SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT LANG CHÁNH
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG LỚP HỌC HẠNH PHÚC
TẠI TRƯỜNG THPT LANG CHÁNH
Người thực hiện:
Hoàng Thị Hải Đường
Chức vụ:
Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực:
Công tác Chủ nhiệm
THANH HOÁ NĂM 2019
0
Mục
I
1
2
3
4
II
1
2
3
4
III
1
2
MỤC LỤC
Nội dung
Mở đầu
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung
Cơ sở lí luận
Thực trạng trước khi áp dụng SKKN
Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vân đề
Tác động của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường:
Kết luận, kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Danh sách SKKN đã được Hội đồng Sở GD&ĐT đánh giá
1
Trang
2
2
2
3
3
3
3
4
6
15
17
17
18
19
20
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Ngày Quốc tế Hạnh phúc là ngày 20 tháng 3 hàng năm, kể từ năm 2013.
Ngày lễ quốc tế này được Đại hội đồng Liên Hiệp quốc quyết định chính thức
khi tất cả 193 quốc gia thành viên nhất trí thông qua Nghị quyết A/RES/66/281
ngày 20 tháng 6 năm 2012, chọn để tôn vinh niềm hạnh phúc của nhân loại trên
thế giới và với mục tiêu không chỉ là ngày mang ý nghĩa biểu tượng đơn thuần,
mà còn là ngày của hành động, tích cực và nỗ lực nhiều hơn để xây dựng thế
giới đại đồng, đem lại hạnh phúc cho người người trên trái đất. Ở Việt Nam, Thủ
tướng Chính phủ đã có Quyết định số 2589/QĐ-TTg ngày 26/12/2013 phê duyệt
Đề án “Tổ chức các hoạt động nhân ngày Quốc tế Hạnh phúc 20/3 hàng năm”.
Điều đó mang ý nghĩa lớn lao nhằm tiếp tục thực hiện mục tiêu phát triển an
sinh xã hội, xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ và hạnh phúc; nâng cao
nhận thức toàn xã hội về ngày Quốc tế Hạnh phúc, để từ đó có hành động cụ thể,
thiết thực xây dựng gia đình hạnh phúc, cộng đồng hạnh phúc của người Việt
Nam. [1]
Đối với học sinh để có được hạnh phúc trước hết là được sống trong một
gia đình hạnh phúc, được sự yêu thương của bố mẹ và người thân. Bên cạnh đó
các em cần được trưởng thành trong một ngôi trường hạnh phúc- các em được
học tập, được vui chơi, được chia sẻ, được thấu hiểu, được yêu thương và tôn
trọng. Với giáo viên hạnh phúc là được truyền đạt được kiến thức, đào tạo được
các thế hệ học trò vừa ngoan, vừa giỏi. Nhưng thực tế thì sao? Hàng loạt câu
chuyện không vui xuất hiện trong học đường vừa qua: tỉ lệ stress học đường
tăng nhanh chóng, bạo lực học đường đáng báo động, mối quan hệ thầy trò căng
thẳng,...tất cả những điều đó được phản ánh thường xuyên qua các kênh truyền
thông, là một điều nhức nhối trong xã hội nói chung và nền giáo dục nói riêng.
Câu hỏi lớn đặt ra lúc này là: Làm thế nào để mỗi ngày học sinh đến trường
là một ngày vui, giáo viên đến trường mỗi ngày là một niềm hạnh phúc, quan hệ
thầy trò là động lực để học sinh vươn tới tri thức? Xây dựng lớp học hạnh phúc
là việc làm cấp thiết cần được các nhà giáo dục quan tâm lúc này.
Hiện tại rất ít tài liệu bàn sâu và đưa ra các giải pháp cho vấn đề này, đồng
nghiệp, nhà trường chưa có kinh nghiệm để giải quyết, khắc phục. Chính vì vậy
tôi chọn đề tài: “Một số giải pháp xây dựng lớp học hạnh phúc tại trường
THPT Lang Chánh” để tìm câu trả lời thiết thực nhất cho các em học sinh,
đồng nghiệp và nhà trường.
2. Mục đích nghiên cứu:
Thông qua việc nghiên cứu đề tài: “Một số giải pháp xây dựng lớp học
hạnh phúc tại trường THPT Lang Chánh” với mục đích:
2
- Giúp cho học sinh và học sinh được hạnh phúc mỗi khi đến trường, trong
mỗi tiết học. Giáo dục đạo đức, tình cảm…cho học sinh THPT. Học sinh hứng
thú, tích cực học tập.
- Giúp cho giáo viên có giải pháp để có thể giải tỏa được những áp lực, sự
căng thẳng trong quá trình dạy học và giáo dục của mình. Từ đó trở nên yêu
nghề và thành công trong sự nghiệp trồng người của mình.
- Giúp cho mục tiêu xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực
thành công. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh đặc biện là
giảm tình trạng bỏ học của trường miền núi.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu thực trạng tâm lý của học sinh và giáo viên khi đến
trường và giải pháp nhằm xây dựng lớp học hạnh phúc trường THPT Lang
Chánh. Thời gian nghiên cứu đề tài từ năm học 2017- 2018 đến năm 2018-2019.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài tôi đã sử dụng các nhóm phương pháp:
+ Nhóm phương pháp lý thuyết: Nghiên cứu các văn bản tài liệu về khái
niệm hạnh phúc… có liên quan đến đề tài.
+ Nhóm phương pháp điều tra khảo sát thực tế: Rút ra từ quá trình làm
công tác chủ nhiệm và giảng dạy trong hai năm học
+ Phương pháp điều tra xã hội học.
+ Phương pháp sử dụng toán thống kê.
+ Phương pháp so sánh.
II. NỘI DUNG SÁNG KẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận:
1.1 Khái niệm hạnh phúc:
+ “Hạnh phúc là cảm xúc vui sướng, hài lòng của con người trong cuộc
sống khi được đáp ứng, thỏa mãn các nhu cầu cầu vật chất và tinh thần”. Hạnh
phúc cá nhân gắn liền với hạnh phúc của xã hội, không có hạnh phúc riêng lẻ.
+ Hạnh phúc của học sinh trung học rất đơn giản và có thể thực hiện được
như:
- Luôn cố gắng và đạt được kết quả cao trong học tập không phụ lòng ông
bà cha mẹ.
- Luôn được sự động viên, khen ngợi của mọi người về thành tích học tập
cũng như hành động, cư xử của mình.
- Được sống và học tập trong một môi trường thân thiện, gia đình, người
thân tạo điều kiện vật chất, tinh thần trong khả năng hiện có phục vụ cho học tập
và rèn luyện.
- Được thầy cô và bạn bè yêu mến, tôn trọng, được tiếp thu kiến thức tiên
tiến của nhân loại và vận dụng nó vào đời sống, làm hành trang cho bản thân.
3
Được chia sẻ với mọi người về những điều mà mình biết, được khẳng định và
trải nghiệm….
