Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tieu luan kinh te phat trien

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.03 KB, 26 trang )

MỤC LỤC

I. NGUỒN LAO ĐỘNG VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ
II. NGUỒN LAO ĐỘNG VIỆT NAM “VỪA THỪA, VỪA THIẾU”
1. Nhu cầu lao động vừa thừa, vừa thiếu.
2. Biện pháp sử dụng nguồn lao độn
III.

CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC CỦA ĐẠI HỌC VIỆT NAM

HIỆN NAY
1.
2.
3.
4.
5.

Những thành tựu đạt được.
Thực trạng nền giáo dục Việt Nam hiện nay.
Nguyên nhân.
Việt Nam trên trường Quốc tế.
Giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục Đại học ở Việt Nam.

3.

NỘI DUNG
I.

NGUỒN LAO ĐỘNG VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ:

1




Nguồn lực lao động là động lực cho sự phát triên kinh tế nói riêng và là
dộng lực phát triển xã hội, con người nói chung. Đại hội lần thứ XI của Đảng
cộng sản Việt Nam khẳng định: “Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết
định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước”.
Xét dưới góc độ các yếu tố nguồn lực thì nguồn lực lao động chính là
lực lượng lao động. Lực lượng lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi có
khả năng lao động đuoc pháp luật quy định, thực tế đang làm việc và những
người thất nghiệp. Một quốc gia muốn phát triển thì cần phải có các nguồn
lực của sự phát triển linh tế như: tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học - công
nghệ, con người … Trong các nguồn lực đó thì nguồn lực lao động (con
người) là quan trọng nhất, có tính chất quyết định trong sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế của mọi quốc gia từ trước đến nay. Một nước cho dù có tài
nguyên thiên nhiên phong phú, máy móc kỹ thuật hiện đại nhưng không có
những con người có trình độ, có đủ khả năng khai thác các nguồn lực đó thì
khó có khả năng có thể đạt được sự phát triển như mong muốn. Có ba vai trò
chính đó là:
- Nguồn lực lao động (NLLĐ) phát hiện, sáng tạo ra các nguồn lực phát
triển: con người là chủ thể phát hiện, khai thác và sử dụng tài nguyên thiên
nhiên để tạo nên tăng trưởng kinh tế; nguồn lực vốn là kết qua lao động và
tích lũy của con người mà có; nguồn lực khoa học – công nghệ cũng do con
người sáng tạo ra.
- NLLĐ đóng vai trò quyết định trong việc sử dụng các nguồn lực khác.
Chất lượng nguồn lực lao động là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sử
dụng ba nguồn lực còn lại ( gồm Nguồn lực vốn, KH&CN, tài nguyên thiên
nhiên). Nói đến Nguồn LLĐ là nói đến tổng thể NLLĐ của một quốc gia,
trong đó NLLĐ có trình độ cao là bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng, là
NLLĐ tinh tuý nhất, có chất lượng nhất và có vai trò quyết định sự thành công

đối với phát triển kinh tế của một đất nước
2


- NLLĐ là động lực của phát triển kinh tế. NLLĐ vừa có nhu cầu tự
thân để phát triển với yêu cầu ngày càng cao, phong phú và chủ thể sáng tạo
công nghệ, điều chỉnh cơ câu KT để thỏa mãn các nhu cầu xã hội.
Mối quan hệ giữa nguồn lực lao động với phát triển kinh tế thì nguồn
lực lao động luôn luôn đóng vai trò quyết định đối với mọi hoạt động kinh tế
trong các nguồn lực để phát triển kinh tế đất nước. NLLĐ quyết định quá trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, xã hội, từ
sử dụng lao động thủ công là phổ biến sang sử dụng một cách phổ biến sức
lao động được đào tạo cùng với công nghệ tiên tiến, phương tiện và phương
pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Trong nền kinh tế công nghiệp, nền kinh tế tri thức, nguồn lao động chất
lượng cao là nhân tố quyết định. Đảng và nhà nước ta khẳng định mục tiêu và
động lực phát triển kinh tế - xã hội là vì con người và do con người.
Bên cạnh đó, nguồn lao động vừa là yếu tố "đầu vào" của quá trình sản
xuất, vừa là người tham gia tiêu dùng các sản phẩm và dịch vụ của xã hội.
Như vậy, với tư cách là bộ phận dân số thực hiện quá trình tiêu dùng, nguồn
lao động trở thành nhân tố tạo cầu của nền kinh tế. Nguồn lực lao động khác
với các nguồn lực khác là vừa tham gia tạo cung, tạo cầu, vừa trực tiếp điều
tiết quan hệ gắn bó với chủ thể kinh tế - xã hội do con người tạo ra.
Do đó nguồn lưc lao động có vai trò đặc biệt đối với phát triển kinh tế
so với các nguồn lực khác. phát triển nguồn nhân lực chính là quá trình tạo lập
và sử dụng năng lực toàn diện con người vì sự tiến bộ kinh tế- xã hội và sự
hoàn thiện bản thân mỗi con người. Đối với nước ta đó là một quá trình tất
yếu để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Với ý nghĩa đó, trong thời gian qua, Đảng, Nhà nước ta đã quan tâm,
tạo điều kiện để thực hiện phát huy nguồn lực lao động từ đó làm cơ sở phát

triển đất nước, chính vì vậy trong thời gian qua nguồn lực lao động nước ta
phát triển cả về số lượng, chất lượng, tạo ra một nguồn lực lao động dồi dào,
đủ trình độ để thực hiện công cuộc đổi mới đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó
vẫn còn một số yếu kém như: nguồn lực ta đông nhưng không mạnh, trình độ
3


lao động phổ thông khá nhiều, lao động qua đào tạo còn ít và đặc biệt là chất
lượng đào tạo chưa đạt hiệu quả yêu cầu, do vậy nguồn lực lao động chưa
phát huy vai trò khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực khác đẻ phát
triển kinh tế- xã hội.
Ví dụ: Sông Hinh là một huyện miền núi địa bàn khá rộng và phức tạp,
địa hình hiểm trở đồi dốc, có diện tích tư nhiên khoảng 887 km2 với Dân số
hơn 42 nghìn người ; trung bình 4,3 người/km 2 sống phân tán và rời rạc, theo
từng cụm, gần nơi sản xuất; mật độ thấp, phân bố không đều giữa các địa
phương. Dân số trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 31,2%, trong đó: nông
nghiệp chiếm 71,9%; lao động công nghiệp – TTCN chiếm 8,5%; lao động
dịch vụ và khác chiếm 19,6%. Đặc biệt, đây là vùng dân tộc thiểu số với dân
số chiếm gần 50%, trình độ văn hóa thấp, phần lớn thuộc diện hộ nghèo, nhiều
phong tục tập quán lạc hậu còn diễn ra phổ biến... đó là những thách thức to
lớn trong việc khai thác nguồn lực lao động, giải quyết việc làm, chuyển dịch
cơ cấu lao động trong thời gian tới.
Ưu điểm: Xác định tầm quan trọng của nguồn lực lao động, trong thời
gian qua, Đảng bộ, chính quyền huyện nhà đã thực hiện nhiều giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển
kinh tế địa phương như: Triển khai, vận dụng, tốt các chính sách ưu tiên với
huyện miền núi, vùng đồng bào dân tộc của Đảng, Nhà nước, đến nay, hầu hết
các thôn buôn đã có điện lưới quốc gia, nhiều công trình nước sạch, trạm y tế
được xây dựng, trường học được kiên cố hóa, hàng năm 100% trẻ đúng độ
tuổi vào lớp 1, trẻ em được học mẫu giáo ngay tại thôn, buôn; hầu hết được

tiêm phòng đúng độ tuổi; tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng ngày càng giảm.
Bên cạnh đó, nhiều chính sách hỗ trợ, khuyến khích hộ nghèo, hộ dân
tộc thiểu số trong học tập như: hỗ trợ học phí, hỗ trợ bảo hiểm y tế, cho vay
ưu đãi học phí sinh viên; thực hiện chính sách cử tuyển tạo nguồn nhân lực tại
chỗ.
Tỷ lệ lao động qua học nghề, nhất là đào tạo nghề chính quy không
đáng kể dẫn đến chất lượng lao động thấp, nguồn nhân lực dư thừa, mất cân
4


