Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Sử dụng kỹ thuật sơ đồ tư duy nhằm tạo hứng thú học tập, giúp học sinh học tốt môn công nghệ 11 ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.71 MB, 32 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT TRIỆU SƠN 3

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

SỬ DỤNG KỸ THUẬT SƠ ĐÔ TƯ DUY NHẰM TẠO
HỨNG THÚ HỌC TẬP, GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT
MÔN CÔNG NGHỆ 11 Ở TRƯỜNG THPT.

Người thực hiện: Trịnh Thị Hậu
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Công nghệ CN

MỤC LỤC
THANH HOÁ NĂM 2019
1

Trang


MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài……………………………………………….......
1.2. Mục đích nghiên cứu………………………………………………
1.3. Đối tượng nghiên cứu………………………………………….......
1.4. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………..
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm…………………………..
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm....
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề…………………....


2.3.1.Tổ chức dạy học bằng sơ đồ tư duy......................……………...
2.3.2.Sử dụng kỹ thuật sơ đồ tư duy trong việc kiểm tra bài cũ..........
2.3.3. Sử dụng kỹ thuật sơ đồ tư duy vào tìm hiểu từng nội dung....
2.3.4. Sử dụng kỹ thuật sơ đồ trong việc củng cố kiến thức bài học....
2.3.5. Sử dụng kỹ thuật sơ đồ tư duy hỗ trợ cho các tiết ôn tập...........

1
2
2
2
3
3
4
6
6
8
10
13
15

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường………………………………

16

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận…………………………………………………………....
3.2. Kiến nghị…………………………………………………………..

18

18
20

2


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục và đào tạo có vai trò quan trọng trong việc bồi dưỡng và phát huy
nguồn lực con người - là cơ sở tiền đề để quyết định sự phồn vinh của đất nước
yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Đặc
biệt trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay, trong xu thế của hội
nhập và phát triển, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật kéo theo sự
bùng nổ của công nghệ thông tin đòi hỏi ngành giáo dục phải đổi mới một cách
mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ cả về nội dung chương trình và phương pháp, kỹ
thuật dạy học. Trong đó, đổi mới phương pháp, kỹ thuật dạy học có ý nghĩa
chiến lược.
Mặt khác, mục tiêu của giáo dục Việt Nam ngày nay là đào tạo con người
Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề
nghiệp. Về cách học, khuyến khích học sinh lấy tự học là chính, học tập một
cách chủ động và sáng tạo. Chính vì thế, việc hình thành và rèn luyện cho người
học sự hiểu biết, tâm thế chủ động điều khiển quá trình học tập của bản thân,
phát huy nội lực là việc làm cấp thiết của các nhà giáo dục.
Nghị quyết trung ương 2 khoá VIII đã khẳng định: “Phải đổi mới phương
pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy
sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng phương pháp tiên tiến và phương
tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự
nghiên cứu cho học sinh…”. [3]
Bên cạnh đó nội dung môn học công nghệ quá nặng nề, khô khan, kém
hấp dẫn, đội ngũ giáo viên đào tạo đúng chuyên nghành còn thiếu, xu hướng lựa

chọn nghề nghiệp, sức thuyết phục của chương trình còn ở mức độ, tâm lí coi
nhẹ môn học của học sinh.....và còn nhiều lí do khác nữa được đưa ra để biện
minh cho một thực tế là chất lượng và hiệu quả của giờ học chưa cao. Song tôi
thiết nghĩ mấu chốt của vấn đề là ở chỗ bản thân người giáo viên Công nghệ
cũng đang dạt theo sự ngại học của học sinh, chưa tích cực tìm giải pháp nâng
cao chất lượng giờ học, quá nặng nề đến việc trang bị kiến thức mà không thấy
kiến thức ấy phải được tổ chức thế nào để giúp học sinh tiếp nhận một cách dễ
dàng và hứng thú, chính vì vậy giáo viên cũng chưa có sự đầu tư cho môn học,
tiết học còn diễn ra một cách đơn điệu, khô khan, chưa áp dụng các phương
pháp và kỹ thuật dạy học tích cực, học trò học đối phó, chiếu lệ, không tập
trung, giờ học chưa gây được hứng thú nên hiệu quả giáo dục của bộ môn chưa
thực sự đạt được theo yêu cầu.
Đặc biệt chương trình môn công nghệ lớp 11 nội dung mang nặng tính
chất nguyên lý kỹ thuật, trừu tượng, mờ nhạt, khô khan, khó hiểu, gây khó khăn
trong quá trình tiếp nhận cũng như khắc sâu kiến thức vừa ghi nhớ. Do đó kí ức
khó ghi nhận và tái hiện lại khi cần thiết. Vì vậy cần cụ thể hóa, vật chất hóa,
làm cho lý thuyết cụ thể rõ nét, sâu sắc và có tính thuyết phục hơn, biến những
gì thuộc về lý thuyết trừu tượng thành cái cụ thể, tổng hợp logic và khoa học.
Để tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả giờ dạy theo yêu cầu đổi mới
phương pháp dạy học với định hướng “lấy học sinh làm trung tâm” và nhằm
mục đích phát triển năng lực cho học sinh. Là giáo viên dạy môn Công nghệ tôi
3