+ Hạnh phúc cá nhân gắn liền với hạnh phúc xã hội. [2]
1.2 Lớp học hạnh phúc:
Lớp học hạnh phúc là nơi giúp giáo viên và học sinh hình thành và duy trì
các trạng thái cảm xúc tích cực. Mỗi lớp học hạnh phúc sẽ tạo nên một môi
trường học đường mà ai tham gia cũng cảm thấy hạnh phúc. Được tham gia vào
các lớp học hạnh phúc sẽ giúp cho mỗi cá nhân thiết lập được các tình cảm lành
mạnh, góp phần phát triển nhân cách tốt đẹp. [3]
Lớp học hạnh phúc là lớp học có sự tương tác chủ động, tích cực với xúc
cảm dương tính từ hai phía: nhà tổ chức và chủ thể thực hiện. Lớp học hạnh
phúc là điểm đến mà mỗi cá nhân cảm thấy muốn đến, khi đến có những hứng
thú, có niềm vui, có sự mong chờ, có rung cảm... Lớp học hạnh phúc là nơi có
thể cảm nhận được sự an toàn, sự nâng đỡ hay sự thú vị khi có nhiều điều nằm
trong nhu cầu được thỏa mãn...
HS đến trường như thế nào là hạnh phúc, có thể quy thành một mệnh đề:
mỗi ngày đến trường là một ngày vui. Cần khẳng định không quá lý tưởng đến
mức vui mà không nhớ hay không hiểu nhiệm vụ thay vào đó là thực hiện nhiệm
vụ một cách chủ động, tích cực với sự thoải mái, khao khát, cố gắng tích cực
nhất. Bên cạnh đó, người học cảm thấy có niềm tin, có rung động, có động lực
khi đến lớp và dễ nhớ nhung nếu không đến lớp...
Kết quả thống kê của Đại học Sư phạm TP.HCM khảo sát trên 181 học sinh
THCS, học sinh mong muốn 10 điều giáo viên sẽ thay đổi để việc học được
hạnh phúc hơn cho kết quả khá bất ngờ. Kết quả thống kê như sau:
• 92,8% mong giáo viên cười nhiều hơn.
• 84% mong giáo viên nhẹ nhàng hơn khi học sinh làm sai.
• 82,4% mong giáo viên đừng phê bình trước mặt bạn bè.
• 82,4% được tổ chức học tập xen kẽ vui chơi.
• 75,4% mong giáo viên đừng bắt học thuộc lòng quá nhiều.
• 74% mong giáo viên đừng nhắc lại môn học này là quan trọng.
• 70,2% mong giáo viên khen thưởng nhiều hơn trách móc.
• 66,3% mong giáo viên bớt bài tập về nhà.
• 62,4% mong được tăng cường thực tế, khám phá thực tiễn.
• 60% mong giáo viên khác nhận suy nghĩ và hành vi của các em dù nó
khác thường và không được như mong đợi. [4]
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
2.1. Về giáo viên:
Trường THPT Lang Chánh đóng trên địa bàn của một huyện miền núi có
đội ngũ giáo viên còn trẻ nên nhiệt tình trong công tác giảng dạy và giáo dục
4
học sinh. Tuy nhiên đội ngũ giáo viên luôn biến động, một số năm gần đây do
thiếu giáo viên mỗi giáo viên phải dạy thêm giờ nhiều, giáo viên còn trẻ nên
kinh nghiệm giảng dạy và giáo dục chưa nhiều. Số lượng giáo viên ở dưới xuôi
lên công tác chiếm phần đông nên tính ổn định không cao.
Qua buổi giao ban GVCN đầu năm tôi đã thực hiện điều tra khảo sát toàn
bộ giáo viên với câu hỏi “ Thầy cô có hạnh phúc khi đến trường không?” Kết
quả đa số các thầy cô rất ít hạnh phúc khi đến trường, nguyên nhân chủ yếu là
do giáo viên bị áp lực từ nhiều phía:
+ Trước hết, chúng ta không thể không nói tới áp lực đến từ nội dung kiến
thức, chương trình. Thứ hai là áp lực từ kết quả thi, thành tích trong giáo dục.
Thứ ba là áp lực đến từ phụ huynh học sinh, tâm lý giao khoán con cho giáo
viên. Thứ tư là áp lực đến từ xã hội. Dư luận xã hội luôn đặt kì vọng cao cho
giáo viên đứng lớp và ngành Giáo dục. Theo quan niệm từ xưa đến nay, giáo
viên phải là những người chuẩn mực nhất, vừa có tài vừa có tâm. Thế nhưng,
thực tế cho thấy, với sự phát triển của báo chí, của truyền thông mạng thì các tồn
tại của ngành Giáo dục, của giáo viên dù là nhỏ nhất cũng được đưa lên với
những tiêu đề giật gân.
Và cuối cùng đó là áp lực đến từ chính bản thân mỗi giáo viên, mỗi giáo
viên luôn muốn làm tròn các vai xã hội của mình. Do đó, chúng ta đã tự đưa
chúng ta và học sinh vào những khuôn khổ, những đích do chúng ta tự đặt ra mà
đôi khi không phù hợp với người học. Giáo viên luôn mong muốn học sinh phải
yêu thích bộ môn của mình, phải học đều các môn, phải ngoan ngoãn lễ phép và
phải thế này, thế kia...
+ Giáo viên luôn mong muốn học sinh phải hoàn thành tốt mọi điều mà
mình lập trình sẵn. Có như vậy mới là con ngoan, trò giỏi. Và thế là, dồn tất cả
mọi áp lực lên vai người giáo viên. Rồi giáo viên đã dồn tất cả những áp lực ấy
lên đôi vai bé nhỏ của học trò lúc nào không hay. Đến khi thực tế học trò không
đạt được những kì vọng: học tập không tiến bộ, không chăm chỉ và có thái độ
không đúng đắn...Khiến cho chúng ta nhiều lúc cảm thấy chán nản, mệt mỏi,
đam mê, nhiệt huyết với nghề giảm sút. Thậm chí có giáo viên còn định bỏ
nghề.. Và thế là… với giáo viên và học sinh mỗi ngày đến trường không còn là
mỗi ngày vui; lớp học không còn là lớp học theo đúng nghĩa của giáo dục.
2.2. Về học sinh:
Trường THPT Lang Chánh có tổng số học sinh 1037 (tính đến 18/9/2017)
trong đó dân tộc thái chiếm 53,04%, dân tộc mường chiếm 35,58%, dân tộc kinh
chiếm 11,19%, dân tộc ê đê chiếm 0,19%. Tỉ lệ học sinh nữ chiếm 50,24%. Do
trường đóng trên địa bàn miền núi nên tỉ lệ hộ nghèo và cận nghèo chiếm gần
48%. Học sinh của nhà trường cơ bản các em ngoan. Tuy nhiên chất lượng đầu
vào của học sinh còn thấp so với các huyện khác. Học sinh ở phân tán trên khắp
5
địa bàn huyện, điều kiện đi lại khó khăn do đó việc duy trì sĩ số, nề nếp còn
nhiều bất cập. Số lượng học sinh hộ nghèo gia tăng. Ý thức học tập của một bộ
phận học sinh chưa cao, động cơ học tập chưa rõ ràng. Còn một bộ phận phụ
huynh do mưu sinh nên chưa thực sự quan tâm đến việc học tập của con em phó
thác việc học tập cho nhà trường.
