Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Lồng ghép các hiện tượng thực tiễn vào một số bài dạy hoá học lớp 11 nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 18 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chúng ta đang sống ở đầu thế kỷ 21 là thế kỷ đi vào nền văn minh trí tuệ
với các xu thế đã rõ ràng, sự phát triển của công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ
thông tin và truyền thông, kinh tế tri thức, xã hội học tập. Sự phát triển xã hội và
đổi mới đất nước đang đòi hỏi cấp bách phải nâng cao chất lượng giáo dục để
đáp ứng được yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho công
việc đổi mới này. Cùng với những thay đổi về nội dung, sự đổi mới về nền giáo
dục cần có những đổi mới căn bản về phương pháp dạy học
Môn Hóa học ở trường THPT giữ một vai trò quan trọng trong việc hình
thành và phát triển trí dục của học sinh. Mục đích của môn học là giúp học sinh
hiểu đúng đắn và hoàn chỉnh nâng cao cho học sinh những tri thức, hiểu biết về
thế giới con người thông qua các bài học, giờ thực hành của Hóa học. Tuy nhiên,
đối với môn Hoá học: Các khái niệm, định luật, hiện tượng, bản chất Hoá học
nhiều khi rất trừu tượng, khó hiểu, khô cứng làm học sinh khó tiếp thu, dễ nhàm
chán, đặc biệt với những học sinh có tư duy không tốt sẽ có xu hướng dẫn đến sợ
bộ môn này. Xuất phát từ thực tế đó và với kinh nghiệm giảng dạy bộ môn Hoá
học, Tôi nhận thấy để nâng cao hứng thú học bộ môn Hoá của Học sinh, từ đó
dần nâng cao chất lượng bộ môn Hoá ở trường phổ thông hiện nay, người giáo
viên ngoài việc phát huy tốt các phương pháp dạy học tích cực cần khai thác
thêm các hiện tượng hoá học thực tiễn trong đời sống đưa vào bài giảng bằng
nhiều hình thức khác nhau. Có những vấn đề hoá học có thể giúp học sinh giải
thích những hiện tượng trong tự nhiên và ứng dụng trong thực tiễn đời sống
thường ngày chỉ bằng những kiến thức rất phổ thông mà không gây nhàm chán,
xa lạ, lại có tác dụng kích thích tính chủ động, sáng tạo, hứng thú trong môn học;
làm cho hoá học không khô khan, bớt đi tính đặc thù và phức tạp. Từ những lí do
đó tôi chọn đề tài “Lồng ghép các hiện tượng thực tiễn vào một số bài dạy
Hoá học lớp 11 nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh”
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lựa chọn đề tài “Lồng ghép các hiện tượng thực tiễn vào một
số bài dạy Hoá học lớp 12 nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh” và phương


pháp sử dụng chúng theo hướng dạy học tích cực nhằm phát triển năng lực nhận
thức tư duy độc lập, sáng tạo của học sinh, góp phần đổi mới phương pháp đạy
học ở trường phổ thông
3. Đối tượng nghiên cứu
Lồng ghép các hiện tượng thực tiễn vào một số bài dạy Hoá học lớp 11
nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình dạy học, dựa vào sự hướng dẫn của giáo viên học sinh
thực hiện các hoạt động chủ yếu theo một quy trình sau:
Thu thập thông tin: thông qua việc tự làm thí nghiệm hoặc quan sát thí
nghiệm do giáo viên biểu diễn, quan sát hiện tượng tự nhiên, đọc tài liệu, xem

1


tranh ảnh, ôn lại những kiến thức đã học, học sinh sẽ thu được những thông tin
cần thiết về các hiện tượng hóa học cần học.
Xử lí thông tin: thông qua một hệ thống câu hỏi, giáo viên hướng dẫn học
sinh căn cứ vào thông tin đã thu thập để rút ra những kết luận cần thiết.
B. PHẦN NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN
1. Cơ sở lí luận của vấn đề:
Đối với học sinh THPT các em chưa có nhiều định hướng nghề nghiệp
cho tương lai nên ý thức học tập các bộ môn chưa cao, các em chỉ thích môn nào
mình học có kết quả cao hoặc thích giáo viên nào thì thích học môn đó. Người
giáo viên dạy hóa học phải biết nắm tâm lý và đặc điểm lứa tuổi của học sinh,
trong đó phương pháp dạy học bằng cách lồng ghép giải thích các hiện tượng
hóa học thực tiễn trong tự nhiên và trong đời sống hàng ngày để các em thấy
môn hóa học rất gần gũi với các em.
Tuy nhiên tùy thuộc vào từng bài giảng cụ thể giáo viên có thể lồng ghép
giải thích các hiện tượng trong thực tế vào bài dạy của mình cho phù hợp.

