Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Một số giải pháp rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn biểu cảm cho học sinh lớp 7 trường THCS DTNT thường xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.56 KB, 17 trang )

1. Mở đầu.
1.1. Lí do chọn đề tài.
“Văn học là nhân học”. Vậy văn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và
sự phát triển tư duy của con người.Nó là môn học thuộc nhóm khoa học xã hội,
điều đó nói lên tầm quan trọng của nó trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng,
tình cảm cho học sinh.bên cạnh đó nó còn giúp cho con người phát triển hoàn
thiện về: “Đức-Trí-Thể-Mĩ.”.
Môn Ngữ văn trong nhà trường bậc THCS chia làm ba phân môn: Văn học,
Tiếng việt và Tập làm văn. Nhưng Tập làm văn là phân môn mang tính chất tổng
hợp, sáng tạo, thực hành từ các phân môn Văn học, Tiếng việt. Đồng thời, nó
còn gắn bó mật thiết với tất cả các môn học khác trong chương trình THCS và
thể hiện đậm nét dấu ấn của cá nhân.Như vậy, chúng ta dạy Tập làm văn cho học
sinh theo hướng đổi mới là nhằm rèn luyện cho học sinh kỹ năng xây dựng đoạn
văn thông thường và biết hình thành văn bản dưới cả hai hình thức nói, viết về
một số nội dung nào đó hay một đề tài cụ thể.Thông qua bài làm văn của mình,
các em bộc lộ những tri thức, vốn sống ,tư tưởng, tình cảm của cá nhân, biết yêu
thương, quý trọng gia đình, bạn bè, có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết
hướng tới những tình cảm cao đẹp như long nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải,
sự công bằng.căm ghét cái xấu, cái ác.Từ đó rèn cho các em tính tự lập, có tư
duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện ,mĩ trong
nghệ thuật. Vì thế , giáo viên giảng dạy phải biết nắm lấy ưu thế này để phát huy
những khả năng của các em, đồng thời qua việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn,
giáo viên có dịp uốn nắn điều chỉnh lệch lạc trong vốn sống, nhận thức, tư tưởng
tình cảm của các em. Bên cạnh đó người giáo viên cần phải kết hợp với việc
vân dụng các phương pháp và cách tổ chức dạy học linh hoạt để mỗi tiết dạy
Tập làm văn đều đạt được hiệu quả như mong muốn.
Trong chương trình Ngữ văn lớp 7 - Tập I, văn biểu cảm là một kiểu bài
quan trọng, có số lượng lớn trong phân phối chương trình về phân môn Tập làm
văn. Kiểu bài văn biểu cảm không phải là mới đối với học sinh lớp 7, nhưng qua
nhiều năm giảng dạy, tôi nhận thấy mặc dù biểu lộ tình cảm, cảm xúc là một nhu
cầu thiết yếu của con người nhưng học sinh chưa biết cách bộc lộ cảm xúc của


mình để “khơi gợi lòng đồng cảm ở người đọc” (Ngữ văn 7, tập 1). Khi viết văn
các em còn lẫn lộn, chưa phân biệt được văn biểu cảm với các thể loại văn khác
như tự sự, miêu tả. Chính vì vậy điểm ở những bài kiểm tra không cao nên học
sinh cũng chưa có hứng thú với bộ môn Ngữ văn. Đó cũng là điều trăn trở của
giáo viên dạy văn nói chung và bản thân tôi nói riêng. Bởi thế trong tôi luôn đặt
ra mục tiêu trong quá trình giảng dạy của mình là phải tìm ra giải pháp nâng cao
chất lượng dạy và học kiểu bài văn biểu cảm để tạo hứng thú cho học sinh, giúp
học sinh yêu thích môn Ngữ văn hơn.
Từ những lý do nêu trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Một số giải pháp rèn
luyện kĩ năng viết đoạn văn biểu cảm cho học sinh lớp 7, Trường THCS
DTNT, Thường Xuân”, để nghiên cứu và đề xuất các giải pháp rèn luyện kĩ
năng viết đoạn văn biểu cảm cho học sinh lớp 7 được tốt hơn.
1


1.2. Mục đích nghiên cứu.
Qua việc nghiên cứu này tôi hi vọng giúp được bản thân mình và các em
học sinh, đặc biệt là học sinh lớp 7 biết cách viết đoạn văn biểu cảm và hiểu
được vai trò của đoạn văn trong quá trình tạo lập văn bản biểu cảm .Từ đó các
em có hứng thú học thể loại văn biểu cảm và yêu thích môn Ngữ văn hơn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài này tôi đã tập trung nghiên cứu các vấn đề cơ bản sau đây:
- Kĩ năng viết đoạn văn biểu cảm cho học sinh lớp 7
- Phát huy tính sáng tạo giúp cho học sinh học bài với niềm say mê, hứng
thú, hình dung được một cách chân thực, sinh động cuộc sống xung quanh mình
qua bài văn biểu cảm.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
- Phương pháp thu thập thông tin.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Như chúng ta đều biết: Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh THCS
là vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết trong việc tạo lập văn bản. Vậy trước
tiên ta phải hiểu kĩ năng là gì? Gần đây ta nghe nói rất nhiều về thuật ngữ “kĩ
năng” như kĩ năng sống, kĩ năng mềm, kĩ năng chuyên môn , trung tâm huấn
luyện kĩ năng . Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về kĩ năng. Theo từ điển
Tiếng Việt: Kĩ năng là khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận được trong
lĩnh vực nào đó vào thực tế.
Đối với môn Ngữ Văn, rèn kĩ năng làm văn cho học sinh tức là hướng dẫn
học sinh biết vận dụng những kiến thức đã học để dựng đoạn văn trong quá trình
tạo lập văn bản.Từ đó, giúp học sinh hình thành ý thức và nhân cách cũng như
trình độ học vấn cho các em ngay khi đang học bậc học THCS và trưởng thành
sau này. Qua việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn, ta rèn cho học sinh ý thức tự
tu dưỡng, biết yêu thương, quí trọng gia đình, bạn bè, có lòng yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội, biết hướng tới những tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần
tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác và cũng từ đó rèn
cho các em tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ các giá
trị chân, thiện, mĩ trong nghệ thuật. Trước hết là trong văn học có năng lực thực
hành và năng lực sử dụng Tiếng Việt như một công cụ để tư duy và giao tiếp.
Để rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết đoạn văn, giáo viên phải hướng dẫn
cho các em cách thức viết đoạn văn. Vậy trước hết ta phải hiểu đoạn văn là gì?
Đoạn văn là một đơn vị trức tiếp cấu thành nên văn bản, bắt đầu từ chỗ viết hoa
lùi đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng và thường biểu đạt một ý
tương đối hoàn chỉnh. Văn bản là một chỉnh thể thống nhất, thường bao gồm
nhiều đoạn văn. Các đoạn văn trong một văn bản vừa cần được tách ra một cách
rõ rệt, vừa cần có sự liên kết chặt chẽ với nhau. Bên trong mỗi đoạn văn cũng
cần có sự liên kết của các câu. Hơn nữa, các câu bên trong một đoạn văn cần có
2



