SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THCS&THPT BÁ THƯỚC
----------
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP TRONG CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM
NHẰM GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC VÀ KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC
SINH TẠI LỚP 11A1 TRƯỜNG THCS&THPT BÁ THƯỚC
Người thực hiện: Trịnh Thị Vân
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực: Công tác chủ nhiệm
THANH HÓA, NĂM 2019
1
MỤC LỤC
2
Trang
A. Mở đầu
I. Lý do chọn đề tài
II. Mục đích nghiên cứu
III. Đối tượng nghiên cứu
IV. Phương pháp nghiên cứu
B. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
I. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
1. Cơ sở lý luận
2. Cơ sở thực tiễn
3. Các giải pháp tổ chức thực hiện
3.1. Tìm hiểu những yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển của học sinh
trung học phổ thông.
3.2. Khai thác triệt để hiệu quả các tiết sinh hoạt cuối tuần để giáo dục
đạo đức và kỹ năng sống cho học sinh.
3
3
4
4
5
5
5
6
7
9
9
10
3.3. Luôn gần gũi, quan tâm tới học sinh lớp chủ nhiệm.
11
3.4. Xây dựng tập thể lớp đoàn kết, vững mạnh
3.5 Tư vấn tâm lý cho học sinh lớp chủ nhiệm.
3.6. Phối hợp với gia đình, giáo viên bộ môn, các tổ chức đoàn thể trong
và ngoài nhà trường để giáo duc đạo đức và kỹ năng sống cho học sinh .
4.Hiệu quả của đề tài
C. Kết luận
I. Kết luận:
II. Kiến nghị và đề suất.
Tài liệu tham khảo
13
15
18
A. MỞ ĐẦU
3
20
21
21
23
23
I. Lý do chọn đề tài
Giáo dục là quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách, được tổ chức có mục
đích, có kế hoạch, thông qua hoạt động và quan hệ giữa nhà giáo dục và người
được giáo dục, nhằm chiếm lĩnh kinh nghiệm xã hội của loài người. Giáo dục là
quá trình tác động tới thế hệ trẻ về đạo đức, tư tưởng, hành vi nhằm hình thành
niềm tin, lý tưởng, động cơ, thái độ, hành vi, thói quen ứng xử đúng đắn trong
xã hội. Bản chất của quá trình giáo dục là tổ chức toàn bộ cuộc sống học tập,
hoạt động của học sinh, tạo điều kiện thuận lợi nhất để phát triển tiềm năng của
học sinh trong môi trường giáo dục mà người gần gũi các em hơn ai hết là giáo
viên chủ nhiệm. Nếu coi học sinh là những mầm non thì giáo viên chủ nhiệm là
người làm vườn trực tiếp chăm sóc cho các mầm chồi ấy.
Mặt khác, do ảnh hưởng của mặt trái nền kinh tế thị trường, ảnh hưởng
tiêu cực của văn hóa, lối sống nước ngoài, các tệ nạn xã hội, văn hóa phẩm đồi
trụy, tư tưởng sống gấp, hưởng thụ,… đang tác động mạnh mẽ đến đạo đức, lối
sống của học sinh THPT ngày càng sâu sắc, đa dạng và phức tạp, đời sống tâm
lý học sinh đang có những biến động to lớn với nhiều biểu hiện đáng lo ngại.
Tình trạng bạo lực học đường xảy ra ngày càng nghiêm trọng, số vụ học sinh
đánh nhau, đánh hội đồng tăng lên, tỷ lệ thanh thiếu niên phạm tội, tỷ lệ trẻ vị
thành niên nạo phá thai ngày càng tăng lên, một bộ phận học sinh lười học, ngại
học, đua đòi ăn chơi, sống vô cảm,…ngày càng diễn biến phức tạp. Vì vậy vai
trò, trách nhiệm của giáo viên chủ nhiệm với công tác giáo dục đạo đức, kỹ năng
sống cho học sinh lớp chủ nhiệm là rất quan trọng.
Trong gần 13 năm giảng dạy và làm công tác giáo viên chủ nhiệm ở
trường THCS&THPT Bá Thước, trường đóng trên địa bàn kinh tế khó khăn, dân
trí thấp, học sinh trong trường đa số là dân tộc Thái, vì vậy một bộ phận không
nhỏ học sinh chưa có được sự định hướng, giáo dục tốt từ gia đình nên việc xác
định động cơ, mục đích học tập chưa rõ ràng, trình độ nhận thức còn nhiều hạn
chế, các em còn rụt rè, sống thiếu kỹ năng,...Năm học 2017-2018, tôi được phân
công làm công tác chủ nhiệm lớp 10A1, trước thực trạng một bộ phận học sinh
trong lớp có nhiều biểu hiện xem nhẹ rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, tác phong,
một bộ phận không nhỏ học sinh thường xuyên vi phạm nội quy trường lớp như:
Thường xuyên đi học chậm, nghỉ học vô lý do, bỏ giờ, bỏ tiết, đi học nhưng ý
thức học tập không tốt, cư xử thiếu lễ phép với thầy cô, đối xử không văn minh
với bạn bè và các bạn lớp khác, thường xuyên sử dụng điện thoại trong trường
học, cá biệt còn có một số em hút thuốc lá, chởi thề,…nên kết quả học tập rèn
luyện của các em chưa cao, còn có 4 em xếp loại học lực yếu, hạnh kiểm trung
bình 6 em, còn có em đánh nhau trong trường học. Đại đa số học sinh trong lớp
chưa xác định được động cơ, mục đích học tập, xem nhẹ đạo đức, tác phong,
sống quen hưởng thụ, lười lao động, thiếu kỹ năng. Xuất phát từ thực tế trên tôi
chọn đề tài “ Một số biện pháp trong công tác chủ nhiệm nhằm giáo dục đạo
đức và kỹ năng sống cho học sinh tại lớp 11A1 trường THCS&THPT Bá
Thước ” nhằm cố gắng giáo dục tốt hơn học sinh lớp tôi chủ nhiệm, góp phần
4
ổn định số lượng học sinh trong nhà trường, đưa các phong trào nhà trường đi
lên vững mạnh và xã hội có được những người công dân tốt trong tương lai.
II. Mục đích nghiên cứu
Sáng kiến kinh nghiệm này cung cấp một số phương pháp giáo dục đạo
đức và kỹ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm với mục đích:
- Giúp giáo viên chủ nhiệm lớp ở bậc học phổ thông nhận thấy rõ hơn vai
trò ý nghĩa của công tác chủ nhiệm lớp mà việc giáo dục đạo đức, kỹ năng cho
học sinh lớp chủ nhiệm là yếu tố quan trọng không thể xem thường. Đồng thời
tôi muốn qua sáng kiến kinh nghiệm này nói lên những kinh nghiệm của bản
thân trong việc giáo dục đạo đức và kỹ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm để
các thầy cô giáo đồng nghiệp cùng xem xét, bàn bạc trao đổi những mong có thể
ứng dụng vào thực tiễn góp phần nhỏ bé làm tăng chất lượng giáo dục toàn diện
học sinh và làm cho công tác chủ nhiệm lớp đạt hiệu quả cao hơn.
Học sinh hiểu được giá trị của đạo đức, nhân cách, biết sống có trách
nhiệm với bản thân, với gia đình, biết yêu thương ông bà, bố mẹ, biết kính trọng
thầy cô giáo và cư xử đúng mực, hòa nhã, thân tình với bạn bè, với mọi người,
biết cách điều chỉnh hành vi, cư xử của bản thân, biết cách vượt qua những rào
cản tâm lý, những khó khăn trong cuộc sống, học tập, xác định được mục đích,
động cơ học tập rõ ràng, hăng hái học tập, lao động sáng tạo, tích cực tham gia
vào các hoạt động tập thể, …trong quá trình học tập ở trường phổ thông cũng
như các môi trường học tập và làm việc sau này.
Học sinh được rèn luyện và hình thành được các kỹ năng như: Kỹ năng
tự phục vụ bản thân, kỹ năng đặt mục tiêu , kỹ năng quản lý thời gian hiệu quả,
kỹ năng điều chỉnh và quản lý cảm xúc, kỹ năng tự nhận thức và đánh giá bản
thân, kỹ năng giao tiếp và ứng xử, kỹ năng hợp tác và chia sẻ, kỹ năng thể hiện
tự tin trước đám đông, kỹ năng xác định giá trị, kỹ năng ứng phó với căng thẳng,
kỹ năng lắng nghe tích cực, kỹ năng thể hiện sự cảm thông, kỹ năng thương
lượng, kỹ năng giải quyết mâu thuẫn, kỹ năng tư duy phê phán, đánh giá, kỹ
năng tìm kiếm sự hỗ trợ, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng ra quyết định, kỹ
năng giải quyết vấn đề, kỹ năng kiên định, kỹ năng đảm nhận trách nhiệm, kỹ
năng tìm kiếm và xử lý thông tin, kỹ năng sinh tồn, xử lý các tai nạn bất thường,
kỹ năng tự vệ, học các kiến thức giới tính.
Người viết cũng mong muốn nhận được những ý kiến phản hồi, những
đánh giá, trao đổi của quý thầy cô đồng nghiệp để cùng hoàn thiện hơn nữa đề
tài sáng kiến kinh nghiệm này.
III. Đối tượng nghiên cứu
Trong đề tài này tôi chỉ nghiên cứu về thực trạng của trường
THCS&THPT Bá Thước trong những năm qua, đặc biệt là năm học 2017 –2018
và 2018-2019 để áp dụng cho năm học tới.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là học sinh lớp chủ nhiệm 11A1.
5
IV. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chủ nhiệm lớp, nghiên cứu và viết
sáng kiến kinh nghiệm này, người viết đã sử dụng một số phương pháp cơ bản
sau:
Phương pháp nghiên cứu lý luận: Thu thập những thông tin lý luận về
vai trò GVCN lớp trong công tác giáo dục đạo đức và kỹ năng sống cho học sinh
THPT, học sinh dân tộc thiểu số, giáo dục giới tính, tư vấn tâm lý học đường,…
trong các tài liệu, giáo trình giáo dục, các bài tham luận trên Internet.
Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động học và sinh hoạt tập thể của
học sinh.
Phương pháp điều tra: Trò chuyện, trao đổi với các giáo viên bộ môn, học
sinh, hội cha mẹ học sinh, bạn bè và hàng xóm của học sinh.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tham khảo những bản báo cáo, tổng
kết hàng năm của nhà trường. Tham khảo kinh nghiệm của các trường bạn.
Tham khảo những kinh nghiệm của các giáo viên chủ nhiệm lớp khác
trong trường mình.
Phương pháp thử nghiệm: Thử áp dụng các giải pháp vào công tác chủ
nhiệm lớp 11A1(2018-2019) tại trường THCS&THPT Bá Thước.
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. Cơ sở lý luận của đề tài.
1.Cơ sở lý luận
1.1 Khái niệm đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội bao gồm những nguyên tắc và chuẩn
mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp với lợi
ích, hạnh phúc của mình và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ người và
người và con người với tự nhiên.
1.2Chức năng đạo đức
Là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, của ý thức xã hội, đạo đức một
mặt quy định bởi cơ sở hạ tầng, của tồn tại xã hội ; mặt khác nó cũng tác động
tích cực trở lại đối với cơ sở hạ tầng, tồn tại xã hội đó. Vì vậy, đạo đức có chức
năng to lớn, tác động theo hướng thúc đẩy hoặc kềm hãm phát triển xã hội. Đạo
đức có những chức năng sau:
- Chức năng giáo dục.
- Chức năng điều chỉnh hành vi của cá nhân, của cộng đồng và là công cụ
tự điều chỉnh mối quan hệ giữa người và người trong xã hội.
- Chức năng phản ánh.
1.3 Vị trí và đặc điểm của công tác giáo dục đạo đức cho học sinh
Giáo dục đạo đức là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến học
sinh nhằm giúp cho nhân cách mỗi học sinh được phát triển đúng đắn, giúp học
sinh có những hành vi ứng xử đúng mực trong các mối quan hệ: của cá nhân với
6
xã hội, của cá nhân với lao động, của cá nhân với mọi người xung quanh và của
cá nhân với chính mình.
Trong tất cả các mặt giáo dục đạo đức giữ một vị trí hết sức quan trọng. Vì
Hồ Chủ Tịch đã nêu: “ dạy cũng như học, phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức
là đạo đức Cách mạng, đó là cái gốc rất quan trọng, nếu không có đạo đức Cách
mạng thì có tài cũng vô dụng ”.
Giáo dục đạo đức còn có ý nghĩa lâu dài, được thực hiện thường xuyên và
trong mọi tình huống chứ không phải chỉ được thực hiện khi có tình hình phức
tạp hoặc có những đòi hỏi cấp bách.
Trong nhà trường, giáo dục đạo đức là mặt giáo dục phải được đặc biệt coi
trọng, nếu công tác này được coi trọng thì chất lượng giáo dục toàn diện sẽ được
nâng lên vì đạo đức có mối quan hệ mật thiết với các mặt giáo dục khác.
Việc giáo dục đạo đức cho học sinh đòi hỏi người thầy phải nắm vững các
đặc điểm Tâm-Sinh-Lý lứa tuổi của học sinh, nắm vững cá tính, hoàn cảnh sống
cụ thể của từng em để định ra sự tác động thích hợp.
Giáo dục đạo đức là một quá trình lâu dài, phức tạp, đòi hỏi phải có công
phu, kiên trì, liên tục và lặp đi lặp lại nhiều lần.
1.4 Kỹ năng sống
Kỹ năng sống là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và
tham gia vào cuộc sống hằng ngày ( Tổ chức UNESCO). Kỹ năng sống là khả
năng thích nghi và hành vi tích cực cho phép cá nhân có khả năng đối phó hiệu
quả với nhu cầu và thách thức của cuộc sống. Trong giáo dục, kỹ năng sống là
một tồn tại những khả năng được rèn luyện và đáp ứng các nhu cầu cụ thể của
cuộc sống hiện đại hóa (WHO).
Cũng theo WHO, kỹ năng sống được chia thành hai loại: kỹ năng tâm lý
xã hội và kỹ năng cá nhân lĩnh hội và tư duy, với mười yếu tố như: tự nhận thức,
tư duy sáng tạo, giải quyết vấn đề, kỹ năng giao tiếp ứng xử với người khác, ứng
phó với các tình huống căng thẳng và cảm xúc, biết cảm thông, tư duy bình luận
và phê phán, cách giải quyết, giao tiếp hiệu quả và cách thương thuyết.
Rèn kỹ năng sống cho học sinh không ngoài mục đích đáp ứng mục tiêu
giáo dục toàn diện; phù hợp với 4 trụ cột của giáo dục theo quan niệm của
UNESCO: học để biết, học để làm, học để tồn tại và học để chung sống. Giúp
học sinh thích ứng được với cuộc sống đầy những biến động khôn lường (những
tác động của tự nhiên và xã hội hiện đại). Thúc đẩy những hoạt động mang tính xã
hội, phát huy các nhân tố tích cực, hạn chế nhân tố tiêu cực, xây dựng môi trường
trường học thân thiện, học sinh tích cực. Góp phần tích cực cho việc đổi mới
phương pháp học tập của học sinh.
Phát triển lòng tự trọng và tôn trọng đối với người khác, chấp nhận đặc
tính riêng của mỗi cá thể (cuộc sống là chấp nhận để sống và để làm việc:
biết nhận và biết cho). Học sinh rèn cách cư xử phù hợp, có hiệu quả. Phân tích
được những ảnh hưởng của gia đình, xã hội, kinh tế và chính trị lên cách cư xử
của con người với con người. Phát triển lòng thông cảm, nhân ái giữa con người
7
với con người. Rèn luyện cách tự kiềm chế bản thân và năng lực ứng phó với
trạng thái căng thẳng (Stress).
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Cơ sở thực tiễn của đề tài
Lứa tuổi THPT là giai đoạn phát triển bắt đầu từ lúc dậy thì và kết thúc
khi bước vào tuổi người lớn. Đặc trưng của giai đoạn này là sự phát triển mạnh
mẽ cả về thể chất, tâm lý, tình cảm và khả năng hòa nhập xã hội, cộng đồng.
Những biến đổi về tâm lý tình cảm: Học sinh THPT khi bước tới tuổi dậy thì các
em bước tới ngưỡng cửa của người lớn. Các em muốn được đối xử như người
lớn, muốn thoát khỏi những ràng buộc của cha mẹ và gia đình, các em muốn
được độc lập trong suy nghĩ và hành động, muốn thử sức mình, khám phá những
cái mới để khẳng định mình là người lớn. Các em thích giao tiếp với bạn bè
cùng lứa hay những người ở lứa tuổi lớn hơn và dễ dàng bộc lộ tâm sự với bạn
bè.
Xã hội phát triển kéo theo nhiều hệ lụy như sự bùng nổ của công nghệ thông tin,
sự hội nhập của nhiều nền văn hóa của các nước phương tây, của lối sống thực dụng …
Gia đình, cha mẹ phải bươn trải trong cuộc sống mưu sinh, bỏ quên con cái, dẫn đến sự
buông lỏng trong quản lý, nhiều phụ huynh có tư tưởng khoán trắng cho nhà trường,
“trăm sự nhờ thầy, nhờ cô”. Họ có thể bỏ tiền ra để mua điện thoại cho con để tiện
liên lạc, để con có phương tiện học tập mà quên đi điều quan trọng là dạy cho các em
“Học làm Người”, quên đi việc dạy cho các em các kỹ năng để sống, hòa nhập, tự
bảo vệ và phát triển. Ngoài việc học văn hóa, thời gian còn lại một số em lao vào
các trò chơi vô bổ trên mạng Internet, trên điện thoại di động, số còn lại thì không
quan tâm đến mọi việc xảy ra xung quanh, lạnh lùng, vô cảm chỉ biết sống cho
riêng mình, sống ảo xa rời thực tế,... Đã có những lời cảnh báo từ báo, đài, các
phương tiện thông tin đại chúng lên tiếng chỉ trích, phê phán lối sống của các em
thanh, thiếu niên. Các em sẵn sàng thanh toán nhau chỉ vì một ánh nhìn cho là
không thiện cảm, các em chế nhạo xem thường bạn, chỉ vì bạn ăn mặc không đúng
mode, … tệ hại hơn các em còn hành hung thầy cô giáo ngay trên bục giảng … Tất
cả những hành động ấy đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh những người làm công tác
giáo dục.
Bức tranh toàn cảnh về công tác chủ nhiệm ở trường phổ thông nói
chung, trường THPT nói riêng cho thấy bên cạnh những đóng góp tích cực cho
chất lượng giáo dục cũng còn những hạn chế. Đó là nhận thức của giáo viên về ý
nghĩa, vai trò của công tác chủ nhiệm trong việc giáo dục đạo đức và kỹ năng
sống cho học sinh chưa được chú trọng, quan tâm đúng mực hoặc chưa có biện
pháp hiệu quả để dục đạo đức và kỹ năng sống cho học sinh ở lớp chủ nhiệm đạt
kết quả. Vì vậy ở nhiều lớp một bộ phận không nhỏ học sinh có rất nhiều biểu
hiện tiêu cực như bỏ giờ, bỏ tiết, nghỉ học thường xuyên, chơi bời tụ tập, nhuộm
tóc, tụ tập nhóm gây kích động bạo lực học đường, thậm chí còn có những học
sinh bỏ nhà đi, dọa tự tử, tự tử, bỏ học, thậm chí có bầu, kết hôn sớm,... Tỷ lệ
học sinh vắng học, bỏ học ở các lớp trong trường vẫn còn nhiều, ý thức học tập
sa sút, đạo đức nền tảng xuống cấp, thiếu trầm trọng kỹ năng sống. Vì vậy cần
8
phải tìm hiểu nguyên nhân, đưa ra biện pháp giáo dục hiệu quả trong công tác
giáo dục đạo đức và kỹ năng sống cho học sinh là một vấn đề vô cùng cần thiết
trong công tác giáo dục học sinh lớp chủ nhiệm.