2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
a) Thuận lợi:
- Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường.
- Đội ngũ giáo viên môn Hoá đều trẻ, nhiệt tình trong công việc.
- Đa số học sinh có ý thức học tập tốt.
b) Khó khăn:
- Bản thân kinh nghiệm giảng dạy cũng như quản lý học sinh còn nhiều hạn chế.
- Một số học sinh còn rất mơ hồ trong việc nắm bắt các kiến thức, việc nắm bắt
kiến thức bộ môn hóa học của các em chỉ ở mức độ thấp đó là nắm các khái
niệm, định luật… một cách máy móc. Học sinh chưa biết và vận dụng… chưa đi
sâu vào quá trình giải thích, giải quyết các vấn đề nên các em hay nhàm chán.
- Môn hoá học trong trường phổ thông là một trong môn học khó, nếu không có
những bài giảng và phương pháp hợp lý phù hợp với thế hệ học trò dễ làm cho
học sinh thụ động trong việc tiếp thu, cảm nhận.
- Nhà trường chưa có phòng thực hành bộ môn nên các tiết thực hành chỉ dừng
lại ở mức độ thí nghiệm biểu diễn của giáo viên vì vậy không tạo được mục tiêu
thúc đẩy ý thức học tập cũng như sự yêu thích bộ môn cho học sinh.
Để xem Học sinh có thích học môn Hoá hay không, Tôi đặt ra câu hỏi: Em có
thích học môn Hoá không?
Điểm
SL
Điểm TB
Điểm khá
Điểm giỏi
dưới TB
học
sinh
SL
%
SL

%
SL
%
SL
%
11A3
38
2
5,3 15 39,5 17 44,7
4
10,5
11A4
40
2
5
12
30
22
55
4
10
11A9
40
3
7,5 17 42,5 18
45
2
5
11A10
42

3
7,1 24
57
13
31
2
4,9
11A11
41
2
4,9 21 51,2 15 36,6
3
7,3
11A12
46
1
2
10 21,7 30 65,2
5
11,1
2


3. Các giải pháp và tổ chức thực hiện:
Trong dạy và học Hoá học, việc đưa các câu hỏi thực tiễn vào trong giờ
học sẽ giúp hoá học gần gũi với học sinh, tạo hứng thú đồng thời giúp các em
hiểu biết hơn về cuộc sống. Để thực hiện được, người giáo viên cần nghiên cứu
kỹ bài giảng, xác định được kiến thức trọng tâm, tìm hiểu, tham khảo các vấn
đề thực tế liên quan phù hợp với từng người học. Đôi lúc cần quan tâm đến
tính cách sở thích của đối tượng tiếp thu, hình thành giáo án theo hướng phát

huy tính tích cực chủ động của học sinh, phải mang tính hợp lý và hài hoà; đôi
lúc có khôi hài nhưng sâu sắc, vẫn đảm nhiệm được mục đích học môn hoá
học. Tuy nhiên, thời gian giành cho vấn đề này là không nhiều, “nó như thứ
gia vị trong đời sống không thể thay cho thức ăn nhưng thiếu nó thì kém đi
hiệu quả ăn uống”.
3.1. Các giải pháp
3.1.1. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày, thường lồng
ghép vào cuối bài học. Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh căn cứ vào
những kiến thức đã học tìm cách giải thích hiện tượng ở nhà hay những lúc bắt
gặp hiện tượng đó, học sinh sẽ suy nghĩ, ấp ủ câu hỏi vì sao lại có hiện tượng
đó? Tạo tiền đề thuận lợi khi học bài học mới tiếp theo.
3.1.2. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường qua các
phương trình phản ứng hoá học cụ thể trong bài học. Cách nêu vấn đề này có thể
sẽ mang tính cập nhật, làm cho học sinh hiểu và thấy được ý nghĩa thực tiễn bài
học. Giáo viên có thể giải thích để giải tỏa tính tò mò của học sinh. Mặc dù vấn
đề được giải thích có tính chất rất phổ thông.
3.1.3. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thay
cho lời giới thiệu bài giảng mới. Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh bất
ngờ, có thể là một câu hỏi rất khôi hài hay một vấn đề rất bình thư ờng mà hàng
ngày học sinh vẫn gặp nhưng lại tạo sự chú ý quan tâm của học sinh trong quá
trình học tập
3.1.4. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thông
qua các bài tập tính toán. Cách nêu vấn đề này có thể giúp cho học sinh trong khi
làm bài tập lại lĩnh hội được vấn đề cần truyền đạt, giải thích. Vì muốn giải được
bài toán hóa đó học sinh phải hiểu được nội dung kiến thức cần huy động, hiểu
được bài toán yêu cầu gì? Và giải quyết như thế nào?
3.1.5. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thông
qua những câu chuyện ngắn có tính chất khôi hài, gây cười có thể xen vào bất cứ
thời gian nào trong suốt tiết học. Hướng này có thể góp phần tạo không khí học
tập thoải mái. Đó cũng là cách kích thích niềm đam mê học hoá.

