Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Luận văn thạc sỹ - Giám sát của Hội đồng nhân dân huyện Phù Cừ đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện của công dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (578.51 KB, 113 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
----------------

ĐỖ NGỌC TÂN

GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
HUYỆN PHÙ CỪ ĐỐI VỚI VIỆC GIẢI QUYẾT KHIẾU
NẠI,
TỐ CÁO, KHIẾU KIỆN CỦA CÔNG DÂN

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ VÀ CHÍNH SÁCH

Người hướng dẫn khoa học:

GS.TS. PHAN HUY ĐƯỜNG


HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học
thuật. Tôi cam kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này do tôi tự thực
hiện và không vi phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật.
Tôi xin cam đoan luận văn “Giám sát của Hội đồng nhân dân huyện
Phù Cừ đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện của công dân”
là công trình nghiên cứu, thực hiện của bản thân tôi.
Các số liệu trong luận văn này được thu thập từ các nguồn rõ ràng và
được phân tích một cách khách quan. Các kết quả nghiên cứu được trình bày
trong luận văn này không sao chép của bất cứ luận văn nào đã được thực
hiện. Quá trình thực hiện, nghiên cứu luận văn là hợp pháp, được sự cho


phép của các đối tượng nghiên cứu.
Tác giả

Đỗ Ngọc Tân


LỜI CẢM ƠN
Trong khi thực hiện đề tài, tác giả luận văn luôn nhận được sự động
viên, giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo và bạn bè đồng nghiệp.
Tác giả luận văn xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
GS.TS. Phan Huy Đường, người đã hướng dẫn rất tận tình chu đáo và
đầy trách nhiệm trong quá trình tác giả thực hiện luận văn.
Các thầy cô giáo trong khoa Khoa học Quản lý, Viện Đào tạo Sau Đại
học Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã giảng dạy, giúp đỡ và tạo điều kiện
để tác giả hoàn thành bản luận văn này.
Tác giả

Đỗ Ngọc Tân


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân là nhiệm vụ quan trọng mà toàn Đảng, toàn
dân ta đã và đang không ngừng phấn đấu thực hiện. Trong những năm vừa qua,
Đảng và Nhà nước ta thường xuyên quan tâm đến vấn đề đổi mới tổ chức và
hoạt động của Nhà nước nói chung, của Hội đồng nhân dân nói riêng. Chủ
trương đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND đó được thể hiện trong nhiều
văn kiện của Đảng, như: Văn kiện các Đại hội VI, VII, VIII, IX, X của Đảng,
Văn kiện Hội nghị giữa nhiệm kỳ Khoá VII, Văn kiện Hội nghị Trung ương 8
Khoá VII, Văn kiện Hội nghị Trung ương 3,7 Khoá VIII. Những quan điểm,
chủ trương đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân trong các văn
kiện nêu trên đều được kịp thời cụ thể hoá thành các quy định trong Luật tổ
chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003, và một số văn bản
pháp luật khác. Gần đây, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 Khoá X đề cập sâu
đến mô hình tổ chức Hội đồng nhân dân quận, huyện, phường với việc thí điểm
không tổ chức Hội đồng nhân dân ở cấp này tại một số địa phương.
Cho đến nay, hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp đã có những
chuyển biến rõ rệt, đóng góp tích cực vào thành tựu chung của sự nghiệp đổi
mới và xây dựng nhà nước pháp quyền xó hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân. Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều báo cáo chính thức, hoạt động của
Hội đồng nhân dân các cấp nói chung và hoạt động của Hội đồng nhân dân
cấp huyện nói riêng, vẫn còn biểu hiện hình thức; chưa thực hiện tốt vai trò,
chức năng như Luật định; hiệu lực, hiệu quả còn thấp, thậm chí trong dư luận
còn có ý kiến cho rằng Hội đồng nhân dân chưa có thực quyền.
Trong khi đó HĐND cấp huyện có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng; là
cầu nối giữa Trung ương và địa phương trong việc thực thi đường lối chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước tại địa phương và là nơi trực tiếp ra các


2


quyết định về những chủ trương chính sách lớn liên quan đến phát triển kinh tế
- xã hội của địa phương. Hơn nữa, theo Khoản 2, Điều 3, Nghị quyết số
725/2009/NQ - UBTVQH tại một số địa phương thí điểm không tổ chức
HĐND quận, huyện, phường, HĐND cấp huyện sẽ thực hiện thêm một số hoạt
động giám sát (giám sát hoạt động của Uỷ ban nhân dân, Viện kiểm sát nhân
dân, Toà án nhân dân huyện, quận). Vì vậy, việc đổi mới hoạt động giám sát
của HĐND cấp huyện nói chung và HĐND huyện Phù Cừ nói riêng đối với
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện của công dân là rất cần thiết
Căn cứ Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 và nhất là Luật tổ chức
chính quyền địa phương năm 2015, HĐND huyện Phù Cừ tiến hành giám sát
tại kỳ họp, giám sát của Thường trực HĐND, các Ban của HĐND, đại biểu
HĐND và tổ chức Đoàn giám sát. Hoạt động giám sát của HĐND huyện Phù
Cừ đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện của công dân đã đạt
được những thành tựu nhất định, hiệu quả của hoạt động giám sát đã có bước
phát triển. Các chủ thể giám sát đó đưa ra được nhiều khiếu kiện quan trọng,
góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước; đối tượng giám sát đã có chọn
lọc; địa bàn, lĩnh vực giám sát tiêu biểu; thời gian giám sát phù hợp. Bên cạnh
những ưu điểm kể trên hoạt động giám sát của HĐND huyện Phù Cừ đối với
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện của công dân vẫn còn những hạn
chế như: còn mang tính hình thức, giám sát chưa sâu, hiệu quả giám sát chưa
cao; một số khiếu kiện còn chung chung chưa chỉ rõ thực chất của vấn đề
giám sát, chưa nêu rõ hướng khắc phục, việc thực hiện khiếu kiện của cơ quan
giám sát chưa nghiêm; các cá nhân, cơ quan, tổ chức chịu sự giám sát chưa
thực sự coi trọng hoạt động giám sát
Từ những vấn đề trên cho thấy rằng việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn
về hoạt động giám sát của HĐND nói chung, của HĐND huyện nói riêng đối
với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện của công dân là nhu cầu cấp
thiết. Đặc biệt việc đi sâu nghiên cứu thực trạng hoạt động giám sát của



