Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Rèn kĩ năng làm bài đọc hiểu văn bản cho học sinh lớp 9 bậc THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.53 KB, 22 trang )

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, đề thi môn Ngữ văn đã có sự thay đổi mạnh mẽ
với hai phần: đọc hiểu và làm văn. Trong đó, phần đọc hiểu văn bản là điểm mới
nhất của đề thi và nó chiếm một tỉ lệ điểm khá lớn (30 % số điểm). Đây là phần mới
được đưa vào trong các bài kiểm tra từ 1 - 2 tiết, bài kiểm tra học kì, kiểm tra cuối
năm…nhằm đánh giá năng lực đọc hiểu của học sinh. Hiện nay, việc đánh giá năng
lực đọc hiểu của học sinh thường diễn ra dưới hai hình thức: kiểm tra miệng (yêu
cầu học sinh nhắc lại một nội dung nào đó của bài học đã ghi chép trong vở) và
kiểm tra viết (viết về một vấn đề thuộc phương diện nội dung hoặc nghệ thuật của
văn bản đã học). Những nhiệm vụ này chưa đánh giá được năng lực đọc hiểu các
loại văn bản khác nhau của học sinh. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần đổi mới đánh giá
năng lực đọc hiểu của học sinh bằng việc sử dụng những văn bản mới (bao gồm cả
văn bản văn học và văn bản thông tin, có cùng đề tài, chủ đề hoặc thể loại với văn
bản đã học trong chương trình, sách giáo khoa), yêu cầu học sinh vận dụng những
kiến thức, kĩ năng đã có vào việc đọc hiểu và cảm thụ văn bản mới này. Như vậy,
thầy cô không thể giúp các em đọc hộ, cảm hộ, hiểu hộ như trước đây nữa mà các
em phải tự mình khám phá, tìm hiểu văn bản. Chính vì vậy, học sinh gặp rất nhiều
khó khăn khi làm bài. Thế nhưng, trong sách giáo khoa, sách bài tập, sách tham
khảo đều không có các dạng bài này. Các em không biết phải bắt đầu từ đâu, trình
bày bài như thế nào, vận dụng những kiến thức gì… nhất là đối với học sinh có học
lực trung bình, yếu. Còn đối với học sinh khá giỏi, đây là một trong những dạng bài
phát huy được khả năng cảm thụ văn học của các em. Các em rất hứng thú khi được
tìm hiểu, khám phá nhiều văn bản văn học mới không có trong chương trình và sách
giáo khoa. Từ đó các em lĩnh hội được nhiều kiến thức bổ ích, nhiều bài học có giá
trị nhân văn sâu sắc.
Trong quá trình giảng dạy môn Ngữ văn, tôi nhận thấy năng lực cảm thụ, đọc
hiểu văn bản của học sinh còn rất hạn chế. Trong các giờ dạy học đọc hiểu văn bản,
học sinh thường nghe và ghi chép lại bài giảng của giáo viên chứ chưa tự mình cảm
thụ, tìm hiểu, khám phá văn bản. Càng lên lớp cao hơn, việc đọc hiểu và cảm thụ
văn bản lại càng bất cập. Do áp lực thi cử, tình trạng thầy cô đọc hộ, hiểu hộ, cảm


thụ hộ học sinh diễn ra khá phổ biến. Chính vì thế, để làm được dạng bài này học
sinh phải có một năng lực đọc hiểu văn bản nhất định trên một nền tảng kiến thức
cơ bản. Vì vậy, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu các biện pháp để “Rèn kỹ năng làm bài
phần đọc hiểu văn bản cho học sinh lớp 9 bậc Trung học cơ sở”, qua đây, tôi
muốn chia sẻ với đồng nghiệp nhằm nâng cao chất lượng môn Ngữ văn nói chung
và đặc biệt là nâng cao chất lượng thi vào lớp 10 Trung học phổ thông.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, tôi muốn đưa ra phương pháp hướng dẫn học sinh làm
tốt phần đọc hiểu văn bản để nâng cao chất lượng môn Ngữ văn, đặc biệt là nâng
cao chất lượng thi vào lớp 10 Trung học phổ thông.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là: Kĩ năng làm bài phần đọc hiểu văn
bản cho học sinh lớp 9 bậc Trung học cơ sở.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
1


- Khảo sát, phân loại;
- Xây dựng cơ sở lí thuyết;
- Phương pháp thực nghiệm;
- Phương pháp kiểm tra, đánh giá học sinh;
- Tổng hợp, rút kinh nghiệm.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Do chi phối bởi mục tiêu môn học và điều kiện thực hiện, đánh giá kết quả
học tập của học sinh trong môn Ngữ văn hiện nay tập trung chủ yếu vào hai năng
lực đọc và viết. Trong đó, đọc hiểu là một năng lực tiếp nhận văn bản, thông qua
hoạt động của con người đọc chữ, xem các kí hiệu bảng biểu, hình ảnh trong nhiều
loại văn bản khác nhau, nhằm xử lí thông tin trong văn bản để phục vụ những mục

đích cụ thể trong học tập hoặc giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn của cuộc sống. Đọc
hiểu luôn là một nội dung trọng tâm trong chương trình môn Ngữ văn (bậc Tiểu học
là môn Tiếng Việt), vì vậy đọc hiểu là một năng lực đặc thù của môn học này.
Trong dạy học môn Ngữ văn, năng lực đọc hiểu văn bản văn học rất được coi
trọng. Phần lớn bài học trong chương trình và sách giáo khoa hiện nay là bài học về
văn bản văn học. Vì thế, để học tốt môn Ngữ văn bắt buộc học sinh phải có năng lực
đọc hiểu văn bản.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Về phía giáo viên
- Thuận lợi: Là giáo viên trẻ, tâm huyết với nghề, có chuyên môn vững
vàng, luôn có ý thức học hỏi, tìm tòi đổi mới phương pháp giảng dạy, được 10 năm
trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn 9 và ôn thi vào lớp 10 Trung học phổ thông, nên
trong quá trình dạy, bản thân nắm bắt được năng lực đọc hiểu văn bản của học sinh
như thế nào, học sinh đã làm được những gì, các em còn gặp khó khăn ở đâu. Vì
vậy, tôi đã thấy được sự liên quan của kiểu bài này với các kiểu bài khác.
- Khó khăn: Dạng bài đọc hiểu văn bản sẽ là một dạng bài hoàn toàn mới
trong các đề kiểm tra, đề thi năm nay. Phần đọc hiểu thường xoay quanh nhiều vấn
đề với rất nhiều câu hỏi phong phú và đa dạng nhưng trong sách giáo khoa Ngữ văn
9 và sách bài tập Ngữ văn 9 không có một bài tập nào ở dạng này. Hơn nữa những
văn bản đọc hiểu thường là các văn bản ngoài chương trình và sách giáo khoa.
Chính vì vậy đòi hỏi người giáo viên phải tự tìm tòi, nghiên cứu trong rất nhiều tài
liệu, sắp xếp theo từng chủ đề, từng dạng theo từng mức độ để cung cấp cho học
sinh.
2.2.2. Về phía học sinh
- Thuận lợi: Đa số học sinh lớp 9 trường tôi đều ngoan, có ý thức vươn lên
trong học tập. Phụ huynh học sinh quan tâm tạo điều kiện mua đầy đủ sách giáo
khoa, sách bài tập, sách tham khảo cho các em học.
- Khó khăn: Số học sinh thật sự có năng lực đọc hiểu văn bản rất ít; năng lực
cảm thụ, năng lực đọc hiểu văn bản của học sinh hiện nay còn rất hạn chế. Thậm chí
các em còn rất lười đọc văn bản, kể cả các văn bản trong sách giáo khoa. Một số em

khi đọc còn lơ mơ, không nắm vững được nội dung văn bản. Do không có năng lực
đọc hiểu, nên khi phải tiếp cận với một văn bản mới ngoài và sách giáo khoa sẽ mất
rất nhiều thời gian để đọc hiểu văn bản, dẫn đến không còn đủ thời gian để làm các
phần còn lại. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả làm bài của các em. Những
2