3.1.6. Tiến hành tự làm thí nghiệm qua các hiện tượng thực tiễn xung
quanh đời sống ngày thường ở địa phương, gia đình … sau khi đã học bài giảng.
Cách nêu vấn đề này có thể làm cho học sinh căn cứ vào những kiến thức đã học
tìm cách giải thích hay tự tái tạo lại kiến thức qua các thí nghiệm hay những lúc

3


bắt gặp hiện tượng, tình huống đó trong cuộc sống. Giúp học sinh phát huy khả
năng ứng dụng hoá học vào đời sống thực tiễn.
3.1.7. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường từ đó
liên hệ với nội dung bài giảng để rút ra những kết luận mang tính quy luật. Làm
cho học sinh không có cảm giác khó hiểu vì có nhiều vấn đề lý thuyết nếu đề cập
theo tính đặc thù của bộ môn thì khó tiếp thu được nhanh so với gắn nó với thực
tiễn hàng ngày.
3.2. Các biện pháp để tổ chức thực hiện
Trong quá trình thực hiện tôi đã lựa chọn những nội dung, hiện tượng
trong thực tế có liên quan đến các bài học trong chương trình hóa học 11 CB
và phân bố chúng vào cụ thể từng bài học như sau:
Bài 2: axit, bazơ, muối
VD: Tại sao khi ăn trái cây không nên đánh răng ngay
Giải thích: Các nhà khoa học khuyến cáo, ăn trái cây phải một giờ sau
mới được đánh răng. Chất chua ( tức axit hữu cơ) trong trái cây sẽ kết hợp với
những thành phần trong thuốc đánh răng theo bàn chải tấn công vào các kẽ
răng và gây tổn thương cho lợi. Bởi vậy người ta phải đợi đến khi nước bọt
trung hoà lượng axit trong trái cây nhất là táo, cam, nho và chanh.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần thảo luận tính chất
hoá học của axit khi tác dụng với bazơ.
Bài 3: Sự điện li của H2O. PH
VD: Tại sao để cải tạo đất ở một số ruộng chua người ta thường bón bột

vôi?
Giải thích: Thành phần của bột vôi gồm CaO và Ca(OH) 2 và một số ít
CaCO3. Ở ruộng chua có chứa axit, pH < 7, nên sẽ có phản ứng giữa axit với
CaO, Ca(OH)2 và một ít CaCO3 làm giảm tính axit nên ruộng sẽ hết chua.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố bài học.
Bài 7: Nitơ
VD: Ca dao Việt Nam có câu:
“Lúa chiêm lấp ló đầu bờ,
Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”
Câu này mang hàm ý của khoa học như thế nào, có liên quan đến
hóa học hay không ?
Giải thích : Câu ca dao nhắc nhở người làm lúa: Khi lúa đang trổ đòng
đòng mà có trận mưa rào, kèm theo sấm chớp thì sẽ rất tốt và cho năng suất
cao sau này.

4


Do trong không khí có ~ 80% khí N2 và ~ 20% khí O2, khi có chớp (tia
lửa điện) sẽ tạo điều kiện cho N2 hoạt động:
t , p , xt
N2 + O2 ←
→ 2NO
Sau đó:
2NO + O2
→ 2NO2
Khí NO2 sẽ tan vào trong nước mưa:
4NO2 + O2 + 2H2O → 4HNO3
0


HNO3 trong nước mưa phân ly ra H+ , NO3− theo theo nươc mưa xuống
đất nhờ đó mà cây trồng hấp thụ được một lượng đạm tự nhiên( NO3− ) nên phất
triển nhanh.
Áp dụng: Đây là một hiện tượng mang một ý nghĩa thực tiễn, được ông
cha ta đúc kết lại bằng câu ca dao.