đối giữa các ngành kinh tế . Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn hiện nay
khá nghiêm trọng. Lực lượng lao động tuy đông, giá thành thấp song chất
lượng chưa cao, năng suất lao động hạn chế nên không đáp ứng được yêu cầu
của công việc...
Một thực tế ở các địa phương là nguồn nhân lực lao động người dân
tộc thiểu số chiến gần một nửa của huyện. Song hầu hết là lao động phổ
thông, trình độ văn hóa thấp, hầu như chưa qua đào tạo nghề. Điều đáng nói là
mặc dù chính quyền địa phương tạo nhiều điều kiện để có việc làm như: xuất
khẩu lao động, làm việc ở các công ty trong và ngoài tỉnh... lý do là vì phong
tục tập quán, chưa mạnh dạn “thoát ra khỏi lũy tre làng” để tìm kiếm cơ hội
thoát nghèo và làm giàu cho gia đình.
Bên cạnh đó, hàng trăm sinh viên ra trường trở về địa phương không
bố trí được việc làm, hoặc không đúng với nhu cầu; tình trạng này diễn ra
ngay cả với sinh viên cử tuyển. Đề án trí thức trẻ thực hiện chưa được triệt để,
sau một vài năm hoặc sau khi kết thúc đề án là bỏ lơ, không có kế hoạch tiếp
tục sử dụng.
Những hạn chế trong nguồn lực lao động ở huyện có thể đánh giá tóm
gọn ở những đặc điểm như sau:
- Chất lượng nguồn lực lao động thấp
Chất lượng nguồn lực lao động thấp so với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và so với các địa phương khác. Trước hết là sự thấp kém về thể chất,

sức khỏe, độ dẻo dai trong quá trình lao động công nghịêp.
Tỷ lệ lao động được đào tạo so với tổng số lao động còn rất thấp so với
mục tiêu đề ra, do yêu cầu của kinh tế và càng rất thấp so với
các địa phương trong tỉnh và khu vực.
Cơ cấu đào tạo chưa hợp lý, chất lượng đào tạo chưa cao, đào tạo chưa
gắn với nhu cầu xã hội nên dẫn đến tình trạng vừa thừa, vừa thiếu.

5


Ý thức, kỷ cương, kỷ luật và tính cộng đồng trong tập thể lao động chưa
cao, không tạo được sức mạnh tập thể, nên năng suất lao động thấp, hiệu quả
sản xuất kinh doanh kém.
Cơ chế chính sách chưa hợp lý, nên không khuyến khích được tính
năng động, sáng tạo của đội ngũ lao động gây lãng phí chất xám.
- Một bộ phận khá lớn lực lượng lao động chưa có việc làm hoặc việc
làm lao động chưa thường xuyên
Việc làm là nhu cầu không thể thiếu đối với mỗi người, vì việc làm giúp
cho bản thân có thu nhập và việc làm tạo điều kiện để hoàn thiện, phát triển
nhân cách con người, lành mạnh hóa quan hệ xã hội. Tuy nhiên, việc làm còn
phụ thuộc vào quy mô, trình độ phát triển của nền kinh tế và các yếu tố chính
trị xã hội khác.
- Hầu hết lực lượng lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp lại
phân bố không đều giữa các vùng
Chủ yếu là lao động nông nghiệp, trong khi đó lao động trong lĩnh vực
công nghiệp và xây dựng chỉ vài %; ở xã đồng bằng mật độ dân số và lao
động đông hơn rất nhiều so với miền núi, vùng sâu, vùng xa.
- Thu nhập và đời sống của người lao động còn thấp
Thu nhập của lao động ở các ngành sản xuất vật chất, dịch vụ, khối
hành chính sự nghiệp ... đều rất thấp không đủ tái sản xuất sức lao động. Thu

nhập thấp và không công bằng giữa các tầng lớp lao động đang gây khó khăn
về đời sống đã buộc người lao động phải kiếm việc làm thêm nhằm tăng thu
nhập. Do đó, ảnh hưởng đến chất lượng, năng suất lao động của công việc
được phân công.
- Nguồn lực lao động tăng nhanh
Tốc độ tăng dân số còn cao, dân số trẻ nên tốc độ tăng nguồn lực lao
động cũng cao. Nguồn lực lao động tăng nhanh là áp lực lớn cho giải quyết
việc làm, giảm thất nghiệp.
Nguyên nhân từ thực trạng trên là
6


Nguyên nhân ưu:
- Đảng, chính quyền địa phương triển khai thực hiện nghiêm túc quan
điểm cấp trên về công tác đào tạo và sử dụng nguồn lực lao động
-

Kế thừa truyền thống cần cù trong lao động sản xuất, truyền thống

hiếu học của dân tộc
-

Có sự kết hợp đồng bộ giữa giải pháp phát triển kinh tế với đào tạo

nguồn nhân lực
-

Kinh tế có bước phát triển mới, đồi hỏi sự vươn lên xứng tầm của

người lao động

Nguyên nhân khuyết:
-

Tiềm lực kinh tế của địa phương còn yếu, chưa kích thích việc rèn

luyện, nâng cao thể chất, trình độ
-

Chuyển dịch cơ cấu tại các địa phương chậm, nên chưa tạo điều

kiện cho lao động đòi hỏi năng lực, phẩm chất, trình độ cao
-

Chính sách thu hút trí thức trẻ chưa thực hiện triệt để, sau vài năm

hoặc hết đề án là bỏ lơ
- Công tác tư vấn, định hướng cho học sinh chưa hiệu quả,
nhiều Sinh viên tốt nghiệp ra trường không bố trí được việc làm vì học ngành
nghề không phù hợp với dịa phương
-

Trình độ dân trí thấp, nhận thức trong vùng đồng bào dân tộc còn

hạn chế với lao động và việc làm; tập quán sản xuất nông nghiệp gắn bó lâu
đời với người nông dân
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực lao động, khai thác tốt tiềm
năng con người góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế địa
phương. Chúng ta cần tập trung thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp
sau:
- Xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh từ cơ sở, từ đó

lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng và sử
dụng nguồn nhân lực lao động tại địa phương
7