quan hệ với nhau, tạo nên những kiểu kết cấu của đoạn văn. Trong việc cấu tạo
một văn bản thì việc tạo dựng một đoạn văn là khâu có vị trí quan trọng đáng kể.
Để có được bài văn hay, chất lượng thì việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn là cần
thiết.
Vì vậy người giáo viên, khi dạy văn THCS nói chung, dạy văn biểu cảm nói
riêng, ngoài việc truyền đạt kiến thức lý thuyết, còn cần có phương pháp phù
hợp để hướng dẫn các em biết cách thể hiện vốn hiểu biết của mình một cách
mạch lạc, tức là cần rèn luyện cho các em các kỹ năng làm bài, viết đoạn.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm .
Phân môn tập làm văn mang tính chất thực hành tổng hợp. Làm văn là vận
dụng kết quả tổng hợp của việc học tập các phân môn Văn - Tiếng Việt - Tập
làm văn để sáng tạo ra văn bản. Mọi sự sáng tạo trong làm văn đều phải được
thực hiện trên cơ sở nắm vững các quy tắc cơ bản về làm văn. Văn biểu cảm là
một kiểu bài văn quan trọng, có số lượng lớn trong phân phối chương trình về
phân môn Tập làm văn ở Ngữ Văn 7, tập I. Kiểu bài văn biểu cảm không phải là
mới đối với học sinh lớp 7 mà ở đây nó phát huy có kế thừa và nâng cao hơn so
với bậc Tiểu học. Tuy nhiên, qua thực tế giảng dạy tại trường THCS DTNT, tôi
thấy học sinh khi viết bài văn biểu cảm, các em còn thường mắc phải một số lỗi
sau đây:
1. Các em chưa phân biệt được văn biểu cảm với văn tự sự và miêu tả. Vì
vậy, dù mới được học và hình thành kĩ năng tạo lập văn bản biểu cảm nhưng
nhiều học sinh không phân biệt được văn miêu tả và văn biểu cảm nên khi viết
bài “Cảm nghĩ về loài cây em yêu”, nhiều bài viết không phải viết về thái độ và
tinh cảm của mình đối với một loài cây cụ thể mà tả về loài cây đó. Hoặc tiết
Viết bài tập làm văn số 3, đề yêu cầu “Cảm nghĩ về người thân”. Học sinh viết
“Mẹ em hay thức khuya dậy sớm để làm việc mà tối mẹ chưa làm. Mẹ thường
đi rừng lấy lá dong, lá chuối rừng để bán kiếm tiền nuôi chúng em. Em thấy
vậy bảo mẹ hay là mẹ đừng đi rừng nữa vất vả lắm, mẹ chuyển sang đi làm
công ty đi. Mẹ suy nghĩ một hồi lâu rồi nói, đó cũng là một ý kiến hay”. Toàn
bài viết của em học sinh đó đều là những lời văn, đoạn văn tương tự như thế.

Các em cảm nhận và viết văn như nghĩa vụ, làm qua loa cho xong rồi đem nộp.
Kể cả học sinh khá, dù cảm và hiểu được yêu cầu của đề, xác định đúng hướng
làm bài nhưng kể vẫn nhiều hơn biểu cảm.
2. Chưa biết cách tìm ý cho bài văn biểu cảm. Vì thế bài làm của các em
thường thiếu ý hoặc thừa ý.
3. Chưa biết tách đoạn, dựng đoạn theo kết cấu. Có đoạn dung lượng quá
lớn, chất chứa nhiều nội dung vượt quá “sức chứa” của một đoạn; có đoạn lại
chưa đầy đủ ý được tách riêng ra không có dụng ý nhấn mạnh hoặc không sử
dụng biện pháp tu từ nào.
Ví dụ 1:
Ca dao có nhiều câu ca ngợi cảnh đẹp đất nước. Nếu Lạng Sơn – nơi biên
giới phía Bắc – hấp dẫn người ta bởi “có phố Kỳ Lừa, có nàng Tô Thị, có chùa
3


Tam Thanh” thì kinh thành Thăng Long – nơi phồn hoa đô thị - lại có sức lôi
cuốn bởi “phố giăng mắc cửi, đường quanh bàn cờ”.
Ca dao đưa chúng ta vô xứ Nghệ quanh quanh với “non xanh nước biếc
như tranh họa đồ”. Rồi đến với xứ Huế đẹp và thơ, đắm mình trong đêm “lờ đờ
bóng ngả trăng chênh” với “ giọng hò xa vọng thắm tình nước non”.
(Bài làm của học sinh)
Hai đoạn văn trên cùng đang liệt kê những câu ca dao ca ngợi cảnh đẹp đất
nước nhưng lại tách ra thành 2 đoạn.
Ví dụ 2:
Trong lịch sử chống ngoại xâm, chúng ta thấy dân tộc ta anh hùng hào kiệt
thời nào cũng có. Hai Bà Trưng phất ngọn cờ hồng khởi nghĩa đánh tan quân
Thái thú Tô Định, buộc hắn phải chốn vào đám loạn quân rút chạy về nước. Đất
nước sau hơn hai thế kỷ bị quân phong kiến nước ngoài đô hộ đã giành được
thắng lợi hoàn toàn.
(Bài làm của học sinh)