học sinh trung bình và yếu, lười học, lười đọc, ngại suy nghĩ, làm việc rập khuôn,
khi giao bài tập về nhà thường không tự mình đọc văn bản, suy nghĩ để làm bài mà
các em thường tìm kiếm câu trả lời trên mạng, hoặc chép bài của bạn. Chính vì vậy,
kĩ năng làm bài của các em rất hạn chế, nhiều em chưa nắm vững kiến thức nên
khó vận dụng để làm bài tập, đặc biệt đây lại là một dạng bài tập khó, đòi hỏi sự vận
dụng linh hoạt các kiến thức, kĩ năng, phân tích tổng hợp, tư duy…
2.3. Các giải pháp đã thực hiện để giải quyết vấn đề
Từ các nguyên nhân, thực trạng trên, tôi đã cố gắng tìm hiểu cấu trúc, phạm
vi, yêu cầu của dạng bài này để giúp các em nắm được. Sau đó, củng cố lại những
kiến thức cần có để thực hiện việc đọc hiểu văn bản. Hướng dẫn các em các bước
khi làm dạng bài này. Tìm tòi các bài tập, sắp xếp bài tập theo các mức độ (nhận
biết, thông hiểu, vận dụng thấp và vận dụng cao), quy về các dạng bài cụ thể, mỗi
mức độ, mỗi dạng bài cụ thể hướng dẫn học sinh cách làm có ví dụ minh họa. Sau
mỗi dạng, tôi đưa ra bài tập củng cố để học sinh tự rèn luyện.
2.3.1. Khảo sát, phân loại đối tượng
Trước khi áp dụng đề tài, tôi đã khảo sát học sinh với đề bài như sau:
Đọc đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi bên dưới:
“Bao giờ cho tới mùa thu
Trái hồng trái bưởi đánh đu giữa rằm
Bao giờ cho tới tháng năm
Mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao
Ngân hà chảy ngược lên cao
Quạt mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Bờm...

Bờ ao đom đóm chập chờn
Trong leo lẻo những vui buồn xa xôi
Mẹ ru cái lẽ ở đời
Sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn
Bà ru mẹ ... mẹ ru con
Liệu mai sau các con còn nhớ chăng?”
(Trích Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Nguyễn Duy)
Câu 1 (0.5 điểm). Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ trên.
Câu 2 (0.5 điểm). Đoạn thơ trên được viết theo thể thơ nào ?
Câu 3 (1.0 điểm). Chỉ ra và phân tích giá trị của hai biện pháp tu từ chủ yếu
được sử dụng trong đoạn thơ: “Bao giờ cho đến mùa thu / Trái hồng trái bưởi đánh
đu giữa rằm / Bao giờ cho đến tháng năm / Mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao”.
Câu 4 (1.0 điểm). Em nhận xét thế nào về quan niệm của Nguyễn Duy: “Mẹ
ru cái lẽ ở đời / Sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn” ?
Kết quả thu được:

9A


số
25

9B

27

Lớp

Giỏi
SL

%
2
8,0
1

3,7

Khá
SL
5

%
20,0

Trung bình
SL
%
12 48,0

5

18,5

13

48,1

Yếu
SL
5


%
20,0

6

22,3

Kém
SL
%
1
4,0
2

7,4
3


2.3.2. Rèn kỹ năng phân tích cấu trúc, phạm vi, yêu cầu của đề
* Cấu trúc của phần đọc hiểu
Cấu trúc của dạng bài đọc hiểu gồm hai phần:
- Phần 1: Ngữ liệu mở trong hoặc ngoài chương trình và sách giáo khoa (đoạn
văn, đoạn thơ, bài thơ ngắn, mẩu truyện…). Nhưng xu hướng sẽ là một văn bản mới
hoàn toàn, không có trong chương trình và sách giáo khoa.
- Phần 2: Thực hiện trả lời yêu cầu 4 câu hỏi dựa trên chuẩn kiến thức và kĩ
năng hiện hành, mức độ từ dễ đến khó.
* Phạm vi của phần đọc hiểu
- Văn bản văn học (Văn bản nghệ thuật):
+ Văn bản trong chương trình (Nghiêng nhiều về các văn bản đọc thêm)

+ Văn bản ngoài chương trình (Các văn bản cùng loại với các văn bản được
học trong chương trình).
- Văn bản nhật dụng (Loại văn bản có nội dung gần gũi, bức thiết đối với
cuộc sống trước mắt của con người và cộng đồng trong xã hội hiện đại như: Vấn đề
chủ quyền biển đảo, thiên nhiên, môi trường, năng lượng, dân số, quyền trẻ em, ma
tuý,… Văn bản nhật dụng có thể dùng tất cả các thể loại cũng như các kiểu văn bản
song có thể nghiêng nhiều về loại văn bản nghị luận và văn bản báo chí).
* Yêu cầu cơ bản của phần đọc hiểu
- Nhận biết về kiểu (loại), phương thức biểu đạt, cách sử dụng từ ngữ, câu
văn, hình ảnh, các biện pháp tu từ,…
- Hiểu đặc điểm thể loại, phương thức biểu đạt, ý nghĩa của việc sử dụng từ
ngữ, câu văn, hình ảnh, biện pháp tu từ.
- Hiểu nghĩa của một số từ trong văn bản.
- Khái quát được nội dung cơ bản của văn bản, đoạn văn.
- Bày tỏ suy nghĩ bằng một đoạn văn ngắn.
2.3.3. Chuẩn bị những kiến thức cần có để thực hiện việc đọc hiểu văn bản
Phần đọc hiểu thường xoay quanh nhiều vấn đề. Vì vậy, để hình thành năng
lực đọc hiểu các em cần nắm vững những kiến thức cơ bản sau:
- Kiến thức về các biện pháp tu từ (so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa, nói
giảm, nói tránh, điệp từ, điệp ngữ, phép đối, …).
- Kiến thức về các phương thức biểu đạt (tự sự, biểu cảm, miêu tả, thuyết
minh, nghị luận và hành chính công vụ).
- Kiến thức về thể thơ (ngũ ngôn, thất ngôn, lục bát, song thất lục bát, tự
do...)
Khi củng cố cho học sinh những kiến thức đó, giáo viên phải làm sao cho học
sinh ghi nhớ một cách bản chất, tránh việc ghi nhớ kiến thức lí thuyết quá nhiều mà
không hiểu được bản chất.
2.3.4. Phân tích, nhận định các dạng câu hỏi phần đọc hiểu
Các dạng câu hỏi chủ yếu sử dụng trong đánh giá năng lực đọc hiểu của học
sinh thường có hai dạng:

Dạng 1: Câu hỏi trắc nghiệm. Thường sử dụng 4 dạng cơ bản sau:
- Câu hỏi nhiều lựa chọn dạng đơn giản
- Câu hỏi Có - Không; Đúng - Sai dạng phức hợp
- Câu hỏi điền khuyết
- Câu hỏi ghép đôi
4


Ví dụ: Đọc đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi:
“Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Tỏa nắng xuống dòng sông lấp loáng.”
(Nhớ con sông quê hương, Tế Hanh)
Câu 1. Đoạn thơ trên sử dụng phương thức biểu đạt nào?
A. Tự sự
B. Biểu cảm
C. Nghị luận
D. Thuyết minh
Câu 2. Đoạn thơ trên được viết theo thể thơ tám chữ. Đúng hay sai?
A. Đúng
B. Sai
Câu 3. Điền từ thích hợp vào chỗ trống để hoàn chỉnh nhận xét sau: Trong
đoạn thơ trên tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ………………và……………để thể
hiện sâu sắc nỗi nhớ, tình yêu đối với quê hương.
Câu 4. Nối cột A với cột B sao cho phù hợp
A