- Tăng cường công tác thông tin tuyên tuyền với các hình thức đa
dạng nhằm nâng cao nhận thức của người dân về vai trò nguồn lực lao động
đối với công cuộc xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, đặc biệt là ở vùng
đồng bào dân tộc thiểu số.
- Triển khai đồng bộ ba nội dung chiến lược dân số: Ổn định quy mô
dân số, thực hiện có hiệu quả chương trình dân số kế hoạch hóa gia đình để hạ
thấp tỷ lệ sinh để từ đó điều chỉnh tăng tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động hợp
lý. Từng bướcnâng cao thể chất, tinh thần cho người lao động
- Nhóm giải pháp chất lượng đào tạo: Nâng cao mặt bằng dân trí
+ Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu: tập trun đầu tư cơ sở vật
chất cho giáo dục từ bậc mầm non đến cậc THPT; Làm tốt công tác định
hướng, tư vấn cho học sinh chọn ngành, nghề đào tạo phù hợp, bảo bảo sau
khi ra trường dễ dàng bố trí, sử dụng phục vụ tại địa phương
+ Làm tốt công tác giáo dục đào tạo, nhất là đào tạo nghề - giải quyết
việc làm, tăng thu nhập cho người lao động; Củng cố các trung tâm dạy nghề
cấp huyện, Trung tâm giáo dục cộng đồng các xã, thị trấn; chú trọng tìm nhiểu
nắm bắt kịp thời nhu cầu học nghề phù hợp từ đó cung cấp kiến thức, kỹ năng
thuần thục đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế địa phương
- Tăng cường các biện pháp hành chính, kinh tế và giáo dục động viên
để nâng cao đạo đức, thái độ lao động mới Xây dựng đạo đức, kỷ luật, tác
phong lao động công nghiệp, chấp hành giờ giấc
-

Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế: từng bước xây dựng các


vùng chuyên canh cây cong nghiệp có giá trị kinh tế cao; Đẩy mạnh chuyển
đổi cơ cấu cây trồng, chuyển từ sản xuaatsnoong nghiệp lạc hậu sang thâm
canh nâng cao năng suất cây trồng vật nuôi
-

Thường xuyên tổ chức các phiên giao dịch việc làm, tạo cơ hội

cho người lao động tiếp cận trực tiếp với các doanh nghiệp ở trong và ngoài
tỉnh; Thực hiện tốt chính sách hỗ trợ học nghề và giải ngân vốn vay ưu đãi
cho người dân tộc thiểu số đăng ký xuất khẩu lao động, xem biện pháp xuất
8


khẩu lao động là một giải pháp xóa đói giảm nghèo có hiệu quả cao trong thời
gian đến.
- Kêu gọi đầu tư để Phát triển, thành lập nhiều công ty, doanh nghiệp
trên địa bàn để tạo việc làm và giải phóng triệt để sức lao động hiện có của địa
phương.
- Tư vấn tạo điều kiện về vốn, vật tư kỹ thuật để các hộ thiếu đất sản
xuất chuyển đổi sang phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và các hoạt
động kinh doanh dịch vụ khác.
II.

NGUỒN LAO ĐỘNG VIỆT NAM “VỪA THỪA, VỪA

THIẾU”:
1.

Nhu cầu lao động vừa thừa vừa Thiếu.
 Lao động Việt Nam “Thiếu”:

- Về trình độ.
- Kĩ năng lao động chất xám.
- Tác phong công nghiệp.
- Kỉ luật lao động.
- Kĩ năng làm việc nhóm.
 Lao động Việt Nam “thừa”: Về số lượng lao động phổ thông.

Lực lượng lao động (LĐ) từ 15 tuổi trở lên của cả nước 9 tháng đầu
năm, theo công bố của Tổng Cục Thống kê ước tính là 54,32 triệu người, tăng
11,7 nghìn người so với cùng thời điểm năm 2014. Tuy nhiên trong 9 tháng
qua, tỷ lệ thất nghiệp chưa có nhiều cải thiện đáng kể.
Cụ thể tỷ lệ thất nghiệp của LĐ trong độ tuổi 9 tháng đầu năm ước tính
là 2,36%. Riêng LĐ trong độ tuổi thanh niên (từ 15 - 24 tuổi) ước tính là
6,74%. Tỷ lệ thiếu việc làm của LĐ trong độ tuổi 9 tháng ước tính là 1,93%.
Như vậy, tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng LĐ trong độ tuổi thanh niên hiện khá
cao, trong khi nhu cầu tuyển dụng LĐ của doanh nghiệp vẫn không ngừng
tăng. Đơn cử tại TP. Hồ Chí Minh, theo khảo sát của Trung tâm Dự báo nhu
9


cầu nhân lực và Thông tin thị trường LĐ, quý
IV/2015 các doanh nghiệp trên địa bàn TP cần
tuyển dụng khoảng 100.000 LĐ, trong đó
70.000 LĐ làm việc ổn định và 30.000 LĐ
thời vụ. Nhu cầu nhân lực tập trung nhiều ở
các nhóm ngành nghề như: kinh doanh, bán
hàng (25,27%); dịch vụ, phục vụ (17,35%);
vận

tải,


kho

bãi,

xuất

nhập

khẩu

(9,57%); công nghệ thông tin (7,28%)…
Mặc dù vậy, khi xem xét ở chiều ngược lại, là các nhóm ngành nghề có
nhu cầu tìm việc nhiều, có thể thấy cung - cầu trên thị trường LĐ vẫn luôn
trong tình trạng thiếu cứ thiếu, thừa cứ thừa. Các nhóm ngành có nhu cầu tìm
việc cao nhất là kế toán, kiểm toán (26,30%) thì nhu cầu tuyển lại ít, trong khi
nhóm kinh doanh, bán hàng có nhu cầu tuyển dụng cao nhất thì chỉ có 8,17%
số người đăng ký tuyển dụng. Sự “vênh” nhau giữa cung -cầu trên thị trường
còn được thể hiện ở yêu cầu về mặt trình độ nhân lực cả hai bên đều không
đáp ứng được.
Người LĐ có trình độ lại không muốn làm công việc doanh
nghiệp tuyển dụng, và ngược lại doanh nghiệp muốn tìm người có tay nghề tốt
thì tìm hoài không có LĐ giỏi. Theo đó, nhu cầu tuyển dụng LĐ trong quý
III/2015 có trình độ đại học, trên đại học chỉ chiếm khoảng 16,5%, trong khi
nhu cầu tìm việc có trình độ tương đương lại chiếm tới 65,13%. Vì thế, người
thất nghiệp vẫn thất nghiệp, doanh nghiệp thiếu LĐ vẫn cứ phải loay hoay
tuyển người.
Bên cạnh đó, các chuyên gia trong ngành dự báo, nhu cầu tuyển dụng
trong dài hạn sẽ tiếp tục xu hướng dịch chuyển dần vào nguồn LĐ có trình độ,
tay nghề cao. Tuy nhiên, những tháng cuối năm sẽ có sự tăng cao về nhu cầu

LĐ phổ thông để phục vụ sản xuất và các hoạt động dịch vụ cuối năm, tập
10


trung vào những ngành như kinh doanh, dịch vụ, phục vụ, công nghệ, dệt may,
da giày, du lịch, bảo hiểm, bất động sản…
Đến năm… 2069 năng suất LĐ mới bắt kịp Thái Lan
Thực tế là nguồn nhân lực trình độ cao đang thiếu hụt, tạo nên sự cạnh
tranh lớn trong thu hút đối tượng này của khối doanh nghiệp ngoài Nhà nước.
Trong khoảng 53 triệu LĐ trong độ tuổi hiện nay của Việt Nam, chỉ có gần 12
triệu người thuộc diện đã qua đào tạo, có bằng cấp hoặc chứng chỉ…