3

HĐND tại một địa bàn cụ thể như huyện Phù Cừ lại càng có ý nghĩa thực tiễn
rất quan trọng. Chính vì thế, tôi đó lựa chọn đề tài: "Giám sát của Hội đồng
nhân dân huyện Phù Cừ đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, khiếu
kiện của công dân" làm Luận văn Thạc sĩ quản lý kinh tế và chính sách.
2. Tổng quan nghiên cứu
Luận văn tập trung tìm hiểu tài liệu các báo cáo, nội dung về hoạt
động giám sát của Hội đồng nhân dân nói chung và hoạt động giám sát của
Hội đồng nhân dân huyện nói riêng đối với việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo, khiếu kiện của công dân, kết hợp với các nguồn thông tin khác (Các
báo cáo giám sát của Hội đồng nhân dân huyện Phù Cừ, các công trình
nghiên cứu….)
Nghiên cứu hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân nói chung và Hội
đồng nhân dân cấp huyện nói riêng đã được nhiều đề tài tiếp cận. Có thể kể ra
đây một số công trình tiêu biểu sau:
- Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thị Lợi- “Tổ chức và hoạt động của Hội
đồng nhân dân huyện qua thực tiễn Tỉnh Nghệ An” (Năm 2014). Luận văn đã
nêu được những vấn đề chung về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân
dân nói chung và Hội đồng nhân dân Tỉnh nói riêng, các chức năng của Hội
đồng nhân dân nói chung bao gồm chức quyết định và chức năng giám sát;
thực trạng tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân Tỉnh Nghệ An thông
qua các kỳ họp.
Luận văn cũng đã đưa ra phương hướng nhằm hoàn thiện tổ chức và
nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân: 1- Nhận thức đúng đắn
vị trí, vai trò về hoạt động của Hội đồng nhân dân; 2- Hoạt động của Hội đồng
nhân dân phải dựa trên quy định của Hiến pháp, Luật và sự thật khách quan;
3- Hoạt động của các cơ quan thuộc Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng
nhân dân phải được diễn ra thường xuyên, liên tục, được lên kế hoạch và thực
hiện có hiệu quả.



4

Luận văn của tác giả Nguyễn Thị Lợi cũng đã đưa ra một số giải pháp cụ
thể nhằm hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệ u quả hoạt động của Hội đồng
nhân dân tỉnh: 1- Cần nâng cao chất lượng kỳ họp của Hội đồng nhân dân (Về
công tác chuẩn bị kỳ họp; Về công tác tổ chức, điều hành kỳ họp; Về hoạt
động chất vấn trong kỳ họp); 2- Nâng cao chất lượng hoạt động của Thường
trực Hội đồng nhân dân và các Ban của Hội đồng nhân dân; 3- Đổi mới, nâng
cao chất lượng hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân Tỉnh.
Qua nghiên cứu luận văn của tác giả Nguyễn Thị Lợi, người đọc có thể
tham khảo khi nghiên cứu về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh,
tuy nhiên nghiên cứu của tác giả không đi sâu về riêng hoạt động giám sát của
Hội đồng nhân dân và vẫn còn thiếu sót hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân giữa 2 kỳ họp và hoạt động của các Ban Hội đồng nhân dân.
- Luận văn Thạc sỹ Đỗ Thị Phượng- “Hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân tỉnh Hải Dương” (Năm 2009). Luận văn đã nêu được khái quát về
Hội đồng nhân dân và hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân; chức năng
giám sát của Hội đồng nhân dân, chức năng và nhiệm vụ của các Ban Hội đồng
nhân dân (Ban Pháp chế và Ban Kinh tế- Xã hội), thực trạng hoạt động giám
sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Hải Dương trong kỳ họp và giữa 2 kỳ họp. Qua
nghiên cứu thực trạng hoạt động giám sát tại tỉnh Hải Dương, tác giải Đỗ Thị
Phượng đã đưa ra một số giải pháp tăng cường hiệu quả hoạt động giám sát của
Hội đồng nhân dân tỉnh Hải Dương, cụ thể như sau: 1- Tiếp tục hoàn thiện các
qui định của pháp luật về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân; 2- Tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân; 3- Tiếp tục
hoàn thiện chế tài xử lý hậu giám sát của Hội đồng nhân dân.
- Luận án Tiến sỹ Đinh Ngọc Thắng- “Đổi mới tổ chức và hoạt động của
Hội đồng nhân dân trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ ở

