Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số giải pháp trong công tác quản lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục tại trung tâm GDNN GDTX huyện hà trung trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.84 KB, 21 trang )

I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Bước vào thế kỷ XXI, nước ta đang đứng trước những thách thức vô cùng
mạnh mẽ. Thế giới đang tiến như vũ bão trong khi nước ta đang ở tình trạng lạc
hậu về nhiều mặt. Để vượt qua được những thách thức đó, phải phát huy được
nguồn lực con người. Giáo dục và đào tạo giữ vai trò quan trọng trong việc phát
huy nguồn lực đó. Trong nền giáo dục của nước ta hiện nay còn rất nhiều vấn
đề cần phải giải quyết, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng với nhu cầu
phát triển của đất nước, tạo ra đội ngũ lao động có sức khoẻ, có tay nghề, có
năng lực, có trí tuệ để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Chỉ thị số 32/2006/CT ngày 01/8/2006 của Bộ trưởng Bộ giáo dục chỉ rõ
người quản lý là nhân vật có trách nhiệm phân bố nhân lực và các nguồn lực
khác, chỉ dẫn sự vận hành của một bộ phận hay toàn bộ tổ chức để tổ chức hoạt
động có hiệu quả và đạt đến mục đích.
Đổi mới tư duy giáo dục một cách nhất quán, từ mục tiêu, chương trình, nội
dung, phương pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý để tạo bước
chuyển biến cơ bản và toàn diện của nền giáo dục nước nhà, tiếp cận với trình
độ khu vực và thế giới khắc phục cách đổi mới cháp vá, thiếu tầm nhìn tổng thể,
thiếu kế hoạch đồng bộ yêu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và
học nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và tăng cường cơ sở vật chất, đẩy
mạnh xã hội hoá giáo dục và đào tạo.
Như vậy nâng cao hiệu quả quản lý cùng với nâng cao hiệu quả dạy và học
nhằm đưa chất lượng giáo dục là vấn đề trọng tâm trước mặt và lâu dài của
ngành giáo dục. Đối với ngành giáo dục thường xuyên công tác này được coi là
cấp thiết.
Một thực tế cho thấy, chất lượng đầu vào của học sinh Trung tâm còn nhiều
hạn chế, yếu về học lực, ý thức tổ chức kỷ luật thấp. Bên cạnh đó, tư tưởng
người dân không muốn cho con em học GDNN-GDTX học sinh vào học còn
mặc cảm là nguyên nhân ảnh hưởng lớn đến hiệu quả dạy và học.
Đội ngũ giáo viên đa số còn trẻ, kinh nghiệm giảng dạy chưa nhiều, cần có
chiến lược tạo điều kiện để các giáo viên này yêu nghề, yên tâm công tác, tạo


điều kiện để học sinh phát huy hết khả năng của mình. Tuy nhiên vẫn còn một số
giáo viên chưa nhiệt tình trong giảng dạy. Một số giáo viên còn thiếu tư tưởng tự
giác học tập nâng cao chuyên môn, bằng lòng với chuyên môn hiện tại, việc thay
đổi phương pháp giảng dạy còn hạn chế. Đặc biệt, việc đổi tên trung tâm với


những chức năng nhiệm vụ mới đang là thử thách không nhỏ đối với người quản
lý.
Nhận thức được vai trò của người quản lý trong việc nâng cao chất lượng
giáo dục, trong những năm qua, ban giám đốc trung tâm đã có nhiều cố gắng để
đổi mới công tác quản lý đáp ứng được mục tiêu giáo dục. Tuy vậy, do chưa có
biện pháp quản lý hữu hiệu nên chất lượng giáo dục chưa đạt hiệu quả cao. Xuất
phát từ những lý do như trên, là một cán bộ quản lý, tôi luôn trăn trở làm thế nào
tìm ra những biện pháp quản lý cụ thể để nâng cao chất lượng giáo của trung
tâm. Đó chính là lí do tôi chọn đề tài "Một số giải pháp trong công tác quản lý
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục tại Trung tâm GDNN-GDTX huyện Hà
Trung trong giai đoạn hiện nay "làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu :
Đề xuất một số giải pháp trong công tác quản lý nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục ở Trung tâm GDNN-GDTX huyện Hà Trung trong giai đoạn
hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu
3.1: Khách thể nghiên cứu : vấn đề quản lý nâng cao chất lượng giáo
ducjtaij Trung tâm GDNN-GDTX huyện Hà Trung
3.2: Đối tượng nghiên cứu: một số giải pháp trong công tác quản lý nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục ở Trung tâm GDNN-GDTX huyện Hà Trung tỉnh
Thanh Hoá.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: nhằm giải quyết nhiệm vụ thực trạng

của vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
5. Những điểm mới của Sáng kiến kinh nghiệm
Tháng 8 năm 2017 Trung tâm GDTX - DN Hà Trung đổi tên thành Trung
tâm GDNN-GDTX huyện Hà Trung. Ngay từ vài năm trước khi đổi tên trung
tâm, là người đứng đầu đơn vị, bản thân tôi đã tập trung chỉ đạo toàn thể
CB,GN,NV tham gia góp ý xây dựng dự thảo quy chế hoạt động, đề án vị trí
việc làm, từ đó định hướng tốt cho CB,GV,NV về tư tưởng cũng như giúp họ
xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ trước mắt và những năm tới. Trên cơ sở đó giúp


GB,GV,NV vững vàng về tư tưởng, xác định rõ nhiệm vụ, khắc phục được khó
khăn để hoàn thành tốt công việc được giao.
Việc đổi tên trung tâm với những chức năng nhiệm vụ mới thực sự là một
thử thách trong tình hình hiện nay. Để làm tốt những nhiệm vụ này đòi hỏi phải
mỗi CB,GV,NV phải thực sự cố gắng nỗ lực, đặc biệt là đối với Ban Giám đốc,
cần gương mấu đi đầu, tìm tòi sáng tạo để đưa Trung tâm ngày một phát triển.
Việc đổi mới công tác quản lý là hết sức quan trọng.Vì vậy SKKN tập trung vào
các giải pháp mới gắn với nhiệm vụ và tình hình thực tế của Trung tâm. Xác
định rõ mục tiêu xuyên suốt đó là: tập trung đổi mới công tác quản lý giáo dục,
nâng cao chất lượng đại trà và chất lượng mũi nhọn, tăng cường quản lý công
tác đào tạo nghề đạt kết quả.
II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận của SKKN
Có thể nói, đội ngũ nhà giáo cùng với các nhà quản lý là lực lượng quyết
định chất lượng giáo dục đào tạo của trung tâm, cho nên vấn đề đổi mới trong
công tác quản lý luôn luôn là vấn đề cấp thiết.
1.1 Khái niệm quản lý
Quản lý là một hoạt động bắt nguồn từ sự phân công, hợp tác lao động

trong một tổ chức nhất định. Chính sự phân công, hợp tác này đòi hỏi phải có
người đứng đầu, chỉ huy. Nói cách khác, phải có sự quản lý
Hiện nay, quản lý theo khoa học trở thành một yêu cầu đặt ra đối với mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây là một hoạt động giữ vai trò hết sức quan
trọng nhưng cũng là hoạt động rất khó khăn, phức tạp vì nó liên quan trực tiếp
đến con người, đến tổ chức.
Quản lý là một khái niệm được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực của
đời sống xã hội. Do đối tượng quản lí phong phú, đa dạng nên tuỳ thuộc vào
từng lĩnh vực hoạt động cụ thể, từng giai đoạn phát triển của xã hội mà có những
cách hiểu khác nhau về quản lý
Theo F.W. Taylor, “Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người
khác làm và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất
và rẻ nhất”.
Các tác giả người Mỹ như Harold Koontz, Cyril Odonnell và Heinz
Weihrich cho rằng: “Quản lý bao hàm việc thiết kế một môi trường mà trong đó
con người cùng làm việc với nhau trong các nhóm để thực hiện các mục tiêu của
tổ chức”.


Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, “Quản lý là chức năng và hoạt động
của hệ thống có tổ chức thuộc các giới khác nhau (sinh học, kỹ thuật, xã hội),
bảo đảm giữ gìn một cơ cấu ổn định nhất định, duy trì sự hoạt động tối ưu và
bảo đảm thực hiện những chương trình và mục tiêu của hệ thống đó ” [83;
tr.580].
Theo Từ điển tiếng Việt, “Quản lý là trông coi và giữ gìn theo những yêu
cầu nhất định” [86; tr.800].
Có tác giả lại hiểu Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng
cách vận dụng và thực hiện một cách sáng tạo các chức năng kế hoạch hoá, tổ
chức, chỉ đạo, kiểm tra.
Tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng: “Quản lý là

tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lí (người quản lí) đến
khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức đó
vận hành và đạt được mục đích của mình” [9; tr.6].
Quản lý vừa là một khoa học, dựa trên cơ sở vận dụng các quy luật phát
triển (quy luật tự nhiên hay xã hội) của các đối tượng khác nhau, vừa là một
nghệ thuật, đòi hỏi phải có sự tác động thích hợp với từng khách thể quản lý.
Quản lý còn có thể được mô tả như là một chương trình của các hoạt động
mà người quản lý thực hiện để đảm bảo những mục tiêu đề ra.
Còn dưới góc độ chức năng, người Quản lý phải thực hiện các chức năng
cơ bản: Lập kế hoạch; Tổ chức; Lãnh đạo/Điều phối (chỉ đạo); Kiểm tra.
Qua các cách tiếp cận nêu trên có thể thấy, QL là quá trình lập kế hoạch, tổ
chức, lãnh đạo và kiểm tra công việc của các thành viên trong tổ chức nhằm đạt
được mục tiêu đã đề ra của tổ chức.
Từ đó, khái niệm quản lý sử dụng trong sáng kiến kinh nghiệm được hiểu
là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ
của các thành viên trong tổ chức nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra của tổ chức.
1.2 Khái niêm quản lý giáo dục
Giáo dục là một hoạt động đặc biệt của con người, là hoạt động có mục
đích, có chương trình, có kế hoạch. Giáo dục có hai chức năng tổng quát là ổn
định, duy trì quá trình đào tạo đáp ứng nhu cầu hiện hành của nền kinh tế - xã
hội và thứ hai là đổi mới phát triển quá trình đào tạo, đón đầu sự tiến bộ, phát
triển kinh tế - xã hội.
Lĩnh vực giáo dục cũng cần có quản lý như các lĩnh vực khác của đời sống
xã hội. Cũng như khái niệm quản lý, khái niệm quản lý giáo dục tuy vẫn còn


nhiều quan điểm chưa hoàn toàn thống nhất, song đã có nhiều quan điểm cơ bản
đồng nhất với nhau:
Theo P.V. Khuđôminxki: “Quản lý giáo dục là những tác động có hệ thống,
có kế hoạch, có ý thức và mục đích của các chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau

đến tất cả các khâu của hệ thống (từ Bộ Giáo dục đến nhà trường), nhằm mục
đích đảm bảo việc giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, đảm bảo sự phát
triển toàn diện và hài hòa của họ. Trên cơ sở nhận thức và sử dụng những quy
luật khách quan của quá trình dạy học, giáo dục, của sự phát triển về thể chất và
tâm lý của trẻ em, thiếu niên cũng như thanh niên” .
Nhà khoa học Giáo sư Phạm Minh Hạc đã định nghĩa: “Quản lý giáo dục là
hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý
nhằm cho hệ vận hành theo đường lối, nguyên lý giáo dục của Đảng trong phạm
vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lí giáo dục
tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục với thế hệ trẻ
và với từng học sinh”.
Đối với quản lý giáo dục cấp vi mô, tác giả Trần Kiểm cho rằng: “Quản lý
giáo dục được hiểu là hệ thống những tác động tự giác, có ý thức, có mục đích,
có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật của chủ thể quản lý đến tập thể GV, công
nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội trong và
ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục
của nhà trường” .
Vậy, quản lý giáo dục là sự tác động có chủ đích, có căn cứ khoa học, hợp
quy luật và phù hợp các điều kiện khách quan của chủ thể quản lý tới đối tượng
quản lý nhằm phát huy sức mạnh các nguồn lực giáo dục, từ đó đảm bảo các
hoạt động của tổ chức, hệ thống giáo dục đạt được các mục tiêu đã đề ra với chất
lượng, hiệu quả cao nhất.
Dựa vào phạm vi quản lý, người ta chia ra hai cấp độ quản lý giáo
dục: Quản lý hệ thống giáo dục: quản lý giáo dục ở tầm vĩ mô, phạm vi toàn
quốc, trên địa bàn lãnh thổ (tỉnh, thành phố…). Quản lý nhà trường: quản lý giáo
dục ở tầm vi mô, trong phạm vi một cơ sở giáo dục đào tạo. Ở bài viết này, tôi
đề cập tới cấp độ thứ hai, đó là quản lý giáo dục ở tầm vi mô trong phạm vi
Trung tâm GDNN-GDTX huyện Hà Trung.
1.3. Quản lý trường học
Trường học (cơ sở giáo dục - đào tạo) là một tổ chức giáo dục mang tính

Nhà nước - xã hội, là một bộ phận cấu thành của một hệ thống giáo dục, là nơi


trực tiếp làm công tác đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ. Các trường học hoạt động
theo Luật Giáo dục và Điều lệ nhà trường do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
ban hành.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối
giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường
vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo
đối với ngành giáo dục đào tạo, đối với thế hệ trẻ và học sinh”.
Theo tác giả Phạm Viết Vượng: “Quản lý trường học là hoạt động của các
cơ quan quản lý nhằm tập hợp và tổ chức các hoạt động của giáo viên, học sinh
và các lực lượng giáo dục khác, cũng nhằm huy động tối đa các nguồn lực giáo
dục để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong nhà trường”.
Tóm lại, quản lý trường học có thể hiểu là sự tác động quản lý có chủ đích
của Hiệu trưởng tới tất cả các yếu tố, các mối quan hệ chức năng, các nguồn lực
nhằm đưa mọi hoạt động của nhà trường đạt đến mức phát triển cao nhất.
1.4. Biện pháp quản lý
“Biện pháp là cách làm, cách thức tiến hành, giải quyết một vấn đề cụ thể”;
hoặc “Biện pháp là cách thức giải quyết một vấn đề hoặc thực hiện một chủ
trương". Tựu trung lại có thể hiểu: Biện pháp là cách làm, cách thức thực hiện
tiến hành, giải quyết một công việc, hoặc là phương pháp làm việc để thực hiện
một chủ trương nào đó. Vận dụng vào quản lý, thì biện pháp quản lý là cách
làm, cách thức thực hiện tiến hành, giải quyết một công việc, hoặc là phương
pháp làm việc để thực hiện một chủ trương nào đó để đạt tới mục tiêu quản lý.
Như vậy, từ cơ sở lý luận trên ta thấy vai trò của nhà quản lý rất quan trọng
đối với việc nâng cao chất lượng giáo dục. Người lãnh đạo, quản lý phải luôn
tìm tòi, đổi mới công tác quản lý, phù hợp với tình hình thực tế nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục. Luật giáo dục 2005, sửa đổi năm 2009 nhấn mạnh vai trò,
tầm quan trọng của đội ngũ quản lý đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo và đưa