Học sinh triển khai ý thời nào cũng có còn bị thiếu hụt nhưng đã chấm sang
đoạn khác.
4. Chưa biết xây dựng câu chủ đề cho đoạn văn biểu cảm.
5. Chưa biết lựa chọn các phép liên kết, phương tiện liên kết, từ ngữ liên kết
để liên kết câu và liên kết đoạn văn. Nhiều khi các em dùng không chính xác
phương tiện liên kết để liên kết câu, khiến cho mối quan hệ nghĩa giữa các câu
hoặc không rõ ràng hoặc sai lạc hẳn ý; nhiều khi các em dùng thiếu các phương
tiện liên kết nên nội dung trở nên mơ hồ, khó xác định.
Ví dụ:
Ca dao, dân ca là tiếng hát cất lên từ trái tim chất chứa bao nỗi buồn vui,
sướng khổ của con người. Thơ ca dân gian nảy sinh và phát triển là để đáp ứng
nhu cầu bộc lộ tình cảm ấy. Thế nhưng, nó còn sống mãi, ngân vang mãi trong
tâm hồn mỗi chúng ta.
(Bài làm của học sinh)
Trên cơ sở đó tôi đã chọn đề tài "Một số giải pháp rèn luyện kĩ năng viết
đoạn văn biểu cảm cho học sinh lớp 7, Trường THCS DTNT, Thường
Xuân", giúp cho các em khắc phục những lỗi khi viết văn.
Trước khi tiến hành thực hiện đề tài, tôi đã tiến hành kiểm tra, khảo sát học
sinh lớp 7A, Trường THCS DTNT năm học 2014 – 2015; 2015-2016 kết quả
điểm trung bình như sau:
Trung
Giỏi
Khá
Yếu
Kém
Năm

bình
Lớp
học

số
SL %
SL %
SL %
SL %
SL %
20142015 7A
32 0
0
6
18,8 16 50 8
25 2
6,2
4


20152016 7A 30 0
0
7
23,3 14 46,7 7
23,3 2
6,7
Nguyên nhân của thực trạng:
Nguyên nhân của thực trạng trên có thể có nhiều nguyên nhân, nhưng
theo cá nhân tôi nó bắt nguồn từ một số nguyên nhân chủ yếu sau:
- Thứ nhất, phân môn tập làm văn là một phân môn học khó, nó mang tính
chất thực hành tổng hợp, nó đòi hỏi giáo viên vừa phải cung cấp kiến thức lý
thuyết vừa phải rèn luyện kỹ năng thực hành cho học sinh. Trong khi đó, thời
gian học chính khoá còn quá ít so với lượng kiến thức mà giáo viên phải truyền
đạt cho học sinh theo PPCT và SGK yêu cầu (VD trong PPCT Ngữ văn 7 tiết

24: Đặc điểm văn bản biểu cảm; Đề văn biểu cảm và cách làm bài văn biểu
cảm), chỉ trong 45 phút giáo viên phải cung cấp cho học sinh khối lượng kiến
thức khá nhiều (theo PPCT trước năm 2011-2012 tiết này được học trong hai
tiết và trong SGK tiết này cũng được tách ra hai bài), nên giáo viên không có
thời gian để hướng dẫn học sinh so sánh tìm ra điểm khác biệt giữa kiểu bài văn
biểu cảm với kiểu bài văn miêu tả và tự sự mà các em đã được học ở lớp 6. Đây
là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiều học sinh khi làm bài còn hay lẫn
lộn giữa kiểu bài biểu cảm với kiểu bài miêu tả và tự sự.
- Thứ hai, trong PPCT Ngữ văn lớp 6 và lớp 7 không có tiết nào dành cho
việc hướng dẫn học sinh cách xây dựng đoạn văn cũng như cách liên kết đoạn
văn trong văn bản. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiều học sinh
lớp 6, lớp 7 chưa biết dựng đoạn và liên kết đoạn khi làm bài.
- Thứ ba, Trường THCS DTNT, Thường Xuân đa số toàn là HS dân tộc
thiểu số nên kĩ năng giao tiếp còn hạn chế ,hơn nữa kinh tế gia đình còn nhiều
khó khăn nên việc phụ huynh đầu tư về đồ dùng học tập như sách tham khảo để
các em đọc còn rất hạn chế. Bên cạnh đó một số học sinh còn lười học; một số
phụ huynh lại hướng cho con em mình học thiên về khối A theo xu thế chung
của xã hội. Tất cả những điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến thực trạng
nêu trên.
Từ thực trạng và nguyên nhân của thực trạng nêu trên, tôi đã và đang tiến
hành các giải pháp sau đây để giải quyết thực trạng nêu trên, bước đầu thu được
hiệu quả rất khả quan.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Củng cố, mở rộng, nâng cao kiến thức lý thuyết về văn biểu cảm:
2.3.1.1. Giáo viên hướng dẫn học sinh củng cố một số kiến thức đã học
về văn biểu cảm:
a. Khái niệm Văn biểu cảm:
Văn biểu cảm là văn viết ra nhằm biểu đạt tình cảm, cảm xúc, sự đánh giá
của con người đối với thế giới xung quanh và khêu gợi lòng đồng cảm nơi người
đọc.


5


Văn biểu cảm còn gọi là văn trữ tình, bao gồm các thể loại văn học như thơ
trữ tình, ca dao trữ tình, tuỳ bút.
Tình cảm trong văn biểu cảm thường là những tình cảm đẹp thấm nhuần tư
tưởng nhân văn sâu sắc.
Ngoài biểu cảm trực tiếp như tiếng kêu, lời than, đoạn văn biểu cảm còn sử
dụng các biện pháp tự sự, miêu tả để khơi gợi tình cảm.
( Sách giáo khoa – Ngữ Văn – 7 / Tập I – Trang 73)
b. Đặc điểm của văn bản biểu cảm:
- Mỗi bài văn biểu cảm tập trung biểu đạt một tình cảm chủ yếu như yêu
thiên nhiên, yêu loài vật, yêu con người, yêu thương trường lớp, bạn hữu, yêu
gia đình, yêu quê hương đất nước, ghét thói tầm thường, độc ác…
- Để biểu đạt tình cảm ấy, người viết có thể chọn hình ảnh có ý nghĩa ẩn dụ,
tượng trưng (một đồ vật, một loài cây cỏ, một danh lam thắng cảnh hay một hiện
tượng nào đó) để gửi gắm tình cảm, tư tưởng, hoặc biểu đạt bằng cách thổ lộ
trực tiếp những nỗi niềm, cảm xúc trong lòng.
- Cũng như đoạn văn thuộc các thể loại khác, đoạn văn biểu cảm cũng có bố
cục ba phần (Mở đoạn; Thân thân; Kết đoạn).
- Đoạn văn biểu cảm chỉ thực sự có giá trị khi tình cảm và tư tưởng hoà
quện với nhau chặt chẽ. Cảm xúc phải chân thật, trong sáng, tư tưởng phải tiến
bộ, đúng đắn. Câu văn, lời văn, giọng văn phải có giá trị biểu cảm.
- Trong văn biểu cảm, tình cảm con người đã qua suy nghĩ, khác với trạng
thái, cảm xúc ( biểu hiện ra nét mặt, cử chỉ).
- Có hai cách (lối) biểu cảm:
Biểu cảm trực tiếp: Thông qua cách sử dụng các từ cảm : ôi, hỡi, tôi, ta…
Tác dụng bộc lộ, biểu hiện tình cảm, thái độ đối với sự việc có liên quan. Điều
này thấy rõ nhất trong thơ trữ tình, trong tuỳ bút, trong đối thoại nội tâm của