B


a. xanh biếc

1. danh từ

b. quê hương

2. động từ

c. soi tóc

3. tính từ

Dạng 2: Câu hỏi trả lời ngắn
- Là dạng câu hỏi học sinh phải viết câu trả lời dựa trên yêu cầu của câu hỏi
một cách ngắn gọn, chính xác. Nội dung các câu hỏi độc lập, câu trên không gợi ý
cho câu dưới. Dạng câu hỏi này thường được sử dụng chủ yếu trong các đề thi và
kiểm tra.
- Có hai dạng câu hỏi trả lời ngắn:
+ Câu hỏi đóng: là câu hỏi được giới hạn rõ/ có một đáp án, thể hiện cách
hiểu chính xác về văn bản.
+ Câu hỏi mở: là câu hỏi có thể có nhiều phương án trả lời khác nhau, thể
hiện quan điểm suy nghĩ riêng của học sinh. Câu hỏi có nội dung trả lời mở thường
được đặt ở vị trí cuối cùng trong hệ thống câu hỏi của phần đánh giá năng lực đọc
hiểu.
Trong đề kiểm tra, đề thi: Câu 1,2,3 là dạng câu hỏi đóng (học sinh trả lời dựa
trên ngữ liệu đã cho). Câu 4 là dạng câu hỏi mở, học sinh liên hệ thực tế để trả lời
vấn đề liên quan đến ngữ liệu đã cho (Phần trả lời ngắn yêu cầu học sinh viết từ 710 câu).
- Câu hỏi nhận biết thường đưa ra yêu cầu thí sinh chỉ ra các phương thức
biểu đạt, các thể thơ, các biện pháp tu từ… trong văn bản.
5



- Câu hỏi thông hiểu thường yêu cầu thí sinh xác định nội dung chính của văn
bản hay một câu, một đoạn trong văn bản.
- Câu hỏi vận dụng thấp thường yêu cầu nêu tác dụng của các phép tu từ hay
việc sử dụng kết hợp các phương thức biểu đạt, sử dụng từ ngữ … trong văn bản.
- Câu hỏi vận dụng cao thường là dạng câu hỏi bày tỏ quan điểm thái độ hoặc
liên hệ thực tế đời sống (liên hệ hiện tượng nào và đưa ra giải pháp).
Ví dụ: Đọc đoạn thơ sau và thực hiện các yêu cầu:
“Sau tất cả mọi vui buồn chết sống
Đôi khi cây thành chỗ nhớ cho người
Tôi viết về cây giữa mùa hạt giống
Đang trồng gieo trên khắp nước non ta
Cây của rừng sâu, đồng rộng, vườn nhà
Cây xanh biếc của đường xuyên Nam Bắc
Cây dằng dịt ôm cuộc đời ấm áp
Người ở giữa cây, cây ở bên người.
Bài thơ xanh cây viết dưới mặt trời
Cho ta đọc những lời yêu mặt đất.”
(Tạ ơn cây, Vũ Quần Phương. Nguồn: thivien,net)
Câu 1 (0,5 điểm). Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ.
Câu 2 (0,5 điểm). Chỉ ra hai biện pháp tu từ được tác giả sử dụng trong đoạn
thơ.
Câu 3 (1,0 điểm). Nêu nội dung chính của đoạn thơ.
Câu 4 (1,0 điểm). Em có đồng tình với quan điểm sau đây của tác giả không?
Vì sao?
“Người ở giữa cây, cây ở bên người.”
2.3.5. Thực hiện các bước làm phần đọc hiểu
- Bước 1: Đọc lướt văn bản và hệ thống câu hỏi cuối mỗi văn bản.
- Bước 2: Đọc kỹ văn bản, gạch chân những từ ngữ, câu văn, những thông tin

quan trọng liên quan tới những câu hỏi ở cuối văn bản.
- Bước 3: Huy động các kiến thức, kết hợp với những nội dung thông tin
trong văn bản dự kiến trả lời các câu hỏi.
- Bước 4: Trong mỗi câu hỏi cần xác định rõ và tự trả lời nhanh những câu
hỏi sau: Mục đích của câu hỏi là gì? Nội dung câu hỏi đề cập tới những kiến thức cơ
bản nào? Cần trả lời như thế nào cho phù hợp?
- Bước 5: Bám sát vào nội dung, yêu cầu câu hỏi để trả lời ngắn gọn, trúng,
đúng và đủ ý, tránh cách viết chung chung, không rõ ý. Kiểm tra lại câu trả lời và
sửa chữa (nếu cần).
2.3.6. Xác định các dạng bài phần đọc hiểu
2.3.6.1. Mức độ nhận biết: Thường có các dạng sau:
Dạng 1: Yêu cầu nhận diện các phương thức biểu đạt
Nhận diện phương thức biểu đạt là một nội dung quen thuộc, thường gặp
trong các đề thi đọc hiểu. Khi làm dạng bài này học sinh thường xác định chưa
chính xác các phương thức biểu đạt hoặc không biết phương thức nào là chính
phương thức nào là phụ. Vì không phải mỗi văn bản chỉ có một phương thức biểu
6


đạt duy nhất, mà thường kết hợp các phương thức biểu đạt khác nhau nhưng bao giờ
cũng có một phương thức là chủ đạo.
Để xác định chính xác phương thức biểu đạt, các em phải nắm vững kiến thức
cơ bản về khái niệm, đặc điểm và một số dấu hiệu để nhận biết các phương thức
biểu đạt.
* Tự sự:
- Là dùng ngôn ngữ để kể một chuỗi sự việc, sự việc này dẫn đến sự việc kia,
cuối cùng tạo thành một kết thúc. Ngoài ra, người ta không chỉ chú trọng đến kể
việc mà còn quan tâm đến việc khắc hoạ tính cách nhân vật và nêu lên những nhận
thức sâu sắc, mới mẻ về bản chất của con người và cuộc sống.
- Cách nhận biết phương thức tự sự: có cốt truyện, có nhân vật, có diễn biến

sự việc, có những câu văn trần thuật. Tự sự thường được sử dụng trong truyện, tiểu
thuyết, văn xuôi nói chung, đôi khi còn được dùng trong thơ ( khi muốn kể sự việc)
- Ví dụ: “Một hôm, mẹ Cám đưa cho Tấm và Cám mỗi đứa một cái giỏ, sai đi
bắt tôm, bắt tép và hứa, đứa nào bắt được đầy giỏ sẽ thưởng cho một cái yếm đỏ.
Tấm vốn chăm chỉ, lại sợ dì mắng nên mải miết suốt buổi bắt đầy một giỏ cả tôm
lẫn tép. Còn Cám quen được nuông chiều, chỉ ham chơi nên mãi đến chiều chẳng
bắt được gì.”
(Tấm Cám)
Trong đoạn văn trên, tác giả dân gian kể về sự việc hai chị em Tấm đi bắt tép.
Đoạn văn có nhân vật: dì ghẻ, Tấm, Cám; có câu chuyện đi bắt tép của hai chị em;
có diễn biến hành động của các nhân vật dì ghẻ, Tấm & Cám; có các câu trần thuật.
Vậy phương thức biểu đạt của đoạn văn trên là tự sự.
* Miêu tả:
- Là dùng ngôn ngữ làm cho người nghe, người đọc có thể hình dung được cụ
thể sự vật, sự việc như đang hiện ra trước mắt hoặc nhận biết được thế giới nội tâm
của con người.
- Dấu hiệu nhận biết phương thức miêu tả: Có các câu văn, câu thơ tái hiện lại
hình dáng, diện mạo, màu sắc…của người và sự vật (tả người, tả cảnh, tả tình,…)
- Ví dụ: “Trăng đang lên. Mặt sông lấp loáng ánh vàng. Núi Trùm Cát đứng
sừng sững bên bờ sông thành một khối tím sẫm uy nghi, trầm mặc. Dưới ánh trăng,
dòng sông sáng rực lên, những con sóng nhỏ lăn tăn gợn đều mơn man vỗ nhẹ vào
hai bên bờ cát.”
(Trong cơn gió lốc, Khuất Quang Thụy)
Đoạn văn trên tả cảnh dòng sông trong một đêm trăng sáng. Vậy phương thức
biểu đạt của đoạn văn trên là miêu tả.
* Biểu cảm:
- Là dùng ngôn ngữ để bộc lộ tình cảm, cảm xúc của mình về thế giới xung
quanh.
- Dấu hiệu nhận biết phương thức biểu cảm: có các câu văn, câu thơ miêu tả
cảm xúc, thái độ của người viết hoặc của nhân vật trữ tình.