ra nhiều biện pháp để đội ngũ nhà quản lý đáp ứng sự phát triển giáo dục nước
ta trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN
2.1. Vài nét về Trung tâm GDNN-GDTX Hà Trung
Trung tâm GDNN-GDTX Huyện Hà Trung ngày nay có lịch sử hình
thành từ phong trào Bình dân học vụ, xóa mù chữ của những năm 1960. Với tên
trường lúc đó là Bổ túc văn hóa tập trung, dành riêng việc đào tạo tập trung cho
cán bộ và thanh niên ưu tú có trình độ học hết cấp I, cấp II. Đến ngày 16 tháng


11 năm 1993, UBND Tỉnh Thanh Hóa ra Quyết định số 1525/ TC- UB thành lập
Trung tâm GDTX&DN Hà Trung trên cơ sở sát nhập 2 trường BTVH Huyện và
Trường dạy nghề Huyện Hà Trung. Từ đó trường được đổi tên thành
TTGDTX&DN Huyện Hà Trung. Tháng 8 năm 2017 Trung tâm đổi tên thành
Trung tâm GDNN-GDTX huyện Hà Trung.
Trung tâm GDNN-GDTX Hà Trung có 30 cán bộ giáo viên, nhân viên,
100% GV đạt chuẩn và trên chuẩn, có 15 giáo viên giỏi cấp tỉnh, nhiều năm
trung tâm được xếp tốp đầu trong kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh, có 3 học sinh đạt
giải Quốc gia.
So với yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay, cơ sở vật chất tuy đã được xây
dựng, tăng cường nhưng vẫn còn thiếu rất nhiều phòng chức năng, xưởng thực
hành nghề. Đại bộ phận giáo viên đạt chuẩn nhưng vẫn còn 1 bộ phận giáo viên
lúng túng trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy, chưa khai thác tốt hiệu quả
của thiết bị giáo dục. Tỉ lệ học sinh bỏ học vẫn còn cao. Một bộ phận học sinh
vẫn chưa có động cơ, thái độ học tập đúng đắn nên lười học, đạo đức có phần sa
sút do nhiều nguyên nhân, trong đó một phần là do phụ huynh học sinh chưa
quan tâm và sự tác động của các hiện tượng tiêu cực ngoài xã hội.Bên cạnh đó
chất lượng đào tạo nghề chưa được chú trọng, công tác tuyển sinh học nghề còn
nhiều khó khăn, bất cập.
2. 2. Thực trạng việc dạy và học:

2.2.1 Thuận lợi
- Với tỷ lệ 100% giáo viên có trình độ chuyên môn đạt chuẩn, có lòng
yêu nghề, tận tụy hết lòng với học sinh, có sức khoẻ tốt, nhìn chung, chất lượng
giáo dục của Trung t©m khá tốt và ổn định. Tuy nhiên, vài năm gần đây chất
lượng mũi nhọn từ vị trí tốp đầu xuống vị trí tốp cuối, thậm chí có năm không có
học sinh nào đạt giải ( năm học 2013-2014, 2014-2015).
- Trung tâm thường xuyên nhận được sự quan tâm chỉ đạo trực tiếp của
Chi bộ Đảng, nhà trường trong các lĩnh vực.
- Đa số phụ huynh học sinh quan tâm, tạo điều kiện về mọi mặt đối với con
em mình, luôn nhiệt tình ủng hộ các phong trào dạy và học của Trung tâm.
- Trung tâm có tổ chức các chuyên đề theo kế hoạch, giáo viên đều tham
gia đầy đủ. Đây là điều kiện cần thiết để thực hiện tốt việc đối mới phương pháp
dạy học, đáp ứng yêu cầu của Bộ đề ra.


2.2.2. Những khó khăn
- Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học( nhất là dạy nghề) tuy đã được đầu
tư nhưng vẫn chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn, đẫn đến giáo viên không
có điều kiện đảm bảo để thực hiện nhiệm vụ. So với yêu cầu đổi mới giáo dục
hiện nay, cơ sở vật chất tuy đã được xây dựng, tăng cường nhưng vẫn còn thiếu
rất nhiều phòng chức năng, xưởng thực hành nghề.
- Cơ cấu đội ngũ còn nhiều bất cập ( thừa giáo viên văn hóa, thiếu giáo
viên dạy nghề), Phần đa là nữ, đang thời kỳ nuôi con nhỏ nên phần nào ảnh
hưởng đến hiệu quả công tác. Đại bộ phận giáo viên đạt chuẩn nhưng vẫn còn 1
bộ phận giáo viên lúng túng trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy, chưa
khai thác tốt hiệu quả của thiết bị giáo dục.
- Việc huy động, đảm bảo kinh phí và cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt
động của đội ngũ giáo viên thiếu đồng bộ, bị ràng buộc bởi thủ tục hành chính
phức tạp.
- Công tác quản lý chưa phát huy hết các tiềm lực sẵn có trong nhà

trường, chưa tạo ra sức mạnh tổng hợp từ các lực lượng, các mối quan hệ tác
động mạnh đến chất lượng giáo dục.
- Nhận thức về nhiệm vụ đào tạo nghề của đội ngũ giáo viên ở trung tâm
chưa cao. Việc tổ chức quán triệt nhiệm vụ cho cán bộ quản lý và đội ngũ giáo
viên chưa được thực hiện đầy đủ theo đúng quy định.
- Năng lực và kinh nghiệm trong hoạt động đào tạo nghề của đội ngũ giáo
viên và quản lý hoạt động này của cán bộ quản lý còn bất cập, chưa có biện pháp
tháo gỡ kịp thời. Sự phối hợp tổ chức và giám sát giữa các bộ phận trong trung
tâm bị động, thiếu chặt chẽ, chưa ngang tầm với nhiệm vụ.
- Về phía học sinh: Do có nhiều học sinh có lực học yếu, lại ở địa bàn xa
trường nên việc đi lại gặp khó khăn, chất lượng đầu vào thấp nên tỉ lệ học sinh
bỏ học vẫn còn cao. Một bộ phận học sinh vẫn chưa có động cơ, thái độ học tập
đúng đắn nên lười học, đạo đức có phần sa sút do nhiều nguyên nhân, trong đó
một phần là do một bộ phận phụ huynh học sinh chưa quan tâm đúng mức đến
việc học tập và tu dưỡng đạo đức của con em mình. Hơn nữa, các tệ nạn xã hội,
mặt trái của cơ chế thị trường ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình giảng dạy và
giáo dục.
3. Một số giải pháp trong công tác quản lý đã sử dụng nhằm nâng cao
chất lượng dạy và học tại Trung tâm GDNN-GDTX Hà Trung