2.2. Thưc trạng vấn đề
Trường THCS&THPT Bá Thước là một trường miền núi thuộc vùng
đặc biệt khó khăn của Huyện Bá Thước. Cơ sở vật chất của nhà trường còn
thiếu thốn, chất lượng tuyển sinh đầu vào thấp, nền kinh tế của địa phương thuộc
vùng tuyển sinh của nhà trường chậm phát triển, nghèo nàn, lạc hậu. Phần đông
học sinh trong lớp có học lực ở mức trung bình và yếu, khả năng nhận thức còn
nhiều hạn chế, các em chưa xác định được động cơ mục đích học tập nên các em
ngại học, lười học dẫn đến vắng học, bỏ học, la cà hàng quán, tụ tập rượu chè,
đua đòi ăn chơi, sa vào các trò chơi ảo trên mạng, smartphone...
Phần lớn học sinh trong lớp là con của các gia đình thuần nông, hoàn cảnh
kinh tế còn nhiều khó khăn, gia đình ít có điều kiện để chăm lo cho việc học tập
cũng như giáo dục đạo đức và kỹ năng sống cho các em. Đặc biệt một số gia
đình cả bố và mẹ đều đi làm ăn xa, nên các em tự lập, tự lo toan cuộc sống cá
nhân, không nhận được nhiều sự hỗ trợ giáo dục từ phía gia đình như em: Hà
Tuấn Anh, Hà Văn Duy, Lục Văn Dũng, Hà văn Đông, Lương Văn Anh, Hà Văn
Minh, Hà Thị Ngà,... cả bố, mẹ đều đi làm ăn xa...). Số học sinh thuộc diện hộ
nghèo và cận nghèo năm 2018-2019 của lớp là 21/41 (chiếm tỉ lệ 51,2%); Học
sinh mồ côi mẹ và có gia đình bố mẹ bỏ nhau là 4 em, học sinh người dân tộc
thiểu số là 41/41 (chiếm tỉ lệ 100%) nên ảnh hưởng phần nào đến chất lượng
giáo dục của lớp, các em ở sâu trong các làng bản ít va chạm nên còn rụt rè,
thiếu tự tin trong giao tiếp, thiếu nhiều kỹ năng sống.
Học sinh trong lớp chủ yếu thuộc các xã Lũng Cao, Cỗ Lũng, Thành Lâm,
Thành Sơn, Lũng Niêm nhiều em phải đi học qua suối, qua đồi núi, đường xá đi
lại khó khăn dẫn đến học sinh đi chậm, nghỉ học nhiều nhất là những ngày mưa
lũ. Một số học sinh thuộc xã Thành Lâm, Thành Sơn ở xa trường (hơn 10km)
các em phải trọ lại thiếu sự quan tâm, quản lý của gia đình, điều kiện hoàn cảnh
ở các nhà trọ, thiếu thốn điều kiện sinh hoạt, dẫn đến các em bi quan, chán nản,
xao nhãng việc học hành, không có sự quan tâm giáo dục nhiều từ gia đình nên
dễ sống buông thả, thiếu kỹ năng.
Năm học 2017-2018 lớp tôi chủ nhiệm ban đầu có 42 học sinh trong đó có
20 học sinh nữ và 22 học sinh Nam. Đa phần các em ngoan, lễ phép, chăm chỉ
học hành, bên cạnh đó vẫn có một bộ phận không nhỏ học sinh bỏ giờ học đi
chơi điện tử, điện thoại, không chịu học bài, hay nói chuyện và làm việc riêng
trong lớp, cá biệt có trường hợp học sinh đánh nhau, ứng xử với người trên thiếu
lễ phép, hút thuốc lá, uống rượu, la cà hàng quán, nói dối cha mẹ đi học nhưng
không vào lớp, ngại tham gia các hoạt động tập thể, yêu đương sớm,... Đa số các
em đều chưa tự tin vào bản thân, chưa xác định được mục đích, động cơ học tập
đúng đắn, kỹ năng sống còn nhiều hạn chế,… giá trị đạo đức, nhân cách, tác
phong có nhiều biểu hiện đáng lo ngại. Là một giáo viên chủ nhiệm lớp tôi đã
băn khoăn, trăn trở rất nhiều, vừa là lương tâm, vừa là trách nhiệm mình cần phải
9
làm gì để duy trì sĩ số học sinh trong năm học, để các em được giáo dục đạo đức
và kỹ năng sống giúp các em được giáo dục toàn diện, chuẩn bị đầy đủ hành trang
để vào đời, đáp ứng các yêu cầu của xã hội hiện đại. Vì vậy, tôi đã mạnh dạn đề ra
một số biện pháp và áp dụng tại lớp 11A1 do tôi làm chủ nhiệm, kết quả đạt
được rất khả quan và tạo được một bước đột phá trong công tác chủ nhiệm.
Những kinh nghiệm nhỏ của tôi xin chia sẻ cùng đồng nghiệp trong SKKN “ Một
số biện pháp trong công tác chủ nhiệm nhằm giáo dục đạo đức và kỹ năng
sống cho học sinh tại lớp 11A1, trường THCS&THPT Bá Thước ”.
3. Các giải pháp thực hiện
3.1. Tìm hiểu những yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển của học sinh trung
học phổ thông.
Học sinh THPT ở độ tuổi 15-18, các em chưa phải là người lớn nhưng
cũng không còn là trẻ con, có khả năng nhận thức nhưng những nhận thức của
các em chưa thật sự chín chắn và có thể sẽ sai lệch nếu không được định hướng.
Đa số các em còn lệ thuộc vào cha mẹ về cả kinh tế lẫn tinh thần. Tuy nhiệm vụ
chính là học tập, nhưng các em thường phải đối mặt với rất nhiều áp lực, từ
nhiều phía: gia đình, nhà trường, xã hội. Ở nhà, đó là những yêu cầu, kỳ vọng
của cha mẹ, ông bà, là bầu không khí trong gia đình, là mối quan hệ giữa con cái
với cha mẹ,… Ở trường, là áp lực về học tập, quan hệ với thầy cô, bạn bè,..
Ngoài xã hội, các em phải đối mặt với những cám dỗ của các trò chơi, các trang
thông tin mạng,… Và riêng bản thân các em cũng phải lúng túng với những vấn
đề mới nảy sinh: những thay đổi về tâm sinh lý, tình yêu tuổi học trò, việc lựa
chọn nghề nghiệp trong tương lai,… Cá biệt, có những em vấp phải vấn đề
nghiêm trọng hơn: lệch lạc về giới tính, bạo hành gia đình, tệ nạn xã hội,… Đối
diện với những vấn đề phức tạp đó, rất nhiều em sẽ không biết nhìn nhận, giải
quyết vấn đề như thế nào cho hợp lý. Trong những trường hợp như thế, học sinh
rất cần đến sự chia sẻ, sự thông hiểu từ người thân: gia đình, bạn bè,… Thế
nhưng trong cuộc sống, người lớn chúng ta thường đòi hỏi các em phải có ý thức
trách nhiệm, có thái độ hợp lý, có tính độc lập, nhưng mặt khác lại cũng đòi hỏi
các em phải chịu sự sắp đặt của người lớn. Vì vậy, thay vì cho con những lời
khuyên, các bậc cha mẹ lại thường nói với con cái những câu đại loại như: Con
phải …, Con người ta … còn con thì …, Hồi đó ba (mẹ) …, … Không muốn bị
áp đặt, không muốn bị so sánh, và không muốn nghe bố mẹ kể "chuyện đời
xưa", con cái thường che giấu bố mẹ những điều mà các em đang trăn trở,
những vướng mắc của bản thân, … Lâu dần, vì lý do này hay lý do khác, các em
đâm ra đề phòng bố mẹ, thầy cô, thủ thế với bạn bè. Trong khi đó, trên báo chí,
trên các trang mạng xã hội, lại đầy những thông tin bất lợi đối với các em –
những "người lớn - trẻ con" chưa đủ sức sàng lọc để lựa chọn, giữ lại những
điều tốt và loại bỏ cái xấu. Vì vậy các em có thể bị mất thăng bằng bởi chính
những điều tưởng như vặt vãnh ấy nếu không được những người xung quanh
quan tâm, giúp đỡ và chia sẻ kịp thời".
Có thể nói, lứa tuổi 15-18 là một trong những giai đoạn khủng hoảng và
khó khăn trong cuộc đời của mỗi người. Sự trợ giúp kịp thời và đúng đắn từ phía
10
người lớn là một nhu cầu bức thiết đối với các em, đặc biệt là khi các em đã rơi
vào sự khủng hoảng tâm lý. Học sinh cần được giãi bày, cần được tâm sự, cần
được những lời khuyên đúng đắn từ người lớn, mà gần gũi với các em nhất
chính là cha mẹ, thầy cô. Và khi không thể có được điều đó từ gia đình, nhiều
em đã xem thầy cô như một chỗ dựa tinh thần. Cho các em những lời khuyên,
định hướng đúng đắn cho các em con đường phải đi, giúp các em tìm lại niềm
tin, niềm vui trong cuộc sống,…
3.2. Khai thác triệt để hiệu quả các tiết sinh hoạt cuối tuần để giáo dục đạo
đức và kỹ năng sống cho học sinh.
Là một giáo viên chủ nhiệm lớp, tôi nhận thấy việc giáo dục đạo đức và
kỹ năng sống cho học sinh là việc làm rất cần thiết. Để làm tốt công tác giáo dục
đạo đức và kỹ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm, bản thân tôi đã vận dụng
linh hoạt các buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ cũng như tiết sinh hoạt cuối tuần.