nhân vật.
Biểu cảm gián tiếp: Thông qua cách miêu tả cử chỉ, động tác, thái độ của
nhân vật và tình cảm của người viết.
Biểu cảm gián tiếp là cách bộc lộ tình cảm, cảm xúc thông qua hình ảnh
một phong cảnh, một câu chuyện, một suy nghĩ.
2.3.1.2. Giáo viên hướng dẫn học sinh nắm được những yêu cầu đối với
đoạn văn biểu cảm:
Cũng như các đoạn văn khác, đoạn văn trong văn biểu cảm cũng có những
yêu cầu cụ thể nhằm giúp học sinh nắm một cách khái quát về mặt hình thức
cũng như nội dung đoạn văn biểu cảm. Từ đó, các em mới có thể viết đoạn (xây
dựng đoạn) đúng với yêu cầu. Đoạn văn biểu cảm với việc nâng cao năng lực
cảm thụ văn học của học sinh là những yêu cầu, nội dung liên quan mật thiết với
nhau.

6


- Yêu cầu trước hết là học sinh phải nắm được dấu hiệu, qui ước khi viết
đoạn văn biểu cảm cũng như các đoạn văn khác: Đoạn văn là một phần của
văn bản được tính từ chỗ viết hoa lùi đầu dòng đến chỗ chấm xuống hàng.
- Các câu trong đoạn văn biểu cảm phải được liên kết với nhau một cách
chặt chẽ bằng các phép liên kết, phương tiện liên kết, từ ngữ - câu liên kết, hoặc
các mối quan hệ phụ thuộc, không phụ thuộc giữa các đoạn văn mở bài, thân
bài, kết bài.
- Đoạn văn phải có sự lựa chọn, sử dụng ngôn ngữ trong sáng, chuẩn mực,
giàu giá trị biểu cảm để gợi ra được cảm xúc, tình cảm của người viết, có sức
thuyết phục, lay động người đọc, người nghe. Từ ngữ ấy phải thể hiện được thái
độ rõ ràng của người viết: đó là tình cảm buồn, vui, yêu ghét, hay thích thú…Có
thể biểu cảm trực tiếp hoặc biểu cảm gián tiếp hoặc kết hợp cả hai lối biểu
cảm…

Trên đây là những yêu cầu cơ bản nhất để giáo viên hướng dẫn học sinh
vận dụng vào các tiết thực hành viết bài văn biểu cảm.
2.3.2. Rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn biểu cảm cho học sinh:
2.3.2.1. Xác định câu chủ đề.
Từ những ý đã xác định được ở phần Lập dàn bài, giáo viên hướng dẫn cho
học sinh tập viết các câu chủ đề. Đây là khâu quan trọng trong việc tạo lập đoạn
văn. Vì có viết được câu chủ đề thì mới có thể triển khai ý của đoạn văn và lựa
chọn nội dung trình bày của đoạn văn.
Để học sinh viết được câu chủ đề, giáo viên cần nêu để học sinh nắm được
thế nào được gọi là câu chủ đề: Câu chủ đề của đoạn văn là câu chứa đựng nội
dung chính, khái quát, là hạt nhân ý nghĩa của cả đoạn, lời lẽ câu chủ đề ngắn
gọn, hàm xúc và thường đủ hai thành phần chính của câu: Chủ ngữ và vị ngữ.
Câu chủ đề có thể đứng ở đầu đoạn văn đối với đoạn văn viết theo kết cấu diễn
dịch, có thể đứng ở cuối đoạn đối với đoạn văn viết theo kết cấu quy nạp.
Việc viết câu chủ đề đúng với ý chính đã tìm được ở phần lập dàn bài sẽ
giúp học sinh định hướng cách lựa chọn nội dung trình bày theo cấu trúc diễn
dịch, qui nạp hay các kiểu cấu trúc khác. Đồng thời cũng định hướng cho các em
lựa chọn các phép liên kết, phương tiện liên kết, cách dùng từ ngữ cho phù hợp
với cảm xúc trong bài viết của mình.
Ví dụ: Với đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về bài ca dao “Đứng bên ni đồng,
ngó bên tê đồng…”, sau khi giáo viên hướng dẫn học sinh lập được dàn bài như
đã nêu ở Phần 1.3, Bước 2: Lập dàn bài.
Giáo viên yêu cầu học sinh: Từ những ý đã xác định được ở phần Lập dàn
bài, em hãy viết các câu chủ đề tương ứng?
Trước hết, giáo viên hướng dẫn học sinh xác định câu chủ đề mang tính khái
quát cho toàn bài văn bằng câu hỏi: Nội dung chính bài ca dao là gì? Từ đó học sinh
có thể viết như sau:

