
Khi phân tích những chi tiết trong truyện cần kết hợp nhận xét, đánh
giá của mình, không được sa vào kể lại cốt truyện, cũng không nên trích dẫn
toàn bộ tt́ình tiết liên quan đến nhân vật mà phải có sự chọn lọc. Nhất thiết
phải có dẫn chứng khi viết bài.
- Dàn bài cụ thể khi phân tích tác phẩm (đoạn trích)


1. Mở bài: Giới thiệu về tác phẩm và nêu ý kiến đánh giá sơ bộ của mình
2. Thân bài: Lần lượt nghi luận về từng luận điểm về nội dung và nghệ
thuật của tác phẩm thông qua phân tích từng chi tiết của tác phẩm.
3. Kết bài: Nêu nhận đinh đánh giá chung về tác phẩm đó
Ví dụ. Đề bài: Tình cảm gia đình trong chiến tranh qua Truyện ngắn
“Chiếc lươc ngà”của Nguyễn Quang Sáng
Đề bài yêu cầu bằng kiến thức và kĩ năng phân tích một tác phẩm tự sự,
người viết chứng minh “Tình cảm gia đình trong truyện ngắn Chiếc lược
ngà”. Để làm rõ điều này bài cần đảm bảo bố cục như sau:
1. Mở bài:
- Giới thiệu về đề tài : Viết về chiến tranh.
- Giới thiệu được tác giả, tác phẩm.
- Khái quát về tình cảm cha con thể hiện trong văn bản Chiếc lược ngà .
2. Thân bài:

a. Hoàn cảnh éo le của cha con ông Sáu :
- Ông Sáu đi kháng chiến xa nhà nhiều năm . Ông chưa được biết mặt đứa
con và chưa một lần được về thăm con.
- Sau tám năm xa cách, một lần về thăm nhà trước khi đi nhận công tác mới,
ông được gặp con, nhưng bé Thu nhất đinh không chiu nhận ông Sáu là cha.
- Khi bé Thu nhận ra ba thì cha lại phải ra chiến trường để rồi hai cha con
không bao giờ gặp nhau nữa.
b. Tình cảm của cha con ông Sáu sâu nặng và thiết tha vô bờ bến.
*.Tình cảm của bé Thu dành cho ông Sáu:
- Khi thấy ông Sáu vui mừng, vồ vập nhận bé Thu là con, Thu tỏ ra ngờ vực,
lãng tránh và lạnh nhạt.
- Sự ương ngạnh và hành động của Thu không đáng trách. Cô bé không nhận
ra ông Sáu là cha vì cô bé chỉ nhớ một người duy nhất là cha, đó là người
chụp ảnh chung với má.
- Ông Sáu có thêm vết thẹo trên má khi bi thương nên khác người trong ảnh.
Đó thực sự là tình yêu sâu sắc và cảm động mà Thu dành cho cha của mình.
*.Tình cảm của ông Sáu dành cho con.
- Ông Sáu nôn nao , vui sướng vì được về thăm con.
- Trước thái độ lạnh nhạt, ông Sáu đã đau khổ, cảm thấy bất lực.
- Có lúc giận quá không kìm được, ông đã đánh con và ân hận mãi về việc
đó.
- Xa con ông dồn hết tình cảm yêu thương vào việc hoàn thành chiếc lược
ngà
- Trước khi hy sinh ông dồn hết sức lực còn lại gửi người bạn mang cây lược
về cho con gái.
- Tình yêu thương con của người lính thật sâu đậm thiết tha.
3. Kết bài:
- Một lần nữa ta có thể khẳng đinh Nguyễn Quang Sáng là cây bút truyện
ngắn xuất sắc về đề tài chiến tranh.
- Truyện ca ngợi tình phụ tử sâu nặng trong chiến tranh.

- Chúng ta cần biết nâng niu, giữ gìn hạnh phúc gia đình.[6]
b. Dạng đề 2: Phân tích (suy nghĩ) về nhân vật hoặc khía cạnh về nhân
vật trong tác phẩm
-Kiến thức của dạng đề này hẹp hơn so với nghi luận về toàn tác phẩm
truyện, nhưng điều đó không có nghĩa là đơn giản, nhẹ hơn so với yêu cầu
nghi luận tác phẩm. Đây là dạng đề đòi hỏi người viết phải biết lựa chọn,
chắt lọc những gì liên quan đến nhân vật trong khi làm sáng tỏ một vấn đề,
không nhất thiết phải phân tích đầy dủ cả nội dung, giá tri nghệ thuật của tác
phẩm.
- Khi nghi luận ngoài việc phân tích, đánh giá về nhân vật để làm toát lên