(Sấm chớp cung cấp năng lượng cho phản ứng giữa N2 và O2)
Bài 8: Amoniac và muối amoni
VD: Bột nở là chất gì mà có thể làm cho bánh to ra và xốp được
Giải thích: (NH4)2CO3 được dùng làm bột nở vì khi trộn thêm bột mì
hoặc các bột khác, lúc nướng bánh (NH 4)2CO3 phân huỷ tạo thành các chất
khí và hơi làm cho bánh xốpovà nở.
t
(NH4)2CO3 →
NH3↑ + CO2↑ + H2O↑
Áp dụng: Giáo viên có thể đưa vấn đề này vào phần củng cố cuối bài
Bài 9: Axit nitric:
VD: “Hiện tượng mưa axit” là gì ? Tác hại như thế nào ?
Giải thích: Khí thải công nghiệp và khí thải của các động cơ đốt trong ô
tô, xe máy) có chứa các khí SO2, NO, NO2,…Các khí này tác dụng với oxi và

5


hơi nước trong không khí nhờ xúc tác là các oxit kim loại (có trong khói, bụi
nhà máy) hoặc ozon tạo ra axit H2SO4 và axit nitric HNO3.
2SO2 + O2 + 2 H2O → 2 H2SO4
2NO + O2 → 2NO2
4NO2 + O2 + 2H2O → 4HNO3
Axit H2SO4 và HNO3 tan vào nước mưa tạo ra mưa axit. Trong đó H2SO4 là

nguyên nhân chính gây ra mưa axit.
Hiện nay mưa axit là nguồn ô nhiễm chính ở một số nơi trên thế giới.
Mưa axit làm mùa màng thất thu và phá hủy các công trình xây dựng, các
tượng đài làm từ đá cẩm thạch, đá vôi, đá phiến (các loại đá này thành phần
chính là CaCO3):
CaCO3 + H2SO4 → CaSO4 + CO2↑ + H2O
CaCO3 + 2HNO3 → Ca(NO3)2 + CO2↑ + H2O
Áp dụng:Ngày nay mưa axit và những tác hại của nó đã gây nên những
hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt là những nước công nghiệp phát triển. Vấn đề
ô nhiễm môi trường đang được cả thế giới quan tâm. Việt Nam chúng ta cũng
đang rất chú trọng đến vấn đề này. Do vậy Giáo viên phải cung cấp cho học
sinh những hiểu biết về hiện tượng mưa axit cũng như tác hại của nó nhằm
nâng cao ý thức bảo vệ môi trường.

(Tác hại của mưa axit)
Bài 10: Photpho
VD 1: Thuốc chuột là chất gì? Nếu sau khi ăn thuốc mà không có
nước uống thì chuột chết mau hơn hay lâu hơn?
Giải thích: Thuốc chuột có thành phần chính là Zn 3P2. Sau khi ăn, Zn3P2
bị thủy phân rất mạnh, tạo thành khí PH3 (photphin) rất độc:
6


Zn3P2 + H2O → PH3 + Zn(OH)2
Vì thế hàm lượng nước trong cơ thể chuột giảm, nó khát và đi tìm nước.
Chính PH3 đã giết chết chuột. Càng nhiều nước đưa vào cơ thể chuột → PH 3
thoát ra càng nhiều → chuột càng nhanh chết. Nếu không có nước, chuột càng
lâu chết hơn.
Áp dụng: Vấn đề diệt chuột đang được mọi người quan tâm vì chuột là
con vật mang nhiều mầm bệnh truyền nhiễm cho con người và hay phá hoại

mùa màng. “Thuốc chuột” đang được dùng với mục đích trên. Trong quá trình
diệt chuột bằng thuốc có thể tìm xác con chuột ở chỗ nhiều nước. Nhưng đây
là loại thuốc rất độc nên dễ ảnh hưởng đến sức khỏe con người, vì vậy giáo
viên nên hướng dẫn cho học sinh biết cơ chế diệt chuột của thuốc chuột nhằm
biết cách sử dụng an toàn.
VD 2: Ma trơi là gì? Ma trơi thường gặp ở đâu?
Giải thích: “Ma trơi” chỉ là cái tên gọi mê tín mà thực chất, trong cơ thể
(xương động vật) có chứa một hàm lượng P khi chết phân huỷ tạo 1 phần
thành khí PH3 (Photphin) khi có lẫn một chút khí P2H4 (Điphotphin), khí PH3
không tự bốc cháy ngay trong điều kiện thường mà do P 2H4 tự bốc cháy trong
không khí và tỏa nhiều nhiệt. Chính lượng nhiệt tỏa ra trong quá trình này làm
cho photphin bốc cháy tạo thành khối cầu khí bay trong không khí.
2PH3 + 4O2 → P2O5 + 3H2O
Điều trùng lặp ngẫu nhiên là: Người ta thường gặp “Ma trơi” ở các nghĩa
địa càng tăng nên tính chất kịch tính.
Áp dụng : Vấn đề này phải được đề cập trong bài giảng về Phot pho để giải
thích hiện tượng trong đời sống “Ma trơi”. Tránh tình trạng mê tín dị đoan,
làm cho cuộc sống lành mạnh. Hiện tượng này giáo viên có thể đề cập trong
phần củng cố bài.