7



“Bài ca dao nói về cánh đồng lúa bao la, trù phú và hình ảnh cô thôn nữ
xinh đẹp đứng giữa đồng quê trong buổi sớm mai hồng rạng rỡ, qua đó thể hiện
tình yêu quê hương đất nước.”
Tiếp đến, giáo viên hướng dẫn học sinh xác định câu chủ đề cho từng đoạn
văn bằng các câu hỏi gợi dẫn như: Ở ý thứ nhất trong phần thân bài em định
trình bày bằng mấy đoạn văn? Em dự định sẽ viết đoạn 1 trong phần thân bài
theo kiểu kết cấu nào? Em hãy viết câu chủ đề thể hiện nội dung khái quát của
đoạn theo kết cấu em định viết ?
Lưu ý: Viết câu chủ đề phải bám sát vào các ý đã tìm được trong phần lập
dàn bài. Chẳng hạn:
Câu chủ đề 1: “Hai câu đầu bài ca dao, hình ảnh cánh đồng quê hương
hiện lên không chỉ rộng lớn mà còn đẹp đẽ, trù phú và đầy sức sống”.
Giáo viên: Tương tự em hãy viết câu chủ đề cho các ý tiếp theo?
Câu chủ đề 2: “Hai câu cuối là hình ảnh cô thôn nữ ra thăm đồng với niềm
vui sướng trào dâng”.
Câu chủ đề 3: Hình ảnh cô thôn nữ hiện lên thật xinh đẹp, thật tươi trẻ và
đầy sức xuân.”
Câu chủ đề 4: Bài ca dao “Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng…” là một
bài ca dao trữ tình đặc sắc ca ngợi vẻ đẹp quê hương đất nước.
Câu chủ đề thứ 5: Bài ca dao được sáng tạo bằng bút pháp nghệ thuật độc đáo.
Từ đó, giáo viên định hướng cho các em viết các đoạn văn bằng việc lựa
chọn các phép liên kết, phương tiện liên kết, từ ngữ liên kết v.v…
2.3.2.2. Cách viết đoạn văn biểu cảm.
Trước hết, giáo viên hướng dẫn học sinh nắm một cách khái quát yêu cầu
của các đoạn văn mở bài, đoạn văn thân bài, đoạn văn kết bài.
Đoạn văn mở bài: Khái quát được cảm xúc, tình cảm của người viết về đối
tượng biểu cảm, nêu lên những ấn tượng sâu sắc nhất của mình.
Đoạn thân bài: Triển khai mạch cảm xúc, tình cảm của người viết bằng việc
sử dụng những từ ngữ gợi cảm xúc, tình cảm. Lần lượt nêu lên những suy nghĩ của

riêng mình về những khía cạnh của đối tượng biểu cảm. Không lan man, dàn đều
mà nên xoáy sâu vào các trọng tâm, trọng điểm.
Đoạn kết bài: Nêu lên những cảm nghĩ chung, có thể đánh giá và liên hệ.
Tránh dài dòng, trùng lặp, đơn điệu.
Thao tác cơ bản: Phát biểu cảm nghĩ không thể nói chung chung mà rất cụ
thể. Phải chỉ ra được yêu thích, thú vị… ở chỗ nào, tại sao lại yêu thích, thú vị?
Nghĩa là phải phân tích, trích dẫn.
Có lúc phải khen, chê. Khen, chê chính là viết lời bình. Giáo viên qua
những bài giảng cụ thể, qua việc hướng dẫn đọc sách sẽ giúp các em làm quen
dần cách bình văn, biến thành kĩ năng, kĩ xảo. Lúc nào viết được lời bình hay,
sâu sắc thì bài cảm nghĩ mới thực sự mang vẻ đẹp trí tuệ.
8


Có lúc phải biết liên tưởng so sánh. Từ hiện tượng này mà nghĩ, mà nhớ đến
hiện tượng khác tức là liên tưởng.
Viết lời bình, so sánh, liên tưởng là thao tác cơ bản trong văn biểu cảm.
a. Cách viết đoạn mở bài trong văn biểu cảm.
Trước hết giáo viên cho học sinh nắm được: Mở bài hay nhất, biểu cảm hay
nhất là đạt hai yêu cầu sau:
1. Tính khái quát.
2. Tính định hướng.
Từ đó, giáo viên có thể trình bày một đoạn văn mẫu (đoạn mở bài) để học
sinh học tập, bắt chước (bắt chước nhưng không ghi chép nguyên mẫu), rồi vận
dụng cách mở bài ấy cho bài của mình.
Chẳng hạn, khi viết đoạn văn mở bài cho đề bài:Phát biểu cảm nghĩ về bài
ca dao “Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng…” Giáo viên có thể cho học sinh
tham khảo cách mở bài như sau: (Những đoạn văn tham khảo tôi đều sử dụng đồ
dùng dạy học trực quan như máy chiếu hoặc bảng phụ để vừa gây húng thú cho
học sinh, vừa để học sinh được đọc, được quan sát, được ngẫm nghĩ. Như vậy

học sinh sẽ hiểu sâu hơn, nhớ lâu hơn).
“Có câu hát nào đẹp như ca dao dân ca? Ca dao dân ca đã hoà nhập một
cách hồn nhiên, kỳ diệu vào tâm hồn tuổi thơ của mỗi người. Ca dao- dân ca
Việt Nam giàu bản sắc, vô cùng đẹp đẽ và phong phú. Nó là tiếng hát tâm tình
nơi bờ dâu ruộng lúa, nơi bến cũ đò xưa… lưu luyến trong dân gian, phản ánh
cuộc sống và ước mơ của nhân dân ta từ bao đời nay. Có những khúc hát ru
ngọt ngào chứa chan tình nghĩa. Có những bài hát giao duyên say đắm lòng
người. Có những bài ca nói về đất nước quê hương, với nương dâu, ruộng lúa,
với hình ảnh người dân quê một nắng hai sương, cần mẫn, hiền lành, đáng yêu.
Cánh cò “bay lả bay la”, đầm sen “lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng”. Cô
thôn nữ tát nước đêm trăng “múc ánh trăng vàng đổ đi”,… Tất cả đều đem đến
cho lòng ta biết bao niềm thương nỗi nhớ. Ấy là ca dao. Ấy là tuổi thơ của mỗi
chúng ta. Đọc ca dao-dân ca, sao ta cảm thấy thích thú lạ về câu hát nói về
cánh đồng lúa quê hương và hình ảnh cô thôn nữ đứng giữa đồng quê một sớm
mai hồng rạng rỡ:
“Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát,
Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng, cũng bát ngát mênh mông.
Thân em như chẽn lúa đòng đòng,
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai”.
b. Cách viết đoạn thân bài:
Thân bài gồm nhiều đoạn văn, mỗi đoạn nêu lên một khía cạnh, một nét
cảm nghĩ của người viết đối với đối tượng biểu cảm. Cảm nghĩ phải được phân
tích và minh hoạ bằng những chi tiết cụ thể.
Quá trình viết đoạn văn thân bài, giáo viên lưu ý học sinh: Giọng văn, hơi
văn biểu cảm không gò bó, khô khan, đảm bảo được các yêu cầu diễn đạt, dùng
9


từ, đặt câu, lựa chọn các đặc điểm, nội dung trình bày của đoạn văn. Nghĩa là
tuỳ thuộc vào mạch cảm xúc của người viết mà có cách lựa chọn cho thích hợp.