“Trong tổng số LĐ làm công ăn lương gần 19 triệu người, thì lượng LĐ
qua đào tạo thực sự còn rất khiêm tốn. Điều này cũng phản ánh khả năng
chuyển dịch LĐ từ khu
vực phi chính thức, hộ gia
đình (chiếm tới 63% tổng
nguồn LĐ) và khoảng
2,5% LĐ thất nghiệp
sang khu vực chính
thức là rất khó khăn.
Trong khi, quá trình
đó là một nền tảng
quan trọng để cải
thiện mức sống, tăng năng suất LĐ và đưa nền kinh tế vượt qua bẫy thu nhập
trung bình”, TS. Kinh tế Lê Đăng Doanh phân tích.
Theo báo cáo “Thực trạng và giải pháp nâng cao năng suất LĐ của Việt
Nam” của Bộ Kế hoạch và đầu tư vừa trình Chính phủ, thì năng suất LĐ của
toàn nền kinh tế năm 2014, đạt 74,7 triệu đồng/LĐ, tăng 4,9% so với năm
2013. Mặc dù năng suất LĐ của Việt Nam trong những năm qua đã được cải

thiện đáng kể, tuy nhiên giả định Việt Nam và một số nước vẫn duy trì liên tục
tốc độ tăng trưởng năng suất LĐ trung bình như trong giai đoạn 2007- 2012
11


thì phải đến năm 2038 VN mới bắt kịp Philippines, và đến năm 2069 mới bắt
kịp năng suất LĐ của Thái Lan.
Cùng với đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra hàng loạt yếu tố ảnh hưởng
đến năng suất LĐ của Việt Nam. Tỉ trọng LĐ khu vực nông, lâm nghiệp và
thủy sản hiện nay còn khá cao (năm 2014 chiếm 46,3%) và cao hơn so với các
nước trong khu vực. Phần lớn LĐ làm việc trong khu vực này là LĐ giản đơn,
có tính thời vụ, việc làm, không ổn định, nên giá trị gia tăng tạo ra không cao,
dẫn đến năng suất LĐ thấp. Khu vực này có tới trên 46% LĐ của cả nước
nhưng chỉ tạo ra 18,1% GDP.
Cũng theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cả nước có 9,6 triệu LĐ được đào
tạo trong tổng số 52,7 triệu LĐ từ 15 tuổi trở lên có việc làm năm 2014
(chiếm 18,2%). Một trong những yếu tố ảnh hưởng quyết định tới năng suất
LĐ là thể chế kinh tế và hiệu quả quản trị nhà nước. Tuy Việt Nam đã có
nhiều nỗ lực thực hiện cải cách và hoàn thiện thể chế kinh tế, nhưng theo Bộ
Kế hoạch và Đầu tư vẫn còn một số “điểm nghẽn” và “rào cản” về thể chế
trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường.
2.

Biện pháp sử dụng có hiệu quả nguồn lao động:

- Thứ nhất: hoàn thiện khung thể chế, luật pháp đảm bảo cho sự phân phối
bình đẳng và hợp lý nguồn lực lao động. Cần phải hoàn thiện khung pháp lý
cho vận hành của thị trường lao động hoạt động hiệu quả. Điều này sẽ thúc
đẩy phân bố và sử dụng nguồn lực lao động một cách hiệu quả và hợp lý; thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành, vùng lãnh thổ và thành phần

kinh tế một cách hợp lý và hiệu quả. Đảm bảo cho người lao động có quyền tự
do tìm kiếm việc làm, đồng thời các doanh nghiệp được tự do tuyển chọn
người lao động khi có nhu cầu, cũng như việc tiết giảm nhân công khi không
có nhu cầu.
- Thứ hai: về tổ chức quản lý và sử dụng nguồn lực lao động: Phải xây
dựng được cơ chế quản lý và sử dụng sao cho người lao động có động lực yên
12


tâm công tác, phấn đấu vươn lên hoàn thiện bản thân. Cụ thể, phải xây dựng
tốt các chính sách sau:
+ Chính sách trọng dụng nhân tài.
+ Chính sách lương bổng.
- Thứ ba: đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng hiện đại và cạnh tranh
quốc tế. Theo đó, cần xây dựng các trung tâm đại học ở các vùng, thay vì
phân tán ở các tỉnh. Bộ Giáo dục và Đào tạo phải trực tiếp quản lý các trung
tâm đại học cấp vùng, chứ không phải giao cho các tỉnh quản lý như hiện nay.
Cùng với đó, chương trình và giáo trình phải hiện đại, cập nhật, liên kết, liên
thông với thế giới; Đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng phát huy trí
sáng tạo tự chủ của học sinh, thay cho cách học nhồi nhét tri thức; Khuyến
khích các trường đại học đẳng cấp quốc tế trong Top 200 đặt chi nhánh tại
Việt Nam; Các trường phổ thông đổi mới theo hướng gắn nhiều hơn với giáo
dục nghề.
- Thứ tư: phải có chính sách thu hút người tài về nông thôn để phát triển
nông thôn, nông nghiệp theo hướng hiện đại hóa. Hiện nay, nhiều địa phương
đã có chính sách này với các hình thức đãi ngộ bằng tiền, bằng hiện vật. Tuy
nhiên, thực tế đáng buồn là sau những rầm rộ với bản thành tích dài dặc vì đã
chào đón, thu hút được bao nhiêu người tài về địa phương xây dựng nông
thôn, thì sự việc lại rơi vào quên lãng.
Bên cạnh đó, để cân đối nguồn lao động giữa thành thị và nông thôn,

cần phải có chính sách hợp lý đối với lao động nhập cư vào các thành phố
vrrg cả hộ tịch, các chế độ an sinh xã hội phù hợp với xu hướng đô thị hóa
đang gia tăng ở Việt Nam.
- Thứ năm: tăng cường các biện pháp thực thi những quy định của Luật Sở
hữu trí tuệ, tạo động lực cho các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, sáng tác phát
huy tinh thần sáng tạo, tạo ra nhiều sản phẩm khoa học và công nghệ cho đất
13


nước. Đảm bảo chế độ chính sách cho lao động trí tuệ được hưởng xứng đáng
với công sức mà họ bỏ ra.
III. CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC CỦA ĐẠI HỌC VIỆT NAM HIỆN
NAY:
Giáo dục đào tạo đóng vai trò quan trọng là nhân tố chìa khóa, là động
lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Không chỉ ở Việt Nam mà ở hầu hết các
quốc gia khác trên thế giới, các chính phủ đều coi giáo dục là quốc sách hàng
đầu. Vậy tại sao giáo dục đào tạo lại có tầm quan trọng đến chiến lược phát
triển đất nước như vây?
– Thứ nhất: Giáo dục đào tạo là điều kiện tiên quyết góp phần phát triển
kinh tế.
– Thứ hai: Giáo dục đào tạo góp phần ổn định chính trị xă hội.
– Thứ ba: Và trên hết giáo dục đào tạo góp phần nâng cao chỉ số phát
triển con người.
Hiểu được điều này, Việt Nam cũng là một trong những quốc gia rất coi
trọng sự phát triển của nền giáo dục, đã và đang củng cố xây dựng nền giáo
dục thực sự vững mạnh và có chất lượng. Vì vậy mà trong suốt những năm
qua Đảng và nhà nước đã luôn quan tâm và tập trung đầu tư rất nhiều cho nền
giáo dục Việt Nam.
Hơn nửa thế kỷ qua nền giáo dục Việt nam nói chung và giáo dục đại
học nói riêng đã đạt được nhiều thành tích to lớn trong sự nghiệp giải phóng,

xây dựng và phát triển đất nước. Giáo dục đại học đã đào tạo bài bản và cung
cấp cho đất nước một đội ngũ cán bộ đông đảo có trình độ đại học, trên đại
học đáp ứng yêu cầu thực tiễn của đất nước, cũng như yêu cầu của sự hội
nhập khu vực và thế giới trên mọi lãnh vực. Với quan điểm “Đầu tư cho giáo
dục là quốc sách”, Đảng và Nhà nước đã đưa ra nhiều nghị quyết về phát triển
giáo dục, đào tạo khoa học và công nghệ khẳng định tầm quan trọng, định
hướng cũng như xác định mục tiêu, nhằm không ngừng nâng cao chất lượng
đào tạo đại học. Thực hiện nghị quyết của Đảng, Chính phủ và Bộ giáo dục
14