Căn cứ về đặc thù đối tượng học sinh và cán bộ giáo viên cũng như thực
trạng dạy và học của Trung tâm, qua quá trình công tác, bản thân xin nêu ra một
số giải pháp trong công tác quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ở
Trung tâm GDNN-GDTX huyện Hà Trung .
3.1. Tăng cường giáo dục đạo đức, thắt chặt nề nếp kỉ cương dạy và
học
Mục tiêu giáo dục đạo đức là giáo dục nhân cách sống và làm việc mà
cụ thể là giáo dục tác phong, lối sống, cách ăn mặc lành mạnh, giáo dục cách cư
xử giao tiếp thông thường qua việc làm nề nếp, qua các bài giảng, nhất là các

môn khoa học xã hội nhân văn, các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Thực tế chương
trình học văn hóa tại trung tâm học sinh chỉ học 7 môn văn hóa, không học môn
giáo dục công dân. Đây cũng là một khó khăn trong giáo dục đạo đức cho học
sinh. Vì vậy cần tăng cường thời gian hoạt động ngoài giờ để giáo dục đạo đức,
ý thức nề nếp cho học sinh, từ đó hình thành nhân cách cho các em.
Thường xuyên quan tâm chỉ đạo phổ biến, giáo dục pháp luật đến toàn
thể CBGV-NV-HS trong các buổi sinh hoạt chuyên môn, buổi chào cờ, sinh
hoạt lớp, các buổi hoạt động ngoại khóa, các hội thi và đặc biệt được lồng ghép
tích hợp vào các môn học, các tiết học.Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về pháp
luật, sân khấu hoá các cuộc thi để Chỉ thị, Nghị quyết của đảng dễ dàng đến
được với thanh niên, học sinh. Giáo dục truyền thống nhân những ngày kỷ niệm
lớn của dân tộc.
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng phải được đặt lên hàng đầu trong kế
hoạch của trung tâm, tập trung xây dựng cho được các quy định, nội quy, nề nếp
của trung tâm. Tổ chức thực hiện nội quy, quy chế thành một thói quen, nề nếp,
đồng thời cũng tích cực giám sát, động viên, kiểm tra để quy chế được thực
hiện thường xuyên và đầy đủ.
Đẩy mạnh công tác quản lý đối với hàng ngũ giáo viên chủ nhiệm thường
xuyên duy trì giờ sinh hoạt, phối kết hợp Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh, xây dựng nề nếp học tập tranh thủ mọi cơ hội để giáo dục đạo đức cho
học sinh.
Tăng cường công tác giáo dục chính trị, nâng cao nhận thức cho cán bộ
giáo viên về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Nâng cao tinh thần
trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần tận tuỵ, đạo đức nghề nghiệp cho
cán bộ giáo viên. Xây dựng tập thể đoàn kết, chống mọi biểu hiện không lành


mạnh trong dạy và học. Thầy cô giáo phải là tấm gương sáng cho học sinh noi
theo.
3.2. Tăng chường quản lý hoạt động giảng dạy của giáo viên và đổi

mới phương pháp giảng dạy
Tăng cường kỷ cương, nề nếp dạy và học, chấm dứt tình trạng lỏng lẻo
trong dạy, học. Thực hiện nghiêm túc các quy định và kỷ luật chuyên môn. Tiếp
tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục chuyển mạnh
quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng
lực và phẩm chất người học nhằm phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm
năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu tổ quốc, yêu đồng
bào; sống tốt và làm việc hiệu quả.
Tích cực đổi mới phương pháp dạy - học theo tinh thần Nghị quyết 29
BCH TW VIII về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục Việt Nam. Để cải tiến
phương pháp dạy học cần làm tốt các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu kĩ bài giảng, nắm được những yêu cầu nội dung cơ bản của
bài dạy, nắm được những kiến thức trọng tâm, đọc tài liệu để minh họa phong
phú, sinh động khắc sâu kiến thức cho học sinh.
- Sử dụng thuần thục các phương tiện dạy học các dụng cụ thí nghiệm, sơ
đồ, tranh ảnh nhằm giúp học viên có con đường tốt nhất, dễ hiểu nhất để chiếm
lĩnh bài học, hiểu rõ được bản chất của kiến thức.
- Xây dựng những giờ mẫu, giờ chuẩn có phương pháp lên lớp phù hợp đạt
hiệu quả qua việc chọn giáo viên dạy thử dạy mẫu, dạy điểm, từ đó giúp các
giáo viên khác điều chỉnh rút kinh nghiệm giờ dạy của mình dễ dàng hơn.
- Tăng cường hoạt động kiểm tra dự giờ đối với mỗi bộ môn theo kế hoạch
của tổ chuyên môn hoặc dự giờ đột xuất và rút kinh nghiệm kịp thời. Đây là hoạt
động rất quan trọng nhằm phát huy được tinh thần xây dựng bài giảng một cách
dân chủ, khoa học của hội đồng giáo dục (hội đồng khoa học) đối với giờ dạy
của giáo viên. Đó là một cơ sở đánh giá chính xác, khách quan về chất lượng
chuyên môn của mỗi cá nhân, tạo điều kiện giúp giáo viên tự điều chỉnh, sửa
chữa những sai sót của mình, từ đó mà chủ động chuẩn bị cho bài giảng sau tốt
hơn.
3.3. Bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ
cán bộ giáo viên trung tâm



- Tạo mọi điều kiện về tinh thần và vật chất có thể có được để đội ngũ giáo
viên được tham dự các lớp bồi dưỡng đặc biệt là bồi dưỡng theo chu kỳ của
ngành.
- Phân loại giáo viên để có kế hoạch bồi dưỡng phân công giáo viên giỏi
giúp đỡ chuyên môn cho giáo viên yếu.
- Coi trọng công tác tự học, tự nghiên cứu ngay từ dầu năm tổ chức cho
giáo viên đăng ký đề tài, chuyên đề nội dung và lập kế hoạch tự học đi tham gia
các hoạt động học tập để nâng cao trình độ mọi mặt của giáo viên. Trung tâm có
thể tạo điều kiện về thời gian, cung cấp tài liệu để giáo viên học tập. Giám đốc
thông qua tổ chuyên môn kiểm tra đôn đốc thường xuyên việc tự học của giáo
viên, có thể xem xét đưa vào tiêu chí thi đua, đánh giá xếp loại cá nhân.
- Động viên khuyến khích giáo viên viết sáng kiến kinh nghiệm, nghiên
cứu, thực hiện và ứng dụng các sáng kiến, các thành tựu khoa học để nâng cao
hiệu quả giảng dạy.
3.4. Quản lý hoạt động của tổ chuyên môn.
Đây là một nội dung quan trọng của công tác quản lý, nó có vai trò rất lớn
trong công tác bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ giáo viên và chất lượng giáo dục.
Hoạt động hiệu quả của mỗi giáo viên sẽ tạo ra điều kiện tốt nhất để mỗi giáo
viên tự học hỏi lẫn nhau về kiến thức, chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm, từ đó
nâng cao trình độ năng lực của mình. Với vai trò như vậy đòi hỏi tổ chuyên môn
phải được tổ chức hợp lý và hoạt động có nề nếp và khoa học.
- Tổ chức tổ chuyên môn phù hợp với biên chế và đặc thù của trung tâm.
Hằng năm chỉ đạo các tổ bầu chọn những giáo viên có năng lực quản lý chuyên
môn vững vàng, có uy tín làm tổ tưởng để điều hành việc của tổ. Xác lập mối
quan hệ và lề lối làm việc của giám đốc, phó giám đốc và các tổ trưởng.
- Xây dựng mỗi tổ thành một tập thể sư phạm đoàn kết, tự quản thường
xuyên dự giờ rút kinh nghiệm, giúp đỡ hỗ trợ lẫn nhau.
- Mỗi tổ là một đơn vị triển khai các chủ trương, công tác chuyên môn cụ