Các cách dựng đoạn văn:
- Viết đoạn văn cảm nghĩ theo lối diễn dịch (Là đoạn văn có câu chủ đề
đứng ở đầu đoạn)
- Viết đoạn văn cảm nghĩ theo lối quy nạp (Là đoạn văn có câu chủ đề đứng
ở cuối đoạn)
- Viết đoạn văn cảm nghĩ theo lối song hành (Là đoạn văn không có câu chủ
đề. Các câu được liệt kê nối tiếp nhau nhờ mối quan hệ liên tưởng, nhờ sự sắp
xếp tuyến tính của các câu)
- Viết đoạn văn cảm nghĩ theo lối móc xích (Là cách trình bày ý nọ nối tiếp
ý kia, ý của câu đi sau móc vào ý của câu đi ngay trước nó, và cứ như vậy nối
tiếp nhau cho tới khi kết thúc đoạn văn).
- Viết đoạn văn cảm nghĩ theo kết cấu tổng – phân - hợp (Là đoạn văn có
câu đầu đoạn nêu một ý tổng quát, sau đó các câu tiếp theo (ở giữa đoạn) phân
tích, cụ thể hoá ý đó. Cuối cùng, câu kết đoạn lại tổng hợp, khái quát hoá ở mức
độ cao hơn. Do đó, ở loại đoạn văn này cả câu đầu và câu cuối đều quan trọng,
đều có thể được coi là câu chủ đề).
Tuy nhiên, mô hình cơ bản của đoạn văn biểu cảm là diễn dịch, quy nạp và
tổng-phân-hợp. Nó phù hợp với mạch cảm xúc, tình cảm của người viết. Để viết
được đoạn văn theo các cách trên, thì người viết phải bám sát các ý của bài, rồi
luyện viết với từng ý chính đã được xác định và các câu chủ đề đã được xác lập
ban đầu.
Ví dụ: Phát biểu cảm nghĩ về bài ca dao “Đứng bên ni đồng, ngó bên tê
đồng…” , giáo viên hướng dẫn học sinh viết các đoạn văn thân bài theo kết cấu
nêu trên (lưu ý mỗi đoạn văn được viết ra phải xuất phát từ các ý, các câu chủ đề
đã tìm được ở phần trên).
Giáo viên có thể cho học sinh tham khảo 2 đoạn văn sau:
Đoạn văn 1: (Đoạn văn viết theo lối diễn dịch)
Hai câu đầu bài ca dao, hình ảnh cánh đồng quê hương hiện lên không
chỉ rộng lớn mà còn đẹp đẽ, trù phú và đầy sức sống:
“Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát,

Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, cũng bát ngát mênh mông.
Ca dao thường được viết bằng thể thơ lục bát. Nhưng ở bài ca dao này, nhà
thơ dân gian đã viết bằng thơ lục bát biến thể, mở rộng câu thơ thành 12, 13
tiếng đặc tả cánh đồng rộng mênh mông, bát ngát. Các điệp ngữ, đảo ngữ và
phép đối xứng (đứng bên ni đồng - đứng bên tê đồng, mênh mông bát ngát – bát
ngát mênh mông) gợi cho người đọc có cảm giác đứng ở phía nào cũng thấy
cánh đồng kéo dài đến tận chân trời.Cánh đồng “mênh mông bát ngát - bát
ngát mênh mông” nói lên sự giàu có của quê hương. Phải bằng tấm lòng yêu
mến, tự hào nơi chôn nhau cắt rốn của mình - mảnh đất đã thấm biết bao máu
10


và mồ hôi của ông bà tổ tiên, của đồng bào từ bao đời nay thì nhà thơ dân gian
mới có thể viết nên những lời ca mộc mạc mà đằm thắm nghĩa tình, đọc lên làm
xao xuyến lòng người như vậy. Câu ca không hề nói đến màu xanh và hương
thơm của lúa, sắc trắng của cánh cò trên nền trời xanh bao la, mà ta vẫn cảm
thấy cái ngào ngạt của “hương lúa nếp thơm nồng”, “mùa thu hương cốm mới”
quyện lấy tâm hồn ta.
Câu in đậm trong đoạn văn trên là câu chủ đề (còn gọi là câu chốt) đứng ở
vị trí đầu đoạn có tác dụng khái quát cảm xúc về hình ảnh cánh đồng lúa rộng
lớn, đẹp đẽ, trù phú. Các câu sau đều tập trung làm rõ câu chủ đề.
Đoạn văn 2: (Đoạn văn được viết theo lối tổng –phân-hợp).
Hai câu cuối là hình ảnh cô thôn nữ ra thăm đồng với niềm vui sướng
trào dâng. Trước cánh đồng lúa xanh tốt, ngời ngời sức sống, cô gái nghĩ về
tuổi thanh xuân của mình và bỗng dưng cảm thấy có một nguồn hứng khởi đang
dào dạt trong lòng, từ đó nảy ra so sánh tuyệt vời:
“Thân em như chẽn lúa đòng đòng,
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai”.
Cô gái đã lấy “chẽn lúa đòng đòng” để so sánh với cuộc đời tươi đẹp của
mình. “Lúa đòng đòng” là lúa sắp trổ bông, sắp trưởng thành, thân lúa bắt đầu

cong xuống, hạt lúa non sắp mẩy căng. “Phất phơ” nghĩa là nhẹ nhàng đung đưa,
uốn lượn… Chẽn lúa đòng đòng “phất phơ” bay nhẹ trước làn gió trên đồng nội
một buổi sớm mai hồng thật thơ mộng. Thiếu nữ hân hoan sung sướng thấy hồn
mình phơi phới hướng về một ngày mai hạnh phúc như “chẽn lúa đòng đòng”
đang “phất phơ” dưới ánh bình minh kia. So sánh thật hay và đầy ý nghĩa. Hình
ảnh cô thôn nữ hiện lên thật xinh đẹp, thật tươi trẻ và đầy sức xuân.
Đến đoạn văn này câu chủ đề được đặt ở đầu đoạn và cuối đoạn để thể hiện
“vẻ đẹp của cô thôn nữ” mang tính khái quát nhất, hàm xúc nhất.
Theo cách như vậy giáo viên hướng dẫn học sinh viết các đoạn theo các câu
chủ đề đã xác lập được ở trên.
c. Cách viết đoạn văn kết bài.
Đoạn văn kết bài nêu lên cảm nghĩ chung, có thể đánh giá và liên hệ. Vì
vậy, để có được một bài văn hoàn chỉnh không thể không viết đoạn kết bài.
Đoạn văn tham khảo:
Bài ca dao nói về mùa xuân, đồng xanh và thôn nữ. Cảnh và người rất
thân thuộc, đáng yêu. Cảnh vừa có diện vừa có điểm, câu ca đồng hiện không
gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật “đơn sơ mà lộng lẫy”. Thơ lục bát biến
thể sống động, lối so sánh ví von đậm đà, ý vị. “Thơ ca là sự chắt lọc tâm hồn,
là tình yêu và mơ ước…”. Đọc bài ca dao “Đứng bên ni đồng, ngó bên tê
đồng…”, ta cảm thấy như thế, hương quê và tình quê làm vương vấn tâm hồn
ta, đem đến cho ta “tình yêu và mơ ước”…
Tóm lại, rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn trong bài văn biểu cảm là thực
hiện các thao tác tìm hiểu đề, tìm ý, xây dựng câu chủ đề để từ đó định hướng
cho việc xây đựng từng đoạn văn. Cứ tập đi tập lại như thế học sinh sẽ thành
11