7


VD 3 : Ứng dụng của bom napan trong quan sự?
Giải thích: Trong chiến tranh Việt Nam, phốt pho trắng được Mỹ sử dụng với
số lượng khá lớn để phá hủy môi trường, làng mạc, với mục tiêu phá hủy các
cơ sở và nơi ẩn náu của Quân giải phóng cũng như thực hiện chính sách bình
định của chính quyền ngụy Sài Gòn.
Khi bị phốt pho trắng bám lên da, nạn nhân sẽ bị bỏng ngay lập tức, ở
nhiệt độ 3.000 độ C phốt pho sẽ nhanh chóng ăn xuyên qua da thịt và ăn

xuyên qua cả xương và có thể giết chết nạn nhân tại chỗ hoặc do nhiễm trùng
sau đó.
Áp dụng: Giáo viên có thể kể cho học sinh nghe để các em thầy được tội ác
của thức dân Mỹ cũng như những kho khăn vất vả mà ông cha ta đã trải qua.
Từ đó kích thích tình yêu quê hương đất nước của các em.

8


Bài 12: Phân bón hoá học
VD 1: Vì sao người ta dùng tro bếp để bón cho cây ?
Giải thích: Trong tro bếp có chứa muối K 2CO3, cung cấp nguyên tố kali
cho cây.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố bài học.
VD2: Tại sao khi nông nghiệp phát triển thì các vi khuẩn, nấm, giun
tròn… sống trong đất, nước giảm đi rất nhiều.
Giải thích: Một số phân bón có thể tiêu diệt các loại vi sinh vật có hại
này. Ví dụ trước khi trồng khoai tây một tuần người ta đưa vào đất một lượng
urê (1,5 kg/ m2) thì các mầm bệnh bị tiêu diệt hoàn toàn. Hiện tượng dễ thấy
là không còn đỉa trong nước ở nhiều nơi như trước đây nữa.
Áp dụng: Giáo viên có thể áp dụng phần tích hợp bảo vệ môi trường
trong bài.
Bài 15: cacbon
VD: Vì sao khi cơm bị khê người ta thường cho vào nồi cơm một
mẩu than củi ?
Giải thích: Do than củi xốp có tính hấp phụ nên hấp phụ mùi khét của
cơm làm cho cơm đở mùi khê.
Áp dụng: Đây là mẹo vặt thường được dùng khi không may cơm bị khê.
Giáo viên có thể nêu hiện tượng trên khi dạy phần tính chất vật lí hoặc trong
phần nêu ứng dụng của cacbon trong bài “Cacbon”( tiết 23 lớp 11CB) cho học

sinh suy nghĩ rồi sau đó giáo viên nhận xét và bổ sung.
Bài 16: Hợp chất của cacbon
VD1: Làm thế nào để biết dưới giếng có khí độc CO hoặc khí thiên
nhiên CH4 không có oxi để tránh khi xuống giếng bị chết ngạt ?
Giải thích : Trong các giếng sâu ở một số vùng đồng bằng thường có
nhiều khí độc CO, CH4 và thiếu oxi. Vì một lí do nào đó mà ta xuống giếng
thì rất nguy hiểm. Đã có rất nhiều trường hợp tử vong do trèo xuống giếng
gặp nhiều khí độc và chết ngạt do thiếu oxi. Điều tốt nhất là tránh phải xuống
giếng, nếu có xuống thì nên mang theo bình thở oxi. Trước khi xuống giếng
cần thử xem trong giếng có nhiều khí độc hay không bằng cách cột một con
vật như gà, vịt rồi thả xuống giếng. Nếu gà, vịt chết thì chứng tỏ dưới giếng
có nhiều khí độc
Áp dụng: Đây là hiện tượng hay xảy ra vào mùa khô. Mọi người không
hề biết được sự nguy hiểm khi xuống giếng sâu. Thực tế là đã có nhiều cái
chết thương tâm xảy ra mà báo đài đã nêu trong thời gian qua. Giáo viên cần
9