Trong các tiết sinh hoạt cuối tuần, bên cạnh việc tổng kết, đánh giá kết quả
thực hiện nề nếp, học tập, các hoạt động trong tuần, triển khai kế hoạch hoạt
động tuần tới thì tôi cũng rất chú trọng dành thời gian giáo dục ngoài giờ lên
lớp, giáo dục hướng nghiệp, lồng ghép tổ chức các hoạt động bổ ích, tạo ra các
sân chơi kiến thức giúp các em tự tìm tòi, lĩnh hội, tìm kiếm, …trên cơ sở hoạt
động nhóm để xây dựng bài thuyết trình, các tiết mục sân khấu hóa,… của nhóm
trên cơ sở các nội dung tôi đặt ra cho các em với các chủ đề như: “ Đạo đức là
gì? Trình bày cấu trúc, chức năng của đạo đức” ; “ Vai trò của đạo đức đối với cá
nhân và xã hội”; “ Kỹ năng sống là gì? Học sinh THPT cần có những kỹ năng gì
để đáp ứng yêu cầu cuộc sống hiện nay”, HĐNGLL với nhiều chủ đề( Vẻ đẹp
trong tình bạn và tình yêu; Cảm xúc về thầy cô, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh
con đường tuổi trẻ, Cuộc đời hoạt động của Bác Hồ); giáo dục hướng nghiệp
giúp các em tự tìm hiểu về các lĩnh vực ngành nghề trong xã hội,…Qua đó các
em sẻ hiểu và biết được những kiến thức về đạo đức, các chuẩn mực của đạo
đức, lối sống và hiểu và biết được những kỹ năng sống mà các em cần phải có
để từ đó các em có ý thức rèn luyện, tu dưỡng, học tập, trang bị cho bản thân
những phẩm chất đạo đức tốt và những kỹ năng sống mà các em cần có. Qua các
tiết học NGLL và hoạt động hướng nghiệp cũng giúp các em hiểu được các giá
trị chuẩn mực xã hội, có kiến thức và hiểu biết về tình bạn, tình yêu chân chính,
biết quý trọng các giá trị truyền thống, biết học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh; hiểu được các ngành nghề trong xã hội, từ đó bản thân sẽ cố
gắng học tập, tu dưỡng rèn luyện năng khiếu, sở trường, yêu và sẽ có những
định hướng để lựa chọn ngành nghề trong tương lai. Qua các tiết sinh hoạt các
em cũng rèn luyện được các kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hoạt động nhóm, kỹ
năng tìm kiếm sự hỗ trợ và kỹ năng ra quyết định,...
3.3 .Luôn gần gũi, quan tâm tới học sinh lớp chủ nhiệm.
11
Học sinh THPT đang ở trong lứa tuổi muốn được tự khẳng định mình,
giàu ước mơ, hoài bão, bước đầu có kinh nghiệm sống, có khả năng tự quản tốt,
có ý thức tổ chức hoạt động tập thể,…Tuy nhiên đây vẫn là lứa tuổi mong muốn
lớn hơn khả năng, muốn khẳng định mình nhưng chưa đủ kinh nghiệm, tri thức,
…Đặc biệt là những học sinh vùng sâu, vùng xa như học sinh trường chúng tôi,
các em còn thiếu mạnh dạn, dễ bị dao động, dễ tự ti phân biệt dân tộc, có thể
làm được nhưng không dám nói. Xuất phát từ đặc điểm đó về tâm lí lứa tuổi,
việc định hướng giáo dục đối với học sinh là rất cần thiết, giúp các em vượt qua
được những rào cản để đến trường đầy đủ:
Đối với các em có bố mẹ đi làm ăn xa, mồ côi các em ở nhà với ông bà,
chú bác, trở thành lao động chính trong gia đình, tôi luôn quan tâm gần gũi, thi
thoảng đến thăm gia đình các em xem các em cần gì, thiếu thốn gì, trong khả
năng có thể giúp được, hoặc kêu gọi sự giúp đỡ của hội cha mẹ, các tổ chức
đoàn thể trong và ngoài nhà trường, tập thể lớp( ví dụ như em Thuần mẹ bỏ đi
từ khi còn nhỏ, sống với bố tàn tật, ốm đau không có khả năng lao động tôi tổ
chức cho học sinh trong lớp lên thăm, động viên, quan tâm đến bạn, kêu gọi hội
chữ thập đỏ giúp đỡ một phần thuốc men cho bố em, kêu gọi hội cha mẹ hỗ trợ 1
phần kinh phí học tập và làm đơn xin nhà trường miễn giảm một số khoản đóng
góp; khi gia đình các em neo người (em Duy, Hằng, Hà, Anh,Thuần…) vào vụ
thu hoạch tôi thường lên kế hoạch kêu gọi tập thể lớp tranh thủ ngày nghỉ đến
giúp các bạn thu hoạch sắn, lúa,… ngoài hỗ trợ về mặt vật chất, công việc, biết
các em thiếu thốn tình cảm tôi thường xuyên quan tâm, gần gũi, chia sẽ, cảm
thông, tạo mối quan hệ gần gũi thân tình, vì thế các em luôn tin tưởng chia sẽ
những khó khăn trong cuộc sống, tình cảm, tâm lý, … Qua các hoạt động đó tôi
cũng đã lồng ghép giáo dục đạo đức cho các em với tinh thần tương thân, tương
ái, cần cù, sáng tạo, yêu lao động. Qua các hoạt động đó tôi cũng cố gắng rèn
luyện cho các em kỹ năng hợp tác và chia sẻ, kỹ năng thể hiện sự cảm thông, kỹ
năng thương lượng và kỹ năng đảm nhận trách nhiệm.
Đối các em ở xa phải trọ học (em Loan, Huy, Thu Hằng, Chúng, Sinh,
Tuấn, Tuyên) tôi cũng thường xuyên đến thăm nơi các em ở, kiểm tra thường
xuyên, hoặc đột xuất việc học buổi tối của các em ở nhà trọ, uốn nắn những biểu
hiện lệch lạc đối các em có bạn trai đến chơi vào buổi tối, động viên các em
khắc phục khó khăn, nhờ nhà chủ giúp đỡ quản lý về mặt an ninh, giờ giấc, giúp
các em có thêm động lực cố gắng học tập tốt hơn. Qua đó cũng rèn cho các em ý
thức tự giác học tập, tự tổ chức cuộc sống khoa học và hợp lý, rèn cho các em kỹ
năng tự phục vụ bản thân, kỹ năng quản lý thời gian hiệu quả và kỹ năng tự bảo
vệ mình.
Trong các buổi học trên lớp, nhất là các buổi sinh hoạt 15’ đầu giờ tôi
thường lên lớp rất đều đặn, quan sát học sinh lớp chủ nhiệm, thông qua ban cán
sự và các phần tử tích cực trong lớp, nắm bắt các biểu hiện bắt thường nếu có
của các em, nắm bắt tìm hiểu nguyên nhân của các em học sinh đi chậm, vắng
học, nhắc nhở học sinh, góp ý hoặc có thể giúp đỡ học sinh giải quyết các vấn đề
còn thắc mắc về học tập hoặc những khó khăn các em gặp phải trong cuộc sống.
12
Để hạn chế các em học sinh đi chậm, vắng học, giáo viên chủ nhiệm phải nắm
bắt thường xuyên sĩ số lớp, tìm hiểu lí do vắng học, bỏ học để có các biện pháp
xử lí phù hợp. Ví dụ, có em vắng học vì ham chơi thì phải dùng hình thức nhắc
nhở, hay có thể phạt, nhưng có em nghỉ học vì gia đình có việc bận thì giáo viên
nên động viên để lần sau các em sắp xếp công việc hợp lí để đến trường đầy đủ;
có em phải bỏ học vì lí do hoàn cảnh gia đình khó khăn thì ngoài việc động viên
các em đến lớp trở lại thì còn cần phải có cả sự hỗ trợ về mặt vật chất từ các bạn
trong lớp, từ sự tạo điều kiện của nhà trường mà cầu nối là giáo viên chủ nhiệm,
những em nghỉ học, vắng học vì lý do tình cảm, tình yêu, giáo viên chủ nhiệm
cần quan tâm, phát hiện sớm, gặp gỡ riêng các em và gia đình các em, phân tích
cho các em và bố mẹ các em hiểu những tác hại ảnh hưởng không tốt đến bản
thân các em, các em mất đi cơ hội học tập, hòa nhập cộng đồng. Giúp học sinh
tự giác rèn luyện, biết tự kiềm chế, biết vượt qua những cám dỗ và tiêu cực xã
hội, tự học tập, tự tu dưỡng đạo đức, lối sống đấu tranh loại bỏ cái xấu, biểu hiện
lệch lạc của bản thân, hình thành cho học sinh nhu cầu, động cơ phấn đấu, rèn
luyện đúng đắn. Qua đó cũng rèn luyện cho các em kỹ năng tự nhận thức và
đánh giá bản thân, kỹ năng lắng nghe tích cực, kỹ năng xác định giá trị và kỹ
năng ra quyết định.
Bên cạnh vai trò giám sát hoạt động của học sinh lớp mình, giáo viên chủ
nhiệm còn là người cố vấn cho các em trong các hoạt động. Giáo viên chủ
nhiệm bằng nghệ thuật sư phạm kích thích tư duy sáng tạo của học sinh, phát
triển tiềm năng trí tuệ vốn có của từng em trong học tập, đề xuất các nội dung,
giải pháp, cách thức tổ chức hoạt động thực hiện các mục tiêu giáo dục của nhà
trường. Ví dụ, ở trường THCS&THPT Bá Thước các buổi sinh hoạt 15 phút
thường xen kẽ giữa sinh hoạt văn hóa, văn nghệ với sinh hoạt học tập. Để tránh
nhàm chán vì sự lặp đi lặp lại, tôi đã gợi ý để học sinh thêm vào các nội dung
như đọc báo, tìm hiểu pháp luật, kiến thức về giới, những kiến thức về tình bạn
tình yêu chân chính, những câu chuyện hay về gương các bạn học sinh vươn lên,
vượt qua hoàn cảnh khó khăn học tập thành tài, những câu chuyện hay về Bác
Hồ,…bên cạnh học hát trong giờ sinh hoạt văn nghệ, hoặc trong giờ sinh hoạt
học tập, không riêng lớp phó học tập mới sửa bài tập giúp các bạn mà khuyến
khích tất cả học sinh trong lớp ai có cách làm hay thì trình bày để cả lớp cùng
tham khảo, hay mỗi em sẽ sưu tầm một bài báo, câu chuyện hay có ý nghĩa thay
nhau lên đọc cho cả lớp nghe,...từ đó kích thích sự sáng tạo và tự khẳng định
mình của các em, làm giảm đi tính rụt rè, e ngại của học sinh trong lớp, giúp cho
học sinh nhận thức đúng các giá trị chân, thiện, mỹ, những giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc. Đồng thời rèn luyện cho các em kỹ năng tìm kiếm và xử lý
thông tin, kỹ năng giao tiếp và ứng xử, kỹ năng thể hiện sự tự tin trước đám
đông.