thạo. Không phải chỉ thành thạo dựng đoạn độc lập mà thành thạo và nhạy cảm
trong dựng đoạn của bài văn biểu cảm.
2.3.3. Cung cấp các dạng bài tập rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn biểu

cảm cho học sinh:
2.3.3.1. Dạng bài tập thứ 1: Cho hai đoạn văn yêu cầu học sinh so sánh và
phân tích để phân biệt văn biểu cảm có sử dụng yếu tố miêu tả với văn miêu tả
thông thường.
Ví dụ: Có hai đoạn văn cùng nói về cây tre như sau:
Đoạn 1: “Luỹ giữa cũng toàn tre nhưng là loại tre thẳng (tre hoá). Luỹ
trong cùng tre càng thẳng hơn. Tre óng chuốt vươn thẳng tắp, ngọn không dày
và rậm như tre gai. Suốt năm tre xanh rờn, đầy sức sống”. (Ngô Văn Phú)
Đoạn 2: “Tre, nứa, trúc, mai, vầu, mấy chục loại khác nhau, nhưng cùng
một mầm non măng mọc thẳng. Vào đâu tre cũng sống, ở đâu tre cũng xanh tốt.
Dáng tre vươn mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhặn. Rồi tre lớn lên, cứng cáp, dẻo
dai, vững chắc. Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người” (Thép Mới)
Giáo viên yêu cầu học sinh: So sánh để chỉ ra điểm khác nhau về phương
thức biểu đạt của hai đoạn văn trên và nêu rõ đoạn văn nào thuộc phương thức
biểu cảm? Vì sao?
Học sinh so sánh và dễ dàng nhận ra: Đoạn 2 dùng phương thức biểu cảm.
Vì: Đoạn 1 tập trung miêu tả để làm nổi bật đặc điểm hình dáng, màu sắc và sức
sống của cây tre (dùng phương thức miêu tả). Đoạn 2 chỉ điểm qua những đặc
điểm hình dáng để qua đó nêu cảm xúc trân trọng, cảm phục trước những phẩm
chất tốt đẹp, cao quý của cây tre Việt Nam.
2.3.3.2. Dạng bài tập thứ 2: Viết đoạn mở bài và kết bài cho đề văn biểu
cảm.
Ví dụ: Viết đoạn mở bài và kết bài cho đề văn: Cảm nghĩ về một người thân
trong gia đình.
Đoạn văn tham khảo:
- Đoạn mở bài: “Trong gia đình, người em dành tình cảm nhiều nhất là bà em.
Bà không chỉ là người thân mà còn là người bạn luôn chia sẻ niềm vui, nỗi buồn với
em. Từ lúc sinh ra cho đến bây giờ bà đã hết lòng nâng niu chăm sóc em.”
- Đoạn kết bài: “Được sống trong vòng tay âu yếm của bà, em cảm thấy
rất hạnh phúc và sung sướng. Em mong ước bà sống thật lâu để em được ở mãi

bên bà. Em tự nhủ lòng mình: Phải học thật giỏi để báo đáp công ơn của bà.”
2.3.3.3. Dạng bài tập thứ 3: Viết đoạn văn biểu cảm đan xen yếu tố miêu tả.
Ví dụ: Cho đề văn: Cảm nghĩ của em về một người thân.
Em hãy viết một đoạn văn biểu cảm đan xen yếu tố miêu tả để thực hiện đề
văn trên.
Đoạn văn tham khảo:

12


“Tôi không nhớ đã quen chị như thế nào, nhưng tôi luôn nhớ rõ ấn tượng
đầu tiên của mình về chị. Chẳng phải nụ cười tươi tắn như nắng mai đã trở
thành nét duyên, chẳng phải bộ quần áo hoa tuyết lung linh như những hạt ngọc
mà chính là đôi mắt. Còn hạt sương nào long lanh hơn đôi mắt ấy? Còn nụ hoa
nào dịu dàng như thế không? Còn vật gì to lớn mà lại chứa đựng nhiều yêu
thương, nhiều tình cảm như hai hạt ngọc nhỏ nhắn ấy? Có lẽ là không. Bởi mỗi
khi tôi buồn, ánh mắt ấy lại toả ra những ngọn lửa dịu dàng, ấm áp. Còn mỗi
khi tôi vui, ánh mắt ấy lại tràn đầy niềm tin yêu, trìu mến. Chị chăm lo cho tôi
như một đứa em ruột của mình vặy. chị dạy dỗ tôi nhiều điều. Có lễ vì vậy mà
không gì đo được tình cảm của tôi đối với chị.”
2.3.3.4. Dạng bài tập thứ 4: Cho đề văn yêu cầu học sinh tìm ý, viết câu
chủ đề, xây dựng đoạn văn theo kết cấu.
Ví dụ: Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ “Cảnh khuya” của chủ tịch Hồ Chí
Minh.
Yêu cầu:
a. Lập dàn bài cho đề bài trên.
b. Từ các ý trong phần thân bài, chọn viết một câu chủ đề, sau đó viết đoạn
văn theo kết cấu diễn dịch hoặc quy nạp với câu chủ đề đó.
Với bài tập này giúp học sinh rèn luyện kỹ năng lập ý trước khi viết bài và
rèn kỹ năng viết đoạn văn có câu chủ đề.