đưa vào bài giảng để nhắc nhở học sinh và mọi người. Vấn đề này có thể xen
vào phần tính chất vật lý của CO
VD2 : Tục ngữ có câu “ Nước chảy đá mòn” mang hàm ý khoa học hóa học
như thế nào?
Trong đá thông thường chủ yếu là CaCO3 trong nước tồng tại phương trình
điện li:
CaCO3 → Ca2+ + CO32− (*)
Khi nước chảy cuốn theo các iôn Ca2+, CO32− theo nguyên lý chuyển dịch
cân bằng hóa học thì cân bằng (*) chuyển dịch theo chiều chống lại sự giảm
nồng độ Ca2+, CO32− nên theo thời gian nước chảy qua đá sẽ mòn dần
Lĩnh vực áp dụng: Hiện tượng này thừơng thấy những phiến đá ở những
dòng chảy đi qua nếu không để ý trong xây dựng sẽ có ảnh hưởng không ít,

góp phần hiểu được dụng ý của khoa học hóa học qua câu tục ngữ làm cho
hóa học trở nên gần gũi.
VD3: “Hiệu ứng nhà kính” là gì ?
Giải thích: Khí cacbonic CO2 trong khí quyển chỉ hấp thụ một phần
những tia hồng ngoại ( tức là những bức xạ nhiệt) của Mặt Trời và để cho
những tia có bước sóng từ 50000 đến 100000 Å đi qua dễ dàng đến mặt đất.
Nhưng những bức xạ nhiệt phát ra ngược lại từ mặt đất có bước sóng trên
140000 Å bị khí CO2 hấp thụ mạnh và phát trở lại Trái Đất làm cho Trái Đất
ấm lên. Theo tính toán của các nhà khoa học thì nếu hàm lượng CO 2 trong
khí quyển tăng lên gấp đôi so với hiện tại thì nhiệt độ ở mặt đất tăng lên 40 C
Về mặt hấp thụ bức xạ, lớp CO 2 ở trong khí quyển tương đương với lớp
thủy tinh của các nhà kính dùng để trồng cây, trồng hoa ở xứ lạnh. Do đó hiện
tượng làm cho Trái Đất ấm lên bởi khí CO2 được gọi là hiệu ứng nhà kính.
Áp dụng: Ngày nay hiện tượng “Hiệu ứng nhà kính” trở thành một vấn đề có
ảnh hưởng mang tính toàn cầu. Mục đích vấn đề giúp học sinh biết được
nguyên nhân và tác hại của hiệu ứng nhà kính nhằm nâng cao ý thức bảo vệ
môi trường. Giáo viên có thể đặt vấn đề này khi dạy phần Cacbon đioxit.
Bài 17: Silic và hợp chất của Silic
VD: Làm thế nào có thể khắc được thủy tinh ?
Giải thích: Muốn khắc thủy tinh người ta nhúng thủy tinh vào sáp nóng chảy,
nhấc ra cho nguội, dùng vật nhọn khắc hình ảnh cần khắc nhờ lớp sáp mất đi,
rồi nhỏ dung dịch HF vào thì thủy tinh sẽ bị ăn mòn ở những chổ lớp sáp bị
cào đi.
SiO2 + 4HF → SiF4 ↑ + 2H2O

10


Nếu không có dung dịch HF thì thay bằng dung dịch H 2SO4 đặc và bột
CaF2. Làm tương tự như trên nhưng ta cho bột CaF 2 vào chổ cần khắc,sau đó

cho thêm H2SO4 đặc vào và lấy tấm kính khác đặt trên chổ cần khắc. Sau một
thời gian, thủy tinh cũng sẽ bị ăn mòn ở những nơi cạo sáp.
CaF2 + 2H2SO4 → CaSO4 + 2HF↑ ( dùng tấm kính che lại)
Sau đó
SiO2 + 4HF → SiF4↑ + 2H2O

Áp dụng: Đây là một vấn đề rất thực tế khi mà nghề khắc thủy tinh đang
phát triển ở nước ta. Sau bài học học sinh khkông những biết được phương
pháp khắc thủy tinh mà còn có thể giải thích được vấn đề này. Thậm chí đây
là cơ sở cho việc học nghề, khơi gợi niềm đam mê học tập, học sinh có thể tự
làm thí nghiệm này trong tiết thực hành. Giáo viên nêu vấn đề trên để dẫn dắt
vào bài giảng “Hợp chất silic”(Tiết 25 lớp 11 CB).
Bài 25: Ankan
VD: Vì sao có khí metan thoát ra từ ruộng lúa hoặc các ao hồ
Giải thích: Trong ruộng lúa, ao hồ thường chứa các vật thể hữu cơ. Khi các
vật thể này thối rữa ( hay quá trình phân huỷ các vật thể hữu cơ) sinh ra khí
metan. Người ta ước chừng khoảng 1/7 khí lượng khí metan thoát vào khí
quyển hàng năm là từ các hoạt động cấy cày.
Lợi dụng hiện tượng này người ta đã làm các hầm biogas trong chăn
nuôi heo tạo khí metan để sử dụng đun nấu hay chạy máy…