Giáo viên chủ nhiệm không chỉ quan tâm gần gũi học sinh trong các buổi
sinh hoạt mà còn có thể trao đổi cởi mở với các em trong các giờ lao động hay
hoạt động ngoại khóa, không chỉ cung cấp cho các em kiến thức mà còn cung
cấp cho các em kĩ năng sống, tư vấn cho các em về mối quan hệ ứng xử ngoài xã
13
hội, ý nghĩa của việc học, và tư vấn nghề nghiệp, giúp các em xác định được
mục đích, động cơ học tập đúng đắn. Vì vậy giáo viên chủ nhiệm phải cởi mở,
tạo được niềm tin nơi học sinh, biết lắng nghe, thấu hiểu và nhạy bén để giúp
các em giải quyết các vấn đề còn vướng mắc trong học tập, cuộc sống, cũng như
sự biến đổi về tâm lý tình cảm, những thay đổi trong quan hệ tình bạn, tình yêu
nam nữ, …tạo được hứng thú cho các em trong quá trình đến trường như câu
khẩu hiệu của nhà trường “ mỗi ngày đến trường là một ngày vui” thì mới đạt
được mục đích giáo dục và giảm thiểu số học sinh vắng học và bỏ học.
Để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, biểu hiện của học sinh ngoài thời gian
tiếp xúc với các em ở trường, đến thăm ở nhà hay tìm hiểu thông qua các bạn,
nhóm bạn thân hay chơi với các em tôi cũng thường xuyên tìm hiểu các em qua
mạng xã hội Fabook, Zalo, từ những Avarta mà các em thể hiện tôi nắm bắt rất
nhanh những tâm tư, tình cảm, cũng như khúc mắc của các em kịp thời, qua các
nhóm bạn cùng chơi tôi tìm hiểu cụ thể hơn từ đó lựa chọn các giải pháp tác
động phù hợp, giúp các em ổn định tâm lý đi học đầy đủ. Giúp các em có được
văn hóa ứng xử trên mạng xã hội phù hợp, văn minh, đồng thời rèn luyện kỹ
năng điều chỉnh và quản lý cảm xúc cho các em.
Bên cạnh việc luôn quan tâm, gần gủi học sinh lớp chủ nhiệm thì bản thân
tôi cũng luôn tự học, tự nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, luôn luôn giữ
gìn đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, luôn học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh, nói đi đôi với làm để xứng đáng là tấm gương sáng, mẫu
mực cho học sinh noi theo. Thái độ đối với các em luôn thân thiện, gần gũi
nhưng không suồng sã, không tỏ ra quá lạnh lùng, nghiêm khắc, lời nói nghiêm
túc nhưng nhẹ nhàng, tao nhã, ánh mắt, cử chỉ luôn bày tỏ thiện cảm, thiện chí,
niềm tin đối với các em. Tạo ấn tượng tốt đẹp trong lòng học sinh, dùng tình
cảm để kéo học sinh lại gần phía mình. Tạo một tác phong sư phạm “gần gũi,
yêu thương nhưng nghiêm túc, đúng mực. Qua đó việc giáo dục đạo đức và kỹ
năng sống cho các em sẽ đem lại hiệu quả cao và thiết thực hơn.
3.4. Xây dựng tập thể lớp đoàn kết, vững mạnh
Nhà sư phạm A.X. Makarenco cho rằng: “Tập thể là một cơ thể xã hội
sinh động thể hiện sức mạnh tổng hợp của các thành viên của nó. Sức mạnh của
các thành viên một khi đã được liên kết lại một cách có mục đích, có tổ chức thì
sẽ tạo ra sức mạnh chung của tập thể mạnh gấp nhiều lần tổng số sức mạnh của
các thành viên riêng lẻ, đồng thời có tác dụng làm tăng lên sức mạnh của từng
thành viên”. Tập thể học sinh còn được xem là một phương tiện đặc biệt quan
trọng và hiệu quả trong việc giáo dục học sinh. Vì vậy trong công tác chủ nhiệm
để giáo dục đạo đức và kỹ năng sống cho từng cá nhân học sinh, giúp các em có
đủ điều kiện phát triển và bộc lộ về mọi mặt thì bản thân tôi luôn quan tâm và
xây dựng tập thể lớp đoàn kết vững mạnh có kỹ luật, dư luận tập thể tốt, có
truyền thống yêu thương, tương trợ lẫn nhau như:
+ Đề ra những yêu cầu vừa sức, hợp lý cho học sinh: Đầu năm học, tôi
xây dựng và điều chỉnh nội quy lớp(bản dự thảo) phù hợp với điều kiện lớp, nội
quy nhà trường, yêu cầu của trường, Đoàn Thanh Niên, triển khai đến tập thể
14
lớp, cho các em thảo luận, cùng xây dựng, điều chỉnh cho phù hợp trên tinh thần
tập thể lớp đồng ý, nhất trí cao, xây dựng thành nội quy lớp triển khai và yêu cầu
các em phải thực hiện đầy đủ các nội quy, quy định của lớp, của trường. Định
hướng cho học sinh xây dựng các chỉ tiêu lớn của tập thể lớp về học lực, hạnh
kiểm, học sinh giỏi cấp tỉnh,…để các thành viên trong lớp phấn đấu thực hiện
được các mục tiêu đề ra. Việc đề ra các yêu cầu đối học sinh sẽ tác mạnh mẽ đến
từng học sinh, buộc các em phải nổ lực, cố gắng hoàn thành nhiệm vụ của mình
trong các nhóm, trong các tổ tạo sự gắn kết mạnh mẽ giữa các thành viên, tạo
điều kiện để các cá nhân bộc lộ ưu, nhược điểm khi tham gia thực hiện các yêu
cầu. Qua đó hình thành cho học sinh nhu cầu, động cơ phấn đấu, rèn luyện đúng
đắn, làm cho mỗi người có ý thức làm chủ, ham học hỏi, cầu tiến bộ, vươn lên tự
khẳng định mình, tạo mọi điều kiện thuận lợi để học sinh phấn đấu, rèn luyện;
đồng thời phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đánh giá kết quả, định hướng
phấn đấu cho học sinh. Quan tâm đáp ứng những nhu cầu chính đáng của học
sinh về vật chất, tinh thần; giao nhiệm vụ phù hợp với sở trường, năng khiếu đặc
điểm tâm, sinh lý của từng học sinh sẽ tạo điều kiện tốt để học sinh rèn luyện
đạo đức, lối sống và hình thành dần các kỹ năng sống cho học sinh.
+ Xây dựng đội ngủ cán bộ lớp và bồi dưỡng các phần tử tích cực: Do
tác động của những yêu cầu, trong tập thể học sinh diễn ra sự phân hóa về khả
năng đáp ứng yêu cầu của học sinh, từ đó xuất hiện những phần tử tích cực. Đó
là những học sinh tự giác, quyết tâm thực hiện tốt những yêu cầu do giáo viên
chủ nhiệm đặt ra. Giáo viên chủ nhiệm cần kịp thời phát hiện, lựa chọn một cách
chính xác những phần tử tích cực và bồi dưỡng thành lực lượng nòng cốt, cử các
em nắm giữ các chức vụ ban cán sự lớp, ban chấp hành chi đoàn, phân công giao
nhiệm vụ cụ thể cho các em phù hợp với chức vụ đảm nhiệm. Thông qua ban
cán sự lớp, ban chấp hành chi đoàn giáo viên chủ nhiệm truyền tải những yêu
cầu, mong muốn, ý kiến của mình với tập thể và tác động giáo dục gián tiếp đến
từng cá nhân.
+ Xây dựng hệ thống viễn cảnh tập thể: “Sự kích thích chân chính của
cuộc sống con người là niềm vui ở ngày mai”. Trong kỹ thuật giáo dục, niềm vui
là một trong những mục tiêu cực kỳ quan trọng. Trước hết, phải tổ chức niềm
vui cho học sinh bằng những kế hoạch hấp dẫn. Tổ chức cho các em giao lưu
bóng đá với các lớp bạn, hướng dẫn để các em tổ chức buổi hoạt động tập thể
như: Toạ đàm nhân ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10, 8/3 hoạt động chào mừng
ngày 20/11, tổ chức một chuyến dã ngoại nho nhỏ, một hoạt động ngoài giờ lên
lớp do chính các em thiết kế và thực hiện chương trình,...Những hoạt động ngoài
nhà trường thông thường sẽ giúp cho thầy và trò gần gũi, gắn bó với nhau, dễ
cảm thông cho nhau. Ngoài ra, giáo viên chủ nhiệm cần xây dựng các mục tiêu
về sự phát triển lâu dài của tập thể và các thành viên gắn với thực tiễn xã hội và
tương lai của đất nước như việc định hướng học tập và lựa chọn nghề nghiệp
trong tương lai,... Mục tiêu đó, cổ vũ học sinh cố gắng học tập và rèn luyện để
thực hiện những khát vọng gắn liền tương lai của mình với tương lai của đất
nước và dân tộc. Khi xây dựng thành công hệ thống viễn cảnh của tập thể, tạo
15
được tâm lý hồ hỡi vui tươi, phấn khởi cho các em học sinh, giúp các em sống
lành mạnh, có những khát khao cháy bỏng, có mục đích, động cơ học tập rõ
ràng, từ đó các em sẽ tích cực tới lớp, tới trường chủ động rèn luyện đạo đức, tác
phong và hình thành dần những kỹ năng sống cần thiết.