thể của trung tâm. Tổ trưởng tực tiếp quản lý giáo viên, điều hành mọi hoạt động
của tổ theo quy chế, đúng kế hoạch và yêu cầu của trung tâm.
- Chỉ đạo tổ chức sinh hoạt tổ chuyên môn có nội dung thiết thực theo các
chuyên đề (đối với cả giáo viên dạy hợp đồng). Trao đổi về tình hình dạy học bộ
môn, tìm hiểu nguyên nhân và biện pháp khắc phục những tồn tại trong dạy và
học. Trao đổi kinh nghiệm, thoả luận về các dạy bài khó. Nghiên cứu bàn bạc cải
tiến phương pháp dạy học cho phù hợp với đối tượng học sinh ở từng bộ môn.


- Tạo điều kiện cho giáo viên soạn bài ký duyệt giáo án để từng bước nâng
cao chất lượng soạn bài là cơ sở chất lượng giờ lên lớp. Tạo mọi điều kiện để
trong tổ phát huy được mặt tích cực của mình, giúp đồng nghiệp cùng tiến bộ.
- Tổ chuyên môn theo dõi chương trình nhanh chậm, cùng với phó giám
đốc và kiểm tra đúng đủ số bài kiểm ta của từng giáo viên, chỉ đạo giáo viên
không được cấy điểm, xếp loại học viên chính thức. Đây cũng là khâu thuần chế
đẻ nâng cao chất lượng.
- Hàng tháng, hàng quý tổ chức cho các tổ chuyên môn báo cáo giờ dạy tố,
sáng kiến kinh kinh nghiệm hay. Sau đó tập thể khẳng định giá trị của sáng kiến
kinh ngghiệm và phổ biến rộng rãi, vận dụng một cách kịp thời những sáng kiến
kinh nghiệm hay tại trung tâm.
- Phải có nội dung sinh hoạt cụ thể bằng kế hoạch hàng tháng, hàng
kỳ, cả năm học. Nội dung sinh hoạt tổ, nhóm chuyên môn phải có đủ các nội
dung như:
+ Đánh giá kết quả công tác tuần trước.
+ Triển khai công tác tuần tới.
+ Thảo luận, thống nhất chương trình, đưa ra bài khó, hướng dẫn giải.
- Có kế hoạch kiểm tra thường xuyên việc thực hiện quy chế chuyên môn,
quy định của trung tâm
- Có kế hoạch dạy bài khó hoặc dạy rút kinh nghiệm theo chuyên đề, phân
công người dạy cụ thể.

- Phân công cụ thể người giúp đỡ những giáo viên mới ra trường hoặc
những giáo viên còn yếu về từng mặt.
- Phát động phong trào viết SKKN trong toàn trường, tập trung vào yêu
cầu đổi mới phương pháp giảng dạy.
3.5. Chỉ đạo công tác đào tạo nghề:
Việc đào tạo nghề là một trong những chức năng của Trung tâm GDTXDN. Trong những năm trước đây chức năng xóa mù chữ cho người dân rất hiệu
quả, nhưng do sự phát triển của xã hội trong địa bàn tỉnh đã phổ cập THCS, việc
xóa mù chuyển sang việc giữ vững kết quả phổ cập và công tác phong trào.
Trong giai đoạn hiện nay các công ty xí nghiệp được thành lập rất nhiều và đặt
ngay trong các khu dân cư, nhằm thu hút nguồn lao động của địa phương. Vấn
đề đặt ra là phải tạo cho con em nông dân trong địa bàn có tay nghề. Do vậy việc
liên kết của Trung tâm GDTX-DN với các trường nghề trong cả nước để đào tạo


nghề cho học sinh trình độ trung cấp nghề và chú trọng đào tạo trình độ sơ cấp
nghề cho con em nông dân là việc làm trọng tâm của nhà trường.
Ban giám đốc xây dựng chiến lược phát triển đào tạo nghề, mở các lớp dạy
nghề cho con em nông dân ngay tại địa phương như: nghề hàn, tin học, điện,
may công nghiệp. Cần tập trung làm tốt công tác dạy nghề ngắn hạn tại các xã
và giải quyết việc làm sau đạo tạo cho lao động nông thôn cũng như các lớp liên
kết đào tạo.
Điều tra khảo sát nắm bắt nhu cầu học tập, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức
của người dân trong cộng đồng để xây dựng kế hoạch và tổ chức các hình thức
học tập nhằm đáp ứng các nhu cầu.Phải điều tra tình hình xã hội xem hiện nay
nhu cầu xã hội đang cần nghề gì, tư vấn cho người dân và đào tạo nghề cho họ.
Liên kết với các tổ chức xã hội như: đoàn thanh niên, trung tâm tư vấn việc làm,
sở Lao động, hội Doanh nghiệp để tư vấn việc làm sau khi các em ra trường.
Đào tạo nghề cho học sinh song song với việc đào tạo văn hóa, để học sinh
học song ba cấp có thêm bằng trung cấp hoặc sơ cấp nghề và có thể đi làm ngay
trong các công ty hoặc tiếp lên đại học, cao đẳng.

3.6. Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá giáo viên của Ban giám
đốc và của tổ chuyên môn
- Kiểm tra là một trong bốn nội dung, chức năng của người cán bộ quản lý
trong công việc quản lý trung tâm. Kiểm tra là vũ khí, là động lực cho sự phát
triển. Thực hiện thường xuyên công tác kiểm tra chính là nhắc nhở mọi người
làm việc đúng, đồng thời phát hiện kịp thời những mặt tốt để phát huy, tìm ra
những mặt hạn chế để khắc phục. Thói quen nghiêm túc, làm việc có kế hoạch
khoa học trong công việc không phải tự nhiên ai cũng có mà hầu hết được hình
thành và phát triển trong suốt cả quá trình công tác mà lúc đầu thường là chưa tự
giác. Nói tóm lại là làm tôt công tác kiểm tra theo đúng nguyên tắc, thiết thực sẽ
tạo nên hiệu quả đích thực, giúp mỗi người ngày càng tự giác và nghiêm túc
hơn.
- Xác định nội dung kiểm tra là việc thực hiện các quy định về chuyên
môn như: kế hoạch giảng dạy, soạn giáo án, thực hiện chương trình, thực hiện
chế độ kiểm tra cho điểm, việc chấm, chữa bài cho học sinh, việc dự giờ thăm
lớp, tự học, công tác chủ nhiệm và một số công tác khác.
Coi công tác kiểm tra đánh giá là việc làm thường xuyên trong chu trình
quản lý, để đảm bảo thực hiện tốt công việc này người quản lý phải thống nhất
được kế họach kiểm tra và thông báo đến mọi giáo viên.