Tôi đã tiến hành khảo sát về tâm lý của 41 HS lớp 12A3 (Năm học 20172018) vào tháng 9/2017 và và 39 HS lớp 10A2 (Năm học 2018-2019) vào tháng
9/2018 với câu hỏi "Các em có hạnh phúc khi đến trường không?" thể hiện qua
bảng sau:
Mức độ
12A3
10A2
1 Chưa bao giờ hạnh phúc %
4,9
2,5
2 Hiếm khi hạnh phúc %
34,1
30,7
3 Thỉnh Thoảng hạnh phúc %
43,9
46,3
4 Thường xuyên hạnh phúc %
17,1
20,5
Từ bảng kết quả cho thấy tỉ lệ học sinh vẫn có những học sinh hiếm khi
hạnh phúc khi đến trường và tỉ lệ học sinh và thỉnh thoảng hạnh phúc cao hơn
rất nhiều tỉ lệ học sinh thường xuyên hạnh phúc. Vẫn có học sinh thường xuyên
hạnh phúc khi đến trường nhưng tỉ lệ rất thấp. Điều đó chứng tỏ rằng học sinh
hai lớp tuy khác nhau nhưng cảm giác được hạnh phúc khi đến trường đều rất ít.
+ Nguyên nhân học sinh lớp ít hạnh phúc:
- Nguyên nhân chủ quan: Ý thức học tập của một bộ phận học sinh chưa
cao, động cơ học tập chưa rõ ràng, đến trường chỉ vì bố mẹ mong muốn. Chất
lượng đầu vào thấp, học sinh chậm tiếp thu, kiến thức nền tảng môn học rất thấp
nên học lên bậc trung học cảm thấy khó khăn chán nản vì học kém. Bản thân
học sinh luôn cảm thấy kém cỏi, thiếu tự tin, ngại giao tiếp, không biết thể hiện
bản thân,…Một bộ phận không bao giờ hạnh phúc đến trường vì bị thú vui lôi
kéo như nghiện game, chơi đánh bài,…
- Nguyên nhân khách quan: Do áp lực trong giờ học, thi cử và sự kì vọng
của thầy cô và phụ huynh; Thầy cô hay quát mắng nặng lời với học sinh trước
đám đông, nhất là HS phạm lỗi; Giáo viên dạy không gây hứng thú cho người
học; khiến học sinh ủ dũ, buồn ngủ. Có giáo viên luôn tạo áp lực quá sức cho
HS, khiến giờ học căng thẳng…Do bạo lực học đường, do không được chia sẻ,
được quan tâm từ bạn bè và thầy cô.
3. Giải pháp để xây dựng lớp học hạnh phúc tại trường THPT Lang
Chánh:
Từ thực trạng nêu trên tôi đưa ra một số giải pháp để cải thiện hạnh phúc
của giáo viên và học sinh ở trường học như sau:
3.1. Đổi mới tiết sinh hoạt lớp, tăng cường giáo dục đạo đức, giá trị
sống và kĩ năng sống cho học sinh.
6
- Tiên học lễ, hậu học văn_ Giáo viên nên coi trọng việc rèn luyện đạo đức
của học sinh trước khi truyền thụ kiến thức. Dạy các em biết lễ phép với người
lớn, kính trên nhường dưới, tôn trọng thầy cô giáo, hòa đồng, giúp đỡ bạn bè…
thực hiện tốt nội quy của trường và của lớp đề ra.
- Giá trị sống cần thiết với học sinh THPT: hòa bình, hợp tác, hạnh phúc,
yêu thương, khoan dung, khiêm tốn, trung thực, trách nhiệm, tôn trọng và đoàn
kết. Học tập giá trị sống giúp các em tôn trọng bản thân và người khác, biết cách
hợp tác, xây dựng và duy trì tình đoàn kết; suy nghĩ tích cực, hoàn thiện nhân
cách, biết tạo dựng cho mình cuộc sống hạnh phúc. Đồng thời GVCN trang bị
kỹ năng sống cho học sinh như kỹ năng giao tiếp, sáng tạo, hòa nhập, ứng phó
với các tình huống trong cuộc sống, kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, quan sát, chia
sẻ trong nhóm, kiến thức giới tính, kỹ năng chống lại sự cám dỗ của tệ nạn xã
hội, chống xâm phạm tình dục, kỹ năng ứng phó với tai nạn đuối nước; Kỹ năng
ứng phó với các tình huống bạo lực học đường…Rèn luyện kỹ năng sống có ý
nghĩa rất lớn đối với học sinh cấp 3_lứa tuổi có những chuyển biến phức tạp về
tâm sinh lý.
GVCN cần đổi mới tiết sinh hoạt lớp trở nên phong phú, ý nghĩa và tích
cực hơn. Ngoài việc nhận xét tình hình hoạt động của lớp, triển khai kế hoạch
mới, GVCN nên dành nhiều thời gian cho việc tổ chức các hoạt động vừa vui vẻ
vừa bổ ích. Mỗi ngày GVCN nên dành 15 phút đầu giờ để quản lý học sinh,
khởi động một ngày học và có thể nắm bắt được những nguy cơ có thể xảy ra.
Đầu tiên GVCN lập kế hoạch sinh hoạt (Sinh hoạt 15 phút đầu giờ, sinh hoạt
cuối tuần) theo từng tuần, từng tháng vào thời gian cụ thể nào, giáo dục giá trị
sống và kỹ năng sống nào. Tiếp đến là xây dựng nội dung kịch bản, phân công
nhiệm vụ, duyệt phần chuẩn bị của học sinh rồi tiến hành sinh hoạt. Ví dụ:
KẾ HOẠCH SINH HOẠT TUẦN 1
Ngày
Thứ 3
Thứ 4
Sinh hoạt
15 phút
đầu giờ
Sinh hoạt
15 phút
đầu giờ
Nội dung
Trò chơi : Tấm thiệp yêu thương
Mục đích: Giáo dục về lòng yêu thương, tạo không khí
vui vẻ, hợp tác
Cách chơi: Lớp chia làm 4 tổ, mỗi tổ được trang bị giấy
A4 và bút màu. Trong thời gian 5 phút các tổ hãy cụ thể
hóa tình yêu thương của mình vào tấm thiệp và có 1 phút
để thuyết trình.
Ban giám khảo : GVCN và Cán bộ lớp
Đọc sách về kiến thức giới tính
Mục đích: Giáo dục giới tính và phòng chống nạn xâm
phạm tình dục trẻ em.
GVCN liên hệ với giáo viên phụ trách văn thư của trường
để mượn sách cho học sinh đọc vào đầu buổi 15 phút đầu
7
Thứ 5
Sinh hoạt
15 phút
đầu giờ
Thứ 6
Sinh hoạt
15 phút
đầu giờ
Sinh hoạt
15 phút
đầu giờ
giờ và giờ ra chơi giữa các tiết học, sau đó trả về thư viện
vào cuối buổi học. Học sinh và giáo viên thảo luận vào
buổi sinh hoạt sau.
Trò chơi: Học sinh tập làm giáo viên
Mục đích: tạo sân chơi cho học sinh có cơ hội thể hiện
mình và hiểu được quá trình giảng dạy của giáo viên. Từ
đó, mỗi học sinh ý thức hơn trong học tập để không phụ
lòng thầy cô của mình.