+ Xây dựng kỷ luật tập thể: Các tác động xây dựng tập thể học sinh
vững mạnh sẽ vô hiệu nếu không có kỷ luật tập thể. Kỷ luật tập thể biểu hiện
qua việc chấp hành những qui định chung, là thói quen quan tâm và tôn trọng
của các thành viên đối với các vấn đề tập thể. Kỷ luật không phải là sự cưỡng
bức mà chính là kết quả của quá trình giáo dục ý thức ở học sinh, là kết quả của
những cố gắng của tập thể. Tập thể có kỷ luật là môi trường rèn luyện, phát triển
tốt cho các cá nhân. Giáo viên chủ nhiệm cần phải ý thức sâu sắc giá trị của kỷ
luật và phải xem đó là một nội dung quan trọng trong công tác xây dựng tập thể
và giáo dục học sinh nói chung: Xây dựng nội quy lớp rõ ràng các hình thức xử
phạt học sinh vi phạm như: Đi chậm, vắng học, nghỉ học vô lý do, bỏ giờ, bỏ
tiết, không học bài cũ, tác phong mang mặc, ….Thông qua đó giáo dục đạo đức
và kỹ năng sống cho các em.
+ Xây dựng dư luận lành mạnh, tiến bộ trong tập thể: Dư luận tập thể
phản ánh những quan niệm, nhận định, đánh giá của tập thể về các vấn đề có
liên quan đến sự phát triển của tập thể và cá nhân học sinh. Nó thể hiện ý thức
tập thể, phong cách đạo đức và không khí tinh thần của tập thể. Vì vậy, việc hình
thành dư luận tập thể lành mạnh, tiến bộ là điều kiện quan trọng để củng cố và
phát triển tập thể, làm cho tập thể thật sự trở thành phương tiện giáo dục có hiệu
quả.
Trong quá trình xây dựng tập thể, tôi rất chú trọng, quan tâm hình thành
dư luận tập thể về các vấn đề như: Tinh thần, thái độ học tập tích cực, tự giác; Ý
thức tự rèn luyện, tu dưỡng của học sinh; Đấu tranh với các hành vi sai trái: bỏ
học, quay cóp, thiếu trung thực, thiếu trách nhiệm, chia rẻ, mất đoàn kết, bao che
khuyết điểm,…Sẵn sàng ủng hộ, bảo vệ cái đúng. Bên cạnh đó, tôi luôn quan
tâm, gần gủi quan sát, trò chuyện, theo dõi trên mạng xã hội của các em,... để
kịp thời phát hiện và ngăn chặn dư luận không lành mạnh, nhất là các dư luận
liên quan đến tâm lý, tình cảm, hành vi, cách ứng xử của các em học sinh có
biểu hiện không lành mạnh, bất thường, …tạo cho các em chỗ dựa vững chắc,
ổn định tâm lý, tin tưởng vào tập thể và giáo viên chủ nhiệm để yên tâm đến lớp,
đến trường, tự giác rèn luyện đạo đức tác phong và hình thành dần những kỹ
năng sống cần thiết.
3.5. Tư vấn tâm lý cho học sinh lớp chủ nhiệm
Do ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế - xã hội ngày càng sâu sắc, đa
dạng và phức tạp, đời sống tâm lý học sinh cấp trung học phổ thông đang có
những biến động to lớn với nhiều biểu hiện đáng lo ngại. Các em thường gặp
những khúc mắc trong học tập, tâm sinh lí, trong mối quan hệ với thầy cô, gia
đình, bạn bè…nếu không được điều chỉnh, giải tỏa kịp thời, thì rất dễ dẫn đến
16
hậu quả đáng tiếc : nhẹ thì chán học, bỏ học; nặng thì trầm cảm, bạo lực học
đường,.. thậm chí tự tử, gây án mạng. Trước những tình huống nảy sinh trong
quá trình quản lý lớp học, giáo viên chủ nhiệm cần phải có đủ thời gian, đủ kiên
nhẫn, đủ bản lĩnh và quan trọng nhất là phải có đủ tình thương để có thể lắng
nghe, thông cảm, thấu hiểu, chia sẻ và định hướng cho các em cách giải quyết
những vấn đề khó khăn trong cuộc sống. Tuy nhiên, không nên chờ đến khi thật
sự có vấn đề rồi mới đi tìm cách giải quyết, mà phải phát hiện được vấn đề khi
nó còn tiềm ẩn, ngăn chặn những tình huống xấu phát sinh.
Muốn làm được điều đó, ngay từ đầu năm học, tôi tìm hiểu thật cặn kẽ
tình hình học sinh thông qua các nguồn khác nhau. Từ kết quả học tập, rèn luyện
của năm học trước, từ bản thân các em, bạn bè, gia đình, thầy cô, các mối quan
hệ của các em ngoài xã hội, trên mạng Internet,... để nắm rõ hơn về hoàn cảnh
kinh tế gia đình, tình hình ở nhà, mối quan hệ gia đình, xã hội, những ước muốn,
sở trường, những khó khăn nếu có,… Với những thông tin đầu tiên này, tôi
thường sàng lọc chọn ra những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt, những em học
sinh cá biệt, những em đã có những thay đổi bất thường về tâm sinh lý,... Đối
với những học sinh được đánh giá thật bình thường về hoàn cảnh, về tâm lý,
cũng không nên chủ quan mà phải thể hiện sự quan tâm của mình đến với từng
học sinh, nhưng cũng phải đặt trọng tâm, trọng điểm ở một số học sinh các biệt,
học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Sau khi nắm chắc được tình hình học sinh, tôi
tiến hành bước thứ hai quan sát. Quan sát để phát hiện những thay đổi trong
hành vi, những hiện tượng bất thường trong đời sống học đường, quan sát những
biểu hiện của học sinh có nguy cơ rối nhiễu tâm lý. Đó có thể là những biểu hiện
nhỏ: đi học chậm, không mặc đồng phục, cáu gắt với bạn, … hay lớn hơn: nghỉ
học không xin phép, bỏ tiết. Và nghiêm trọng hơn, như vi phạm kiểm tra, vô lễ
với giáo viên,… Với những học sinh cá biệt, việc nghỉ học, bỏ tiết là chuyện
thường ngày, nhưng với những học sinh vốn ngoan ngoãn, chăm chỉ thì một biểu
hiện nhỏ nhất cũng là điều cần lưu ý. Ví dụ Em Thu Hằng là học sinh khá của
lớp, em chưa một lần đi chậm hay nghỉ học, tham gia rất tích cực các công tác
lớp và đoàn trường một hôm em đi học chậm khi được hỏi trước lớp về lý do đi
chậm, em đã khóc và im lặng. Tôi gặp riêng em hỏi han, em tâm sự: Thời gian
gần đây bố mẹ em hay cãi nhau. Bố em thường xuyên uống rượu say chửi bới
mẹ con em, mẹ em vì buồn phiền nên đã có người đàn ông khác, sáng nay bố
khóa xe đạp lại, em phải đi bộ đến trường, nên bị chậm cô ạ. Em phải làm sao
đây cô? Chắc em không thể đi học được nữa cô ạ. Tôi đã an ủi, phân tích cho
em hiểu, động viên em cố gắng vượt qua hoàn cảnh khó khăn, đến lớp học tập vì
một ngày mai tươi sáng hơn.
Tuy nhiên, không phải lúc nào GVCN cũng có thể ngăn chặn được những
trở ngại về tâm lý của học sinh. Việc trực tiếp tư vấn tâm lý cho các em là một
trong những hoạt động mà có lẽ tất cả GVCN đều trải qua. Tùy vào từng đối
tượng học sinh, tùy vào mức độ của vấn đề, tùy vào nội dung vấn đề mà có cách
17
giải quyết khác nhau, nhưng nhìn chung, GVCN thường tiếp xúc với 2 đối
tượng: học sinh cần tư vấn và các đối tượng có liên quan.
Với học sinh cần tư vấn, GVCN cần thật nhẹ nhàng, kiên nhẫn, biết lắng
nghe và biết thấu hiểu. Khi thầy cô lắng nghe và thể hiện sự thấu hiểu, các em sẽ
dễ dàng bày tỏ những điều đang chất chứa trong lòng. Tuy nhiên, việc cần làm
của GVCN trong công tác tư vấn không phải là chỉ ra cho các em vấn đề nằm ở
đâu và giải quyết vấn đề thay cho các em, mà là tạo điều kiện để học sinh tự nói
ra vấn đề, tự nhìn nhận, đánh giá vấn đề, tự giải quyết vấn đề, nếu như vấn đề
nằm trong khả năng của các em. Với việc lựa chọn nghề nghiệp của các em
trong tương lai, GVCN không nên cho học sinh biết là em thích hợp với nghề gì,
nên chọn ngành học nào. Ở đây, bản thân các em phải tự ý thức được mình là ai,
mình đang ở đâu, và quan trọng hơn, các em phải hiểu rằng tuy cần có sự trợ
giúp, góp ý của người lớn, nhưng tương lai là do mình tự quyết định lấy. Nói
cách khác, GVCN với tư cách là người tư vấn, phải khơi dậy được ở học sinh
niềm tin vào bản thân, gạt bỏ những rào cản tâm lý để các em có thể đối mặt với
những vấn đề của mình. Tuy nhiên, khi vấn đề không chỉ thuộc về cá nhân học
sinh, thì GVCN lại phải trợ giúp cho các em bằng nhiều cách, trong đó có việc
tiếp xúc với các đối tượng có liên quan.