Việt Nam hiện nay” (Năm 2014). Luận án đã Nghiên cứu những vấn đề lý
luận và thực tiễn về Hội đồng nhân dân trong điều kiện xây dựng, hoàn thiện


5

nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay là rất cần thiết nhằm góp phần tiếp tục hoàn
thiện quy định về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân, đáp ứng
những yêu cầu mà thực tiễn đang đặt ra cho công tác nghiên cứu lý luận về tổ
chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân ở Việt Nam; 2- Đưa ra những nội
dung dân chủ trong tổ chức, hoạt động của Hội đồng nhân dân và chỉ ra
những bất cập trong tổ chức và hoạt động của tổ chức này. Đồng thời, chỉ ra
con đường để giải quyết những bất cập đó, đó chính là xây dựng và hoàn
thiện nền dân chủ, cải cách hành chính nhà nước, thí điểm không tổ chức Hội
đồng nhân dân huyện, quận, phường; 3- Đánh giá các nhu cầu, đưa ra các
quan điểm về đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân từ đó đề
xuất các giải pháp đổi mới tổ chức, hoạt động của Hội đồng nhân dân trong
điều kiện xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay. Những
giải pháp này được áp dụng trên thực tế sẽ góp phần để Hội đồng nhân dân
xứng đáng là thiết chế dân chủ ở địa phương.
- Luận án Tiến sỹ Trịnh Ngọc Tuấn- “Tăng cường hoạt động giám sát
của Quốc hội đối với các tập đoàn kinh tế nhà nước” (Năm 2013). Luận án
của tác giả Trịnh Ngọc Tuấn đã nêu lên được cơ sở lý luận chung của hoạt
động giám sát, Tập trung nghiên cứu về hoạt động giám sát của Quốc hội đối
với các tập đoàn kinh tế nhà nước. Luận án đã phân tích sự khác biệt giữa
các hoạt động giám sát, kiểm tra và thanh tra của các chủ thể trong đó có
Quốc hội (QH), qua đó làm rõ phạm vi, nội dung, mức độ quyền hạn, trách
nhiệm của các chủ thể tham gia hoạt động giám sát, kiểm tra và thanh tra ở
Việt Nam. Những nội dung này mang tính đặc thù sâu sắc do tại Việt Nam
quyền lực nhà nước là tập trung, nhưng đồng thời có sự phân công, phân

nhiệm giữa Chính phủ, QH và các cơ quan khác trong việc thực hiện quyền
lực. Thông qua phân tích thực tiễn và kết quả điều tra, Luận án đã chỉ ra
được những kết quả đạt được bước đầu trong hoạt động giám sát của QH đối
với các tập đoàn kinh tế nhà nước Việt Nam. Trên cơ sở đó, Luận án đã đề


6

xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của QH
đối với các tập đoàn kinh tế nhà nước trong giai đoạn mới – giai đoạn tái cấu
trúc các TĐKTNN. Cụ thể như: 1- Hoàn thiện, bổ sung khuôn khổ pháp lý
liên quan đến tập đoàn kinh tế Nhà nước; 2- Nâng cao nhận thức về vai trò
giám sát tối cao của Quốc hội đối với các tập đoàn kinh tế nhà nước tương
xứng với đòi hỏi trong giai đoạn mới, đáp ứng sự kỳ vọng của nhân dân cả
nước; 3- Nâng cao năng lực giám sát của các cơ quan của Quốc hội và đại
biểu Quốc hội và tăng cường nguồn lực cho hoạt động giám sát; 4- Tiến
hành xây dựng bộ tiêu chí giám sát của QH đối với hoạt động của các tập
đoàn kinh tế nhà nước Việt Nam.
Tuy nhiên, Luận án viết về hoạt động giám sát của Quốc hội đối với chủ
thể nhất định là “Các tập đoàn kinh tế nhà nước”, chính vì vậy không thể áp
dụng toàn bộ nghiên cứu này đối với nghiên cứu Hoạt động giám sát của
HĐND huyện Phù Cừ.
Ngoài các luận văn, luận án nghiên cứu kể trên, còn có một số bài báo
viết về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân như:
- Tác giả Ngọc Hải đã có bài viết “Một số vấn đề về giám sát của Tổ đại
biểu Hội đồng nhân dân các cấp” ngày 27/8/2016 đăng trên trang chủ Đại
biểu nhân dân huyện Quảng Ngãi. Bài viết đã nêu lên vai trò và thực trạng
của giám sát của Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; qua đó đã đề xuất
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động chất vấn của đại biểu,
giám sát văn bản quy phạm pháp luật, Tổ đại biểu HĐND trên cơ sở khiếu

nại, tố cáo, khiếu kiện có cơ sở và đúng pháp luật của công dân chuyển đơn
của công dân đến các cơ quan có thẩm quyền yêu cầu giải quyết theo thời
gian luật định. Bài viết đã nêu lên một vấn đề về giám sát của Tổ đại biểu
HĐND, đây là một căn cứ để để người đọc có thể tham khảo bổ sung vào
nghiên cứu của mình.
- Tác giả Trần Tĩnh đã có bài viết “Nâng cao chất lượng hoạt động giám