Cách chơi: Giáo viên cho học sinh đăng kí tham gia thi,
mỗi thí sinh cần chuẩn bị một chủ đề hay nội dung môn
học mà mình yêu thích, chuẩn bị trước ở nhà với nội dung
đơn giản trình bày trước lớp trong 10 phút với tư cách là 1
giáo viên.
Đánh giá: Tất cả học sinh trong lớp bỏ phiếu lựa chọn bạn
được yêu thích nhất.
Trò chơi: Hãy làm theo tôi nói, không làm theo tôi làm
Mục đích: Tạo không khí vui vẻ
Cách chơi: Bạn lớp phó văn thể thực hiện một động tác
nhưng lại yêu cầu một động tác khác nếu ai làm sai sẽ
thua.
Sinh hoạt văn nghệ: Hát múa theo yêu cầu
Mục đích : Học sinh vui vẻ, gần gũi với nhau
Xây dựng mục tiêu và nội quy lớp học:
Thứ 7
Mục đích: Giáo dục giá trị hợp tác và trách nhiệm xây
SH cuối dựng tập thể lớp
tuần
Dựa vào nội quy chung của nhà trường, các em học
sinh thảo luận cùng nhau đặt mục tiêu cho lớp ở năm học
này và thống nhất nội quy riêng cho lớp học.
Các buổi sinh hoạt có tổ chức với nội dung phong phú: các trò chơi khởi
động, câu đố vui, các trò chơi phỏng theo các game show truyền hình đặc sắc,
hay đơn giản là nghe và cảm nhận một bài hát, một mẩu chuyện hay một đoạn
phim… tổ chức diễn đàn để các em nêu lên cảm nhận, bài học hay ý nghĩa của
mình về những gì mình được nghe, đã đọc và được thấy. Cho các em xem những
video về tấm gương người thật việc thật trong cuộc sống để các em hiểu hơn về
giá trị của cuộc sống, quý trọng những gì mình đang có, nuôi dưỡng sự biết ơn
và sự bao dung, lòng thương cảm. Trong đó tôi đề việc nuôi dưỡng lòng biết ơn
thì học sinh sẽ có động lực rất lớn để học tập tốt và trở thành con người có nhân
cách tốt đẹp.
Ngoài ra, GVCN luôn động viên và khích lệ cùng các em tham gia các hoạt
động ngoại khóa do các Đoàn thanh niên, Công Đoàn…tổ chức, sát cánh với các
em trong các phong trào văn hóa, văn nghệ, TDTT nhân ngày 20/11, 26/3…Các
em được trải nghiệm, được vui chơi, được hợp tác và chia sẻ từ đó sẽ hiểu, yêu
thương nhau, xây dựng một tập thể lớp đoàn kết, hạnh phúc.
8
Qua các buổi sinh hoạt lớp hay các hoạt động cùng với lớp GVCN có thể
lắng nghe, cảm thông, hiểu được tính cách, tâm tư, tình cảm của các em và thấy
được điều tốt đẹp trong chính mỗi học sinh và yêu mến các em hơn. Sự tiến bộ
của các em hằng ngày qua cách cư xử, lời nói và thái độ trong giờ học sẽ tạo
động lực cho mỗi giáo viên mỗi khi đến lớp. Từ đó GVCN có thể dễ dàng định
hướng sửa chữa lỗi lầm khi phạm lỗi, giải quyết vấn đề theo hướng tích cực.
Ngược lại học sinh được tham gia các buổi sinh hoạt sinh động, hiểu được giá trị
sống tốt đẹp sẽ là kim chỉ nam cho những hành động đúng đắn. Các em được
trang bị đầy đủ kỹ năng sống sẽ biết bảo vệ bản thân, có khả năng hòa nhập với
cuộc sống trong mọi hoàn cảnh…không còn bị stress, biết cách quản lý cảm xúc,
giải quyết các vấn đề tránh xảy ra bạo lực học đường. Khi đó cả thầy và trò sẽ
muốn đến lớp mỗi ngày, đó là hạnh phúc.
Buổi sinh hoạt cuối tuần: Tập làm giáo viên của các em học sinh
GVCN đồng hành cùng các em tham gia thi các trò chơi dân gian
GVCN đồng hành cùng các em tham gia thi các trò chơi dân gian
9
GVCN tham gia cùng học sinh lớp thiết kế bảng mục tiêu lớp học vui vẻ
trong buổi Hoạt động ngoại khóa: Lớp học vui vẻ và bảo vệ quyền trẻ em
Việc giáo dục đạo đức, giá trị và kỹ năng sống của các em không chỉ không
là nhiệm vụ riêng của nhà giáo dục mà cần sự hợp tác rất lớn từ gia đình và xã
hội. Nên trong cuộc họp phụ huynh đầu năm học GVCN thống nhất với phụ
huynh hợp tác chặt chẽ trong việc giáo dục học sinh, thường xuyên trao đổi
thông tin với nhau về tình hình học tập và rèn luyện của học sinh, kịp thời tác
động khi cần thiết.
3.2. Giáo viên phải mạnh dạn thay đổi bản thân để xây dựng lớp học
hạnh phúc:
Qua số liệu điều tra nêu trên ta thấy rằng học sinh có hạnh phúc hay không
phụ thuộc phần lớn vào giáo viên giảng dạy và giáo viên bộ môn trực tiếp giảng
dạy lớp mình. Vì vậy mỗi giáo viên phải là người tiên phong cho việc thay đổi
lớp học truyền thống, mạnh dạn thay đổi cái lối mòn cũ để hướng tới một
phương pháp dạy học tích cực và phù hợp với nhu cầu và đặc điểm của học sinh.
Thầy cô thay đổi, học sinh hạnh phúc, thầy cô sẽ hạnh phúc và trường học hạnh
phúc. Cụ thể:
+ Giáo viên nên cười nhiều hơn với học sinh để tạo một bầu không khí
thân thiện, vui vẻ trong giờ học.
Đúng như cha ông ta đã có câu “Một nụ cười bằng 10 thang thuốc bổ”, lợi
ích của nụ cười đối với sức khỏe đã được khoa học chứng minh. Việc này tưởng
đơn giản nhưng không phải giáo viên nào cũng làm được vì giáo viên chưa biết
cách quản cảm xúc của mình, không có tính hài hước, nhưng chúng ta sẽ là được
nếu chúng ta có tâm với nghề, thương yêu học sinh như những đứa con của
mình.
10
Trong mội buổi học là hãy khởi động giờ học bằng một số việc làm đơn
giản, có thể không liên quan đến nội dung dạy như một câu đố, một vài động tác
thể dục, một bài hát… Có như vậy, học sinh mới được kích thích những cảm xúc
tích cực, và từ đó thu nhận kiến thức dễ dàng hơn.