Các đối tượng này có thể bao gồm cha mẹ học sinh, thầy cô bộ môn, bạn
bè, Ban Giám hiệu trường,… Tư vấn cho học sinh không dễ, tiếp xúc với cha
mẹ, thầy cô bộ môn của các em lại càng khó hơn. Xử lý không khéo, sẽ dễ dẫn
đến việc bị hiểu lầm. Vì thế, GVCN cần khéo léo, bình tĩnh và ôn hòa giúp cho
các bậc cha mẹ hiểu được rằng, mục đích của cuộc gặp gỡ là vì con cái của họ,
vì để tạo điều kiện tốt nhất cho các em học tập. Với giáo viên bộ môn, cũng cần
phải rất tế nhị, vì những trao đổi có liên quan đến học sinh cũng có thể chạm đến
lòng tự trọng của đồng nghiệp, dễ gây sự hiểu lầm không nên có. Lúc đó,
không giúp được gì cho học sinh của mình mà ngược lại, còn khiến mối quan hệ
thầy trò của các em thêm căng thẳng. Ngoài ra, trong quá trình tư vấn, GVCN
cần phải tranh thủ sự hỗ trợ từ nhiều phía: giáo viên bộ môn, Đoàn thanh niên,
Ban Giám hiệu trường,… nếu thấy cần thiết.
Tóm lại, trong trường trung học phổ thông, việc tư vấn tâm lý cho học
sinh là một hoạt động không thể thiếu của GVCN. Việc làm này đòi hỏi người
thầy phải bỏ ra nhiều thời gian, công sức và tâm huyết. Trước hết, cần chú ý xây
dựng mối quan hệ tốt giữa giáo viên với học sinh trên sơ sở thương yêu, tôn
trọng và chân thành với nhau. GVCN phải thực sự tin tưởng vào các em, tạo
điều kiện để các em phát huy năng lực, sở trường, tạo điều kiện để nâng cao tinh
thần trách nhiệm của các em. GVCN cũng cần tạo cho các em có cảm giác an
toàn trong lớp học bằng cách xây dựng một bầu không khí "gia đình", để các em
thật sự cảm thấy trường, lớp chính là nhà, bạn bè, thầy cô là những người thân
yêu, khi vui có thể cùng nhau cười, khi buồn có thể dựa vào mà khóc. Cần tìm
hiểu để nắm bắt được năng lực, sở trường của học sinh. Việc làm này tưởng như
18
không liên quan đến hoạt động tư vấn tâm lý, nhưng thật ra lại hỗ trợ đắc lực
cho việc củng cố, kích thích ở học sinh lòng tự tin, giúp các em đủ niềm tin để
đưa ra những quyết định đúng đắn. Nếu thấy các em cần giúp đỡ, hãy giúp đỡ
thật khéo léo, tế nhị; hãy chủ động gần gũi trò chuyện với các học sinh có vấn đề
nếu xét thấy các em chưa đủ mạnh dạn tìm đến với mình. Khi học sinh thật sự
cần được tư vấn, có một nguyên tắc vàng mà GVCN phải thuộc lòng: "Luôn
luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu". Ngoài ra, muốn cho hoạt động tư vấn tâm
lý đạt hiệu quả cao, người GVCN cần biết phối hợp các lực lượng giáo dục,
tranh thủ sự giúp sức từ nhiều phía để tạo nên nguồn lực hỗ trợ cho học sinh mọi
nơi, mọi lúc. GVCN có thể tham khảo ý kiến với những người có kinh nghiệm
về vấn đề mà học sinh gặp phải, nhưng tuyệt đối không được biến học sinh của
mình thành trò cười hoặc tâm điểm chú ý của mọi người. Điều đó có nghĩa là,
phải tuân thủ nguyên tắc bảo mật thông tin cho học sinh. Vi phạm nguyên tắc
này, về lâu dài, GVCN sẽ tự đánh mất lòng tin mà học sinh dành cho mình.
Nhìn chung thanh niên mới lớn là thời kỳ đặc biệt quan trọng đối với cuộc
đời con người. Đây là thời kì lứa tuổi phát triển một cách hài hòa, cân đối, là
thời kì có sự biến đổi lớn trong toàn bộ nhân cách để các em sẵn sàng bước vào
cuộc sống tự lập. Những thay đổi trong vị thế xã hội, sự thách thức khách quan
của cuộc sống sẽ làm nảy sinh ở lứa tuổi học sinh THPT những khó khăn về tâm
lý, tình cảm của lứa tuổi, vướng mắc trong học tập, hướng nghiệp,… cần được
người lớn quan tâm, chia sẻ. Thực hiện tốt công tác tư vấn tâm lý cho học sinh,
GVCN đã đóng góp một phần công sức không nhỏ vào sự nghiệp trồng người.
Qua đó xây dựng các chuẩn mực đạo đức, tình yêu thương, quan tâm, sẽ chia và
thấu hiểu, giúp các em hình thành dần những đạo đức, nhân cách tốt, từ đó các
em biết lắng nghe, cảm thông, thấu hiểu với bạn bè, biết đặt mình vào vị trí
người khác để suy nghĩ, tạo nên một tập thể luôn biết yêu thương giúp đỡ lẫn
nhau. Hình thành dần được các kỹ năng sống như: Kỹ năng khám phá bản thân,
kỹ năng lắng nghe tích cực, kỹ năng xác định giá trị, kỹ năng kiểm soát cảm
xúc, ứng phó với căng thẳng, kỹ năng cảm thông ra quyết định và đặc biệt là kỹ
năng tìm kiếm sự hỗ trợ.
3.6. Phối hợp với gia đình, giáo viên bộ môn, các tổ chức đoàn thể trong và
ngoài nhà trường để giáo duc đạo đức và kỹ năng sống cho học sinh.
3.6.1 Phối hợp với phụ huynh học sinh.
Giáo dục học sinh không phải chỉ là dạy cho các em về kiến thức, mà còn
phải giúp các em hình thành nhân cách; không chỉ là dạy chữ mà còn phải dạy
người. Vì lẽ đó mà sự nghiệp giáo dục được mệnh danh là "trồng người". Việc
trồng người này đòi hỏi phải có sự chung tay góp sức của các lực lượng xã hội,
mà quan trọng nhất là sự phối hợp ăn ý, chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường.
Trước hết gia đình là nơi lưu giữ các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, là môi trường đầu tiên hình thành đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh. Gia
đình là nơi mà tình yêu quê hương, đất nước, yêu thương con người được truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác. Để giáo dục đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh,
19
mỗi gia đình cần giữ gìn đạo đức, nề nếp gia phong, phát huy các giá trị đạo đức
truyền thống, làm cho các giá trị đó ngày càng toả sáng, góp phần bồi dưỡng tư
tưởng tình cảm cao đẹp cho thế hệ con cháu đồng thời cũng dạy dỗ, rèn luyện
hình thành dần các kỹ năng sống cho các em. Kết quả giáo dục muốn thành công
thì phải có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường. Vì vậy trong quá
trình làm công tác chủ nhiệm, nắm được đặc điểm địa phương còn nhiều yếu tố
từ phong tục tập quán còn ảnh hưởng nhiều đến học sinh, bản thân tôi luôn tận
dụng triệt để buổi họp phụ huynh đầu năm để trao đổi, thảo luận, trình bày quan
điểm của bản thân, những mong muốn yêu cầu đối với tập thể học sinh, những
tồn tại hạn chế, đồng thời phân tích rõ những yếu tố ảnh hưởng không tốt tới các
em mong các bậc phụ huynh quan tâm, kết hợp giáo dục từ gia đình, lấy số điện
thoại của phụ huynh, lập cam kết, quy tắc ứng xử, phối hợp cùng giáo dục,...
Trong quá trình chủ nhiệm tôi thường xuyên liên lạc qua sổ liên lạc điện
tử, gọi điện thoại trao đổi trực tiếp với phụ huynh học sinh, thông qua đó tôi
cung cấp thông tin và tình hình học tập, rèn luyện của từng học sinh tới từng gia
đình học sinh đồng thời nhận được sự phản hồi thông tin từ phía cha mẹ học
sinh để phối hợp giáo dục, đặc biệt là giáo dục học sinh vi phạm đạo đức, học
sinh cá biệt, học sinh có hoàn cảnh khó khăn, học sinh hay vắng học, bỏ tiết, có
những biểu hiện bất thường, ... để tìm hiểu nguyên nhân kết hợp cùng giáo dục.
Trong quá trình chủ nhiệm lớp, tôi thường lên kế hoạch kết hợp với ban
đại diện cha mẹ học sinh, đến thăm gia đình học sinh, để hiểu rõ hơn hoàn cảnh,
điều kiện gia đình học sinh, tạo mối quan hệ thân tình, gần gủi để tìm biện pháp
kết hợp cùng giáo dục từ đó nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện cho các em.
3.6.2. Phối hợp giáo viên bộ môn, ban giám hiệu và các tổ chức đoàn thể
trong nhà trường và ngoài xã hội.
Giáo viên chủ nhiệm là cầu nối giữa các tổ chức đoàn thể trong nhà
trường, giữa giáo viên bộ môn với tập thể học sinh lớp chủ nhiêm. Với tư cách
sư phạm, giáo viên chủ nhiệm có trách nhiệm truyền đạt tới học sinh lớp chủ
nhiệm tất cả các yêu cầu, kế hoạch giáo dục của nhà trường không phải bằng
mệnh lệnh mà bằng sự thuyết phục, cảm hoá, bằng sự gương mẫu của người
giáo viên chủ nhiệm để mục tiêu giáo dục được học sinh chấp nhận một cách tự
nguyện, tự giác. Với kinh nghiệm và uy tín của mình, giáo viên chủ nhiệm có
khả năng biến những chủ trương, kế hoạch đào tạo của nhà trường thành chương
trình hành động của tập thể và cá nhân mỗi học sinh trong lớp. Mặt khác, giáo
viên chủ nhiệm là người tập hợp ý kiến của học sinh lớp chủ nhiệm phản ánh với
ban giám hiệu, với các tổ chức, đoàn thể trong nhà trường và các giáo viên bộ
môn làm cho các thông tin truyền tải mang tính khách quan trung thực, giải toả
được những băn khoăn, vướng mắc của các em, tạo được hứng thú trong học tập
cho các em.