nôi dung, tư tưởng, học sinh cần đánh giá được vai trò, vi trí của nhân vật ấy
trong xã hội thời kì đấy đồng thời liên hệ với cuộc sống hiện tại. Tất nhiên
khi phân tích nhân vật, hoặc khía cạnh nhân vật cần phải đặt vào tổng quan
của toàn tác phẩm.
- Điều quan trọng khi làm dạng đề này cần chú ý đến các khía cạnh: Hoàn
cảnh sống của nhân vật, diện mạo, tính cách, quan hệ với mọi người đồng
thời hướng dẫn các em phân biệt các kiểu nhân vật như : nhân vật chức
năng, nhân vật loại hình, nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng hay nhân vật
nhận thức…Yêu cầu học sinh phải nhớ những tình tiết quan trọng để trích
dẫn trong quá trình làm bài.
- Dàn ý của dạng bài phân tích nhân vật (loại bài thường gặp)
1. Mở bài : Giới thiệu tác phẩm, nhân vật và nhận xét khái quát về nhân
vật.
2.Thân bài : Lần lượt nghi luận về từng luận điểm của nhận xét trên
thông qua việc phân tích các chi tiết tiêu biểu trong tác phẩm
+ Trang phục, hình dáng, cử chỉ, hành động, lời nói, suy nghĩ, tâm lí
của
nhân vật.

+ Nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác giả.
( Lưu ý: Trình tự phân tích nhân vật khác trình tự kể chuyện của tác phẩm.
Trình tự phân tích là theo mạch lập luận, lí giải của người nghi luận)
3.Kết bài: Đánh giá chung về nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật.
Ví dụ
Đề bài: Phân tích nhân vật Anh thanh niên trong Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn
Thành Long.
Đề bài yêu cầu người viết phải vận dụng kiến thức đã học về nghi luận
một tác phẩm tự sự để phân tích, làm rõ đặc điểm, tính cách của nhân vật.
1.Mở bài: - Đọc truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long người
đọc xao xuyến trước vẻ đẹp của những con người chân thành nồng hậu.
- Trong đó Anh thanh niên làm công tác khí tượng đã để lại cho chúng ta
nhiều ấn tượng khó phai mờ.
2.Thân bài: Cần đảm bảo các ý sau:
+ Giới thiệu chung về nhân vật.
- Anh thanh niên quê ở Lào cai xuất hiện từ lời giới thiệu của bác lái xe với
ông họa sĩ và cô kĩ sư.
- Sống và làm việc một mình trên đỉnh núi cai Yên Sơn 2600m
- Làm công tác khí tượng kiêm vật lý đia cầu, một công việc đòi hỏi tỉ mỉ,
chính xác.
- Là một con người bình thường nhưng hoàn cảnh sống và làm việc hết sức
đặc biệt, nhất là khi anh mới 27 tuổi.
+ Anh thanh niên trong công việc.
- Giới thiệu về công việc của mình ngắn gọn nhưng tỉ mỉ => Hiểu và thành
thạo công việc.
- Có ý thức trách nhiệm cao với công việc.
- Đưa ra quan niệm về công việc: “ khi làm việc ta với công việc là đôi, sao
gọi là một mình được” => yêu công việc, ý thức được giá tri của lao động
với con người.
+ Anh thanh niên trong cuộc sống thường ngày.

- Căn nhà giản di, đồ đạc đơn sơ, nhưng gọn gàng ngăn nắp
- Trồng hoa nuôi gà, đọc sách…
=> Người có trách nhiệm với chính bản thân mình.
+ Anh thanh niên trong cách đối sử với mọi người.
- Gửi vợ bác lái xe tam thất khi nghe tin bác ốm.
- Mời khách nhiệt tình, hái hoa tặng cô gái.
- Trò chuyện cởi mở với mọi người.


- Chuẩn bi đồ ăn đi đường cho hai người.
=> Yêu quý, trân trọng, chu đáo với mọi người.
3. Kết bài.
- Một điển hình cho những người lao động đang thầm lặng cống hiến sức
mình cho Tổ quốc.
- Để lại những tình cảm tốt đẹp trong lòng người đọc.
- Khơi gợi những suy nghĩ về ý nghĩa của cuộc sống, của lao động tự giác
về con người và nghệ thuật.[6]
Qua việc hướng dẫn, tôi nhận thấy các em đã biết xác đinh phạm vi đề
và vận dụng kiến thức kiến thức ở khía cạnh liên quan đến nhân vật theo yêu
cầu của của bài để làm bài, kết quả đạt cao hơn.
c. Dạng đề 3.
Phân tích để nêu nhận xét hoặc làm sáng tỏ một vấn
đề
(một nhận định)
Phân tích để nêu nhận xét hoặc làm sáng tỏ một vấn đề (một nhận
đinh) giáo viên phải hướng dẫn học sinh phân biệt với phân tích một tác
phẩm theo yêu cầu thông thường. Với dạng đề này yêu cầu cao hơn thường
dành cho đối tượng thi học sinh khá - giỏi hoặc thi vào trường chuyên. Làm
rõ được vấn đề nhận xét trên cơ sở một tác phẩm truyện, yêu cầu học sinh
biết tích hợp các kiến thức chương trình ở các lớp dưới để nâng cao việc giải