đào tạo đã đưa ra nhiều mô hình đào tạo đại học. Do vậy, tốc độ tăng của giáo
dục và đào tạo đại học tăng nhanh. Hiện trên cả nước có khỏang gần 90 cơ sở
đào tạo đại học bao gồm các trường đại học quốc gia, đại học vùng, các
trường đại học công lập, bán công, dân lập và các học viện. Tới đây sẽ có
thêm một số trường đại học tư thục ra đời. Lực lượng giảng viên không ngừng
nâng cao về chất lượng và quy mô, số lượng sinh viên tăng đáng kể (tăng
khoảng 15 lần so với 20 năm trước) và do đó làm cho trình độ dân trí tăng lên
rõ rệt. Thành tích trên là đáng trân trọng và tôn vinh. Mặc dù như vậy, nhưng
chất lượng giáo dục của Việt Nam vẫn chưa cao, nói một cách nom na là số
lượng thì tăng rất nhanh nhưng chất lượng vẫn không tăng thậm chí là còn
tuột dốc, chưa theo kịp với sự đổi mới của thế giới. Như vậy những quan tâm
và đầu tư của nhà nước đã thật sự đúng cách và đúng chỗ ?
1.

Thực trạng nền giáo dục Việt Nam hiện hành.
– Hiện nay có khuynh hướng đề cao khái niệm “đại học quốc tế chất
lượng cao”, cơ bản xây dựng đại học tốt là điều kiện“cần có”, nhưng điều kiện
“đủ” là chúng ta phải có bản thân sinh viên là những hạt giống tốt, nhân tố tốt.
Rõ ràng lâu nay giáo dục Việt Nam cũng chỉ lo đào tạo số lượng sinh viên đầu

ra mà quên đi vấn đề quan trọng là thế hệ thanh niên thật sự đóng góp như thế
nào vào sự nghiệp phát triển đất nước. Hàng loạt kỹ sư, cử nhân Việt Nam ra
trường nhưng thử hỏi có bao nhiêu người đạt được trình độ kỹ thuật của kỹ
sư? Bao nhiêu người dùng được? Bao nhiêu người làm việc theo đúng ngành
nghề mình đã học, đó là một sự lãng phí lớn. Thậm chí ngày nay học sinh,
sinh viên chỉ lo đạt bằng TOEFL này, TOEIC kia nhưng chính tiếng Việt lại sử
dụng không chuẩn. Trong khi cha ông ta ngày xưa số lượng ông Cử đếm trên
đầu ngón tay nhưng đào tạo người nào ra người nấy. Họ không chỉ thông thạo
ngoại ngữ mà còn giỏi thơ văn, rành văn hóa nước nhà. Vì sao lại có nghịch lý
như thế? Hiện nay chúng ta cũng không có một ngành thống kê thực tế phục
vụ nghiên cứu chính sách. Xây dựng trường đại học mang tầm quốc tế chỉ là
điều kiện“cần” nhưng chưa “đủ”. Trên thế giới người ta rất quan tâm đến
những thợ giỏi, chuyên viên kỹ thuật cao. Đất nước đang trong giai đoạn công
15


nghiệp hóa – hiện đại hóa mà sinh viên không chịu học kỹ thuật, chỉ tập trung
không cân bằng vào các ngành dễ được xã hội “chấp nhận” thì làm sao phát
triển công nghiệp, làm sao hiện đại hoá đất nước? Việt Nam muốn phát triển
nền khoa học kỹ thuật thì phải đào tạo khoa học kỹ thuật trên bình diện rộng.
– Nền giáo dục chúng ta có thể xem như đang mắc bệnh mà không chữa
trị, đua nhau nhồi nhét học thuộc lòng theo sách vở để có điểm cao mà sách
chưa chuẩn, năm nào thi cử cũng gian lận, đề thi sai, trẻ con thì bị bỏ mặc
lang thang trên đường phố, ma túy trong học đường, ý thức công dân rất kém.
Càng nói càng thấy nguy cơ, nhưng không thấy xã hội thật sự quản ngại vì
bao nhiêu năm rồi chưa thấy biện pháp giải quyết, chỉ nghe được những hứa
hẹn cải cách. Giáo dục Việt Nam muốn phát triển phải giải phẫu đúng bệnh.
Bệnh chẩn đoán đúng nhưng không chịu giải phẫu làm sao chữa trị? Thực tế,
các cơ quan chức năng đều nhận thấy hết căn bệnh giáo dục nước nhà. Trong
các cuộc hội thảo, hầu như mỗi vấn đề đều đã được phân tích, đã chỉ ra cái

đúng cái sai nhưng điều lạ lùng là nó không được đúc kết để đưa vào thực
hiện thực tế. Tình trạng “nói” nhưng không “làm” là căn bệnh nan giải nhất
của hầu hết nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội chứ không phải của riêng
ngành giáo dục Việt Nam.
Trong những thập kỷ qua, nền giáo dục Việt Nam có những bước phát
triển, có những thành tựu đáng ghi nhận, góp phần quan trọng vào nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực cho công cuộc xây dựng, bảo vệ và đổi mới đất nước.
Nhưng đồng thời nền giáo dục đang ẩn chứa rất nhiều yếu kém, bất cập:
– Giáo dục-đào tạo còn nhiều hạn chế, yếu kém, bất cập chậm được khắc
phục; chất lượng giáo dục còn thấp, quan tâm đến phát triển số lượng nhiều
hơn chất lượng; so với yêu cầu phát triển của đất nước còn nhiều nội dung
chưa đạt; chưa thực sự là quốc sách hàng đầu.
– Nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục còn lạc hậu, chậm đổi
mới, chậm hiện đại hóa, chưa gắn chặt với đời sống xã hội và lao động nghề
nghiệp; chưa phát huy tính sáng tạo, năng lực thực hành của học sinh, sinh
viên.
16


– Chất lượng giáo dục có mặt bị buông lỏng, giảm sút, nhất là giáo dục
đạo đức, lối sống; giáo dục mới quan tâm nhiều đến dạy “chữ”, còn dạy
“người” và dạy “nghề” vẫn yếu kém; yếu về giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối
sống, lịch sử dân tộc, tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành, kỹ năng sống…
– Hệ thống giáo dục quốc dân không hợp lý, thiếu đồng bộ, chưa liên
thông, mất cân đối.
– Quản lý nhà nước trong giáo dục còn nhiều yếu kém, bất cập, chậm đổi
mới, là nguyên nhân chủ yếu của nhiều nguyên nhân khác; cơ chế quản lý
giáo dục chậm đổi mới, còn nhiều lúng túng, nhận thức rất khác nhau, nhất là
trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; chưa theo kịp sự đổi
mới trên các lĩnh vực khác của đất nước.

– Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên còn nhiều bất cập, đạo
đức và năng lực của một bộ phận còn thấp.
– Chưa nhận thức đầy đủ, đúng đắn về công tác xã hội hóa giáo dục; định
hướng liên kết với nước ngoài trong phát triển giáo dục còn nhiều lúng túng,
chưa xác định rõ phương châm.
– Tư duy giáo dục chậm đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu đổi mới-phát
triển đất nước trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế;
khoa học giáo dục chưa được quan tâm đúng mức, chất lượng nghiên cứu
khoa học giáo dục còn nhiều bất cập.
Những vấn đề, những yếu kém và bất cập nêu trên của giáo dục không
thể giải quyết khắc phục được căn bản chỉ bằng các giải pháp cục bộ, đơn lẻ,
bề mặt nhất thời, thiếu chiến lược và tầm nhìn dài hạn, thiếu tính đồng bộ và
hệ thống, chưa đạt tới chiều sâu bản chất của vấn đề. Để giải quyết được căn
bản những vấn đề đặt ra, những người lãnh đạo – quản lý, những nhà khoa
học, những người làm giáo dục phải có cách nhìn toàn diện, đầy đủ, khách
quan, như các văn kiện của Đảng đã nêu, sâu hơn, bản chất hơn những gì nêu
trên báo chí và những báo cáo tổng kết thành tích.
2.
2.1

Nguyên nhân:
Về phía người dạy
17


Mặc dù chất lượng và số lượng của lực lượng đội ngũ giảng viên
ngày một nâng cao nhưng phương pháp giảng dạy vẫn chủ yếu mang tính
thuyết giảng, làm người học tiếp thu một cách thụ động, nội dung giảng dạy
mang năng lý thuyết, thiếu cập nhật thực tiễn dẫn tới xơ cứng, giáo điều, tính
ứng dụng thấp. Mặt khác, việc sử dụng các phương tiện phục vụ cho giảng

dạy chưa nhiều do vậy mà không thể truyền tải hết lượng thông tin cần cung
cấp cho người học, số thời gian của giảng viên dành cho lên lớp tại các trường
quá lớn, cho nên hạn chế thời gian nghiên cứu khoa học và nghiên cứu thực
tế. Đời sống của ngưới Thầy còn nhiều khó khăn : Hiện nay giáo viên đang
được hưởng mức lương thuộc nhóm cao, nhưng thực tế xã hội ta hiện nay
không sống bằng lương , các ngành khác lương thấp nhưng cuộc sống thoải
mái hơn nhiều. Đây là vấn đề cần phải xem lại chính sách lương bổng của
chúng ta đối với thầy cô giáo. Nếu chúng ta thử tính một gia đình nhà giáo ,
hai người dạy học, có hai con đúng tiêu chuẩn, nếu họ là nhà giáo chân chính,
chuyên tâm dạy học thì với đồng lương của họ nuôi con đi học tới lớp mấy ?
2.2

Về phía người học
Chất lượng đầu vào của nhiều cơ sở đào tạo đại học quá thấp, thấp
đến mức không thể thấp hơn được nữa, chủ yếu tập trung vào các trường xét
tuyển, tính chủ động sáng tạo trong học tập và nghiên cứu của sinh viên nhìn
chung chưa cao, thiếu tư duy khoa học, đại đa số học thụ động, học theo
phong trào, học cho qua “học theo hội chứng bằng cấp” , do vậy khi tốt
nghiệp chưa đủ kiến thức để đáp ứng được yêu cầu bức xúc của thực tế và bị
thực tiễn chối bỏ. Chỉ số chất lượng đào tạo so với các nước trong khu vực
đứng hạng 10 trên 12 nước.

2.3

Về chương trình đào tạo
Chương trình đào tạo chậm cải tiến đổi mới,,̀ thiếu tính cập nhật, lý
thuyết chưa gắn với thực tiễn, các môn học quá nhiều và cơ cấu thời lượng
chưa hợp lý, dẫn tới sinh viên Việt Nam học quá nhiều nhưng kiến thức lại
chưa phù hợp với thực tiễn.
18



2.4

Giáo dục còn quá yếu kém và lạc hậu, thiếu đồng bộ, thiếu đầu tư nâng
cấp
Những tồn tại trên đã làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng giáo dục đào
tạo đại học mà nguyên nhân chính vẫn là tư duy của người dạy, người học và
cơ chế quản lý chưa phù hợp đã tạo những “Sản phẩm” chất lượng kém vừa
thiếu kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, phương pháp làm việc vừa kém về năng
lực nhận thức, tư duy và phương pháp nghiên cứu khoa học, xã hội không
thừa nhận và rồi “Sản phẩm” của giáo dục đào tạo đại học không có chỗ đứng
trên thị trường, người học xong đại học khó hoặc không tìm được việc làm.
-Nội dung chương trình và sách giáo khoa chưa phù hợp: Hiện nay
đang từng bước thực hiện thay sách giáo khoa, đổi mới chương trình, có định
hướng giáo dục toàn diện cho học sinh, khắc phục những thiếu sót trước đây
chủ yếu dạy kiến thức, nặng về lý thuyết, chưa quan tâm đến giáo dục tình
cảm và hành động cho học sinh .
Ngành giáo dục chậm đổi mới để theo kịp nhu cầu đất nước : Sự phát
triển kinh tế của đất nước tạo điều kiện cho truyền thống hiếu học của dân tộc
Việt Nam phát triển , hiện nay chúng ta có một xã hội học tập, người người đi
học, gần 30 triệu học sinh các cấp là một con số khổng lồ, qua các kỳ thi đại
học ta thấy có sự chen chúc nhau quá mức, các trung tâm luyện thi, các thầy
giáo dạy thêm, học thêm, học sinh cố học để tìm kiếm một trường học thích
ứng. Khi một đất nước có tốc độ phát triển khá cao và đều đặn như hiện nay,
các nhà quản lý giáo dục phải có biện pháp đón đường , dự kiến những nhu
cầu của ngành, của nhân dân, của học sinh để có những biện pháp thích hợp.
– Cơ chế quản lý đối với ngành giáo dục chưa phù hợp : Hiện nay
ngành giáo dục các địa phương chịu sự tác động hàng ngang của địa phương
nhiều hơn là chịu tác động hàng dọc của Bộ giáo dục – đào tạo. Các trường

phổ thông dạy học, thi cử đúng như quy chế của Bộ giáo dục – đào tạo, nhưng
nếu học sinh thi rớt nhiều, lưu ban nhiều thì địa phương sẽ có ý kiến , thậm
chí có những ý kiến chỉ đạo, “bệnh thành tích”có cơ hội để phát triển trong cơ
chế quản lý giáo dục hiện nay .
19


3.

Việt Nam trên trường quốc tế
Trong bảng xếp hạng thứ tự các trường đại học đạt tiêu chuẩn quốc tế từ
trước đến nay thì Việt nam chưa có lấy một đơn vị góp tên trong « top 200 ».
Mới đây nhất, năm 2009, người ta công bố 100 trường đại học nổi tiếng trên
thế giới, Việt nam vẫn là một « hành tinh » chưa ai nghĩ đến, trong khi Nhật
bản có đến 4 trường trong các vị trí khác nhau, Singapo, Hàn quốc, Trung
Quốc đều là những quốc gia góp mặt ở những vị trí đáng tự hào.
Hiện nay ở Việt Nam có khoảng hơn 376 trường đại học, với khoảng
6600 giáo sư và phó giáo sư. Tuy nhiên theo ông tổng thư ký hội đồng chức
danh giáo sư, nếu đánh giá đúng theo tiêu chuẩn quốc tế, Việt nam chỉ có
khoảng từ 15 đến 20% có trình độ tương ứng với chức danh đó. Còn lại không
chỉ thấp mà hơn dưới 1/3 rất thấp.
Việt Nam là quốc gia có tỉ lệ thi trượt đại học nhiều nhất thế giới. Hiện
nay chỉ có 1/10 người ở độ tuổi học đại học được tuyển sinh. Tuy nhiên, quốc
gia này đang được xếp vào những nước có tỷ lệ dân số đạt trình độ đại học trở
lên thấp nhất của khu vực và trên thế giới. Ngay các nước láng giềng cũng
đang phấn đấu để đạt được tỷ lệ tuyển sinh đại học là 60 – 80% hoặc cao hơn
nữa, trong khi chúng ta mới chỉ đạt được khoảng 10 – 15%.
Mỗi năm có khoảng 20000 sinh viên ra trường và chỉ 50% được đáp
ứng việc làm, trong đó chỉ 30% đúng nghành nghề. Dĩ nhiên chúng ta chưa
nói đến chất lượng và thực tế chuyên môn của tầng lớp mà người ta gọi là tri