Giáo viên chủ nhiệm kết hợp giáo viên bộ môn để nắm được hành vi, thái
độ, kết quả học tập của các em để từ đó có biện pháp tư vấn, hỗ trợ, giúp đỡ,
giáo dục kịp thời.
20
Giáo viên chủ nhiệm kết hợp với tổ chức Đoàn Thanh Niên, tổ chức các
sân chơi, các câu lạc bộ, các buổi hoạt động ngoại khóa, tuyên truyền về sức
khỏe sinh sản, tình bạn tình yêu chân chính, luật hôn nhân gia đình, tư vấn
hướng nghiệp, thành lập tổ tư vấn tâm lý,...tạo cho các em được học tập, vui
chơi, trang bị thêm những kiến thức, được giáo dục kỹ năng sống, được tư vấn
giải đáp thắc mắc khi các em gặp khó khăn trong học tập, cuộc sống, rào cản về
giới, giúp các em có định hướng, động cơ học tập đúng đắn để từ đó các em hiểu
giá trị bản thân, tích cực đến lớp, đến trường, tích cực học tập, rèn luyện đạo
đức, tác phong.
Liên kết, phối hợp với các đoàn thể xã hội ngoài nhà trường trong giáo
dục thế hệ trẻ là một nguyên tắc nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức và kỹ
năng sống cho các em. Phối hợp tốt với các đoàn thể xã hội ngoài nhà trường
không chỉ dừng lại ở mức độ nhận thức mà quan trọng hơn cả là xây dựng được
chương trình, kế hoạch hoạt động nhằm thống nhất, khép kín hoạt động của lớp
chủ nhiệm. Các tổ chức, đoàn thể, ngoài xã hội cần quan tâm định hướng tạo
môi trường thuận lợi để học sinh phấn đấu, rèn luyện, trưởng thành. Cấp uỷ
đảng, chính quy ền, mặt trận, đoàn thể, nhất là Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh tại địa phương cũng cần tổ chức nhiều hoạt động phong phú, đa dạng
để thu hút, rèn luyện học sinh theo các chuẩn mực đạo đức cách mạng. Kịp thời
biểu dương, nhân rộng cách làm hay và kiên quyết uốn nắn những thiếu sót, lệch
lạc, những biểu hiện lệch chuẩn trong đạo đức, lối sống của thanh niên.
4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm
Qua quá trình giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm thực tế, kết hợp với
sự nhiệt tình của tuổi trẻ, sự yêu nghề, những cố gắng nỗ lực hết lòng vì học sinh
thân yêu, tôi đã áp dụng các biện pháp nêu trên trong công tác chủ nhiệm, năm
học 2018-2019 với lớp 11A1, và đã thu được một số kết quả sau:
HỌC LỰC (học sinh)
GIỎI KHÁ
TB
YẾU
Học kì I
2
20
15
3
Học kì II
2
22
16
0
Cả năm
2
22
16
0
HẠNH KIỂM (học sinh)
TỐT
KHÁ
TB
YẾU
30
3
5
4
33
5
4
0
33
5
4
0
Lớp có nhiều tuần và tháng được nhận cờ thi đua của ban nề nếp, và xếp
hạng thi đua thứ trong tốp đầu/18 lớp trong trường, trong các đợt thi đua lớp
luôn xếp hạng nhất về mọi mặt: học tập, nề nếp, xếp loại chung và các hoạt động
thi đua khác như: Văn nghệ, thể thao, cắm trại,... Tập thể lớp được công nhận là
“Lớp tiên tiến xuất sắc”, chi đoàn đạt danh hiệu “Chi đoàn vững mạnh”.
Số học sinh vắng học hàng tuần giảm rõ rệt, từ chỗ vắng học trung bình
20-40 lượt/tuần(lớp 10) thì nay giảm xuống còn khoảng 2-7 lượt/ tuần. Đặc biệt
không còn học sinh bỏ học(trong năm học 2018-2019, đã phát hiện kịp thời,
ngăn chặn và động viên được 1 em có ý định bỏ học quay lại trường học tập), ý
21
thức học tập của các em cũng được nâng lên, không có học sinh bỏ giờ, bỏ tiết.
Số buổi học các em đi đầy đủ 100% tăng lên, điều mà chưa thấy ở năm học
trước. Các em trong lớp cũng có ý thức hơn trong việc đoàn kết xây dựng tập thể
lớp vững mạnh, một số em trước ít tham gia vào hoạt động chung của lớp, còn
trầm trong học tập thì nay được sự động viên của giáo viên chủ nhiệm, của các
bạn trong lớp, các em đã mạnh dạn xung phong tham gia vào các hoạt động tập
thể như tham gia là thành viên của đội bóng đá, đội nhảy cha cha, đội văn nghệ,
… của lớp để tham gia hoạt động ở trường. Các em cũng tích cực hơn trong học
tập như thường xuyên trao đổi bài với nhau, hỏi bài với thầy cô mỗi khi gặp các
bài khó hoặc không hiểu, các em đã có những kiến thức, nhận định về giới, biết
quan hệ và cư xử đúng mực trong tình bạn, tình yêu,…Gia đình các em cũng có
sự quan tâm tạo điều kiện cho các em như thường xuyên liên lạc với giáo viên
chủ nhiệm để biết tình hình con em mình, trực tiếp gặp để trao đổi với giáo viên
chủ nhiệm để thống nhất biện pháp cùng giáo dục,…làm cho khoảng cách giữa
gia đình và nhà trường trở nên gần gũi hơn, các thông tin hai chiều về học sinh
được thường xuyên cập nhật để cả gia đình và nhà trường cùng quản lí, giáo dục
các em được tốt hơn. Hội phụ huynh lớp cũng thường xuyên thăm hỏi, động
viên các em nhiều hơn, hầu hết các em trong lớp đã ổn định tâm lý, biết cách
giải bầy chia sẻ với bạn bè, giáo viên để tìm biện pháp khắc phục khi gặp khó
khăn, đặc biệt các em đã thay đổi nhận thức, tự giác tu dưỡng rèn luyện đạo đức,
tác phong, tự giác rèn luyện và hình thành dần các kỹ năng, tích cực hăng hái
học tập tìm được mục tiêu của việc học tập.
C. KẾT LUẬN.
I. Kết luận
Công tác chủ nhiệm rất phức tạp, khó khăn, đòi hỏi người giáo viên chủ
nhiệm phải bỏ nhiều công sức và thời gian. Để làm tốt vai trò của mình, giáo
viên chủ nhiệm cần biết đặt tình thương, trách nhiệm để giải quyết các tình
huống của lớp chủ nhiệm trên cơ sở nề nếp, kỷ cương của nhà trường, biết phối
hợp chặt chẽ giữa ba môi trường: gia đình, nhà trường và xã hội. Vì vậy, trong
việc tổ chức giáo dục học sinh, hoạt động giáo viên chủ nhiệm rất đặc thù và đầy
sáng tạo, phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
- Độ tuổi, mức độ trưởng thành của học sinh.
- Hoạt động của ban cán sự lớp.
-Phong cách làm việc của các giáo viên bộ môn.
- Điều kiện cụ thể của trường, lớp, gia đình học sinh, và các tổ chức xã
hội có liên quan.
22
Do vậy, không thể có một khuôn mẫu nhất định cho hoạt động của giáo
viên chủ nhiệm. Công tác chủ nhiệm là một bộ phận quan trọng trong nhà
trường, đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm phải hết sức sáng tạo, có tinh thần trách
nhiệm cao, mới gánh vác được nhiệm vụ này có hiệu quả.
Trên đây là một số biện pháp giáo dục đạo đức và kỹ năng sống cho học
sinh lớp chủ nhiệm mà tôi đã vận dụng có hiệu quả trong công tác chủ nhiệm
trong năm qua ở lớp 11A1. Tôi mạnh dạn viết lên một số kinh nghiệm của mình
và đưa ra đây để đồng nghiệp và bạn đọc cùng tham khảo, những mong có thể
góp một phần nhỏ bé để duy trì sĩ số và nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện
học sinh ở trường THCS&THPT Bá Thước nói riêng và tỉnh Thanh Hóa nói
chung.
Trong phạm vi đề tài còn mang nhiều tính chủ quan và không tránh khỏi
những thiếu sót, vì vậy tôi rất mong nhận được sự đóng góp chân thành của ban
giám hiệu nhà trường và quý đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
II. Kiến nghị và đề xuất
+ Đối với sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa: Nên tổ chức các lớp tập
huấn công tác chủ nhiệm cho giáo viên các trường thường xuyên hơn. Đưa nội
dung giáo dục kỹ năng sống và tư vấn tâm lý học đường vào trường học.
+ Đối với trường: Nên tổ chức các hội thảo về công tác chủ nhiệm hàng
năm để các giáo viên trao đổi, học hỏi kinh nghiệm.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VI
Thanh Hóa, ngày 12 tháng 05 năm2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác
Người viết sáng kiến này
Trịnh Thị Vân
23
Tài liệu tham khảo
1. Những nguyên tắc đạo đức trong giáo dục- NXB Đà Nẵng.
2. Kỹ năng công tác giáo viên chủ nhiệm- NXB Lao Động.
3. Giáo dục giới tính cho học sinh phổ thông trung học- Vương Gia Lâm
(biên dịch Đặng Văn Hảo)- NXB Văn hóa thông tin.
4. Sức khỏe giới tính tuổi mới trưởng thành - Thanh Giang - NXB Quân
Đội Nhân Dân.
5. Tư vấn tâm lý học đường - Nguyễn Thị Oanh - NXB trẻ.
6. Kỹ năng sống dành cho học sinh- Ngọc Linh – NXB Văn học.
7. Tham khảo các kiến thức về đạo đức, kỹ năng sống trên các trang mạng
xã hội và trên internet.
24