quyết đề bài, đồng thời nắm được kiến thức về lí luận văn học. Học sinh cần
đọc kỹ đề, bám vào ý kiến, nhận đinh của đề để xác đinh luận điểm chính
xác, rõ ràng, nếu đề có nhận đinh thì phải giải thích nhận đinh sau mới lấy
kiến thức đã học trong tác phẩm để chứng minh cho nhận đinh.
Có đề ta phải dựa vào ý kiến để nhận xét, để xác lập các luận điểm
trong khi làm bài. Nhưng có đề yêu cầu người viết phải giải thích ý kiến
(nhận đinh) sau mới chứng minh qua nhân vật, tình huống trong tác phẩm.
Ví dụ: Nhà văn Nga I-li-a Ê-ren-bua viết:
“Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”
(SGK Ngữ văn 6, tập hai, NXB Giáo dục, 2006, tr.106107)
Lời bàn của em về điều nhà văn nói qua truyện ngắn Làng của Lim Lân. [4]
Dàn ý: (giải thích nhận đinh, chứng minh qua tác phẩm)
1. Mở bài
- Dẫn dắt và nêu vấn đề nghi luận
- Trích dẫn nhận đinh
2. Thân bài:
a. Giải thích sơ lược về ý kiến của I-li-a Ê-ren-bua
- Vì sao nhà văn Nga lại khẳng đinh tình yêu Tổ quốc lại được phát triển từ
lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu quê hương?
- Lòng yêu nước là một khái niệm trừu tượng, ý nghĩa rộng lớn.
- Xây dựng gia đình của mình no ấm, hạnh phúc đó là tình yêu Tổ quốc. Góp
phần xây dựng làng xóm, quê hương giàu đẹp đó là tình yêu Tổ quốc, khi Tổ
quốc bi xâm lăng, sẵn sàng bảo vệ đó là tình yêu Tổ quốc. Nhân vật ông Hai
của Kim Lân được đánh giá là người nông dân yêu quê hương, đất nước.
b. Chứng minh: Tình yêu làng, yêu kháng chiến của ông Hai
- Ông Hai là người có tình yêu đặc biệt sâu sắc với làng Chợ Dầu, nơi chôn
rau cắt rốn của ông
- Trước cách mạng
+ Ông luôn tự hào ông luôn tự hào về làng chợ Dầu của ông giàu đẹp
+ Ông luôn say mê khoe

- Sau cách mạng, ông Hai phấn khởi trong cuộc sống tự do, ông lại đi khoe
và tự hào về nhiều điều khác về làng chợ Dầu:
+ Làng có phòng trào cách mạng sôi nổi, lôi cuốn nhiều đoàn thể, tầng lớp


tham gia trong đó có ông.
+ Làng có “cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa, rộng rãi nhất vùng...”
- Ở nơi tản cư:
+ Ông Hai nhớ làng Chợ Dầu đến day dứt, cồn cào.
+ Ngày nào cũng vậy, ngoài giờ giúp đỡ gia đình vợ con, ông cũng dành thời
gian ra phòng thông tin văn hóa nơi cản cư để nghe ngóng thông tin về tình
hình kháng chiến.
- Tình huống thất thiệt:
+ Niềm vui ấy không kéo dài được lâu, ông Hai đột ngột nghe tin làng Chợ
Dầu Việt gian theo Tây.
+ Song ông vẫn khẳng đinh lập trường: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo
Tây mất rồi thì phải thù”.
- Tình huống được cải chính:
+ Khi nghe được tin cải chính làng không theo giặc, lòng ông Hai lại vui
sướng như mở cờ. Ông lại hớn hở đi khoe : Làng ông bi đốt, nhà ông bi đốt,
cháy tiệt.
-> Có thể nói, đây là một nhân vật nông dân có tình yêu, yêu quê hương đến
tuyệt đối.
3. Kết luận:
- Ông Hai là hình tượng tiêu biểu cho tầng lớp nông dân thời chống Pháp
yêu làng, yêu nước sâu sắc.
- Kim Lân đã khéo léo đặt nhân vật của mình vào tình huống gay gắt để bộc
lộ tính cách, tình cảm, thông qua đó gửi gắm tư tưởng yêu nước của nhà văn.
Sau khi hướng dẫn học sinh cụ thể dạnh đề này, tôi nhận thấy các em
không còn cảm thấy khó. Nhiều em có khả năng viết văn lại thích viết dạng