Hai là lồng ghép sự hài hước vào trong lớp học bằng lời nói, biểu cảm,
hành động của giáo viên. Ví dụ, khi các học sinh mắc lỗi khi đang nói, thay vì
cắt ngang hay sửa lại, tôi thường làm gương mặt khôi hài (gương mặt cực kì sốc
đối với những lỗi lớn như sử dụng sai thì của động từ), điều đó giúp các học sinh
nhìn ra được lỗi của mình nhưng sẽ giảm bớt áp lực để họ “sửa sai”. Có thể là
những lời nói đùa thú vị có thể diễn ra tự phát qua các tình huống xảy ra trong
giờ học. Thỉnh thoảng buông những câu bình luận, nhận xét vui vẻ khi học sinh
làm bài tập hoặc trả lời câu hỏi sẽ giúp cho học sinh thoải mái, không che dấu
những lỗ hổng kiến thức của mình nữa.
+ Giáo viên hướng dẫn nhẹ nhàng khi học sinh làm bài sai, giữ bình
tĩnh khi học sinh mắc lỗi và không phê bình qua nặng lời, gay gắt trước mặt
người khác; khích lệ, khen thưởng các em nhiều hơn.
Giáo viên học cách lắng nghe học sinh, đặc biệt là những học sinh cá biệt
xấu, GV cần quan tâm, động viên, giáo dục nhẹ nhàng tránh việc làm tổn hại đên
thân thể và nhân phẩm học sinh. Không qua cầu toàn, cho phép học sinh được
phạm lỗi và có quyền sửa lỗi.
Mặt bằng chung của học sinh trong trường là khả năng tiếp thu kiến thức
chậm nên luôn có tâm lý lo lắng mỗi khi giáo viên đặt câu hỏi, không giám phát
biểu ý kiến vì sợ sai, đôi khi còn có học sinh hỏi “Làm sai có bị làm sao không
cô?”…nắm bắt được tâm lý đó tôi luôn động viên và khích lệ học sinh trả lời và
nói rằng vui rằng “Sai à! Không sao. Cô cảm ơn”. Cảm ơn ở đây là cảm ơn các
em đã dũng cảm, sửa lỗi sai cũng là một bài học sâu sắc cho mỗi học sinh khác
trong lớp nữa.
GV nhận xét, góp ý một cách khéo léo về những điều mà các em chưa làm
được hoặc làm chưa tốt, không nên chê bai, chỉ trích vì điều đó sẽ làm thui chột
đi sự tích cực chủ động ở các em. Ngược lại nhận được sự khích lệ, động viên
và khen ngợi đúng lúc của thầy cô giáo sẽ là nguôn động lực lớn để các em thay
đổi theo hướng tích cực. Hãy để HS cảm nhận được sự tin tưởng của thầy cô
dành cho mình. Mỗi lời nói, mỗi hành động, tác phong cũng như cách cư xử của
Thầy cô trên lớp sẽ có tác động không nhỏ đến nhận thức và tình cảm của học
trò. GV sẽ không thuyết phục được HS nghe theo sự chỉ dạy của mình nếu như
bản thân không chuẩn mực và thiếu đi sự chân thành. Cho nên, mỗi GV phải là
một tấm gương sáng về nhân cách để HS noi theo.
11
+ Giáo viên cần thường xuyên bỗi dưỡng nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ và khả năng ứng dụng CNTT vào bài dạy, có phương pháp
dạy học hiệu quả tạo hứng thú, lôi cuốn người học:
Ngoài việc tạo dựng mối quan hệ thầy trò, mỗi giáo viên cần thường xuyên
bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, có phương pháp dạy học hiệu quả để
có nhiều tiết học tốt hơn, tạo hứng thú, chủ động tiếp thu kiến thức, không còn
mệt mỏi và buồn ngủ. Có như vậy học sinh mới cảm phục và nghe lời thầy cô.
Ngoài kiến thức trong sách giáo khoa, ngoài cách giảng dạy truyền thống,
giáo viên cần đổi mới phương pháp dạy học sao cho hiệu quả, thu hút được sự
chú ý của học sinh, lấy học sinh làm trung tâm, chủ động tìm tòi kiến thức hoặc
tích hợp môn học của mình với môn học khác và đời sống thực tiễn để học sinh
cảm thấy ý nghĩa và thiết thực hơn. Chẳng hạn trong các tiết dạy bộ môn Toán
của mình tôi lồng ghép vào một số trò chơi như sau:
- Trò chơi Nhanh mắt, nhanh tay: Tùy vào lúc thích hợp của tiết học, giáo
viên đưa các bài toán có lời giải sai ở một vài bước học sinh thường mắc phải.
các nhóm thảo luận tìm ra chỗ sai và sửa sai. Nhóm nào tìm ra nhanh nhất và
sửa lại cho đúng là đội chiến thắng.
- Trò chơi “Nhà nghiên cứu trẻ”: Giáo viên yêu cầu các nhóm học sinh về
nhà nghiên cứu trước nội dung bài học hoặc tổng hợp một chuyên đề nào đó
theo cách hiểu của mình…sau một thời gian quy định nộp lại và tổ chức thảo
luận, đánh giá kết quả.
- Trò chơi “Tập làm họa sỹ”: Sau mỗi bài học hoặc mỗi chương, giáo viên
yêu cầu các nhóm thảo luận lập “Sơ đồ tư duy” hệ thống kiến thức của bài hoặc
chương đó vào giấy A0 với hình vẽ sáng tạo của nhóm mình. Nhóm nào nhanh,
đẹp mắt và đảm bảo đúng và đủ kiến thức nhất sẽ chiến thắng.
Thông qua các trò chơi tôi nhận ra rằng học sinh sẽ hứng thú hơn trong việc
tìm hiểu kiến thức, các em được thảo luận, hợp tác, có khi là tranh luận và cũng
dần dần tìm được tiếng nói chung và thống nhất kết quả của hoạt động nhóm.
Giáo viên khi này sẽ quan sát, tư vấn, kiểm định kết quả và hoàn thiện câu trả
lời.
+ Giáo viên rèn luyện kỹ năng kiểm soát cảm xúc, hãy để bên ngoài
cửa lớp những áp lực của mình, đảm bảo giờ dạy thật tốt.
Giáo viên căng thẳng, áp lực, liệu học sinh có được thoải mái, vui vẻ? Hay
cảm xúc tiêu cực đó sẽ "lan truyền" tới chính học sinh của mình? Và, lớp học
liệu có "hạnh phúc" hay không khi cả giáo viên và học sinh đểu trong tâm thái lo
lắng, căng thẳng như vậy? Như vậy, cảm xúc của giáo viên có quan hệ mật thiết
trong hầu như mọi khía cạnh của quá trình giảng dạy và học tập, do đó việc
người giáo viên biết kiềm soát cảm xúc của mình mỗi khi lên lớp là rất cần thiết.
12
Sự khác nhau rất lớn giữa GVCN và GVBM đó là cảm xúc với học sinh,
khi làm GVCN thì với học sinh lớp mình chúng như những đứa con khiến mình
có nhiều cảm xúc khác nhau, lúc thì tự hào, vui sướng khi các em có thành tích
tốt, lúc thì tức giận khi học sinh mắc lỗi. Trong quá trình chủ nhiệm tôi cố gắng
kiểm soát cảm xúc của mình bằng cách đặt ra cho mình một số nguyên tắc sau:
Thứ nhất, chăm sóc sức khỏe tốt cho bản thân, học tính hài hước thông qua
các câu truyện, phim hay các trò chơi truyền hình vui vẻ…nghỉ ngơi đầy đủ,
không dung các chất kích thích, an thần. Hạn chế những suy nghĩ tiêu cực khi
giải quyết vấn đề trong lớp. Để những áp lực trong công việc hay trong cuộc
sống ngoài cửa lớp, dảm bảo giờ dạy của mình thật tốt.