7

sát của Hội đồng nhân dân” ngày 04/01/2017 đăng trên Báo Tin tức, bài viết
đã tóm tắt lại buổi làm việc của Ban công tác đại biểu của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội và Thường trực Hội đồng nhân dân (HĐND) 6 tỉnh Bắc Trung bộ,
qua đó nêu lên được một số vấn đề nhằm nâng cao chất lượng giám sát của
HĐND; tập trung giải quyết các vấn đề bức xúc của địa phương.
- Tác giả Thanh Hoa có bài viết: “Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật triển khai Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND Nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động giám sát” ngày 25/6/2016, đăng
trên Trang thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh. Bài viết đã nêu lên một số
vấn đề cần lưu ý để triển khai Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và
HĐND - Nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động giám sát. Bài viết đã nêu
lên tầm quan trọng của hoạt động giám sát và một số bất cập, vướng mắc
trong quá trình giám sát của Hội đồng nhân dân. Ngoài ra, tác giả Thanh
Hoa đã điểm được một số điều đáng chú ý của Luật Hoạt động giám sát của
Quốc hội và HĐND, qua đó cho thấy có nhiều quy định về hoạt động giám
sát được bổ sung, thống nhất, cụ thể..., góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động giám sát.
Qua tình hình nghiên cứu, tham khảo một số tài liệu trên cho thấy việc
nghiên cứu hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân nói chung đã có
những bước phát triển đáng kể. Nhìn chung, các đề tài dưới nhiều góc độ
khác nhau đã đề cập đến các vấn đề về lý luận và thực tiễn trong hoạt động

giám sát của Hội đồng nhân dân, như: chủ thể giám sát, đối tượng giám sát,
hình thức giám sát. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào
nghiên cứu toàn diện và đầy đủ về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân
dân huyện đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện của công dân
trên một địa bàn cụ thể. Luân văn với tính chất là một đề tài độc lập đi sâu
nghiên cứu thực tiễn, để đánh giá mặt được, mặt chưa được qua đó đưa ra
được những giải pháp có giá trị thực tiễn nhằm tăng cường hiệu quả hoạt


8

động giám sát của Hội đồng nhân dân huyện Phù Cừ với việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện của công dân.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu
- Xác định Khung lý thuyết của giám sát của HĐND huyện đối với việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện của công dân.
- Nghiên cứu thực trạng hoạt động giám sát của HĐND huyện Phù Cừ
đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện của công dân, trên cơ sở
đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân cấp huyện nói chung và Hội đồng nhân dân huyện Phù Cừ nói riêng
đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện của công dân.
3.2. Nhiệm vụ
Nhiệm vụ của Luận văn là phân tích vị trí, chức năng của Hội đồng nhân
dân; khái niệm, đặc điểm, vai trò, yêu cầu hoạt động giám sát của HĐND cấp
huyện đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện của công dân. Luận
văn còn tập trung đi sâu phân tích thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân huyện Phù Cừ đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện
của công dân để tìm ra ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân của những ưu điểm,
hạn chế; trên cơ sở đó đưa ra quan điểm, giải pháp tăng cường hiệu quả hoạt

động giám sát của Hội đồng nhân dân huyện Phù Cừ đối với việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện của công dân.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân huyện
Phù Cừ đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện của công dân.
- Nội dung nghiên cứu: Quy trình giám sát của HĐND huyện Phù Cừ đối
với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện của công dân.
- Không gian nghiên cứu: Giám sát của HĐND huyện Phù Cừ.
- Thời gian nghiên cứu: từ năm 2011 đến 2016 đề xuất giải pháp hoàn
thiện đến năm 2020.


9

5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Khung nghiên cứu
Khung nghiên cứu được thực hiện theo sơ đồ sau:
Các nhân tố ảnh hưởng đến
hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân huyện đối với
việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo, khiếu kiện của công dân
+ Nhân tố bên trong Hội đồng
nhân dân huyện
 - Kế hoạch và chương trình
giám sát
- Tổ chức bộ máy
- Năng lực của Hội đồng nhân dân
huyện
- Cơ sở vật chất, kỹ thuật phục

vụ giám sát.
+ Nhân tố bên ngoài Hội đồng
nhân dân huyện
- Môi trường chính trị, xã hội
của hoạt động giám sát
- Quyền và nghĩa vụ của các cơ
quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân
được giám sát.
- Phẩm chất, đạo đức, trách
nhiệm của đối tượng giám sát

Chủ thể giám
sát của Hội
đồng nhân dân
huyện đối với
việc giải quyết
khiếu nại, tố
cáo, khiếu kiện
của công dân
- Tập thể HĐND
huyện.
- Thường trực
Hội đồng nhân
dân huyện.
- Các ban Hội
đồng nhân dân
huyện.
- Đại biểu, tổ đại
biểu
HĐND

huyện.

Hình thức
giám sát
- Giám sát
tại kỳ họp,
hoạt
động
chất vấn.
- Giám sát
bằng
văn
bản.
- Giám sát
thực tế.
(Thành lập
đoàn giám
sát khi cần
thiết).

Quy trình
giám sát
- Ban hành
Nghị quyết
về hoạt động
giám sát.
- Thông báo
chương trình
giám
sát

trước7 ngày.
(Yêu
cầu
đơn vị được
giám sát gửi
báo
cáo
trước)
- Tổ chức
giám sát taị
đơn vị.
- Thông báo
kết luận
giám sát.