đề này vì phát huy được tư duy và vốn kiến thức hiểu biết rộng của các em.
d. Dạng đề 4: Nghị luận tổng hợp về truyện
Khác với dạng đề yêu cầu nghi luận về : Nhân vật, khía cạnh của tác
phẩm, một tác phẩm hay đánh giá, nhận đinh về tác phẩm. Dạng đề tổng hợp
truyện thường có phạm vi rộng, bao quát hơn (thường liên quan đến hai nhân
vật, hai tác phẩm trở lên). Một trong những cơ sở để hình thành một đề bài
tổng hợp về truyện là những nét tương đồng đó.
Cần phải phát hiện ra được cả những điểm khác biệt - yếu tố tạo nên
những nét riêng, sự độc đáo, hấp dẫn. Chính vì thế, nghi luận tổng hợp về
truyện cũng thường đặt ra yêu cầu đối chiếu, so sánh…để hướng tới mục
đích tìm ra nét tương đồng lẫn khác biệt, điều này cũng như khi nghi luận
tổng hợp về thơ. Các vấn đề được đưa ra để so sánh, đối chiếu ở dạng đề này
rất phong phú, có thể so sánh cùng một khía cạnh nội dung, hình thức, có thể
là so sánh hai nhân vật, hai đoạn thơ, hai đoạn văn...Để giải quyết một dạng
đề này, học sinh không chỉ nắm vững kiến thức về các vấn đề cụ thể mà phải
có kỹ năng tổng hợp, so sánh, đối chiếu để rút ra những điểm tương đồng,
khác biệt giữa các vấn đề nhằm làm bật lên một quy luật, một nhận thức
mới mẻ thuộc về bản chất sáng tạo của văn học.
Có thể hình dung khái quát cách làm bài đối với dạng đề này như sau:
trước hết lần lượt phân tích từng vấn đề, rồi rút ra nhận xét về những điểm
tương đồng, khác biệt giữa hai vấn đề đó, ý nghĩa của các vấn đề so sánh. Ở
một số đề bài cần hướng dẫn học sinh có thể triển khai ngay thao tác so sánh
trong quá trình phân tích nếu thấy phù hợp
Quá trình làm bài cần tránh tình trạng phân tích, cảm nhận riêng lẻ,
tách rời đối tượng nghi luận. Chẳng hạn đề yêu cầu viết một bài văn với nội
dung: “ Hình ảnh người phụ nữ qua hai tác phẩm: “Truyện Kiều” của
Nguyễn Du và “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Nhiều
học sinh chỉ phân tích lần lượt hình ảnh người phụ nữ qua từng truyện mà
quên thao tác tổng hợp, đánh giá cần thiết. Với đề bài này, học sinh vẫn có



thể chọn các cách viết như trên (chỉ tìm hiểu hình ảnh người phụ nữ qua
từng tác phẩm truyện). Hoặc có thể phân tích lồng ghép những điểm chung
và nét riêng của các nhân vật trong tác phẩm rồi kết hợp đánh giá.
Ví dụ 1: Cảm nhận về hình ảnh người nông dân qua hai tác phẩm “Lão
Hạc”- Nam Cao và “Làng” của Kim Lân
Với dạng đề này có thể hướng học sinh làm theo hai cách
Cách 1
1. Giới thiệu tác giả Nam Cao, truyện ngắn “Lão Hạc”, Kim Lân - “Làng”
2. Lần lượt phân tích:
- Nhân vật lão Hạc
- Nhân vật ông Hai
3. Nhận xét, đánh giá:
- Sự tương đồng giữa hai nhân vật
- Sự khác biệt giữa hai nhân vật
- Ý nghĩa của hai nhân vật trong mối quan hệ tương đồn của từng tác
phẩm
- Liên hệ đến xã hội
Cách 2
1. Giới thiệu tác giả Nam Cao, truyện ngắn “Lão Hạc”, Kim Lân - “Làng”
2. Phân tích hai nhân vật ở các khía cạnh
- Hoàn cảnh sống
- Số phận của người nông dân trước và sau cách mạng
- Phẩm chất cao đẹp của người nông dân được thể hiện qua hai nhân vật
3. Nhận xét, đánh giá:
- Sự tương đồng, khác biệt trong hoàn cảnh, số phận, tính cách của hai
nhân vật, trong nghệ thuật khắc học nhân vật.
- Ý nghĩa của hai nhân vật trong mối quan hệ tương đồng
Ví dụ 2 : So sánh giá tri nhân đạo của tác phẩm “Chuyện người con gái
Nam Xương” của Nguyễn Dữ với tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du

Với đề bài này giáo viên cần hướng dẫn học sinh làm bài đảm bảo các ý
sau:
1. Giới thiệu:
- Hai tác giả Nguyễn Dữ và Nguyễn Du
- Hai tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” và “Truyện
Kiều”
2. Phân tích giá tri nhân đạo trong tác phẩm
- Giá tri nhận đạo trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam
Xương”
- Giá tri nhận đạo trong tác phẩm “Truyện Kiều”
3. Nhận xét đánh giá
- Những điểm tương đồng
- Những điểm khác biệt, lí giải sự khác biệt.
Sau khi hướng dẫn học sinh áp dụng các kiểu đề này, tôi nhận thấy
các em biết cách làm bài hơn, nhất là việc xác đinh đề không còn lạc hướng
và kết quả bài làm cao hơn rõ rệt.
2.3.2.4. Kĩ năng làm bài nghị luận về tác phẩm truyện (đoạn trích)
- Kĩ năng tìm hiểu đề
- Kĩ năng tìm ý
- Kĩ năng lập dàn ý
- Kĩ năng làm bài theo các dạng đề.
Lưu ý: - Dù đề bài thuộc dạng nào thì học sinh cũng phải đọc kĩ đề, hiểu
yêu cầu đề. Sau đó lựa chọn kiến thức cần cho việc giải quyết yêu cầu của đề
bài