+ Ngoài kiểm tra theo lịch cần chú trọng việc kiểm tra đột xuất, nhất là dự
giờ đột xuất và việc thực hiện quy chế chuyên môn.
- Sử dụng kết quả kiểm tra để nhắc nhở, rút kinh nghiệm những giáo viên
thực hiện chưa tốt hoặc có thiếu sót trong quá trình công tác, đồng thời tuyên
dương, khích lệ những cá nhân làm tốt từ đó nhân rộng điển hình. Khi cán bộ,
giáo viên bị nhắc nhở 2 – 3 lần mà vẫn không sửa chữa sẽ bị kiểm điểm.
- Việc đánh giá xếp loại giáo viên là rất cần thiết, cần xếp loại theo đúng
tiêu chí thi đua. Nên xếp loại theo từng học kì và cả năm, cùng việc đánh giá xếp
loại theo kết quả của học sinh. Chú ý khi đánh giá xếp loại cần công khai, dân

chủ, công bằng, hợp tình hợp lý, tránh thiên vị, trù dập gây mất đoàn kết nội bộ.
- Kiểm tra đánh giá dựa vào “xếp loại đánh giá giờ dạy của giáo viên” trên
cơ sở phân tích thấu đáo mục đích là để người được kiểm tra nhận ra ưu nhược
điểm của mình.
- Cần đưa ra trong hội nghị cán bộ, giáo viên đầu năm những tiêu chí thi
đua cụ thể, để đến khi đánh giá xếp loại theo tiêu chí đã đạt, theo những tiêu chí
đã đề ra.
Vì việc kiểm tra, đánh giá được thực hiện thường xuyên từ tổ đến Ban
giám đốc nên không có giáo viên nào vi phạm quy chế chuyên môn. Trong quá
trình kiểm tra chủ yếu phát hiện ra một số tồn tại của giáo viên để nhắc nhở.
Nhờ kiểm tra nhắc nhở mà những thiếu sót này dần dần được khắc phục
3.7. Chỉ đạo đổi mới công tác thi đua khen thưởng:
Đối với cán bộ quản lý: công tác quản lý hoạt động phong trào thi đua
khen thưởng có mối quan hệ hữu cơ đến việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên vì hiệu quả công tác quản lý giữa nhu cầu đào tạo và nhu cầu phát triển
giáo dục ở địa phương. Việc thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các nội dung quản lý
công tác thi đua – khen thưởng sẽ tác động rất lớn đến chất lượng, hiệu quả thực
hiện nhiệm vụ đào tạo trong trung tâm.
Hàng năm, bên cạnh nhiệm vụ triển khai nhiệm vụ năm học, Ban giám
đốc dành thời gian thích ứng để cho việc tổ chức triển khai kế hoạch thi đua,
khen thưởng. Với nội dung cụ thể, rõ ràng để đội ngũ giáo viên, công nhân viên
quán triệt, thực hiện một cách nghiêm túc. Những khó khăn, vướng mắc trong
hoạt động phong trào thi đua đã được đưa ra hội nghị, trao đổi tìm biện pháp giải
quyết. Giữa CB-GV và cán bộ quản lý để cùng chia sẻ, tìm đến sự đồng thuận,
đồng tình trong thi đua, khen thưởng và trong quản lý hoạt động này.


Hoạt động thi đua “Hai tốt” ở trung tâm nhằm mục đích cơ bản là: khơi
dậy những tiềm năng của thầy và trò, giúp cho việc dạy học và giáo dục thực
hiện được mục tiêu của ngành giáo dục đã đề ra. Từ phong trào thi đua “Hai

tốt”, kịp thời phát hiện những điển hình tiên tiến, nhân rộng những mô hình để
nâng cao năng lực và phẩm chất của nhà giáo; phục vụ đắc lực cho hoạt động
giảng dạy; gắn nhà trường với sự phát.Để làm tốt công tác thi đua người quản lý
cần phải:
- Quan tâm đúng mức cả ba giai đoạn của thi đua: phát động thi đua, tiến
hành thi đua, tổng kết và đánh giá thi đua.
-Tổ chức, động viên mọi người tích cực, tự giác thi đua.
-Thi đua với các mục đích cụ thể, rõ ràng, có tính thuyết phục. Hình thức
thi đua phải sinh động, hấp dẫn.
- Đảm bảo khách quan, trung thực, có ý nghĩa giáo dục.
- Cần có sự uốn nắn, theo dõi, sơ kết và tổng kết, đánh giá kịp thời, công
bằng và đúng mực.
- Nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lý, giáo viên, công đoàn viên về
tầm quan trọng công tác thi đua khen thưởng:
- Hoàn chỉnh các hệ thống văn bản thi đua, khen thưởng trong nhà trường.
- Hoàn chỉnh bộ máy quản lý thi đua, khen thưởng trong nhà trường.
- Cải tiến việc tổ chức hoạt động thi đua, khen thưởng tập trung vào các
nội dung sau:
+ Xây dựng kế hoạch thi đua, khen thưởng ở trường theo chủ điểm, từng
giai đoạn là định hướng cơ bản, mục tiêu lâu dài, giúp cho nhà trường cụ thể hoá
từng năm học. Thực tiễn chứng minh rằng thiếu kế hoạch này nhất là ban giám
đốc gặp nhiều lúng túng, khó khăn. Bổ sung kế hoạch này sẽ tạo điều kiện cho
hoạt động thi đua, khen thưởng và quản lý hoạt động này có định hướng, có hệ
thống để chất lượng dạy và học sẽ được nâng lên.
+ Việc đánh giá xếp lọai: để giảm bớt sự bất cập trong đánh giá, xếp lọai
tất cả công việc trong nhà trường, một số công việc được lượng hóa thành điểm
cụ thể
+ Tăng cường nguồn lực tài chính và CSVC phục vụ thi đua, khen
thưởng.
+ Tổ chức các lớp bồi dưỡng theo chuyên đề (chuyên môn; quản lý GDĐT) cho từng đối tượng, mời các giáo viên có uy tín, những người có kinh