Thứ hai, kiềm chế cảm xúc nóng giận bằng cách thay đổi cơ thể bằng một
vài động tác như: thả lỏng người, hít thở sâu (Động tác này sẽ làm tâm trạng dịu
lại); thay đổi tư thế ngồi, tư thế đứng sao cho thoải mái hơn. Khi học sinh mắc
lỗi thay vì việc lớn tiếng quát tháo ngay bằng cách hít thở sâu, hãy cố gắng tìm
những điểm tốt, những điều đáng để học tập của học sinh. Khi bình tĩnh lại GV
có thể tìm ra biện pháp xử lý sáng suốt. Tuy nhiên, trong một vài trường hợp cần
thiết, GV cũng cần phải bộc lộ cảm xúc tiêu cực để học sinh thấy được cái uy
của mình, giáo viên quá dễ dãi học sinh sẽ nhờn.
Thứ ba, tất cả mọi lời nói hành động của giáo viên cần chuẩn mực, tôn
trọng học sinh. Không hành động hay nói năng mất kiểm soát khi đang nóng
giận, có thể tránh mặt để tâm trạng ổn định trước khi gặp học sinh.
Thứ tư, khen thưởng, khích lệ khi học sinh làm được việc tốt tạo sự gần
gũi, sự tin tưởng đối với học sinh. Trong một ngày đến trường, GV có thể gặp
nhiều tình huống sư phạm khác nhau. Vì vậy việc tìm hiểu, học hỏi qua sách vở,
qua đồng nghiệp sẽ giúp ta có kinh nghiệm để xử lý các tình huống đó một cách
tốt nhất.
Rèn luyện kỹ năng kiểm soát cảm xúc rất là khó.Nhưng sản phẩm của giáo
dục đó là những học trò vừa có đức vừa có tài thì đòi hỏi mỗi giáo viên cần quản
lý cảm xúc của mình một cách tốt nhất để có được hạnh phúc, từ đó lan truyền
những cảm xúc tích cực và hạnh phúc đến học sinh.
+ Giáo viên biết quan tâm đến hoàn cảnh sống, biết lắng nghe những
cảm xúc của các em, trở thành người bạn lớn và chuyên gia tư vấn tâm lý
cho học sinh THPT.
Cuối tuần GVCN một số học sinh trong lớp đến thăm gia đình của học sinh
để hiểu rõ hơn về hoàn cảnh của các em. Đa số học sinh trong lớp đi học xa,
đường xá thì ghồ ghề, ngày mưa thì rất bẩn. Những căn nhà sàn cũ kĩ, ở cùng
mấy thế hệ, bố mẹ đi làm xa,…Đến đây mới thực sự cảm thấy thương các em,
các em đi học được đã là một sự cố gắng rồi. Từ đó GVCN nói những lời khích
lệ các em, tìm hiểu và lắng nghe các em trước khi kết luận một điều gì. Giáo
13
viên mở lòng, học sinh sẽ cảm thấy an toàn và được yêu thương, biết ơn,…Từ
đó sẽ cảm hóa được học sinh. Có thể không phải ngay lúc đó học sinh cảm nhận
được và thay đổi. Có những học sinh ra trường mới nhận ra tấm lòng thầy cô, cố
gắng thay đổi bản thân, sống tốt và tích cực hơn. Sự chân thành, tình yêu thương
của thầy cô bây giờ có thể tạo ra niềm tin và động lực mở cánh cổng tương lai
cho các em, đó là ý nghĩa thực sự của giáo dục.
Học sinh THPT đang là thời kì phát triển tâm sinh lý rất mạnh, tập trở
thành người lớn, thích thể hiện cái tôi của mình và đặc biệt đó là phát triển tình
yêu nam nữ nên rất cần sự quan tâm và tư vấn đúng hướng của GVCN. GVCN
có thể tìm hiểu, tâm sự với học sinh trực tiếp, qua bạn bè và người thân, qua
điện thoại hay zalo; facebook…để kịp thời tác động tích cực đến học sinh đang
gặp khó khăn.
Một nguyên nhân khiến các em không hạnh phúc khi đến trường đó là các
em tiếp thu chậm, khó nắm bắt kiến thức, khả năng nhớ và tư duy kém dẫn đén
các em chán học và đi học mang tính chất đối phó. Nắm bắt được tâm lý đó tôi
đã xây dựng được các nhóm học tập, tạo phong trào thi đua giữa các nhóm, sự
tiến bộ của các thành viên là kết quả của thi đua. GVCN khuyến khác các em
học sinh học yếu trong các giờ ra chơi chủ động học hỏi những bạn học tốt hơn
để hiểu bài. Học tập tốt học sinh sẽ tự tin và hạnh phúc khi đến trường.
Giáo viên gần gũi, thân thiện và quan tâm đến học sinh nhưng không được
cào bằng mối quan hệ, trò tôn trọng và cư xử lễ phép với thầy cô. Tôi tin rằng
cái gì xuất phát từ trái tim của người thầy sẽ đến được với trái tim của học trò.
Tuyệt đối giáo viên không được lạm dụng hay sử dụng không đúng cách các yếu
tố hài hước nó sẽ gây ra một hiệu ứng ngược đó là học sinh mất tập trung học,
lớp ồn ào, khiến giáo viên khó quay lại việc dạy kiến thức. Thành công lớn nhất
của nhà giáo dục không phải về kiến thức trò lĩnh hội được mà là sự tiến bộ dù
rất nhỏ, sự cố gắng của các em, giá trị tinh thần mà các em cảm nhận được. Học
sinh được tôn trọng, được yêu thương, được thể thiện bản thân, được thấu hiểu,
được vui vẻ sẽ được hạnh phúc.
3.3. Giáo viên giáo dục học sinh lớp chủ nhiệm bằng phương pháp kỉ
luật tích cực, nói không với xâm phạm thân thể và xúc phạm nhân phẩm
học sinh.
Sau khi được tập huấn về phương pháp giáo dục kỉ luật tích cực tại trường
THPT Lang Chánh, tôi đã có cái nhìn mới về cách quản lý học sinh lớp chủ
nhiệm. PPKL tích cực là biện pháp giáo dục học sinh không sử dụng đến các
hình thức bạo lực, trừng phạt mà thay vào đó là sử dụng những hình thức kỉ luật
tích cực, phù hợp để giúp học sinh giảm thiểu những hành vi không phù hợp,
củng cố các hành vi tích cực và phát triển nhân cách một cách tốt đẹp, bền vững.
14
Tuy nhiên, giáo viên không được phớt lờ đi những lỗi của học sinh.