- Ví dụ:
“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than”
(Ca dao)
7


Câu ca dao trên miêu tả cảm xúc nhớ nhung của một người đang yêu. Vậy
phương thức biểu đạt của câu ca dao là biểu cảm.
* Thuyết minh:
- Là cung cấp, giới thiệu, giảng giải,,…những tri thức về một sự vật, hiện
tượng nào đó cho những người cần biết nhưng còn chưa biết.
- Dấu hiệu nhận biết phương thức thuyết minh: có những câu văn chỉ ra đặc
điểm riêng, nổi bật của đối tượng, người ta cung cấp kiến thức về đối tượng, nhằm
mục đích làm người đọc hiểu rõ về đối tượng nào đó.
- Ví dụ: “Theo các nhà khoa học, bao bì ni lông lẫn vào đất làm cản trở quá
trình sinh trưởng của các loài thực vật bị nó bao quanh, cản trở sự phát triển của
cỏ dẫn đến hiện tượng xói mòn ở các vùng đồi núi. Bao bì ni lông bị vứt xuống cống
làm tắc các đường dẫn nước thải, làm tăng khả năng ngập lụt của các đô thị về
mùa mưa. Sự tắc nghẽn của hệ thống cống rãnh làm cho muỗi phát sinh, lây truyền
dịch bệnh. Bao bì ni lông trôi ra biển làm chết các sinh vật khi chúng nuốt phải…”
(Thông tin về Ngày Trái Đất năm 2000)
Đoạn trích thuyết minh về tác hại của bao bì ni lông, nhằm mục đích làm cho
người đọc hiểu rõ về tác hại của nó. Vậy phương thức biểu đạt của đoạn văn là
thuyết minh.
* Nghị luận:
- Là phương thức chủ yếu được dùng để bàn bạc phải trái, đúng sai nhằm bộc
lộ rõ chủ kiến, thái độ của người nói, người viết rồi dẫn dắt, thuyết phục người khác
đồng tình với ý kiến của mình.
- Dấu hiệu nhận biết phương thức nghị luận: Có vấn đề bàn luận, có quan

điểm của người viết. Nghị luận thường đi liền với thao tác phân tích, giải thích,
chứng minh, bình luận.
- Ví dụ: “... Trên thực tế, không một lòng đố kị nào có thể ngăn cản được
người khác thành công, cho nên lòng đố kị chỉ có hại cho bản thân kẻ đố kị. Nó vừa
làm cho kẻ đố kị không thể sống thanh thản, luôn dằn vặt khổ đau vì những lí do
không chính đáng, lại vừa có thể dẫn họ đến những mưu đồ xấu xa, thậm chí phạm
tội ác. Kẻ đố kị không hiểu rằng “ngoài trời còn có trời ”(cao hơn),“ngoài núi còn
có núi” (cao hơn), mình tài giỏi còn có người tài hơn.”
(Theo Băng Sơn)
Trong đoạn văn trên, tác giả nêu ra vấn đề cần bàn luận đó là “lòng đố kị gây
nên nhiều tác hại trong cuộc sống”, người viết bày tỏ quan điểm phê phán đối với
những con người có lòng đố kị. Vậy, phương thức biểu đạt của văn bản là nghị luận.
* Hành chính công vụ:
- Là phương thức dùng để giao tiếp giữa Nhà nước với nhân dân, giữa nhân
dân với cơ quan Nhà nước, giữa cơ quan với cơ quan, giữa nước này và nước khác
trên cơ sở pháp lí (thông tư, nghị định, đơn từ, báo cáo, hóa đơn, hợp đồng…)
- Ví dụ: Giấy xin phép nghỉ học, đơn, hợp đồng,…
* Lưu ý:
- Phương thức hành chính công vụ thường ít xuất hiện trong đề đọc hiểu.
- Trong đề thi nếu có câu hỏi: Xác định phương thức biểu đạt chính của văn
bản, thì các em chỉ cần nêu một phương thức chính. Nếu đề bài hỏi xác định
phương thức biểu đạt hoặc những phương thức biểu đạt thì có thể trả lời nhiều
phương thức.
8


Ví dụ 1: Xác định những phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn thơ
sau:
“Thuở nhỏ tôi ra ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm

bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần
Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng
Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn”
(Đò Lèn, Nguyễn Duy)
Trả lời: Những phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn thơ là biểu
cảm, tự sự, miêu tả.
Ví dụ 2: Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn văn sau:
“Chúng ta đều biết thói quen xấu dễ lây lan như một căn bệnh truyền nhiễm
và chúng ta rất dễ bị lây nhiễm những hành vi tiêu cực từ những người xung quanh.
Người có bản lĩnh sẽ tránh được ảnh hưởng của những thói xấu ấy, đồng thời cảm
hóa để những người xung quanh trở nên tốt hơn. Tự tin, bản lĩnh là những yếu tố
quan trọng để bạn luôn là chính mình chứ không phải là bản sao cá tính của người
khác.”
(Trích Bạn không phải là cái bóng của người khác,
NXB Văn hóa thông tin)
Trả lời: Phương thức biểu đạt chính của đoạn văn trên là nghị luận.
Dạng 2: Nhận diện các biện pháp tu từ
Đối với dạng câu hỏi này học sinh thường xác định chưa chính xác các biện
pháp tu từ, không chỉ ra được các biện pháp tu từ được thể hiện ở đâu hoặc còn
nhầm lẫn giữa biện pháp này và biện pháp tu từ khác.
Để nhận biết chính xác các biện pháp tu từ, các em cần: nắm vững khái niệm,
tác dụng của các biện pháp tu từ. Cụ thể:
* So sánh:

- So sánh là đối chiếu 2 hay nhiều sự vật, sự việc mà giữa chúng có những nét
tương đồng để làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho lời văn.
- Ví dụ:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”
(Ca dao)
* Nhân hóa:
- Nhân hóa là biện pháp tu từ sử dụng những từ ngữ chỉ hoạt động, tính cách,
suy nghĩ, tên gọi ... vốn chỉ dành cho con người để miêu tả đồ vật, sự vật, con vật,
cây cối khiến cho chúng trở nên sinh động, gần gũi, có hồn hơn.
- Ví dụ: Chị ong nâu, ông mặt trời, bác giun, chị gió,…
* Ẩn dụ:
9


- Ẩn dụ là gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng tên sự vật, hiện tượng khác có
nét tương đồng với nó nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.
- Ví dụ:
“Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.”
(Ca dao)
* Hoán dụ:
- Hoán dụ là gọi tên sự vật, hiện tượng, khái niệm này bằng tên của một sự
vật, hiện tượng khác có quan hệ gần gũi với nó nhằm làm tăng sức gợi hình, gợi
cảm cho sự diễn đạt.
- Ví dụ:
“Bàn tay ta làm nên tất cả
Có sức người sỏi đá cũng thành cơm”
(Bài ca vỡ đất, Hoàng Trung Thông)
* Nói quá/ phóng đại/ khoa trương/ ngoa dụ/ thậm xưng/ cường điệu:

- Nói quá là phép tu từ phóng đại mức độ, quy mô, tính chất của sự vật, hiện
tượng được miêu tả để nhấn mạnh, gây ấn tượng, tăng sức biểu cảm.
- Ví dụ:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
(Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi)
* Nói giảm, nói tránh:
- Nói giảm nói tránh là một biện pháp tu từ dùng cách diễn đạt tế nhị, uyển
chuyển, nhằm tránh gây cảm giác quá đau buồn, ghê sợ, nặng nề; tránh thô tục,
thiếu lịch sự.
- Ví dụ:
“Bác Dương thôi đã thôi rồi
Nước mây man mác, ngậm ngùi lòng ta”
(Khóc Dương Khuê, Nguyễn Khuyến)
* Điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc:
- Là biện pháp tu từ nhắc đi nhắc lại nhiều lần một từ, cụm từ, một cấu trúc
câu có dụng ý làm tăng cường hiệu quả diễn đạt: nhấn mạnh, tạo ấn tượng, gợi liên
tưởng, cảm xúc… và tạo nhịp điệu cho câu văn, đoạn văn.
- Ví dụ: Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín”
(Cây tre Việt Nam, Thép Mới)
* Chơi chữ:
- Chơi chữ là lợi dụng đặc sắc về âm, về nghĩa của từ ngữ để tạo sắc thái dí
dỏm, hài hước,… làm câu văn hấp dẫn và thú vị.
- Ví dụ:
“Bà già đi chợ Cầu Đông
Xem một quẻ bói lấy chồng lợi chăng
Thầy bói gieo quẻ nói rằng:
Lợi thì có lợi nhưng răng chẳng còn”
(Ca dao)


10


* Liệt kê:
- Là sắp xếp nối tiếp hàng loạt từ hay cụm từ cùng loại để diễn tả đầy đủ, sâu
sắc hơn những khía cạnh khác nhau của thực tế hay tư tưởng, tình cảm.
- Ví dụ:
“Tỉnh lại em ơi, qua rồi cơn ác mộng
Em đã sống lại rồi, em đã sống!
Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung
Không giết được em, người con gái anh hùng!”
(Người con gái Việt Nam, Tố Hữu)
* Tương phản, đối lập:
- Là cách sử dụng từ ngữ đối lập, trái ngược nhau để tăng hiệu quả diễn đạt.
- Ví dụ:
“O du kích nhỏ giương cao súng
Thằng Mĩ lênh khênh bước cúi đầu
Ra thế, to gan hơn béo bụng
Anh hùng đâu cứ phải mày râu”
(Tố Hữu)
* Đảo ngữ:
- Đảo ngữ là biện pháp tu từ thay đổi trật tự cấu tạo ngữ pháp thông thường
của câu, nhằm nhấn mạnh ý, nhấn mạnh đặc điểm của đối tượng và làm câu thơ, câu
văn thêm sinh động, gợi cảm, hài hòa về âm thanh,…
- Ví dụ:
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
(Qua Đèo Ngang, Bà Huyện Thanh Quan)
* Câu hỏi tu từ:
- Là đặt câu hỏi nhưng không đòi hỏi câu trả lời mà nhằm nhấn mạnh một ý

nghĩa khác.
- Ví dụ :
“Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ ?”
(Ông đồ, Vũ Đình Liên)
* Phép đối:
- Là cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh, các thành phần câu, vế câu song song,
cân đối trong lời nói nhằm tạo hiệu quả diễn đạt: nhấn mạnh, gợi liên tưởng, gợi
hình ảnh sinh động, tạo nhịp điệu cho lời nói.
- Ví dụ:
“Ta/ dại /ta/ tìm/ nơi/ vắng vẻ
Người/ khôn/ người/ đến/ chốn/ lao xao”
(Nhàn, Nguyễn Bỉnh
Khiêm)
* Ví dụ minh họa: Chỉ ra các biện pháp tu từ được tác giả sử dụng trong đoạn
thơ sau:
“Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
11


Người đi rừng núi trông theo bóng Người.”
(Việt Bắc, Tố Hữu)
Trả lời:
- Biện pháp nhân hoá: “Người đi rừng núi trông theo bóng Người”
- Điệp từ “nhớ” ở câu thứ nhất và câu thứ ba.
Dạng 3: Nhận diện các thể thơ
- Để nhận biết được các thể thơ học sinh phải nắm được đặc điểm của các thể
thơ đó: Ngũ ngôn (mỗi câu thơ chỉ có 5 tiếng); thất ngôn bát cú (mỗi bài 4 câu, mỗi

câu có 7 tiếng); thất ngôn bát cú (mỗi bài 8 câu, mỗi câu 7 chữ); lục bát (một câu
sáu tiếng, một câu tám tiếng tạo thành một cặp); Lục bát biến thể (thường biến thể ở
câu tám có thể biến thể thành 9 đến 13 tiếng); song thất lục bát (hai câu 7 tiếng và
một cặp lục bát); tự do (số tiếng trong mỗi dòng thơ không đều nhau).
- Ví dụ: Đoạn thơ sau được viết theo thể thơ gì?
“Con sẽ không đợi một ngày kia
khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc
Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
Con hốt hoảng trước thời gian khắc nghiệt
Chạy điên cuồng qua tuổi mẹ già nua
mỗi ngày qua con lại thấy bơ vơ
ai níu nổi thời gian?
ai níu nổi?
Con mỗi ngày một lớn lên
Mẹ mỗi ngày thêm cằn cỗi
Cuộc hành trình thầm lặng phía hoàng hôn.”
(Mẹ, Đỗ Trung Quân)
Trả lời: Đoạn thơ trên có số tiếng trong mỗi dòng thơ không đều nhau: dòng
3 tiếng, dòng 5 tiếng, dòng 6 tiếng…Vì thế đoạn thơ này được viết theo thể thơ tự
do.
2.3.6.2. Mức độ thông hiểu: thường có các dạng sau:
Dạng 1: Xác định nội dung chính của văn bản
- Để xác định chính xác nội dung của một văn bản học sinh cần đọc kĩ văn
bản để tìm câu chủ đề. Dựa vào câu chủ đề để xác định nội dung.
- Có thể dựa vào nhan đề và những câu văn mở đầu và kết thúc của văn bản
để xác định nội dung chính.
- Hoặc xác định chính xác nội dung của từng đoạn văn bản, rồi tổng hợp lại
thành nội dung bao quát toàn văn bản.
Ví dụ:


Mẹ và quả
(Nguyễn Khoa Điềm)
“Những mùa quả mẹ tôi hái được
Mẹ vẫn trông vào tay mẹ vun trồng
Những mùa quả lặn rồi lại mọc
Như mặt trời, khi như mặt trăng
Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên
Còn những bí và bầu thì lớn xuống
12


Chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn
Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi
Và chúng tôi một thứ quả trên đời
Bảy mươi tuổi mẹ mong chờ được hái
Tôi hoảng sợ, ngày bàn tay mẹ mỏi
Mình vẫn còn một thứ quả non xanh.”
(Thơ Việt Nam 1945 - 1985, NXB Văn học, Hà Nội, 1985)
Nội dung chính của bài thơ trên là gì?
Trả lời: Nội dung chính của bài thơ: Bằng sự trải nghiệm cuộc sống, với một
tâm hồn giàu duy tư trăn trở trước lẽ đời, Nguyễn Khoa Điềm đã thức nhận được
mẹ là hiện thân của sự vun trồng bồi đắp để con là một thứ quả ngọt ngào, giọt mồ
hôi mẹ nhỏ xuống như một thứ suối nguồn bồi đắp để những mùa quả thêm ngọt
thơm. Quả không còn là một thứ quả bình thường mà là “quả” của sự thành công, là
kết quả của suối nguồn nuôi dưỡng. Những câu thơ trên không chỉ ngợi ca công lao
to lớn của mẹ, của thế hệ đi trước với thế hệ sau này mà còn lay thức tâm hồn con
người về ý thức trách nhiệm, sự đền đáp công ơn sinh thành của mỗi con người
chúng ta với mẹ.
Dạng 2: Đặt nhan đề cho văn bản
- Nếu văn bản không có nhan đề thì đề bài có thể sẽ yêu cầu học sinh đặt cho

nó một nhan đề phù hợp với nội dung.
- Cơ sở để đặt nhan đề là phải dựa vào nội dung văn bản và dựa vào câu chủ
đề. Nhan đề đòi hỏi phải đúng trọng tâm, ngắn gọn, hay.
“Sao đã cũ
Trăng thì già
Nhưng tất cả đều trẻ lại
Để con bắt đầu gọi ba!
Con bắt đầu biết thương yêu
Như ba bắt đầu gian khổ
Đêm sinh con hoa quỳnh nở
Một bông trắng xóa hương bay...
Hôm nay con bắt đầu gọi ba
Người con nhận diện, yêu thương đầu tiên sau mẹ
Tiếng gọi thiêng liêng trào nước mắt
Đây bàn tay ba rắn chắc
Cho ba ẵm, ba thơm
Thịt xương, hòn máu của ba đây có mùi của mẹ
Ba nhìn sao cũ
Ba nhìn trăng già
Bầu trời hiện thêm một ngôi sao mới
Ngôi sao biết gọi: Ba! Ba!”
(Đặng Việt Ca)
Bài thơ trên chưa có nhan đề, em hãy đặt nhan đề cho bài thơ?
Trả lời: Có thể đặt nhan đề cho bài thơ là: Ngôi sao của ba hoặc Con là ngôi
sao
Dạng 3: Nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong văn bản
13