Mục tiêu giám sát
của Hội đồng
nhân dân huyện
đối với việc giải
quyết khiếu nại,
tố cáo, khiếu kiện
của công dân
- Nâng cao chất
lượng và vai trò
của Hội đồng
nhândân
huyện,
Thường Trực Hội
đồng nhân dân
huyện, các Ban,

các Tổ Hội đồng
nhân dân huyện.
- Nâng cao chất
lượng việc giải
quyết khiếu nại, tố
cáo, khiếu kiện
của công dân

5.2. Quy trình nghiên cứu
Dữ liệu được thu thập để thực hiện các mục tiêu của luận văn từ hai
nguồn: Nguồn dữ liệu thứ cấp và Nguồn dữ liệu sơ cấp.
* Nguồn dữ liệu thứ cấp
- Các nghiên cứu, báo cáo đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
- Các Báo cáo và tài liệu Hội đồng nhân dân huyện Phù Cừ bao gồm: các
tài liệu chuẩn bị cho kỳ họp Hội đồng nhân dân, Chương trình hoạt động của
Hội đồng nhân dân, Báo cáo của Hội đồng nhân dân …
Các thông tin và số liệu trong báo cáo là nguồn dữ liệu quan trọng, cập
nhật giúp tác giả hoàn thiện luận văn.
* Nguồn dữ liệu sơ cấp
Nhằm có số liệu chi tiết và chính xác nhất để hoàn thiện luận văn, tác giả
đã thu thập dữ liệu sơ cấp, được thực hiện theo các bước sau:


10

Bước 1: Nghiên cứu các mô hình lý thuyết về Giám sát HĐND nói
chung và giám sát HĐND huyện đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo,
khiếu kiện của công dân nói riêng từ đó xác định khung lý thuyết cho nghiên
cứu Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân huyện Phù Cừ đối với việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện của công dân.

Bước 2: Làm rõ Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân huyện Phù
Cừ đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện của công dân thông
qua: Khung lý thuyết về Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân huyện
đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện của công dân, Kết quả
phỏng vấn chuyên sâu 01 Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện, 02 Phó Chủ tịch
Hội đồng nhân dân huyện, 02 Phó Trưởng ban chuyên trách Hội đồng nhân
dân huyện, một số đại biểu HĐND huyện.
Bước 3: Phân tích số liệu: Kết quả điều tra được tập hợp, kiểm định lại
những kết quả rút ra từ việc phân tích dữ liệu thứ cấp so với kết quả thu thập
dữ liệu sơ cấp. Phát hiện những vướng mắc, đồng thời phân tích, rút ra kết
luận những tồn tại làm căn cứ đánh giá Hoạt động giám sát của HĐND huyện
Phù Cừ đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện của công dân.
Bước 4: Tiến hành viết Luận văn theo nội dung nghiên cứu đã đề cập tới.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
Luận văn gồm 3 chương,
Chương 1: Cơ sở lý luận về giám sát của Hội đồng nhân dân cấp huyện
đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện của công dân
Chương 2: Phân tích thực trạng giám sát của Hội đồng nhân dân huyện
Phù Cừ đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện của công dân
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện giám sát của Hội đồng nhân dân huyện
Phù Cừ đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện của công dân.


11

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP
HUYỆN ĐỐI VỚI VIỆC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO,
KHIẾU KIỆN CỦA CÔNG DÂN

1.1. CHỨC NĂNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
CẤP HUYỆN

1.1.1. Hội đồng nhân dân cấp huyện
Trên thế giới có nhiều học thuyết về tổ chức quyền lực nhà nước, nhưng
chủ yếu chỉ dừng ở tổ chức quyền lực nhà nước ở trung ương với việc phân
chia quyền lực giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp, hoặc đề cập tới việc phân
cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền ở
địa phương. Lý luận mang tính học thuyết về tổ chức quyền lực nhà nước ở cấp
địa phương, cụ thể là cấp huyện, chưa hình thành rõ ràng. Tuy nhiên, nguyên lý
cơ bản nhất, xuyên suốt, đó là: HĐND là cơ quan dân cử ở địa phương, do
nhân dân địa phương bầu ra để thay mặt nhân dân quyết định những vấn đề cơ
bản ở địa phương.
Theo quy định tại Điều 119 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)
và Điều 6 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 20015, thì: "Hội đồng
nhân dân gồm các đại biểu Hội đồng nhân dân do cử tri ở địa phương bầu ra,
là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng
và quyền làm chủ của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương
và cơ quan nhà nước cấp trên". Như vậy, HĐND được xác định là cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương, cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng
và quyền làm chủ của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương
và chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước cấp trên.
Hiện nay, bộ máy nhà nước ta được tổ chức thành bốn cấp hành chính:
cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã. Cấp trung ương là cấp vĩ mô, tổ


12

chức quản lý toàn bộ lãnh thổ quốc gia. Cấp tỉnh, huyện, xã là cấp cụ thể hóa
các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của cơ quan nhà