Sau khi học sinh viết xong, giáo viên nhận xét, chỉnh sửa và có thể đưa dàn
bài và đoạn văn mẫu để học sinh tham khảo và rút kinh nghiệm.
Đoạn văn tham khảo:
“Đêm đã về khuya, không gian yên tĩnh, chỉ có tiếng suối trong thanh như
tiếng hát từ xa vọng lại. Trăng sáng vằng vặc ôm trùm những ngọn cây. Bóng
hoa in trên mặt đất tạo nên những chùm hoa lung linh. Giữa cảnh khuya lộng
lẫy yêu kiều ấy có một người chưa ngủ, đó là Bác kính yêu. Bác chưa ngủ
không phải để ngắm cảnh đẹp mà vì lòng còn nặng nỗi lo toan việc nước.”
Đoạn văn trên được viết theo lối quy nạp. Câu chủ đề (câu chốt) chính là
câu in đậm nằm ở cuối đoạn văn.
Chú ý: Mỗi dạng bài tập, giáo viên đưa thêm các bài tập để học sinh làm ở
nhà, giáo viên chấm sửa vào những khoảng thời gian hợp lý.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm .
Từ việc hướng dẫn học sinh rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn biểu cảm như
trình bày ở trên, chất lượng bài viết về văn biểu cảm của học sinh đã tăng lên
một cách rõ rệt. Các em đã biết viết văn biểu cảm theo đúng phương thức biểu
đạt của nó, đã biết cách tìm ý và dựng đoạn văn biểu cảm theo kết cấu và đặc
biệt bước đầu các em đã biết đưa yếu tố miêu tả, tự sự vào văn biểu cảm một
cách hợp lý, đúng chỗ.
Cụ thể sau khi được rèn luyện theo các giải pháp nêu trên, kết quả bài viết
của các em học sinh lớp 7A trường THCS DTNT năm học 2016 – 2017; 2017 –
13


2018, điểm trung bình qua bài viết số 3, với đề bài: “Cảm nghĩ về người thân”
như sau:

Năm

Lớp

học
số

Giỏi
SL

Khá
%

SL

%

Trung
bình
SL %

Yếu
SL

Kém
%

SL

%

20162017 7A 32 06 18,8 8
25 16
50 02 6,2 0

0
20172018 7A 31 06 19,4 10 32,2 14 45,2 01 3,2 0
0
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Cách rèn kỹ năng viết đoạn văn biểu cảm như trên đã được tôi áp dụng đối
với học sinh khối 7 trường THCS DTNT, Thường Xuân. Tôi nghĩ rằng việc làm
này là rất cần thiết đối với giáo viên đang trực tiếp giảng dạy bộ môn Ngữ văn,
cụ thể là với giáo viên phụ trách khối lớp 7. Với đề tài này, tôi có mong muốn
duy nhất là luyện cho học sinh các kỹ năng tìm hiểu đề, tìm ý, viết câu chủ đề để
từ đó dựng đoạn văn theo đúng thể loại của nó. Đồng thời qua việc rèn luyện kĩ
năng viết đoạn văn biểu cảm học sinh được uốn nắn, điều chỉnh, hạn chế những
thiếu sót trong quá trình làm văn ở những cấp học cao hơn. Ngoài ra các em còn
được bồi dưỡng về tâm hồn, trí tuệ, biết rung động trước cái đẹp, biết hướng tới
giá trị thẩm mĩ, có năng lực sử dụng ngôn ngữ, biết tích luỹ vốn tri thức và vận
dụng trong giao tiếp ở mọi hoàn cảnh khác nhau.
Đề tài mang tích chất nghiên cứu cá nhân và mới chỉ áp dụng ở phạm vi
hẹp. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của đồng nghiệp để đề tài được hoàn
thiện và có tính hiệu quả hơn.
3.2. Kiến nghị
3.2.1. Đối với giáo viên Ngữ văn:
- Giáo viên cần nắm chắc nội dung và phương pháp giảng dạy kiểu bài văn
biểu cảm.
- Cần chấm, chữa, nhận xét bài làm của học sinh một cách kĩ lưỡng.
- Rút ra những lỗi chung nhất của các em.
- Tìm và đưa ra các dạng bài tập phù hợp để các em củng cố, sửa chữa.
3.2.2. Đối với nhà trường:
- Đầu tư hơn nữa các trang thiết bị phục vụ dạy học và các loại sách tham
khảo cho giáo viên và học sinh.
- Chỉ đạo tổ chuyên môn thường xuyên dự giờ thăm lớp, góp ý, trao kinh

kinh nghiệm giữa các đồng nghiệp trong tổ với nhau.

14


3.2.3. Đối với Phòng GD& ĐT huyện:
Hàng năm tổ chức hội thảo chuyên đề cho giáo viên bộ môn Ngữ văn để
giáo viên có dịp trao đổi kinh nghiệm, bàn luận tìm ra giải pháp tối ưu, tích cực
nâng cao chất lượng dạy học.
Trên đây là toàn bộ SKKN: “Một số giải pháp rèn luyện kĩ năng viết
đoạn văn biểu cảm cho học sinh lớp 7, Trường THCS DTNT, Thường
Xuân” mà tôi đã áp dụng trong hai năm học 2016-2017; 2017-2018 tại trường
THCS DTNT, Thường Xuân. Đây chỉ là sáng kiến kinh nghiệm của cá nhân tôi
nên chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự
đóng góp ý kiến của đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
Thường Xuân, ngày 05 tháng 03 năm 2019
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
NGƯỜI VIẾT

Bùi Thị Phương

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Ngữ văn 7, Tập I – Nhà xuất bản Giáo dục.

2. Rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn – Nhà xuất bản Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Lê Xuân Soan - Giảng dạy Tập làm văn ở trường THCS, NXB Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2006.
4. Thư viện tài nguyên Vi-o-let.

MỤC LỤC

16


NỘI DUNG
A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. Cơ sở lý luận của vấn đề.
II. Thực trạng vấn đề.
III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề.
1.Củng cố, mở rộng, nâng cao kiến thức lý thuyết về văn biểu cảm.
2. Rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn biểu cảm cho học sinh.
3. Cung cấp các dạng bài tập rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn biểu
cảm cho học sinh.
IV. Hiệu quả của sáng kiến.
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT.
I. Kết luận.
II. Đề xuất, kiến nghị.
1. Đối với giáo viên Ngữ văn.
2. Đối với nhà trường.
3. Đối với Phòng GD&ĐT huyện.

TRANG

1
2
2
2
5
5
11
16
18
19
19
19
19
20
20

17



×