- Câu hỏi này thường kết hợp với phần nhận biết biện pháp tu từ. Nếu không

để nêu được tác dụng của biện pháp tu từ học sinh cũng phải xác định chính xác
biện pháp tu từ có trong văn bản rồi mới nêu tác dụng.
- Ví dụ:
“Các anh đứng như tượng đài quyết tử
Thêm một lần Tổ quốc được sinh ra
Dòng máu Việt chảy trong hồn người Việt
Đang bồn chồn thao thức với Trường Sa
Khi hy sinh ở đảo đá Gạc Ma
Họ đã lấy ngực mình làm lá chắn
Để một lần Tổ quốc được sinh ra”
(Tổ quốc ở Trường Sa, Nguyễn Việt Chiến)
Chỉ ra và nêu hiệu quả của phép tu từ được sử dụng trong câu thơ: “Các anh
đứng như tượng đài quyết tử.”
Trả lời: Phép tu từ so sánh thể hiện sự dũng cảm, kiên cường, quyết chiến với
kẻ thù của những người chiến sĩ trong nhiệm vụ bảo vệ đảo quê hương.
Dạng 4: Nêu ý nghĩa của một số từ ngữ đặc biệt trong văn bản: thường là
những từ ngữ được dùng với nghĩa chuyển, nghĩa hàm ẩn chứ không phải là những
từ ngữ chỉ có nghĩa trực tiếp.
Ví dụ: Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu:
“Chuyện kể rằng
Có quả trứng đại bàng
Rơi vào ổ gà đang ấp
Khi nở ra cùng với bầy gà
Đại bàng con ngượng ngùng chiêm chiếp
Nhảy bay loạng choạng sân nhà.
Không ai nói với đại bàng về những chân trời xa
Về những đại ngàn bí mật
Nên nó vẫn hồn nhiên bới đất
Chỉ có khát vọng mơ hồ
Lâu lâu lại cồn cào trong ngực...

Làm sao mà ai biết
Mình đã bắt đầu từ quả trứng nào đây
Sao không thử một lần vỗ cánh tung bay?..”
(Khát vọng, Đặng Hồng Thiệp, Thơ Sông Lam,
trang 247, NXB Hội nhà văn, 2017)
Em hiểu như thế nào về ý nghĩa của hình ảnh bầy gà trong văn bản trên?
Trả lời: Học sinh có thể diễn đạt theo nhiều cách khác nhau nhưng nổi bật
được một hoặc tất cả các ý nghĩa của hình ảnh bầy gà:
- Hoàn cảnh sống trói buộc, tù túng...
- Cái tầm thường, thiển cận, hạn hẹp, kém cỏi…
2.3.6.3. Mức độ vận dụng
Đối với các bài kiểm tra định kì trên lớp chỉ cần viết trong khoảng từ 3 - 7
dòng trình bày suy nghĩ về vấn đề nào đó liên quan đến nội dung của văn bản, thể
14


hiện suy nghĩ riêng của bản thân, không yêu cầu về đoạn văn, bài văn mà yêu cầu
về ý. Còn đối với đề thi học sinh giỏi và thi vào lớp 10, cấp độ này đòi hỏi, yêu cầu
học sinh phải viết đoạn văn.
Để viết được một đoạn văn đạt điểm cao: Trước tiên, cần xác định rõ vấn
đề cần viết (nội dung của đoạn văn), viết trong bao nhiêu dòng? (dung lượng), sau
đó tiến hành tìm ý cho đoạn văn. Việc tìm ý cho đoạn văn sẽ giúp học sinh hình
dung được những ý cần viết, tránh tình trạng viết lan man dài dòng, không trọng
tâm.
- Lưu ý: Đoạn văn cũng có bố cục 3 phần: mở đoạn - thân đoạn - kết đoạn
+ Câu mở đầu có nhiệm vụ dẫn dắt vấn đề. Đối với đoạn văn trong đề đọc
hiểu, các em nên dẫn dắt từ nội dung của văn bản được trích dẫn.
+ Các câu nối tiếp: Dựa vào các ý chính vừa ghi trên giấy nháp, chúng ta tiến
hành viết đoạn văn.
+ Câu kết của đoạn có nhiệm vụ kết thúc vấn đề. Câu kết có thể nêu cảm xúc

cá nhân, mở rộng vấn đề, hoặc tóm lược vấn đề vừa trình bày.
Hình thức trình bày của đoạn văn có thể theo: quy nạp, diễn dịch, hoặc tổng phân - hợp. Nhưng cách đơn giản nhất là trình bày theo kiểu diễn dịch, tức là câu
chủ đề nằm ở đầu đoạn. Các câu sau triển khai ý cho câu mở đầu.
Chẳng hạn: Đề bài yêu cầu đọc hiểu về đoạn thơ trong trường ca Những
người đi tới biển - Thanh Thảo, sau đó yêu cầu viết đoạn văn khoảng 7- 10 câu về
trách nhiệm của thế hệ trẻ với đất nước.
“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
Tuổi hai mươi làm sao không tiếc?
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ Quốc?”
(Trường ca Những người đi tới biển, Thanh Thảo)
Đoạn văn có các ý sau:
- Câu mở đầu dẫn dắt vấn đề: Những câu thơ trên của Thanh Thảo nhắc nhở
thế hệ trẻ chúng ta hôm nay: Bất cứ thời đại nào, mỗi con người chúng ta nhất là thế
hệ thế hệ trẻ cũng luôn phải ý thức vai trò trách nhiệm của mình đối với đất nước.
- Các ý chính của đoạn: có thể tham khảo một số gợi ý sau:
+ Thế hệ trẻ phải xác định tư tưởng, tình cảm, lí tưởng sống của mình.
+ Yêu quê hương đất nước, tự hào tự tôn dân tộc, có ý thức bảo vệ chủ quyền
lãnh thổ của dân tộc.
+ Lao động, học tập để khẳng định bản lĩnh, tài năng cá nhân và phục vụ
cống hiến cho đất nước, sẵn sàng có mặt khi Tổ quốc cần.
+ Phải rèn luyện sức khỏe để có khả năng cống hiến và bảo vệ đất nước.
+ Thời đại ngày nay, thanh niên cần tỉnh táo trước hành động của mình không
bị kẻ xấu lợi dụng, lên án và đấu tranh tham gia ngăn chặn các hành vi xâm phạm
chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
- Câu cuối bàn bạc mở rộng vấn đề, nhấn mạnh trách nhiệm của thế hệ trẻ với
đất nước: Như vậy, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là trách nhiệm thiêng liêng của thế
hệ trẻ nói riêng và của mỗi con người Việt Nam nói chung.
Sau khi làm xong, các em cũng nên kiểm tra lại và sửa lỗi (nếu có).
2.3.7. Đề kiểm tra minh họa phần đọc hiểu văn bản
Đề 1: Đọc đoạn thơ sau đây và trả lời câu hỏi bên dưới:

“Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói
15


Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ
Ôi tiếng Việt như đất cày , như lụa
Óng tre ngà và mềm mại như tơ
Tiếng tha thiết nói thường nghe như hát
Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh
Như gió nước không thể nào nắm bắt
Dấu huyền trầm , dấu ngã chênh vênh”
(Tiếng Việt, Lưu Quang Vũ)
Câu 1 (0,5 điểm). Văn bản trên thuộc thể thơ nào?
Câu 2 (0,5 điểm). Chỉ ra và phân tích biện pháp tu từ được sử dụng chủ yếu
trong văn bản.
Câu 3 (1,0 điểm). Văn bản thể hiện thái độ, tình cảm gì của tác giả đối với
tiếng Việt.
Câu 4 (1,0 điểm). Viết đoạn văn khoảng 7 - 10 câu, trình bày suy nghĩ của
em về trách nhiệm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt ở giới trẻ ngày nay
Đáp án:
Câu
Nội dung
Điểm
1
Thể thơ tự do.
0,5
2
Biện pháp tu từ chủ yếu được sử dụng trong văn bản: so sánh:
0,5
- Ôi tiếng Việt như đất cày, như lụa

- Óng tre ngà và mềm mại như tơ
- Tiếng tha thiết nói thường nghe như hát
- Như gió nước không thể nào nắm bắt
Tác dụng: hữu hình hóa vẻ đẹp của tiếng Việt bằng các hình
ảnh, âm thanh; tiếng Việt đẹp bởi hình và thanh.
3
Văn bản trên thể hiện lòng yêu mến, thái độ trân trọng đối với
1
vẻ đẹp và sự giàu có, phong phú của tiếng Việt.
4
Học sinh phải viết một đoạn văn ngắn hoàn chỉnh khoảng 7 - 10
1
câu trình bày được suy nghĩ về trách nhiệm giữ gìn sự trong
sáng của tiếng Việt.(Ví dụ: ý thức giữ gìn sự trong sáng của
tiếng Việt trong nói và viết, phê phán các hành vi cố tình sử
dụng sai tiếng Việt).
Đề 2: Đọc đoạn thơ sau và thực hiện các yêu cầu:
“Tôi là viên đá mọn không tên
Tôi tự hào sung sướng tuổi thanh niên
Chiến đấu lớn dưới ngọn cờ của Đảng.
Tôi yêu bản hùng ca không tắt
Mà lời ca sang sảng những tên người
Bế Văn Đàn hiến trọn tuổi hai mươi
Thân trai trẻ vì nhân dân làm giá súng.
Phan Đình Giót như một hòn núi lớn
Ngực yêu đời đè bẹp lỗ châu mai
La Văn Cầu vì rất quý những bàn tay
Đã chặt đứt cánh tay mình xông tới.
16



Lý Tự Trọng đầu không hề chịu cúi
Lúc ra pháp trường còn đọc truyện Nguyễn Du
Chị Sáu ơi! Bông hoa chị cài đầu
Còn thắm mãi giữa ngàn cây Côn Đảo.”
(Vinh quang thay thế hệ Hồ Chí Minh, Vương Trùng Dương)
Câu 1 (0,5 điểm). Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ trên.
Câu 2 (0,5 điểm). Đoạn thơ sử dụng biện pháp tu từ nào là chính? Tác dụng?
Câu 3 (1,0 điểm). Hình ảnh Lý Tự Trọng “ra pháp trường còn đọc truyện
Nguyễn Du” và chị Võ Thị Sáu với “bông hoa chị cài đầu” gợi lên ý nghĩa gì?
Câu 4 (1,0 điểm). Tại sao tác giả lại xem mình là “viên đá mọn không tên”?
Đáp án:
Câu
Nội dung
1
Phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ trên là biểu cảm
2
- Biện pháp tu từ chính: liệt kê (tên tuổi và hành động dũng cảm
của những anh hùng trẻ tuổi trong 2 cuộc kháng chiến của dân
tộc.)
- Tác dụng:
+ Nhấn mạnh vẻ đẹp kiên cường, bất khuất của những cá nhân
anh hùng đã làm nên thời đại anh hùng, qua đó bộc lộ niềm tự
hào, ngợi ca, biết ơn của tác giả.
+ Tạo âm hưởng mạnh mẽ, hào hùng cho đoạn thơ.
3
Hình ảnh Lý Tự Trọng “ra pháp trường còn đọc truyện Nguyễn
Du” và chị Võ Thị Sáu với “bông hoa chị cài đầu” gợi lên ý
nghĩa:
- Làm nổi bật tư thế hiên ngang, bất khuất đến bất diệt trước sự

tàn ác của kẻ thù của những con người sẵn sàng hi sinh cho độc
lập, tự do của Tổ quốc.
- Khắc họa sâu đậm lòng yêu nước, tinh thần lạc quan, thư thái
cùng vẻ đẹp tâm hồn đầy chất nhân văn ngay cả khi đối diện với
cái chết.
4
Tác giả xem mình là “viên đá mọn không tên” vì:
- Tác giả cảm nhận sâu sắc vai trò và những đóng góp to lớn của
các thế hệ cha anh đi trước đối với công cuộc đấu tranh bảo vệ
nền độc lập dân tộc.
- Nhắc đến những tấm gương anh dũng tác giả cảm thấy mình
nhỏ bé, thậm chí vô danh, vô nghĩa khi chưa có những đóng góp,
cống hiến xứng đáng cho dân tộc.
- Việc xem mình là “viên đá mọn không tên” thể hiện thái độ
khiêm tốn, chân thành và bộc lộ khao khát được thể hiện phần
trách nhiệm của cá nhân với đất nước.

Điểm
0,5
0,5

0,5
0,5
1

Đề 3: Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi ở bên dưới:
Điều gì là quan trọng?
“Chuyện xảy ra tại một trường trung học.
17



Thầy giáo giơ cao một tờ giấy trắng, trên đó có một vệt đen dài và đặt câu
hỏi với học sinh:
- Các em có thấy gì không?
Cả phòng học vang lên câu trả lời:
- Đó là một vệt đen.
Thầy giáo nhận xét:
- Các em trả lời không sai. Nhưng không ai nhận ra đây là một tờ giấy trắng
ư?
Và thầy kết luận:
- Có người thường chú tâm đến những lỗi lầm nhỏ nhặt của người khác mà
quên đi những phẩm chất tốt đẹp của họ. Khi phải đánh giá một sự việc hay một
con người, thầy mong các em đừng quá chú trọng vào vết đen mà hãy nhìn ra tờ
giấy trắng với nhiều mảng sạch mà ta có thể viết lên đó những điều có ích cho
đời.’’
(Trích Quà tặng cuộc sống - Dẫn theo )
Câu 1 (0,5 điểm). Xác định những phương thức biểu đạt được sử dụng trong
văn bản trên.
Câu 2 (0,5 điểm). Trong lời khuyên của thầy giáo, hình ảnh “vết đen” tượng
trưng cho điều gì?
Câu 3 (1 điểm). Nội dung chính mà văn bản trên muốn đề cập đến là gì? Dựa
vào nội dung đó, hãy đặt cho văn bản một nhan đề khác.
Câu 4 (1 điểm). Theo anh/chị, việc chỉ “chú tâm đến những lỗi lầm nhỏ nhặt
của người khác mà quên đi những phẩm chất tốt đẹp của họ” thể hiện một cách
đánh giá con người như thế nào?
Đáp án:
Câu
Nội dung
Điểm
1