Trong một số trường hợp HS cá biệt, vi phạm nội quy trường lớp, các biện pháp
giáo dục ý thức kỉ luật HS tỏ ra bất lực thì các hình thức kỉ luật bằng hình phạt
mới được đưa vào để giáo dục. Như vậy, hình phạt chỉ là biện pháp sau cùng
nhằm mục đích điều chỉnh những sai phạm của người học …nhưng không phải
là trừng phạt thân thể hay xúc phạm đến nhân phẩm học sinh. Thay vào đó là
hình phạt “tích cực” mang tính giáo dục và giá trị nhân văn. Tôi đã sử dụng các
hình phạt theo tôi là tích cực như sau:
- Vệ sinh trường lớp: Tùy vào mức độ phạm lỗi của học sinh để giới hạnh
thời gian làm vệ sinh lớp học (Ít nhất là 2 ngày và nhiều nhất là 1 tuần) hoặc
Phạt nhóm học sinh vi phạm thực hiện một buổi lao động quát sân trường hay
giúp người dân doạn vệ sinh khu phố. Hình phạt này vừa giáo dục ý thức lao
động cho học sinh vừa bảo vệ môi trường.
- Giúp đỡ những HS khác trong học tập: Những học sinh vi phạm nội quy
nhưng có thành tích học tập tốt giáo viên có thể yêu cầu học sinh đó giúp đỡ bạn
yếu hơn trong học tập. Sự tiến bộ của bạn là thước đo cho việc sữa sai của học
sinh.
- Đọc sách: GV đưa ra hình thức kỉ luật HS đến thư viện của trường tìm
đọc một cuốn sách mà GV giới thiệu (cần lựa chọn những cuốn sách tiêu biểu,
có dung lượng vừa phải, hoặc GV sẽ lựa chọn chủ đề có nội dung giáo dục
tương ứng với điều HS vi phạm). Trong thời gian 1 tuần HS phải đọc và chia sẻ
những điều mà mình đã đọc và học được ở cuốn sách đó trong giờ sinh hoạt lớp.
- Nếu học sinh vẫn không tiến bộ, vi phạm có hệ thống hay đánh nhau…thì
hình thức cao nhất là phải lập hồ sơ kỉ luật lên nhà trường, chiếu theo điều lệ
khen thưởng, kỉ luật của học sinh THPT để xử lý.
4. Tác động của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường:
4.1: Đối với học sinh: Sau hai năm học 2017- 2018 và 2018- 2019 triển
khai việc xây dựng lớp học hạnh phúc tại lớp chủ nhiệm, tôi thu được kết quả
sau:
Kết quả điều tra tâm lý
Mức độ
12A3
10A2
Tháng 9/2017
Tháng 5/2018
Chưa bao giờ hạnh phúc %
Hiếm khi hạnh phúc %
Thỉnh Thoảng hạnh phúc %
Thường xuyên hạnh phúc %
Tháng 9/2018
Tháng 5/2019
4,9
0
2,5
0
34,1
9,8
30,7
7,6
43,9
24,4
46,3
17,9
17,1
65,8
20,5
74,5
Kết quả trên cho ta thấy, tỉ lệ HS thường xuyên hạnh phúc tăng cao hơn rất
nhiều và không còn học sinh chưa bao giờ hạnh phúc điều đó chứng tỏ rằng
GVCN xây dựng lớp học dựa trên tiêu chuẩn hạnh phúc của học sinh đã bước
15
đầu thành công. Ở lớp học đó HS có nhiều cơ hội chia sẻ, bày tỏ cảm xúc, luôn
cảm nhận được sự quan tâm, tôn trọng, lắng nghe ý kiến từ thầy cô, bạn bè và
mọi người xung quanh. Học sinh nhận ra được lỗi lầm, hạn chế của họ để khắc
phục, sữa chữa, phát triển toàn diện bản thân. Học sinh đã tích cực, chủ động
hơn trong học tập và rèn luyện bản thân. Học sinh tự tin trước đám đông, không
mặc cảm tự ti về những khuyết điểm, hạn chế của bản thân. Học sinh phát huy
được những tiềm năng, những mặt tích cực, điểm mạnh của cá nhân.
Kết quả học tập và rèn luyện của lớp 12A3
Năm học 2016-2017
Năm học 2017-2018
Tổng hợp KQNN trung
bình cả năm
Xếp loại – xếp thứ
74,325/100 điểm
88,8/ 100 điểm
Xếp loại: Khá
Xếp thứ: 25/ 29
Học sinh bỏ học
Học sinh lưu ban
TB số lượt nghỉ học của 1
HS/ 1năm
Kỉ luật
4 học sinh
2 học sinh
12 lượt
Xếp loại: Tốt,
Xếp thứ: 8/ 30
Danh hiệu lớp xuất sắc
0 học sinh
0 học sinh
6 lượt
Học lực
Hạnh kiểm
Cảnh cáo trước HĐKL: 6HS
CC trước toàn trường: 7 HS
Đình chỉ học 1 tuần: 2 HS
( Vì HS đánh nhau)
Khá: 6;
TB 30;
Yếu-kém: 2
Tốt: 28
Khá: 5
TB: 3;
Yếu: 2
Không học sinh nào phải
lập hồ sơ kỉ luật lên
HĐKL nhà trường.
Khá:10;
TB 31;
Yếu-kém: 0
Tốt: 38
Khá: 2
TB: 1
Yếu: 0
Kết quả học tập và rèn luyện của lớp 10A2
Học kỳ 1
KQNN trung bình
Xếp loại – xếp thứ
86,45/100 điểm
Xếp loại: Tốt
Xếp thứ: 11/ 29
Học sinh bỏ học
Học sinh lưu ban
TB số lượt nghỉ học của 1
HS/ 1năm
Kỉ luật
0 học sinh
0 học sinh
5 lượt
Học lực
Hạnh kiểm
Học kì 2
95,13/ 100 điểm
Xếp loại: Tốt,
Xếp thứ: 2/ 29
Danh hiệu lớp xuất sắc
2 lượt
Cảnh cáo trước HĐKL: 3
HS
CC trước toàn trường: 2 HS
Đình chỉ học 1 tuần: 1 HS
( Vì HS đánh nhau)
Giỏi: 5
Khá: 12;
TB 21;
Yếu: 1
Tốt: 33
Khá: 4
TB: 1;
Yếu: 1
16
Không học sinh nào phải
lập hồ sơ kỉ luật lên
HĐKL nhà trường.
Giỏi: 7
TB 17;
Tốt: 36
TB: 1
Khá: 15;
Yếu: 0
Khá: 2
Yếu: 0
Qua bảng kết quả trên cho thấy được rằng học sinh đã có sự tiến bộ rõ nét
về cả học tập và thực hiện nội quy, các em đi học chuyên cần hơn, không có học
sinh bỏ học chứng tỏ các em rất muốn đến lớp. Không còn học sinh phải lập hồ
sơ kỉ luật, nói không với bạo lực học đường thể hiện các em đã sống tích cực
hơn, đoàn kết và yêu thương nhau. Tất cả điều đó có thể khẳng định các em tìm
được hạnh phúc trong chính lớp học của mình.