- Đinh hướng trình bày cho bài văn : cần có bao nhiêu ý; sắp xếp ý nào
trước, ý nào sau; viết đoạn văn theo cách nào.
- Viết theo yêu cầu đinh hướng đã xác lập ở trên.
- Khi làm bài phải quan tâm đến cách làm, yêu cầu của từng dạng bài cụ thể.

*Sơ đồ tư duy các dạng bài nghị luận về tác phẩm truyện (đoạn trích)
2.3.2.5. Tích hợp với giờ dạy văn bản
- Một tác phẩm tự sự (truyện) cũng như bất kì một tác phẩm nào khác, đòi
hỏi phải được phân tích toàn diện, cặn kẽ và đúng phương hướng. Điều đặc
biệt ở tác phẩm thuộc thể truyện là cấu tạo hình tượng tác phẩm dựa vào ba
yếu tố: tình tiết, nhân vật và lời kể. Cho nên khi phân tích cấu tạo hình tượng
của truyện không thể không lưu tâm đến ba yếu tố đó. Đây cũng là nét phân
biệt cấu tạo một tác phẩm truyện với một tác phẩm thơ trữ tình - một bài thơ
hay. Để học sinh nắm rõ được điều này phải thông qua giờ dạy văn bản.
Trong tác phẩm tự sư, nhà văn “nói”qua nhân vật. Nhân vật chính mang chở
nội dung phản ánh tư tưởng, chủ đề của tác phẩm, là nơi kí thác quan niệm
về con người, về nhân sinh của nhà văn. Bởi thế mà phân tích nhân vật trở
thành con đường quan trọng nhất để đi tới giá tri hiện thực, giá tri nhân đạo
của tác phẩm, để nhận ra lý tưởng thẩm mĩ của nhà văn. Trong quá trình dạy
giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh nắm chắc từ các nhân vật, sự việc,
tình tiết trong tác phẩm (ðoạn trích). Yêu câÌu học sinh đọc ở nhà, tóm tắt tốt
tác phẩm truyện trước khi học tiết văn bản trên lớp . Ví dụ : Khi học văn
bản “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng học sinh cần phải tóm tắt
được các ý lớn :
- Anh Sat́u gặp bé Thu
- Những ngày anh Sáu ở nhà
- Lúc anh Sáu ra đi
- Anh Sáu ở chiến khu dồn hết tình yêu thương làm cây lược ngà nhưng
chưa kip trao cho con gái thì anh đã hy sinh.
Trong quá trình dạy cần hướng dẫn học sinh bình giảng : để làm bài
tốt người viết cần lắng nghe, chắt lọc cảm nhận xem yếu tố nào gây ấn
tượng đậm nhất, lay động sâu xa nhất, nắm lấy nó rồi viết ra. Ấn tượng càng
sâu đậm ám ảnh bao nhiêu thì càng dễ truyền cảm trong bài viết bấy nhiêu.
Nói chung ngọn nguồn của lời bình bao giờ cũng phải là sự đồng cảm. Tiếng
nói của lời bình là tiếng nói tri ân, đồng thời kết hợp với giảng. Giảng là

giảng giải, là cắt nghĩa lí giải, nếu bình nghiêng về cảm thì giảng nghiêng về
hiểu; bình nghiêng về những rung động tâm hồn thì giảng nghiêng về nhận
thức trí tuệ. Biết cách bình kết hợp với giảng các tình tiết liên quan đến nhân
vật mới giúp bài văn có sự thăng hoa - sức hấp dẫn. Trong quá trình bình
giáo viên có thể hướng dẫn các em tích hợp với các văn bản khác.
Ví dụ : Giáo viên hướng dẫn học sinh bình ý nghĩa chi tiết chiếc lược
ngà trong truyện “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng, có thể bình như
sau:
Chiếc lược ngà chỉ là chi tiết nhỏ là món quà của người cha – người
chiến sĩ trong chiến tranh. Thế nhưng nó lại hàm chứa trong đó cả chủ đề
của câu chuyện. Chiếc lược ngà là bao nhiêu công sức, bao nhiêu tình
thương tha thiết, sâu nặng, bao nhiêu nỗi nhớ thương dày vò của người cha ở
chiến trường. Chiếc lược ngà là kỉ vật, là di vật cuối cùng của người cha đã
hy sinh và được con gái nâng niu đón nhận như đón nhận tất cả tấm lòng của
cha. Nếu chiếc lá cuối cùng trong truyện ngắn cùng tên của O-Hen-ri là nhân
chứng cho tình người cao cả với tấm lòng nhân ái bao la giữa những họa sĩ
nghèo, thì chiếc lược ngà là nhân chứng của tình cha con sâu nặng, là vật kí
thác thiêng liêng của tình phụ tử. Chiếc lược vừa là cây cầu vững chắc nối