nước cấp trên.
Như vậy, cấp huyện là cấp trung gian giữa chính quyền trung ương và
chính quyền địa phương, là cấp đầu tiên của chính quyền địa phương. Nếu
cấp trung ương là cấp đề ra chủ trương, chính sách thì cấp địa phương là cấp
tổ chức, thực hiện chủ trương, chính sách. Vì vậy, với vai trò là cấp đầu tiên
của chính quyền địa phương, cấp huyện là cấp quan trọng trong việc chuyển
tải chủ trương, chính sách từ trung ương xuống tới người dân. Quá trình
chuyển tải chính sách từ trung ương đến cơ sở, cấp huyện được pháp luật trao
cho những thẩm quyền nhất định trong việc thực hiện chức năng quản lý trên
địa bàn lãnh thổ. Xét dưới góc độ tự chủ và quyền tự quản của nhân dân, thì
cấp huyện là cấp có quyền tự chủ tương đối cao so với cấp xã, tác động tới
hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung. Chính vì vậy, HĐND cấp huyện
càng khẳng định vị trí quan trọng trong hệ thống bộ máy nhà nước. Đại hội X
của Đảng chỉ rõ:
Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân... Nâng cao
chất lượng hoạt động của HĐND và UBND, đảm bảo quyền tự chủ và tự chịu
trách nhiệm của chính quyền địa phương trong phạm vi được phân cấp. Phát
huy vai trò giám sát của HĐND...
HĐND cấp huyện là cơ quan đại diện cho nhân dân, do nhân dân bầu ra,
quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương, một cấp ngay dưới cấp
trung ương. Vì vậy, HĐND cấp huyện có vị trí, vai trò quan trọng trong bộ
máy chính quyền địa phương, quyết sách những vấn đề trực tiếp ở địa
phương, giải quyết những khó khăn vướng mắc của nhân dân và quyết định
hướng phát triển cho kinh tế – xã hội ở địa phương mình.
HĐND là cơ quan đại diện của nhân dân địa phương, nhưng tính chất đại


13


diện của HĐND khác với tính chất đại diện của Quốc hội. Theo Hiến pháp
1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của
nhân dân (Điều 83) và đại biểu Quốc hội là người đại diện cho nhân dân cả
nước (Điều 97); còn HĐND là cơ quan đại diện của nhân dân địa phương và
đại biểu HĐND là người đại diện cho nhân dân địa phương, chịu trách nhiệm
trước nhân dân địa phương.
Tính chất đại diện của HĐND được thể hiện ở những khía cạnh sau đây:
- Các đại biểu HĐND do cử tri bầu ra bằng hình thức phổ thông, bình
đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Các cơ quan khác của chính quyền địa
phương không được thành lập theo trình tự này.
- HĐND có cơ cấu đại biểu đại diện cho các tầng lớp xã hội, các thành
phần xã hội được phân bổ trên các địa bàn lãnh thổ của địa phương.
- Các đại biểu HĐND là những người tiêu biểu, ưu tú trong nhân dân, đại
diện cho y chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương.
Tính chất quyền lực của HĐND thể hiện ở một số mặt sau:
- Căn cứ vào những quy định của pháp luật, HĐND bầu, miễn nhiệm,
bãi nhiệm các chức vụ trong tổ chức của mình (Thường trực HĐND, các
Ban của HĐND);
- Căn cứ vào nhưng quy định của pháp luật, HĐND bầu, miễn nhiệm, bãi
nhiệm các chức danh của UBND (là cơ quan chấp hành của mình, là cơ quan
hành chính nhà nước ở địa phương);
- Căn cứ vào nhưng quy định của Hiến pháp và pháp luật, HĐND ban
hành các Nghị quyết để triển khai các mặt công tác ở địa phương.
- HĐND giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật ở địa phương.
Tính chất đại diện và tính chất quyền lực của HĐND có quan hệ biện chứng
với nhau. Tính đại diện là tiền đề bảo đảm để HĐND trở thành cơ quan quyền lực
nhà nước ở địa phương. Và chỉ có thể là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương, HĐND mới có đủ quyền năng thực hiện được tính chất đại diện cho nhân



14

dân, thay mặt nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương.
Tuy HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước nhưng xét về vị trí pháp lý,
HĐND không giống với Quốc hội, Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất.
Sự khác biệt ở đây không chỉ ở phạm vi, cấp độ mà ở thẩm quyền. Quốc hội
là cơ quan duy nhất có quyền làm Hiến pháp, làm luật, sửa đổi luật. HĐND
cũng là cơ quan quyền lực nhưng chỉ có quyền ban hành Nghị quyết trong
phạm vi địa phương.
Như vậy, với vị trí, tính chất của HĐND được quy định trong Hiến pháp
1992 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 thì HĐND vừa là
một cơ quan trong bộ máy nhà nước, vừa là chủ thể quyền lực, đại diện cho
nhân dân địa phương và có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của địa
phương, giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội, công dân ở địa phương nhằm phát huy tiềm năng của địa
phương trên mọi mặt kinh tế, xã hội.
1.1.2. Giám sát của Hội đồng nhân dân cấp huyện
Chức năng của Hội đồng nhân dân là những phương diện hoạt động chủ
yếu của Hội đồng nhân dân nhằm thực hiện vai trò, nhiệm vụ của Hội đồng
nhân dân.
Với vị trí, tính chất là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, cơ
quan, đại diện cho nhân dân địa phương, Hội đồng nhân dân có các chức năng
cụ thể sau: Chức năng quyết định và Chức năng giám sát.
Chức năng quyết định
Chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương thuộc
thẩm quyền của Hội đồng nhân dân được quy định rõ đối với từng cấp .
Chức năng giám sát
Điều 11 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định: "
Hội đồng nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
trách nhiệm giám sát các cơ quan nhà nước ở địa phương trong việc thực hiện