nghiệm trong các hoạt động này đến báo cáo để đội ngũ giáo viên và cán bộ


quản lý nâng cao trình độ hiểu biết, cập nhật thông tin, học hỏi kinh nghiệm cho
hoạt động của mình.
+ Tạo điều kiện cho đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý tham gia hội
nghị, hội thảo, các lớp tập huấn... do các bộ phận trong và ngoài nhà trường tổ
chức.
+ Giao nhiệm vụ cụ thể, đúng yêu cầu, phù hợp với khả năng của từng đối
tượng, để họ tự tìm tòi, học hỏi, nâng cao năng lực cho mình.
+ Tổ chức triển khai và thực hiện kế hoạch này nghiêm túc, đầy đủ, có
điều chỉnh kịp thời khi có sự thay đổi sẽ có tác động rất lớn đến chất lượng, hiệu
quả các hoạt động này.
+ Tổ chức phân công, phân nhiệm cụ thể, có kế hoạch kiểm tra đánh giá
việc hoàn thành nhiệm vụ được giao trong từng năm học, từng giai đoạn cụ thể.
Có thể nói, hoạt động thi đua khen thưởng vừa là nghĩa vụ, vừa là quyền
lợi của đội ngũ giáo viên. Là nghĩa vụ, nó bắt buộc đội ngũ giáo viên phải làm
và đã trở thành một tiêu chí để đánh giá việc hoàn thành nhiệm vụ năm học. Là
quyền lợi, nó đòi hỏi người quản lý phải tổ chức và tạo điều kiện cho đội ngũ
giáo viên tham gia hoạt động thi đua. Đó là trách nhiệm, là nhiệm vụ của người
quản lý đảm bảo cho họ có quyền được cống hiến, được đóng góp cho nhà
trường và xã hội.
3.8. Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục và xây dựng CSVC.
Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước với sự
nghiệp giáo dục.
Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, coi giáo dục là nhiệm vụ của toàn Đảng,
toàn dân. Tuyên truyền rộng rãi để nâng cao nhận thức cho mọi người về quan
điểm phát triển giáo dục, tranh thủ sự lãnh đạo của các cấp lãnh đạo đảng, chính
quyền để nâng cấp CSVC, trang thiết bị dạy và học.Huy động nhân dân đóng
góp xây dựng CSVC ....

- Tập trung chỉ đạo làm tốt sự phối, kết hợp giữa các đoàn thể, phụ huynh
học sinh và nhân dân với nhà trường trong việc xây dựng cơ sở vật chất vì : trang
triết bị dạy học văn hóa ở Trung tâm còn thiếu thốn, chưa có phòng học chức
năng, chưa có xưởng thực hành nghề, bàn ghế hư hỏng nhiều…vì vậy cần đẩy
mạnh hơn nữa công tác xã hội hóa giáo dục đặc biệt là xây dựng cơ sở vật chất ,
mua sắm trang thiết bị dạy học.
- Chỉ đạo tốt sự phối, kết hợp giữa các đoàn thể, phụ huynh học sinh và
nhân dân với nhà trường trong việc xây dựng cơ sở vật chất vì : trang triết bị dạy


học văn hóa ở Trung tâm còn thiếu thốn, chưa có phòng học chức năng, chưa có
xưởng thực hành nghề, bàn ghế hư hỏng nhiều…vì vậy cần đẩy mạnh hơn nữa
công tác xã hội hóa giáo dục đặc biệt là xây dựng cơ sở vật chất , mua sắm trang
thiết bị dạy học.
4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, với bản thân,
đồng nghiệp và nhà trường.
Có thể nói, từ khi áp dụng SKKN vào tình hình thực tế của trung tâm,
chất lượng giảng dạy và giáo dục đã đạt được kết quả vượt trội. Từ chỗ mấy năm
gần đây chất lượng mũi nhọn đi xuống, có năm không có học sinh đạt giải, thì
trong năm học 2016-2017 khi sáng kiến được áp dụng đồng bộ thì kết quả chất
lượng giáo dục đã có bước tiến vượt trội. Cụ thể :
- Năm học 2016-2017 :
+ Thi các môn văn hóa cấp tỉnh: Trung tâm có 14 học sinh đi thi và đạt 11
giải: trong đó có 1 giải nhì, 3 giải 3 và 7 giải khuyến khích. Xếp thứ 3 toàn tỉnh.
+ Thi giải toán bằng máy tính cầm tay cấp tỉnh: có 1 giải 3.
+ Kết quả thi HS giỏi quốc gia giải toán bằng máy tính cầm tay: có 1 giải 3
- Năm học 2017-2018: có 4 giáo viên đạt GVG cấp tỉnh, 4 SKKN cấp
tỉnh.
- Năm học 2018-2019: Có 4 học sinh đạt giải HSG cấp tỉnh ( 2 giải nhì và
2 giải 3), xếp thứ 7 toàn tỉnh. Có 4 SKKN cấp tỉnh.

- Thi giải toán bằng máy tính cầm tay cấp tỉnh: Trung tâm có 4 học sinh
đi thi và đạt 4 giải: 1 giải nhì, 2 giải 3 và 1 giải khuyến khích. Xếp thứ nhất toàn
tỉnh. Có 2 học sinh thi đậu và đội tuyển quốc gia.
- Thi các môn văn hóa cấp tỉnh: Trung tâm có 14 học sinh đi thi và đạt 11
giải: trong đó có 1 giải nhì, 1 giải 3 và 9 giải khuyến khích. Xếp thứ 4 toàn tỉnh.
- Kết quả thi học sinh giỏi Quốc gia giải toán bằng máy tính cầm tay:
Trung tâm có 2 học sinh đạt giải: một giải nhất ( xuất sắc) và một giải 3 cấp
Quốc gia.
Đây là kết quả từ trước đến nay chưa từng có, nó có ảnh hưởng sâu sắc
đến phong trào giáo dục trong trung tâm, từ đó khẳng định các giải pháp của
SKKN đạt hiệu quả khả thi cao, từng bước nâng cao chất lượng giáo dục của
trung tâm nói riêng và và giáo dục huyện Hà Trung nói chung.
- Kết quả về xếp loại hạnh kiểm:
TT

Năm học

XL Tốt

XL khá

XL TB

XL yếu


1
2
3


2017-2018
2018-2019
Tăng/giảm


số
88
175
87

SL

Tỷ lệ

SL

Tỷ lệ

SL

Tỷ lệ

SL

Tỷ lệ

36
84

40.91%

48.00%

34
61

38.64%
34.86%

15
28

17.05%
16.00%

3
2

48

+7.09%

27

-3.78%

13

-1.05%

-1


3.41%
1.14%
-.2,26
%

- Về xếp loại học lực:
TT

Năm học

1
2
3

2016-2017
2017-2018
Tăng giảm


số
157
88

XL giỏi
SL
Tỷ lệ

XL khá
SL

Tỷ lệ

SL

103
41

65.6%
46.6%

-62

-19%

0
0

0.0%
0.0%

42
46

0

0

4

26.8%

52.3%
+25,5
%

XL TB
Tỷ lệ

SL

XL yếu
Tỷ lệ

12
1

7.6%
1.1%
-6,5%

Bên cạnh đó, các phong trào thi đua trong trung tâm thực sự có bước
chuyển biến mạnh mẽ. Đặc biệt là phong trào thi đua dạy tốt học tốt, phong trào
viết SKKN, làm đồ dùng dạy học, phong trào Văn hóa văn nghệ, thể dục thể
thao…. Năm học 2017-2018, trung tâm có 5 giáo viên tham gia thi giáo viên
giỏi cấp tỉnh đạt 4/4 đồng chí. Hàng năm 100% CBGV viết SKKN và mỗi năm
có ít nhất 3 đến 5 SKKN xếp loại cấp tỉnh, nhất là trong ba năm gần đây, Trung
tâm là một trong những đơn vị đứng đầu thuộc khối GDTX có tỷ lệ SKKN gửi
và được Sở GD&ĐT xếp loại. Năm học 2016-2017 và 2017-2018, CBGV trung
tâm tham gia tích cực các kỳ thi do huyện tổ chức và đạt được nhiều kết quả:
đạt giải nhất môn cờ tướng, giải ba môn cầu lông do huyện tổ chức và giải nhất
thi cụm trong hội thi “báo cáo viên giỏi cấp huyện năm 2016”…