tình cha con vừa là ngọn lửa truyền cho con sức mạnh để con có đủ niềm tin
trở thành cô giao liên tiếp tục chiến đấu bảo vệ Tổ quốc theo lớp cha
anh :“lớp cha trước, lớp con sau. Đã thành đồng chí chung câu quân hành”.
Đây là việc cần có trong mỗi giờ dạy văn bản truyện, cũng là bước
chuẩn bi quan trọng để các em có kiến thức viết tốt kiểu bài này.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Sau khi áp dụng đề tài vào dạy học năm học 2016-2017,kết quả chất
lượng dạy học thu được như sau:
Lớp

Sĩ số
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
9A
38
11
29.0
22
57.9
5
13.1
0
0
9B
36
8
22.2
19
52.8
9

25.0
0
0
Qua bảng số liệu về chất lượng dạy học kiểu bài nghi luận về tác
phẩm truyện (đoạn trích), chúng ta thấy chất lượng dạy học đã được nâng
cao rõ rệt. Tình trạng học sinh làm bài nghi luận về tác phẩm truyện chỉ có
nửa trang giấy hoặc chỉ sa vào kể lại cốt truyện không còn nữa, mỗi khi gặp
dạng đề này các em không còn lúng túng, băn khoăn, lo lắng vì không biết
làm như thế nào, bắt đầu từ đâu. Đa số các em đã biết vận dụng những kiến
thức đã học ở phần văn bản truyện vào làm bài, đồng thời biết phân tích,
bình giảng, đưa ra những nhận xét, đánh giá, cảm nhận của mình về giá tri
nội dung, nghệ thuật của truyện thông qua các tình tiết liên quan đến nhân
vật (cử chỉ, hành động, lời nói, việc làm…), kết quả thi khảo sát, thi học sinh
giỏi cấp Huyện, cấp Tỉnh do tôi phụ trách được nâng lên rõ rệt.
Bản thân: đã nhận thức sâu sắc về kiểu bài và biết cách vận dụng
giảng dạy kiểu bài phù hợp.
Ðồng nghiệp: trao đổi thêm một cách dạy mới phong phú và hiệu quả.
Sáng kiến kinh nghiệm là tài liệu tham khảo cho giáo viên bộ môn Ngữ văn.
.
Nhà trường: Sáng kiến kinh nghiệm đã góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục qua các bài kiểm tra đinh kỳ, bài khảo sát học kỳ, thi học sinh giỏi,
thi vào THPT ở môn Ngữ văn.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHI
1. Kết luận
Chúng ta có thể nhận thấy rõ, nghi luận về một tác phẩm truyện (đoạn
trích) là một trong những dạng làm văn khó đối với học sinh lớp 9. Do vậy
các em cần có kỹ năng làm bài: trước hết cần giúp học sinh củng cố và khắc
sâu kiến thức lí thuyết. Từ việc nắm chắc khái niệm đến cách trình bày dàn ý
của bài văn.Tiếp đến hướng dẫn học sinh cách làm bài cụ thể như: đọc kỹ đề,
xác đinh xem mệnh đề yêu cầu gì. Hướng dẫn học sinh tìm ý bằng cách đặt

câu hỏi. Khâu quan trọng để giúp các em làm bài được tốt cần biết cách lập
dàn ý theo từng dạng đề như: nghi luận về nhân vật hoặc khía cạnh về nhân
vật trong tác phẩm; nghi luận về một tác phẩm (đoạn trích); nghi luận nêu
nhận xét để làm sáng tỏ một vấn đề (một nhận đinh); nghi luận tổng hợp về
truyện.
Tất cả các dạng bài nghi luận về tác phẩm truyện đòi hỏi học sinh phải
vận dụng kiến thức tổng hợp của mình từ bài học hiện tại, từ những năm
trước và thể hiện kĩ năng viết được rèn luyện qua nhiều bài mới mong có