15

các nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền, phân cấp". Qua quá trình phát
triển, vai trò, chức năng giám sát của HĐND ngày càng được hoàn thiện. Sắc
lệnh Số 63/SL ngày 23/11/1945 về tổ chức chính quyền địa phương tuy không
trực tiếp sử dụng khái niệm "giám sát" trong hoạt động của HĐND, nhưng từ
các quy định về thẩm quyền của HĐND trong Sắc lệnh có thể thấy chức năng
giám sát của HĐND đã được xác nhận, thể hiện rõ nét ở các quy định về
quyền của HĐND bỏ phiếu tín nhiệm đối với Uỷ ban hành chính. Tuy nhiên,
với quy định của văn bản này, mức độ giám sát của HĐND đối với Uỷ ban
hành chính nhìn chung còn hạn chế. Từ năm 1983, Luật Tổ chức HĐND và
UBND đã chính thức sử dụng khái niệm "giám sát" để xác nhận chức năng
giám sát của HĐND. Đến Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, chức
năng giám sát của HĐND một lần nữa được quy định đầy đủ, cụ thể hơn. Đặc
biệt, với sự ra đời của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 đã
đánh dấu một bước phát triển mới về chức năng giám sát của HĐND cả về
mặt lý luận và thực tiễn hoạt động, nâng cao được vị thế và vai trò của HĐND
hiện nay.
Chức năng giám sát của HĐND bao giờ cũng gắn liền với chức năng
quyết định những vấn đề cơ bản về kinh tế, xã hội của HĐND. Thực hiện tốt
chức năng này không những cho phép HĐND kiểm tra, đánh giá hoạt động
của các cơ quan nhà nước trong việc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, các nghị
quyết của HĐND mà còn cho phép HĐND phát hiện được sự không phù hợp,
thiếu thực tế của các Nghị quyết do HĐND ban hành để sửa đổi, bổ sung. Kết
quả giám sát sẽ là căn cứ để HĐND thực hiện quyền bãi miễn, miễn nhiệm
các chức vụ chủ chốt (Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND, Chủ tịch, Phó Chủ tịch
và các thành viên của UBND, Trưởng ban và các thành viên của HĐND) hoặc
sẽ là căn cứ để HĐND bãi bỏ những quyết định sai trái của HĐND cùng cấp,

những nghị quyết sai trái của HĐND cấp dưới trực tiếp.
Như vậy, Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, vị trí, vai trò và chức


16

năng của HĐND rất lớn. Vấn đề đặt ra hiện nay chúng ta phải làm thế nào để
HĐND thể hiện và phát huy tốt vị trí, vai trò và chức năng của Hội đồng trên thực
tế; đảm bảo sự phối hợp, hợp tác với nhau giữa các cơ quan nhà nước ở địa
phương nhằm đưa lại cuộc sống ngày càng ấm no hạnh phúc cho người dân. Để
đáp ứng được yêu cầu trên cần phải đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng và hiệu
quả hoạt động của HĐND, trong đó đặc biệt phải chú ý đến chức năng giám sát.
Do yêu cầu của luận văn đặt ra, vấn đề giám sát của HĐND đối với việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện của công dân cần được nghiên cứu sâu
cả về mặt lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở đó chúng ta có những căn cứ để đề
xuất một số phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát
của HĐND cấp huyện nói chung và HĐND huyện Phù Cừ nói riêng đối với
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện của công dân .
Để nhận thức đúng bản chất, nội dung cũng như hình thức động giám sát
của HĐND cấp huyện, trước hết cần làm rõ khái niệm giám sát.
Trong các công trình nghiên cứu một số tài liệu, thuật ngữ "giám sát"
được hiểu theo nhiều cách, từ nhiều góc độ khác nhau:
- Có quan niệm cho rằng, giám sát là: sự theo dõi, xem xét, làm đúng
hoặc sai những điều đã quy định.
- Quan niệm khác coi giám sát là việc theo dõi và kiểm tra xem có thực
hiện đúng những điều quy định không; là chức quan thời xưa trông nom, coi
sóc một loại công việc nhất định
- Có ý kiến chỉ coi giám sát là một nhóm hoặc một tổ chức để theo dõi
một việc nào đấy
Với cách tiếp cận mang tính hệ thống, ý kiến khác lại quan niệm: giám sát

là sự theo dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ động, thường xuyên, liên tục
và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc và hướng hoạt động
của đối tượng chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo quy chế nhằm đạt được những
mục đích, hiệu quả xác định từ trước, bảo đảm cho pháp luật được tuân thủ


17

nghiêm chỉnh.
- Theo Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân,
khái niệm "giám sát" được giải thích:
Giám sát là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động
của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp
và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử lý theo thẩm
quyền hoặc yêu cầu, khiếu kiện cơ quan có thẩm quyền xử lý.
Như vậy, tuy cách diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa của từ "giám sát" có khác
nhau, nhưng các quan niệm trên đều đề cập đến nội dung cơ bản: giám sát là
việc theo dõi, xem xét và kiểm tra một chủ thể nào đó về một việc làm đã thực
hiện đúng hoặc thực hiện chưa đúng những điều đã quy định để từ đó có biện
pháp điều chỉnh hoặc xử lý đối với việc làm sai, nhằm đạt được những mục
đích hiệu quả xác định từ trước, bảo đảm cho các quyết định thực hiện đúng và
đầy đủ.
Với quan niệm trên, giám sát có những đặc trưng sau:
- Giám sát luôn gắn với một chủ thể nhất định, tức là phải trả lời được câu
hỏi ai (người hoặc tổ chức nào) có quyền thực hiện việc theo dõi, xem xét,
kiểm tra và đưa ra những nhận định, đánh giá về một việc làm nào đó đã được
thực hiện đúng hoặc không đúng với những điều đã quy định, quyết định.
- Giám sát bao giờ cũng cần 2 giai đoạn: giai đoạn theo dõi, xem xét,
kiểm tra và giai đoạn đánh giá, đưa ra kết luận. Trong đó, giai đoạn thứ nhất
là cơ sở để thực hiện giai đoạn thứ hai. Nếu giai đoạn theo dõi, xem xét, kiểm

tra làm tốt thì việc đánh giá, kết luận sẽ đúng đắn, chính xác và cuộc giám sát
sẽ có hiệu quả và ngược lại.
- Giám sát cũng luôn gắn với một đối tượng cụ thể, tức là phải trả lời
được câu hỏi giám sát ai? giám sát việc gì? Đặc điểm cơ bản này cho chúng ta
phân biệt giữa giám sát và kiểm tra. Bởi nói tới kiểm tra thì chủ thể hoạt động
kiểm tra và đối tượng chịu sự tác động này có thể đồng nhất là một. Đó là