- Hàng năm Trung tâm đào tạo hàng trăm công nhân lành nghề đặc biệt là
đối tượng nhân dân lao động có nhu cầu. Làm tốt khâu giới thiệu việc làm đáp
ứng nhu cầu lao động và thúc đẩy phát triển kinh tế của địa phương.
Như vây, có thể khẳng định rằng: Việc áp dụng SKKN đã có tác dụng rất
lớn đến chất lượng dạy và học tại trung tâm. Chất lượng học sinh được duy trì
và từng bước nâng lên, số học sinh giỏi cấp tỉnh và học sinh giỏi quốc gia tăng
cao, học sinh yếu giảm, nề nếp học sinh tương đối ổn định, hàng năm trung tâm
đạt chuẩn về an ninh trật tự. Công tác đào tạo nghề được chú trọng và đạt hiệu
quả, đội ngũ giáo viên có trình độ chuẩn, trên chuẩn phát huy được năng lực và
khả năng của mình, đoàn kết có tinh thần trách nhiệm trong công việc; học sinh
đi học chuyên cần, cố gắng vươn lên trong học tập, học sinh bỏ học giảm; cơ sở
vật chất nhà trường được đầu tư và bổ sung thêm tạo điều kiện cho việc giảng


dạy nâng cao chất lượng học tập của học sinh. Cảnh quan nhà trường được cải
thiện đáng kể, tạo môi trường giáo dục xanh-xạch-đẹp và thân thiện.
Có thể nói, các biện pháp quản lý đã đề xuất là hợp lý và mang tính hiệu
quả cao. Tổ chức thực hiện các biện pháp đó một cách đồng bộ, có hệ thống, đã
và đang góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của trung tâm và yêu cầu phát
triển KT-XH của địa phương trong thời gian tới.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Qua một số kinh nghiệm về quản lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục tại
Trung tâm GDNN-GDTX Hà Trung trong giai đoạn hiện tại. Đề tài mà tôi quan
tâm đã giải quyết được những việc sau đây:
Đã tìm hiểu lý luận, thực trạng của Trung tâm GDNN-GDTX Hà Trung
và rút ra được những kinh nghiệm quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy học
như: Tăng cường giáo dục đạo đức, thắt chặt nề nếp kỉ cương dạy và học, tăng
cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, yếu tố này được coi là quan trọng
phát triển nhân cách của người dạy và người tính nhân nhân sâu sắc. Ngoài ra

muốn quản lý tốt đội ngũ giáo viên nhằm nâng cao chất lượng dạy học đặc biệt
chúng ta phải xây dựng một đội ngũ giáo viên tốt đạt chuẩn. Muốn có một đội
ngũ chuẩn chúng ta phải quản lý tốt hoạt động của tổ chuyên môn và làm tốt
công tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, công tác kiểm tra, đánh giá giáo
viên.
Mặc dù, những giải pháp này đã được soi sáng bởi lý luận của quản lý.
Được thực tế kiểm nghiệm và quá trình vận dụng cũng thu được những kết quả
nhất định nhưng vấn đề nâng cao chất lượng dạy học là vấn đề rất khó, nhất là ở
Trung tâm GDNN-GDTX Hà trung. Vì trong quá trình phát triển đòi hỏi chất
lượng dạy học ngày càng phù hợp với xu thế chung của toàn xã hội, nhiệm vụ
này được đặt ra cho người quản lý để nâng cao chất lượng dạy học. Vì vậy đề
tài này luôn mang tính thời sự. Trong khuôn khổ bài viết này không phải là nhà
nghiên cứu giáo dục chuyên nghiệp, cách nhìn nhận cũng chỉ dừng lại ở một số
kinh nghiệm của những người đi trước, bản thân có biên tập lại thêm vào một số
ý tưởng mới xuất phát từ tình hình thực tế ở trung tâm của bản thân. Bài viết có
ưu điểm đã đặt ra được một số lý luận và thực tiễn tương đối phù hợp với thực tế
của Trung tâm GDNN-GDTX Hà Trung. Tuy vậy sáng kiến nhỏ này còn có một
số khuyết điểm mang dấu ấn cá nhân, nhiều vấn đề nêu ra còn sơ lược chất
lượng chưa cao, rất mong được đồng nghiệp góp ý.


2. Những kiến nghị.
Để kết quả của sáng kiến được phá huy tính khả thi tôi xin có một vài kiến
nghị sau đây:
* Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo:
- Tiếp tục hoàn thiện và ban hành các văn bản về chế độ, chính sách đối
với đội ngũ giáo viên cho phù hợp với tình hình thực tế hiện nay, đặc biệt là đối
với giáo viên các trung tâm GDNN-GDTX.
- Tăng cường tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng, hội nghị, hội thảo khoa
học cấp toàn quốc về nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ quản lý ở các trung

tâm.
- Đối tượng của trung tâm chủ yếu là học sinh đầu vào có học lực TB, yếu.
Vậy kiến nghị với Vụ giáo dục thường xuyên nghiên cứu nội dung thật phù hợp
với đối tượng.
* Đối với UBND Huyện :
- Có những chủ trương, chính sách hỗ trợ cơ sở vật chất cho trung tâm để
đáp ứng nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Những giáo viên công tác giảng dạy ở
trung tâm phần nhiều so với những giáo viên ở các trường chính quy còn chịu
nhiều thiệt thòi.Cần có những chính sách ưu đãi như chế độ phụ cấp, chế độ
khen thưởng…để mọi người xóa sự mặc cảm, ranh giới an tâm giảng dạy. Có
như vậy chất lượng giáo dục ngày càng cao hơn.
- Tăng cường cơ sở vật chất cho Trung tâm đảm bảo “trường ra trường” thì
mới thu hút được người học, mới liên kết đào tạo và làm tốt việc dạy nghề ngắn
hạn cho LĐNT. Ngoài ra cần phải tăng cường đầu tư sách tham khảo, trang thiết
bị dạy học, để học sinh học ở trung tâm đỡ thiệt thòi.
- UBND huyện, Sở GD&ĐT cần chỉ đạo làm tốt việc phân luồng học sinh
sau THCS theo đúng chủ chương, đường lối của Đảng và Nhà nước, tạo điều
kiện cho Trung tâm trong công tác tuyển sinh vào 10.
Từ những kinh nghiệm của bản thân và thực tiễn trong công tác quản lý
tại trung tâm, tôi xin mạnh dạn nên lên những ý kiến của mình.Vì vậy bài viết
không tránh được hạn chế và thiếu sót. Rất mong được quý thầy cô trong hội
đồng khoa học, các đồng nghiệp góp ý để bản thân học tập ít nhiều trên cương vị
quản lý chỉ đạo của mình./.
XÁC NHẬN THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 5 tháng 5 năm 2019

P. GIÁM ĐÔC

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của



mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người thực hiện

Vũ Thị Hoa



×