được sự chuyển biến tốt. Kinh nghiệm mà tôi đã trình bày là rút ra từ thực tế
hướng dẫn học sinh qua nhiều năm giảng dạy, nhiều khóa học sinh đã học
tập, thi cử kết quả dần được nâng qua các kì thi, từ kiểm đinh chất lượng,
đến thi chuyển cấp, nhất là kì thi học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh.
Qua áp dụng đề tài này vào thực tế giảng dạy, tôi thấy để việc hướng dẫn
học sinh cách làm văn nghi luận về tác phẩm truyện (đoạn trích) cần phải
chú ý các điểm sau :
- Phân chia kiến thức và hướng dẫn cụ thể phù hợp với đối tượng học sinh.
- Khi dạy phải tích hợp với văn bản, đồng thời hướng dẫn kĩ cho học sinh kĩ
năng diễn đạt luận điểm, kĩ năng chuyển tiếp, liên kết các luận điểm, các
phần, các đoạn.
- Cần rèn cho học sinh kĩ năng bình giảng, kĩ năng so sánh văn học…
- Cần giao bài tập theo các dạng đề để học sinh viết nhiều - luyện hành văn.
- Tăng cường kiểm tra việc học bài và làm bài tập của học sinh , giao đề yêu
cầu các em luyện nhiều để bài viết ngày càng chất lượng.
- Đặc biệt vào giai đoạn ôn luyện cho các kỳ thi, giáo viên nên hệ thống bài
tập theo dạng bài cụ thể cho học sinh rèn thành thạo kĩ năng và vững kiến
thức
Đề tài này, do bản thân tự học hỏi, đúc rút kinh nghiệm qua giảng dạy
và có sự tham khảo thêm từ tài liệu, nên cũng không tránh khỏi những sai

sót. Rất mong các đồng nghiệp tham khảo và góp ý chân thành để việc dạy
học của tôi và tất cả chúng ta đạt hiệu quả tốt hơn!
2. Kiến nghị
- Tổ chức cho học sinh thi viết văn, thơ hoặc những cuộc thi có liên
quan đến môn Ngữ văn.
- Phòng giáo dục cần mở thêm những cuộc hội thảo để trao đổi các
SKKN đạt giải cấp tỉnh và giải cao cấp huyện để đồng nghiệp tham khảo.

2017

XÁC NHẬN CỦA THỦ

Thanh Hóa, ngày 10 tháng 4 năm

TRƯỞNG ĐƠN VI

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của

mình
người

viết, không sao chép nội dung của
khác.

Người viết sáng kiến
Lê Thị Thoan.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa, sách giáo viên Ngữ văn 9 – Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ

biên)
Nhà xuất bản Giáo dục - Năm XB 2011
2. Một số kiến thức, kĩ năng và Bài tập nâng cao Ngữ văn 9
- Nguyễn
Thi Mai Hoa, Đinh Chí Sáng - Nhà xuất bản Giáo dục – Năm XB 2005
3. Thiết kế bài giảng Ngữ văn 9 - Nguyễn Văn Đường (Chủ biên) Nhà xuất bản Hà Nội - Năm XB 2005.
4. Tuyển chọn đề thi HSG THCS
- Lã Minh Luận, Lã Phương Thảo Nhà xuất bản Đại học sư phạm - Năm XB 2012
5. Các dạng bài tập làm văn Ngữ văn 9
Nhà xuất bản Giáo dục – Năm XB 2012.

- Đỗ Kim Hảo (Chủ biên)

6 . Tài liệu Ôn thi vào lớp 10 môn Ngữ văn –Lê Xuân Soan( Chủ biên)
Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội – 2016
7. Sáng kiến kinh nghiệm của cô Phan Thi Vân – Trường THCS Xuân
Trường – Huyện Xuân Trường – Tỉnh Nam Đinh “ Hướng dẫn học sinh
cách làm bài nghi luận về tác phẩm truyện ( hoặc đoạn trích) trong chương
trình Ngữ văn lớp 9” - SKKN năm 2012- 2013.

DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ


CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả: Lê Thi Thoan
Chức vụ và đơn vi công tác: Giáo viên Trường THCS Đinh Tường.


TT









Kết quả
Cấp đánh đánh
giá
giá xếp loại xếp loại
(Phòng, Sở, (A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)

Năm học
đánh giá xếp
loại

Phòng

B

1999 - 2000

Vài suy nghĩ về dạy – học thơ
Đường trong môn Ngữ văn 7 Phòng


B

2000-2001

Tên đề tài SKKN

Hướng dẫn cách Đọc diễn
cảm trong môn Ngữ văn cho
học sinh lớp 6

Giúp học sinh lớp 9 tìm hiểu
về nghệ thuật ước lệ trong
Truyện Kiều- Nguyễn Du

Phòng

C

2002- 2003

Và suy nghĩ về cách làm văn
miêu tả trong dạy Tập làm
văn lớp 6.

Phòng

B

2003-2004.


PHỤ LỤC
Giáo án thực nghiệm.
NGỮ VĂN 9 - TIẾT 120 :


LUỴÊN TẬP LÀM BÀI NGHI LUẬN VỀ
TÁC PHẨM TRUYỆN - VIẾT BÀI SỐ 6 (Ở NHÀ)
A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT
1. Kiến thức : Giúp học sinh hiểu rõ cách làm bài nghi luận về tác phẩm
truyện,
đoạn trích, trình tự các bước : tìm hiểu đề, tìm ý, lập
dàn bài và viết bài
2. Kĩ năng : Hiểu rõ hơn các tác phẩm truyện đã học trong chương trình.
3.Thái độ : Hiểu rõ hơn các tác phẩm truyện đã học trong chương trình.
B. CHUẨN BI
1. GV : Giáo án , phiếu học tập
2. HS : Chuẩn bi bài ở nhà
C. TIẾN TRÌNH LÊN LỚP :
1. Ổn định tổ chức :
2. Kiểm tra bài cũ : Kết hợp trong tiết học
3.Tổ chức các họat động:
Hoạt động của thầy và trò
- GV: Ôn lại khái niệm :

Yêu cầu cần đạt
I. Ôn lại lý thuyết :

? Thế nào là văn nghi luận về một tác - Khái niệm : Là trình bày những nhận xét,
phẩm truyện ?