11


Áp dụng: Đây là hiện tượng thường gặp và là cơ sở để giải quyết các vấn đề
môi trường ở các địa phương chăn nuôi nhỏ lẽ. Giáo viên đưa vấn đề này vào
phần liên hệ thực tế.
Bài 29: Anken
VD: : Làm cách nào để quả mau chín ?
Giải thích: Từ lâu người ta đã biết xếp một số quả chín vào giữa sọt quả

xanh thì toàn bộ sọt quả xanh sẽ nhanh chóng chín đều. Bí mật của hiện tượng
này đã được các nhà khoa học phát hiện khi nghiên cứu quá trình chín của trái
cây. Trong quá trình chín trái cây đã thoát ra một lượng nhỏ khí etilen. Khí
này sinh ra có tác dụng xúc tác quá trình hô hấp của tế bào trái cây và làm cho
quả mau chín.
Áp dụng:Vấn đề này học sinh có thể vận dụng vào đời sống. Giáo viên
đặt câu hỏi trên cho củng cố bài.
Bài 32: Ankin
VD:: Vì sao ném đất đèn xuống ao làm cá chết ?
Giải thích: Đất đèn có thành phần chính là canxi cacbua CaC 2, khi tác
dụng với nước sinh ra khí axetilen và canxi hiđroxit:
CaC2 + 2H2O → C2H2+ Ca(OH)2
Axetilen có thể tác dụng với nước tạo ra anđehit axetic, chính chất này
làm tổn thương đến hoạt động hô hấp của cá vì vậy có thể làm cá chết
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho củng cố bài.
Bài 40: Ancol
VD1: Vì sao dụng cụ phân tích rượu (máy đo nồng độ cồn) phát
hiện các tài xế đã uống rượu?

( Kiểm soát lái xe sử dụng rượu bia)
12


Giải thích: Thành phần chính của các loại nước uống có cồn là rượu
etylic. Đặc tính của rượu etylic là dễ bị oxi hóa. Có rất nhiều chất oxi hóa có
thể tác dụng với rượu nhưng người chọn một chất oxi hóa là Crom(VI)oxit
CrO3. Đây là một chất oxi hóa rất mạnh, là chất ở dạng kết tinh thành tinh thể
màu vàng da cam. Bột oxit CrO3 khi gặp rượu etylic sẽ bị khử thành oxit
Cr2O3 là một hợp chất có màu xanh đen.
Các cảnh sát giao thông sử dụng các dụng cụ phân tích rượu etylic có

chứa CrO3. Khi tài xế hà hơi thở vào dụng cụ phân tích trên, nếu trong hơi thở
có chứa hơi rượu thì hơi rượu sẽ tác dụng với CrO 3 và biến thành Cr2O3 có
màu xanh đen. Dựa vào sự biến đổi màu sắc mà dụng cụ phân tích sẽ thông
báo cho cảnh sát biết được mức độ uống rượu của tài xế. Đây là biện pháp
nhằm phát hiện các tài xế đã uống rượu khi tham gia giao để ngăn chặn những
tai nạn đáng tiếc xảy ra.
Áp dụng: Tai nạn giao thông luôn là nổi ám ảnh của mọi người. Một
trong những nguyên nhân chính xảy ra tai nạn giao thông chính là rượu.
Nhằm giúp cho học sinh thêm hiểu biết về cách nhận biết rượu trong cơ thể
một cách nhanh và chính xác của cảnh sát giao thông, giáo viên nên đưa nội
dung này vào bài Ancol lớp 11 .
Bài 44: Anđehit- Xeton
VD: Gương soi có lịch sử như thế nào?
Giải thích: Thời xa khi muốn soi mình phải soi qua mặt nước, khi đến
thời đồ đồng thau thì bằng gương làm bằng đồng nhưng nhanh ố, sau dần
chuyển sang thuỷ ngân tráng sau tấm kính phẳng, nhưng thuỷ ngân gây ngộ
độc cho người sản xuất. Dần dần và ngày nay người ta đã thay thế bằng bạc
tráng sau tấm kính nhờ phản ứng anđehit (R−CHO) với dung dịch
AgNO3/NH3 hay thay andehit bằng glucozơ. Ag tạo ra bám chặt vào gương,
người ta quét lên mặt sau chiếc gương một lớp sơn dầu bảo vệ. Phích nước
cũng chế tạo kiểu này.
Áp dụng: Đây là một ứng dụng của hợp chất có chức andehit vào đời
sống. Giáo viên có thể đặt vấn đề này vào phần mở bài,để học sinh hiểu phần
nào về sự tạo gương, ruột phích mà hàng ngày ai cũng bắt gặp.
Bài 45: Axit cacboxylic
VD1: : Vì sao bôi vôi vào chỗ ong, kiến đốt sẽ đỡ đau ?
Giải thích: Do trong nọc của ong, kiến, nhện (và một số côn trùng khác)
có axit hữu cơ tên là axit formic (HCOOH). Vôi là chất bazơ nên trung hòa
axit làm ta đỡ đau.
13



Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên vào phần củng cố bài
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Khi chưa áp dụng đề tài này thì tỉ lệ học sinh yêu thích học môn Hoá rất
ít , từ đó dẫn đến kết quả học tập của học sinh rất thấp. Sau khi tôi áp dụng
phương pháp dạy học tích cực lồng ghép các hiện tượng thực tiễn vào bài
giảng thì tỉ lệ học sinh thích học môn Hoá tăng lên rõ rệt. Ở các tiết học rất
sôi nổi, học sinh hăng hái phát biểu và khắc sâu kiến thức hơn. Từ đó các em
tự biết ứng dụng vào đời sống hàng ngày. Kết quả cụ thể được thể hiện ở bảng
số liệu sau :
Lớp

SL
học sinh

11A3
11A4
11A9
11A10
11A11
11A12

Lớp
11A3
11A4
11A9
11A10
11A11
11A12


38
40
40
42
41
46
SL
học
sinh
38
40
40
42
41
46

Rất thích học

Bình thường

SL
15
13
10
5
8
10

SL

20
20
20
20
22
30

Điểm
dưới TB
SL
%
1
2,6
0
0
2
5
4
9,5
2
4,9
0
0

%
39,5
32,5
25
11,9
19,04

21,74

Điểm TB
SL
16
15
18
20
20
7

%
42,1
37,5
45
47,6
48,78
15,2

Không thích học

%
52,6
50
50
46,62
53,66
65,2
Điểm khá
SL

17
13
15
16
15
33

%
44,7
32,5
37,5
38,1
36,6
71,74

SL
3
6
10
17
11
6

%
7,9
15
25
40,48
26,83
13,04

Điểm giỏi

SL
4
8
5
2
4
6

%
10,5
20
12,5
4,7
9,6
14,3

So sánh giữa hai kết quả này ta thấy số lượng học sinh thích học bộ môn
tăng và chất lượng học sinh cũng tăng lên. Như vậy, khi đưa hiện tượng thực
tế vào bài dạy khả năng tiếp thu và nhớ bài học của học sinh lâu hơn. Chất
lượng một tiết dạy được nâng lên, học sinh hứng thú hơn, việc vận dụng kiến
thức vào để giải các bài tập trở nên dễ dàng hơn.

C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
14


1. Kết luận:
Như vậy đổi mới phương pháp dạy và học hiện nay là hướng tới học tập

chủ động, tích cực tự tìm tòi, chống thói quen học tập thụ động. Các phương
pháp tích cực hướng tới việc hoạt động hoá, tích cực hoá, hoạt động nhận
thức của người học phải gắn liền với giá trị thực tiễn của nội dung bài học. Đó
là nhu cầu cũng là xu hướng của giáo dục thời hội nhập để rèn luyện cho học
sinh khả năng tự lực, nhạy bén trong cuộc sống bao gồm các kĩ năng đặc
trưng chung là
Khả năng liên hệ thực tế các vấn đề học tập vào cuộc sống
Khả năng tự học
Khả năng tổ chức các hoạt động học tập của học sinh
Tăng cường học tập cá nhân phối hợp với học tập hợp tác
Áp dụng các hiện tượng thực tiễn phải biết lựa chọn đúng nội dung bài,
thời gian hợp lí trong giờ học mới cuốn hút sự chú ý, tập trung của học sinh
tạo không khí thoải mái trong tiết học, mới tạo được ý thức học tập và yêu
thích bộ môn.
2. Kiến nghị, đề xuất
Do đặc điểm của học sinh ở nông thôn đa phần các em đều nhút nhát,
ngại nói ra ý kiến của mình nên các em ngày càng thụ động, giáo viên buộc
phải làm việc quá nhiều. Vì vậy trước hết giáo viên phải tạo được tâm lý thoải
mái cho học sinh, làm cho các em bước vào mỗi tiết học cảm thấy nhẹ nhàng,
các em cảm thấy việc tự mình làm chủ, lĩnh hội kiến thức là việc rất tự nhiên
thì khi đó bài học mới có hiệu quả.
Để có những tiết học đạt hiệu quả cao nhất luôn là niềm trăn trở, suy nghĩ
là mục đích hướng tới của từng giáo viên. Trên đây mới chỉ là một số vấn đề
trong muôn vàn vấn đề của hóa học liên quan đến thực tế, cuộc sống hàng ngày



×