thức, là bộ mặt của đất nước.
Trong 10 năm từ 1996 đến 2005 chỉ có 3456 công trình nghiên cứu
khoa học trên các tạp san quốc tế. Nếu đem so sánh với con số giáo sư và phó
giáo sư thì trung bình mỗi vị chỉ có 0,58 bài báo cáo trong vòng 10 năm.
Không những ít so với quốc tế và so với các nước trong khu vực, Việt Nam
cũng đứng vào loại bét nhất : chỉ bằng 1/5 so với Thái lan ; 1/3 Malaysia ;
1/14 Singapo ; thậm chí thấp hơn cả Indonésia và Philippin.

20


Chất lượng sinh viên tốt nghiệp ở Việt nam thấp hơn một bậc so với
nước ngoài. Theo một giảng trình viên của cuộc hội thảo về toán lý hóa : «
trình độ của sinh viên tốt nghiệp ở Việt nam chỉ bằng chương trình đại cương
của đại học nước ngoài, cao học bằng đại học và tiến sĩ bằng cao học ».
Việt nam là nước có tỉ lệ « giả tri thức, tiến sĩ giấy, giáo sư dỏm » nhiều
đến mức không dám công khai điều tra vì sợ « không có người làm việc ».
Việc lấy bằng cấp không biết dễ hay khó, nhưng có lẽ Việt nam là nước duy
nhất trên thế giới có ý định đòi 100% cán bộ cốt cán phải có bằng tiến sĩ ở thủ
đô Hà Nội.
Có thể nói giáo dục Việt Nam đang thực sự khủng hoảng, mà nói như
các chuyên gia của đại học Harvard thì nó đã đến mức trầm trọng. Người ta
vẫn thường mượn đến cái danh của những cá nhân kiệt xuất để che đậy cho
một thực trạng yếu kém đến mức báo động. Một cách làm chẳng giống ai, khi
cứ tâng bốc rồi « bắt quàng làm họ » trong lúc công trạng lại là của kẻ khác.
Người Việt Nam nên vui khi có những con người làm rạng danh đất nước như
nghệ sĩ Piano Đặng Thái Sơn, như bộ trưởng bộ y tế Đức Philipp Roesler, như
giáo sư Ngô Bảo Châu…Tuy nhiên, chúng ta không nên đánh đồng họ với nền
giáo dục Việt Nam, vì những con người này đều trưởng thành từ một nền giáo
dục hiện đại ở nước ngoài. Chúng ta cũng không nên ngủ quên vì những lời

tán tụng trong khi nền giáo dục của mình vẫn đang ở bậc thấp, đang mò mẫm
trong mờ mịt của những bước đi sai lầm. Có lẽ sẽ sáo rỗng khi nhắc đến hai từ
« cải cách », nhưng đó vẫn là điệp khúc cần lặp lại để hy vọng vào một tương
lai sáng sủa hơn cho giáo dục nước nhà.
4.

Giáo dục Việt Nam chưa sát với thực tế “Học không đi đôi với hành”
Nhìn chung giáo dục Việt Nam chưa thực sự sát với thực tế, sinh viên
sau khi tốt nghiệp các trường đại học chưa hẳn đã có việc làm, dường như GD
chưa đáp úng được những đòi hỏi của xã hội. Sinh viên Việt Nam sau khi tốt
nghiệp các trường đại học ra thường phải học thêm một số chương trình mà
bên tuyển dụng yêu cầu, vì họ cho rằng cái mà sinh viên học được ở trường
lớp chỉ đa phần là lý thuyết suông, chưa thể áp dụng vào thực tế.
21


Những con số “đáng sợ” sau là minh chứng cho những bất cập của
Giáo dục Đào tạo Việt Nam:
Hơn 50% SV được khảo sát không thật tự tin vào các năng lực/ khả năng
học của mình. Hơn 40% cho rằng mình không có năng lực tự học;
Gần 70% SV cho rằng mình không có năng lực tự nghiên cứu;
Gần 55% SV được hỏi cho rằng mình không thực sự hứng thú học tập.
(Theo một nghiên cứu mới đây về phong cách học của sinh viên của PGS.TS
Nguyễn Công Khanh (2008, được trích trong Mai Minh, 2008)
Như vậy, các trường đại học ở Việt Nam muốn nâng cao chất lượng thì
phải chú trọng thay đổi 3 vấn đề chính được đề cập ở trên. Những thay đổi
này cần sự nỗ lực từ nhiều phía: Bộ Giáo dục, nhà trường, giảng viên và sinh
viên. Biết rằng việc thực hiện rất khó khăn và phải mất một khoảng thời gian
dài nhưng phải làm ngay vì nhà nước đã mở cửa cho nước ngoài đầu tư vào
giáo dục và khuyến khích các cơ sở giáo dục đào tạo theo nhu cầu xã hội.

Điều này tạo ra sự cạnh tranh trong Giáo dục-Đào tạo, các trường đại học phải
tự đổi mới nâng cao chất lượng để tạo uy tín và thương hiệu cho mình.
Trao đổi với GS Nguyễn Minh Thuyết, thầy cho biết:
– Hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm được nhiều nhà khoa học cho là
không phù hợp, cần rút ngắn. Là người tham gia biên soạn sách giáo khoa,
giáo sư chia sẻ với quan điểm này như thế nào?
– Xét hoàn cảnh của đa phần người học và điều kiện kinh tế của đất
nước, kéo dài đến 12 năm học phổ thông là không phù hợp, lãng phí. Phần lớn
các em học hết 12 năm rồi thì vẫn quay về lao động chân tay bình thường. Để
được đào tạo nghề, các em lại phải đi học nghề. Trong khi đó, nếu xác định
học nghề từ đầu thì chỉ cần học hết lớp 9, không cần đến hết 12.
Tất nhiên, đã học thì cái gì cũng bổ, như học toán, nhưng học đến lớp 9
là đã đủ rèn tư duy, không cần đến các kiến thức toán nâng cao. Với một gia
đình bình thường, bớt một năm nuôi con đi học là bớt được món tiền cực lớn,
đó là chỉ tính đóng góp bình thường chứ chưa kể “tiêu cực phí”.
22


Thêm nữa, thanh niên Việt Nam hiện trưởng thành sớm hơn thế hệ
trước, học hết 11 năm tức là đã 17 tuổi. Ở tuổi này, thanh niên đã có nhận thức
xã hội tốt và làm việc được. Đây cũng là lứa tuổi tâm sinh lý phát triển và phải
chịu trách nhiệm về các hành vi.
Thực tế các trường trung học hiện cũng chỉ dạy đến 11 năm, vì sau lớp
11, học sinh chỉ học các môn thi đại học. Chúng ta cũng cần nhìn nhận lại việc
các thế hệ trước đây học 11 năm, thậm chí thế hệ kháng chiến chỉ 10 năm
nhưng vẫn sản sinh ra rất nhiều giáo sư, tiến sĩ giỏi.
5.

Giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục đại học ở VN
Mục tiêu giáo dục của ta hiện nay là “Nâng cao dân trí , đào tạo nhân

lực , bồi dưỡng nhân tài ” . Theo công bố của chương trình phát triển Liên
hiệp quốc ( UNDP ) năm 1993 về chỉ tiêu quy mô phát triển giáo dục thì so
với quốc tế ta đều thấp hơn về chỉ tiêu phát triển giáo dục ở các bậc học. Về
giáo dục phổ thông, ta chưa đạt mức trung bình, về cao đẳng đại học ta còn
thấp hơn nước phát triển chậm. Vì vậy, muốn thực hiện được mục tiêu giáo
dục đề ra chúng ta cần tích cực thực hiện các biện pháp để nâng cao chất
lượng giáo dục :

1.

Tăng cường nguồn lực cho giáo dục đào tạo: Trên thế giới và trong khu vực
hiện nay tỷ trọng ngân sách giành cho giáo dục – đào tạo rất cao, chúng ta do
điều kiện đất nước còn nghèo , nguồn cung cấp ngân sách cho giáo dục- đào
tạo còn hạn chế, đang phấn đấu để đạt con số 15 % và sau đó cần phải tăng
hơn nữa . Ngoài ngân sách nhà nước hiện nay chúng ta đang huy động các
nguồn lực ngoài ngân sách, xã hội hoá giaó dục để tăng nguồn lực cho giáo
dục đào tạo . Hiện nay có nhiều nước trên thế giới coi giáo dục là một ngành
kinh doanh, kinh doanh công nghệ dạy học, chúng ta nên tạo điều kiện kêu gọi
họ tham gia xây dựng cơ sở vật chất và nội dung chương trình giáo dục cho ta.
Ngoài ra ta nên có chủ trương cho các trường chuyên nghiệp, dạy nghề lập cơ
sở sản xuất và dịch vụ khoa học đúng với ngành nghề đào tạo.

23


Hiện nay, với thang bảng lương đang áp dụng, ngành GD thật khó để
thu hút được đội ngũ giáo viên giỏi. Bởi nhìn vào điểm chuẩn đầu vào của các
ngành sư phạm tại các trường ĐH năm 2012, người ta không khỏi giật mình.
Tại ĐH Đà Nẵng, điểm chuẩn ngành sư phạm Vật lý là 14,5 điểm,
ngành sư phạm Tin học là 13 điểm. ĐH Tây Bắc, điểm chuẩn ngành sư phạm

Toán là 14 điểm, sư phạm Vât lý là 13 điểm. Như vậy, chỉ cần trung bình mỗi
môn thi từ 4,5 đến 5 điểm là các bạn trẻ của chúng ta đủ tiêu chuẩn bước vào
giảng đường ĐH. Đầu vào là thế, vậy ta thử nghĩ xem liệu đầu ra (sau 4 năm
học tập) của số sinh viên này như thế nào? Phải chăng 4 năm ĐH sẽ giúp các
sinh viên này cải thiện rõ rệt về chất để trở thành những giáo viên có đủ tự tin
đứng trên bục giảng truyền đạt lại

kiến thức cho học sinh?

Trong khi đó điểm đầu vào của ĐH Ngoại thương Hà Nội năm 2009, đối với
ngành Kinh tế đối ngoại (khối A) là 26,5 điểm. Tương tự ngành thấp nhất,
điểm trúng tuyển cũng đã là 23,5 điểm. ĐH Kinh tế Quốc dân điểm trúng
tuyển thấp nhất của khối A là 22,5 điểm. Tại sao lại có nghịch lý này?
Đơn giản, bởi khi ra trường một sinh viên học về kỹ thuật, hay thương
mại, kinh tế nếu làm cho một doanh nghiệp tư nhân trong nước cũng có thể có
mức lương khởi điểm từ 3 – 4 triệu đồng/tháng, và may mắn hơn nếu được
làm cho các tổng công ty, tập đoàn lớn hay các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài thì mỗi tháng bình quân có thể thu nhập từ 6 – 10 triệu đồng, thậm
chí hơn nữa. Với mức lương tháng đó, nhìn vào thang bảng lương giáo dục,
người thầy không khỏi chạnh lòng.
Bởi vì, một giảng viên có thâm niên 10 năm kinh nghiệm tại các
trường ĐH lớn của Việt Nam cũng không thể có được mức lương ngang bằng
một sinh viên vừa tốt nghiệp ĐH, làm cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. So sánh nhỏ này cho thấy chừng nào chúng ta chưa cải cách hệ thống
thang bảng lương ngành GD, chừng đó chúng ta vẫn không thể có được đầu
vào tốt cho ngành sư phạm.
Xét về mặt kinh tế, chi phí chúng ta đánh mất trong tương lai cho vấn
đề này sẽ còn cao hơn rất nhiều so với việc tăng lương cho giáo viên. Vì một
giáo viên kém ảnh hưởng đến hàng trăm người, và thậm chí ảnh hưởng đến cả
24



nhiều thế hệ. Như vậy, phải tăng lương thì ngành GD mới có cơ hội chiêu mộ
2.

được người tài.
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục: Từng bước đổi mới nội
dung sách giáo khoa, loại bỏ những kiến thức không thiết thực, bổ sung những
nội dung cần thiết theo hướng bảo đảm kiến thức cơ bản, cập nhật những tiến
bộ khoa học, công nghệ, tăng nội dung công nghệ ứng dụng, tăng cường giáo
dục kỹ thuật tổng hợp và năng lực thực hành. Tăng cường giáo dục công dân,
giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh, coi trọng hơn nữa các môn khoa học xã hội
và nhân văn , nhất là tiếng Việt, lịch sử dân tộc, địa lý và văn hoá Việt Nam.
Tổ chức cho sinh viên, học sinh tham gia công tác xã hội, tổ chức các hoạt
động văn nghệ, thể thao phù hợp với yêu cầu giáo dục toàn diện.
Nhìn rộng ra các quốc gia có nền giáo dục phát triển trên thế giới, họ
đặc biệt quan tâm đến việc phát triển tư duy sáng tạo, khả năng làm việc độc
lập và khả năng làm việc theo nhóm của người học. Các quốc gia này áp dụng
nhiều phương pháp khác nhau nhằm khích lệ và tạo điều kiện tốt nhất để
người học phát triển khả năng sáng tạo của mình. Nhiều trong số các phương
phương pháp, chúng ta có thể học tập và áp dụng cho Việt Nam ngay cả ở
những trường, đơn vị chưa áp dụng phương thức đào tạo theo tín chỉ.
Nhìn lại đoạn đường phát triển của giáo dục nước nhà, trong những
thập kỷ qua, nền giáo dục Việt Nam có những bước phát triển, có những thành
tựu đáng ghi nhận, góp phần quan trọng vào nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực
cho công cuộc xây dựng, bảo vệ và đổi mới đất nước. Nhưng đồng thời nền
giáo dục đang ẩn chứa rất nhiều yếu kém, bất cập, chính những yếu kém, bất
cập này đã làm cho chúng ta đã lùi đi rất nhiều so với các nước trong khu vực
và quốc tế. Qua đề tài này, em mong muốn rằng mọi người sẽ có cái nhìn
khách quan hơn về nền giáo dục nước nhà, từ đó mỗi cá nhân sẽ tự vạch ra

những con đường riêng, hướng đi riêng, cũng như những giải pháp cho phù
hợp với vai trò của mình. Có được như vậy thì em tin chắc rằng trong một
tương lai không xa Việt Nam của chúng ta sẽ được bè bạn quốc tế biết đến

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×