đánh giá của mình về nhân vật, sự kiện,
chủ đề hoặc nghệ thuật của một tác phẩm
- HS : Đọc lập trả lời
cụ thể.
? Những yêu cầu đối với bài văn nghi - Yêu cầu của bài văn nghi luận?
luận là gì ?
Những nhận xét, đánh giá về truyện mà
- HS : Trả lời
người viết phát hiện và khái quát nên phải
phát từ cốt truyện, tính cách số phận
- GV kiểm tra phần chuẩn bi bài ở nhà xuất
nhân vật và nghệ thuật của tác phẩm.
của hs (Tích hợp với phần văn bản) -Tóm tắt :
? Yêu cầu hs tóm tắt ngắn gọn văn• + Anh Sáu gặp bé Thu
bản “Chiếc lược ngà”
• + Những ngày anh Sáu ở nhà
• + Lúc anh Sáu ra đi
- GV hỏi một số chi tiết quan trọng• + Anh Sáu ở chiến khu dồn hết tình yêu
trong đoạn trích
thương làm cây lược ngà nhưng chưa kip
trao cho con gái thì anh đã hy sinh.
- Đối tượng là anh Sáu và bé Thu


- Cảm xúc và nhận biết về hai nhân vật
Tình huống :

? Đối tượng nào cần quan tâm ở đây?

- Hai cha con gặp nhau sau tám năm xa

cách, nhưng thật trớ trêu là bé Thu không
nhận ra cha, đến lúc em nhận ra và biểu lộ
tình cảm thắm thiết thì anh Sáu lại phải ra
đi. Đây là tình huống cơ bản của Truyện

? Nêu tình huống thể hiện tình cha
con sâu sắc của hai cha con anh Sáu? - Ở khu căn cứ, anh Sáu dồn tất cả tình
thương yêu và mong nhớ đứa con vào làm
cây lược nhà để tặng con, nhưng anh đã hy
sinh khi chưa kip trao món quà ấy cho con
gái.
II. Luyện tập trên lớp :
1.Tìm hiểu đề :
- Thể loại : NL về tác phẩm truyện
- Vấn đề : Nhận xét, đánh giá nội dung và
nghệ thuật của đoạn trích
2.Lập dàn ý :
- HS trả lời nhận xét, bổ sung

a. MB :

- Hoàn cảnh lịch sử : Đế quốc Mĩ thẳng
tay đàn áp, phong traò chống chiến tranh
Đề : Cảm nhận của em về đoạn trích của nhân dân MN dâng cao, nhiều gia đình
chiu cảnh chia li
“Chiếc lược ngà”
- HS đọc đề ở SGK.

? Kiểu đề gì ? Nghi luận vấn đề gì ?
- HS :XĐ

? Hình thức nghi luận là gì ?
- HS : Nêu cảm nhận

- VB “Chiếc lược ngà” thể hiện rỏ hoàn
cảnh đó
b. TB :
- Nhận xét về anh Sáu : xa gia đình, mong
nhớ con, yêu thương con (vỗ về con, làm
lược cho con )

- HS thảo luận 4 nhóm, sau 10 phút
Đại diện 4 nhóm trình bày, nhận xét , - Nhận xét về bé Thu : ương bướng nhưng
rất yêu ba (không gọi ba, ôm cổ ba)
bổ sung , chốt ý
- GV hướng dẫn học sinh hoàn thiện - Nội dung : Tình cha con sâu nặng, thiêng
liêng trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh ,
dàn bài
lên án chiến tranh
- Nghệ thuật : Tạo tình huống hấp dẫn,


chọn người kể hợp lí, ngôn ngữ giản di
c. KB : Khẳng đinh sức sống của văn bản,
suy nghĩ về con người Việt Nam trong
chiến tranh
III. Viết bài số 6
Đề : Suy nghĩ của em về nhân vật Ông Hai
trong truyện ngắn làng của Kim Lân.

Viết bài số 6

? Hướng dẫn về nhà viết bài
TLV số 6
- GV ghi đề bài lên bảng
- GV yêu cầu :
+ Không sao chép Sách tham khảo
+ Thời hạn nộp bài : sau một tuần
D. Củng cố- Dặn dò – Hướng dân tự học:
Yêu cầu hs đọc ghi nhớ tiết 119
Yêu cầu hs nhắc lại đề bài chi tiết của đề. [ 3]
E. Rút kinh nghiệm sau tiết dạy:



×