4.2: Đối với bản thân và đồng nghiệp:
Sáng kiến kinh nghiệm này giúp tôi và đồng nghiệp tháo gỡ được những
khó khăn và bế tắc trong hoạt động giảng dạy và công tác chủ nhiệm. Hiểu sâu
sắc giá trị của hạnh phúc từ đó xây dựng tiết dạy hạnh phúc và lớp học hạnh
phúc của mình. Khi xây dựng lớp học hạnh phúc thành công đồng nghĩa với việc
xây dựng được mối quan hệ thân thiện Thầy- Trò, Trò kính trọng, tin tưởng và
yêu quý thầy cô; thầy cô hiểu, thông cảm với khó khăn của trò, yêu thương và
hết lòng vì học sinh. Giảm được áp lực quản lý lớp vì học sinh hiểu và tự giác
chấp hành kỷ luật. Giáo viên không phải nhắc nhở, mất nhiều thời gian theo dõi,
giám sát việc thực hiện kỷ luật của học sinh; đỡ mệt mỏi căng thẳng vì phải xử
lý nhiều vụ vi phạm kỷ luật, giải quyết nhiều vấn đề khúc mắc trong quan hệ với
học sinh, gia đình và nhà trường. Chúng tôi đã có được hạnh phúc, yêu nghề và
muốn đến lớp, đến trường mỗi ngày.
4.3: Đối với nhà trường:
Mô hình lớp học hạnh phúc được nhân rộng đến tất cả các lớp học, đến
từng giáo viên trong trường giúp trường học trở nên hạnh phúc. Mỗi ngày đến
trường của học sinh và giáo viên đều là một ngày vui. Từ đó sẽ thu hút được học
sinh vào học tập tại trường, hạn chế học sinh bỏ học, nâng cao chất lượng giáo
dục toàn và được nhân đân và xã hội tin tưởng. Mục tiêu trường học thân thiện,
học sinh tích cực đcặt ra của nhà trường thành công.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
1. Kết luận:
Quá trình xây dựng lớp học hạnh phúc tôi nhận ra rằng việc khó khăn nhất
là mỗi giáo viên phải cố gắng thay đổi bản thân mình để đạt được hạnh phúc.
Chúng ta đặt mục tiêu cho sự thay đổi trong từng gian đoạn, suy nghĩ và rút kinh
nghiệm mỗi ngày. Hãy đặt mình vào vị trí của học trò để hiểu học trò, tìm hiểu
kĩ hoàn cảnh và tính cách học trò để tác động phù hợp. Trân trọng và hạnh phúc
từ những điều bình dị nhất, ghi nhận sự tiến bộ dù rất nhỏ của học trò. Qua các
buổi giao ban công tác chủ nhiệm mỗi tháng tôi đã chia sẻ đên các thầy cô và
được sự đồng tình rất lớn. Mô hình lớp học hạnh phúc sẽ nhân rộng ở các lớp
khác trong trường.
Cùng sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, công nghệ thông tin…sẽ tác động
rất lớn đến tình cảm, nhân cách của học sinh. Các tệ nạn xã hội, trào lưu xấu,
bệnh trầm cảm học học đường, bạo lực và suy thoái đạo đức của lớp trẻ...cũng vì
thế mà tăng nhanh chóng. Vì vậy cả xã hội phải cùng nhau xây dựng một ngôi
trường lành mạnh, vui vẻ và hạnh phúc để giáo dục học sinh phát triển toàn diện
17
về đạo đức, lối sống và kiến thức văn hóa. Việc xây dựng lớp học hạnh phúc tiền
đề để xây dựng “Trường học hạnh phúc” trên từng địa phương. Nó có thể nhân
rộng và phát triển ở tất cả các lĩnh việc khác như cơ quan hành chính, công ty, xí
nghiệp…tiến tới một xã hội hạnh phúc.
2. Kiến nghị:
Đối với Sở GD&ĐT: Thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng nâng cao kĩ
năng sư phạm, kĩ năng nghề nghiệp cho giáo viên phù hợp với sự phát triển của
xã hội. Mở ra các diễn đàn cho giáo viên ở các trường học được trao đổi kinh
nghiệm trong công tác giảng dạy và chủ nhiệm. Có ban cố vấn giúp dỡ giáo viên
tháo gỡ những khó khăn, bế tắc trong quá trình giáo dục. Giảm bớt những áp lực
như hồ sơ sổ sách, chương trình giáo dục, áp lực chất lượng, tạo môi trường tốt
nhất cho giáo viên phát huy được năng lực của bản thân. Đấu tranh chống bệnh
thành tích trong giáo dục. Có như vậy giáo viên mới có môi trường để hoàn
thành tốt nhiệm vụ, hạnh phúc với nghề. Nhân rộng mô hình lớp học hạnh phúc
đến từng trường học, hướng tới xây dựng trường học hạnh phúc trên địa bàn
tỉnh.
Đối với Trường THPT Lang Chánh: Tạo nhiều sân chơi mà học sinh được
vui vẻ, được bộ lộ khả năng của bản thân. Thành lập tổ tư vấn tâm lý cho học
sinh để giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong quá trình học tập và trưởng
thành. Trong quá trình giáo dục, công tác chủ nhiệm là một nhiệm vụ rất quan
trọng, GVCN là cầu nối quan trọng giữa học sinh, gia đình và xã hội sẽ chịu tác
động từ nhiều phía. Vì vậy nhà trường nên giảm những quy định, đặt ra những
chỉ tiêu phù hợp giảm áp lực cho giáo viên, tạo động lực GVCN để hoàn thành
tốt nhiệm vụ, không còn “Sợ chủ nhiệm” nữa. Triển khai xây dựng lớp học hạnh
phúc trên phạm vi toàn trường.
Thanh Hóa, ngày 20 tháng 05 năm 2019
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
(Đã ký)
(Đã ký)
Nguyễn Đình Bảy
Hoàng Thị Hải Đường
18
Tài liệu tham khảo
1. Nguồn tài liệu Internet, trang điện tử />phúc
2. Bài 11, Giáo dục công dân 10
3. Chia sẻ của ThS Trần Thị Hải Yến, Khoa Giáo dục, Học viện Quản lý
giáo dục, trang điện tử của tác giả Lê Đăng.
4. Chia sẻ của PGS.TS Huỳnh Văn Sơn - Phó hiệu trưởng Trường ĐH Sư
phạm TPHCM, trang điện tử của tác giả Hồng
Chương
5. Báo cáo Hội nghị cán bộ công chức năm học 2017 - 2018 Trường THPT
Lang Chánh.
6. Báo cáo nề nếp toàn trường, trường THPT Lang Chánh năm học 20162017, năm học 2017-2018 và năm học 2018- 2019.
7. Kết quả giáo dục của trường THPT Lang Chánh các năm học 2016-2017,
năm học 2017-2018 và năm học 2018- 2019.
19
DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả:
Hoàng Thị Hải Đường
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên - Trường THPT Lang Chánh
TT
1.
Tên đề tài SKKN
Cấp đánh giá
xếp loại (Phòng,
Sở, Tỉnh...)
Kết quả đánh
giá xếp loại
(A, B, hoặc C)
Năm học
đánh giá xếp
loại
Sử dụng phương pháp phân tích
đi lên để tìm lời giải cho bài toán
chứng minh đường thẳng vuông
góc với mặt phẳng
Sở GD&ĐT
C
2015-2016
20