Những phương thức biểu đạt được sử dụng trong văn bản: Tự
0,5
sự, nghị luận, miêu tả.
2
Ý nghĩa ẩn dụ của hình ảnh “vết đen”: chỉ những sai lầm, thiếu
0,5
sót, hạn chế… mà mỗi chúng ta đều có thể mắc phải.
3
- Nội dung chính được đề cập đến trong văn bản: Cách nhìn
0,5
nhận, đánh giá một sự việc, một con người.
- Đặt nhan đề khác cho văn bản: Bài học từ người thầy/ Bài học
về cách đánh giá con người/ Những vệt đen trên tờ giấy
0,5
trắng…
Lưu ý: HS có thể có những cách trả lời khác nhưng nếu đúng ý,
phù hợp vẫn cho điểm tối đa.
4
Việc chỉ “chú tâm đến những lỗi lầm nhỏ nhặt của người khác
1
mà quên đi những phẩm chất tốt đẹp của họ” thể hiện một cách
đánh giá con người chủ quan, phiến diện, thiếu đi sự độ lượng,
bao dung cần thiết để nhìn nhận, đánh giá người khác một cách
toàn diện.
Lưu ý: HS có thể có những cách diễn đạt khác nhau nhưng nếu
đúng ý vẫn cho điểm tối đa.
Đề 4. Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 4
18



“Mẹ ơi những ngày xa
Là con thương mẹ nhất
Mẹ đặt tay lên tim
Có con đang ở đó.
Như ngọt ngào cơn gió
Như nồng nàn cơn mưa
Với vạn ngàn nỗi nhớ
Mẹ dịu dàng trong con.”
(Trích Mẹ dặn - Đỗ Nhật Nam,
Hát cùng những vì sao, NXB Lao động 2016, trang 59)
Câu 1 (0,5 điểm). Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích
trên là gì?
Câu 2 (0,5 điểm). Xác định các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong
đoạn trích trên.
Câu 3 (1 điểm). Bức thông điệp mà đoạn thơ gửi đến là gì?
Câu 4 (1 điểm). "Mẹ đặt tay lên tim
Có con đang ở đó".
Em hiểu thế nào về hai dòng thơ trên ?
Đán án:
Câu
Nội dung
Điểm
1
Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích trên
0,5
là biểu cảm.
2
Từ láy: nồng nàn
0,5
Từ ghép: nỗi nhớ; điệp từ: như

3
Tình cảm của con đối với mẹ vô cùng sâu nặng.
1
Hình ảnh của mẹ luôn ở trong trái tim của con.
4
Dù 2 mẹ con xa cách nhưng mỗi lần nhớ con,mẹ hãy đặt tay lên
1
tim, con sẽ sống mãi trong trái tim mẹ, hướng về mẹ và gần mẹ
như trái tim mẹ vậy.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Trong năm học 2018 – 2019, được trực tiếp giảng dạy bộ môn Ngữ văn 9, tôi
đã mạnh dạn áp dụng đề tài này. Sau thời gian áp dụng các giải pháp nói trên, bước
đầu tôi đã thu được những kết quả khả quan. Cụ thể:
Đa số học sinh đã nắm vững các kiến thức có liên quan đến phần đọc hiểu
như: phương thức biểu đạt, các biện pháp tu từ, các thể thơ…
Phần lớn học sinh đã biết cách xác định đúng yêu cầu của đề, không còn lúng
túng khi gặp dạng bài này. Từ đó, các em đã biết cách làm bài và dần làm đúng yêu
cầu của đề. Số học sinh làm sai ít dần, số học sinh đạt điểm tối đa hoặc gần tối đa
phần đọc hiểu tăng dần qua các bài kiểm tra trên lớp.
19


Điều quan trọng là các em đã tự mình đọc văn bản, hiểu văn bản và cảm thụ
văn bản. Tức là, các em đã biết tự mình tìm hiểu, khám phá văn bản. Đó là điều hết
sức quan trọng để nâng cao chất lượng môn Ngữ văn.
Sau khi áp dụng đề tài, tôi đã khảo sát học sinh với đề bài như sau:
Bạn có thể không thông minh bẩm sinh nhưng bạn luôn chuyên cần và vượt
qua bản thân từng ngày một. Bạn có thể không hát hay nhưng bạn là người không
bao giờ trễ hẹn. Bạn không là người giỏi thể thao nhưng bạn có nụ cười ấm áp.

Bạn không có gương mặt xinh đẹp nhưng bạn rất giỏi thắt cà vạt cho ba và nấu ăn
rất ngon. Chắc chắn, mỗi một người trong chúng ta đều được sinh ra với những giá
trị có sẵn. Và chính bạn, hơn ai hết, trước ai hết, phải nhận ra những giá trị đó...
(Trích Nếu biết trăm năm là hữu hạn, Phạm Lữ Ân)
Câu 1 (0,5 điểm). Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên.
Câu 2 (0,5 điểm). Chỉ ra biện pháp tu từ được tác giả sử dụng trong đoạn
trích.
Câu 3 (1,0 điểm). Em hiểu thế nào về câu: “Chắc chắn, mỗi một người trong
chúng ta đều được sinh ra với những giá trị có sẵn.’’
Câu 4 (1,0 điểm). Rút ra thông điệp ý nghĩa nhất với bản thân từ đoạn trích
trên.
Kết quả thu được như sau:

9A


số
25

9B

27

Lớp

Giỏi
SL
%
4
16,0

3

11,1

Khá
SL
7

%
28,0

Trung bình
SL
%
12 48,0

8

29,6

13

48,2

Yếu
SL
2

%
8,0


3

11,1

Kém
SL
%
0
0
0

0

Từ kết quả trên tôi nhận thấy nếu giáo viên thường xuyên rèn luyện kĩ năng
làm bài đọc hiểu văn bản cho học sinh trong các giờ ôn tập Văn học, các tiết hoạt
động Ngữ văn… các em sẽ đạt kết quả cao khi làm bài.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Như vậy, với hệ thống kiến thức và kĩ năng trên, giáo viên không phải mất
nhiều thời gian hướng dẫn học sinh giải từng đề cụ thể, mà chỉ cung cấp cho các em
“chìa khóa” để đọc hiểu văn bản. Chìa khóa đó là một hệ thống những kiến thức, kĩ
năng cần thiết để các em sử dụng trong quá trình đọc hiểu văn bản thông
thường. Khi học sinh đã có một nền tảng kiến thức cơ bản, thì giáo viên chỉ cần
mình họa bằng một số đề cơ bản. Từ đó, học sinh hoàn toàn có thể chủ động, tự tin
khi đứng trước các hiện tượng văn học. Đặc biệt đối với học sinh lớp 9 lại càng
quan trọng và cần thiết để các em tự tin hơn khi bước vào kì thi tuyển sinh vào lớp
10 Trung học phổ thông.
Với đề tài này, giáo viên có thể áp dụng ở tất cả các lớp cấp Trung học cơ sỏ
trong các buổi bồi dưỡng, phụ đạo học sinh. Để đạt hiệu quả cao có thể dạy bài này

dưới dạng một chuyên đề.
3.2. Kiến nghị

20


Cần có thêm một số tiết hoạt động Ngữ văn, một số tiết ôn tập phần Văn để
rèn luyện kỹ năng làm bài đọc hiểu văn bản cho học sinh trong chương trình Ngữ
văn 9.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng khi thực hiện đề tài song không thể tránh khỏi
những hạn chế, thiếu sót. Kính mong các bạn đồng nghiệp tham gia góp ý bổ sung
để tôi có những kinh nghiệm tốt hơn trong quá trình giảng dạy bộ môn Ngữ văn
trong nhà trường Trung học cơ sở. Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Thanh Hóa, ngày 25 tháng 3 năm 2019
ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Ngữ văn 9
2. Sách bài tập Ngữ văn 9
3. Tài liệu tập huấn cán bộ quản lí, giáo viên trung học cơ sở
4. Tài liệu hội thảo - tập huấn đổi mới tổ chức và quản lí hoạt động giáo dục ở
trường trung học phổ thông theo định hướng phát triển năng lực học sinh
5. Bồi dưỡng Ngữ văn 9
6. Một số kiến thức thức - kĩ năng và bài tập nâng cao Ngữ văn 9

7. Bài tập trắc nghiệm Ngữ văn 9
8. Bài tập rèn kĩ năng tích hợp Ngữ văn 9
9. Hướng dẫn trọng tâm ôn luyện thi vào lớp 10 môn Ngữ văn
10.Tuyển tập 36 đề ôn luyện thi vào lớp 10 môn Ngữ văn
11. Nguồn In-tơ-net

22



×