18

trường hợp chủ thể tự kiểm tra hoạt động của mình, tức là tự xem xét đánh giá
tình trạng tốt xấu của công việc đang làm để từ đó uốn nắn, sửa chữa. Nhưng
trong hoạt động giám sát thì không thể có tình trạng tự chủ thể hoạt động
quan sát chính hành vi của mình mà phải là hoạt động theo dõi, thẩm tra và
xem xét của một chủ thể khác, từ đó đưa ra kết luận và xử lý. Khác với kiểm
tra, thanh tra, nội dung hoạt động giám sát bao giờ cũng được báo trước cho
đối tượng bị giám sát một thời gian nhất định. Cũng có ý kiến cho rằng, trong
cơ chế giám sát có cả việc tự giám sát tức là sự tự theo dõi, xem xét và kiểm
tra chính mình có thực hiện đúng những điều đã quy định không. Với quan
niệm như vậy e rằng không đúng, không phù hợp với bản chất của từ giám
sát, bởi bên cạnh khái niệm giám sát còn có khái niệm kiểm tra.
- Giám sát phải thể hiện được quan hệ giữa các chủ thể tham gia vào
hoạt động giám sát. Nội dung của quan hệ này biểu hiện ở những quyền và
nghĩa vụ của chủ thể giám sát và đối tượng chịu giám sát.
- Giám sát phải được tiến hành trên những căn cứ do pháp luật quy định.
Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi vì: nếu như thiếu những quy định
này thì chủ thể giám sát không có cơ sở để thực hiện quyền giám sát và tiêu
chí để đưa ra những nhận định về hoạt động của đối tượng chịu giám sát.
- Giám sát là hoạt động có tính mục đích. Trước hết, mục đích của giám sát
là đưa ra được những nhận định chính xác của chủ thể giám sát đối với hoạt động

của đối tượng chịu giám sát, từ đó có các biện pháp xử lý đối với những việc làm
sai trái nhằm bảo đảm cho những quy định của pháp luật được thực hiện đúng và
có hiệu quả. Như vậy, mục đích chung của giám sát nhà nước cũng như giám sát
xã hội là bảo đảm cho sự hoạt động đúng đắn, minh bạch, liên tục của các cơ
quan tổ chức, cá nhân có chức vụ quyền hạn trong bộ máy nhà nước, trên cơ sở
tuân thủ thường xuyên, nghiêm chỉnh pháp luật về nghĩa vụ, chức năng và thẩm
quyền của họ.
Tóm lại, thuật ngữ "giám sát" nếu hiểu theo nghĩa chung thì phạm vi áp


19

dụng của nó rất rộng, muốn có một khái niệm cụ thể thì hoạt động giám sát
bao giờ cũng gắn với một chủ thể xác định chẳng hạn như giám sát của Quốc
hội, giám sát của HĐND, giám sát của nhân dân.
Căn cứ vào các yếu tố cấu trúc của khái niệm giám sát, căn cứ vào những
quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 và các
văn bản pháp luật khác, hoạt động giám sát của HĐND cấp huyện được hiểu như
sau: Giám sát của HĐND cấp huyện là tổng thể các hoạt động của HĐND,
Thường trực HĐND, các ban của HĐND và các Tổ và đại biểu HĐND nhằm
theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của các cơ quan tổ chức, cá nhân chịu sự
giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh và các văn bản của cơ
quan nhà nước cấp trên cũng như nghị quyết của HĐND cấp huyện; từ đó đưa ra
các kết luận và phương án xử lý phù hợp để khắc phục những tồn tại, hạn chế,
phát huy mọi tiềm năng, xây dựng và phát triển kinh tế, văn hoá- xã hội, bảo
đảm quốc phòng, an ninh; không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước.
- Chủ thể giám sát của HĐND huyện bao gồm: đại biểu Hội đồng nhân
dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân, Tổ đại
biểu Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân.

- Giám sát của Hội đồng nhân dân bao gồm giám sát của Hội đồng nhân dân
tại kỳ họp, giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng
nhân dân, Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân và các đại biểu Hội đồng nhân dân.
Như vậy, hoạt động giám sát của HĐND là một bộ phận cấu thành của
cơ chế giám sát, kiểm tra nhà nước. Điểm đặc biệt HĐND vừa là chủ thể thực
hiện hoạt động giám sát nhưng đồng thời cũng là đối tượng chịu sự giám sát.
1.2. GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP HUYỆN ĐỐI VỚI
VIỆC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO, KHIẾU KIỆN CỦA CÔNG DÂN

1.2.1. Khái niệm giám sát của Hội đồng nhân dân cấp huyện đối với
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện của công dân
- Giám sát của Hội đồng nhân dân cấp huyện đối với việc giải quyết


×