1.4.

luôn xác định rằng: Bản thân cần phải năng động, sáng tạo và linh hoạt trong sử
dụng các phương pháp, hình thức dạy học. Phải khơi dậy được ở học sinh niềm
đam mê hứng thú với tiết học, môn học như Bác Hồ đã từng dạy: “Siêng học tập
thì mau biết, siêng nghĩ ngợi thì hay có sáng kiến”, “các thầy nên thi nhau tìm

cách dạy sao cho dễ hiểu, dễ nhớ, nhanh chóng và thiết thực” [5] mới tạo được
hứng thú học tập, phát triển được năng lực người học và đạt được mục tiêu giáo
dục như mong muốn.
Chính vì vậy tôi lựa chọn đề tài: “Sử dụng kỹ thuật sơ đồ tư duy nhằm
tạo hứng thú học tập, giúp học sinh học tốt môn công nghệ 11 ở trường
THPT” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình trong năm học 2018 - 2019.
Đây là vấn đề khiến tôi suy nghĩ rất nhiều trong quá trình công tác giảng dạy ở
trường THPT Triệu Sơn 3, đề tài thực sự thiết thực và rất cần thiết hiện nay
trong dạy học môn học.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là xây dựng một hệ thống các sơ đồ tư duy
được sử dụng trong nội dung các bài học, kiểm tra bài cũ, tổng kết bài, đặc biệt
là các tiết ôn tập chương, giúp học sinh sáng tạo, tiết kiệm thời gian, ghi nhớ tốt
hơn, và nhìn thấy bức tranh tổng thể của cả bài. Từ đó giúp phát huy hiệu quả sự
sáng tạo và đóng góp của từng thành viên trong nhóm khi làm việc theo nhóm.
Hay nói cách khác giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh ghi chép tổng hợp nội dung
bài theo sơ đồ tư duy. Vì vậy làm cho tiết học trở nên nhẹ nhàng, không bị khô
khan, nặng nề nhàm chán nhưng cũng không làm ảnh hưởng tới mục tiêu của bài
học. Qua quá trình nghiên cứu và viết sáng kiến kinh nghiệm tôi đã giải tỏa
được những vướng mắc mà trước đây khi dạy học tôi đã gặp phải. Từ đó tạo
được niềm tin cho đồng nghiệp và học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là khai thác hệ thống một số bài có thể sử
dụng kỹ thuật sơ đồ tư duy thuộc môn công nghệ khối 11.
- Đề tài phân tích thực trạng hứng thú học tập của học sinh đối với môn
công nghệ.
- Tìm hiểu nguyên nhân làm học sinh chưa hứng thú, chưa đam mê với
môn học.
- Đề tài khảo sát, đánh giá được thực trạng việc học tập của học sinh một số
lớp được chọn làm đối tượng nghiên cứu trước và sau tác động.

Phương pháp nghiên cứu
• Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết
Nghiên cứu sách giáo khoa, báo, tài liệu, giáo trình, các văn bản, chỉ thị,
nghị quyết cơ bản liên quan đến nội dung đề tài. Trên cơ sở đó phân tích, tổng
hợp khái quát, rút ra những vấn đề cần thiết cho đề tài.
• Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
Tham gia dự giờ lấy ý kiến của thầy cô phụ trách việc giảng dạy môn công
nghệ ở trường. Từ đó xác định được những khó khăn trong việc triển khai dạy
học môn công nghệ. Thăm dò trao đổi ý kiến với giáo viên về vấn đề đổi mới
phương pháp dạy học, tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh. Tiếp thu ý
kiến của các thầy cô giáo khi tiến hành xây dựng các nội dung bài học liên quan
4


đến nội dung đề tài, điều tra hứng thú học tập môn học của học sinh.
• Phương pháp thực nghiệm
Trên cơ sở đề xuất ý tưởng đề tài sẽ giúp chúng ta sẽ khắc sâu kiến thức,
đồng thời tiến hành soạn giáo án thực nghiệm, thực hiện việc thực nghiệm tại
trường nhằm kiểm chứng kết quả nghiên cứu và đề xuất của đề tài.
• Phương pháp thống kê, xử lý số liệu
Thông qua kết quả quan sát tiết dạy, phân tích, kiểm tra – đánh giá kết quả
học tập của học sinh, xử lý thống kê toán học rồi rút ra những kết luận cần thiết.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Dạy học là một quá trình nhận thức, là quá trình hoạt động của thầy – trò,
trong đó học sinh vừa là đối tượng của hoạt động dạy, vừa là chủ thể của hoạt
động học. Nhiệm vụ của quá trình dạy học là hoàn thiện kỹ năng, kỹ xảo và phải
làm cho trí tuệ của học sinh phát triển, phát hiện ra những dự trữ về sự phát triển
trí tuệ của học sinh tiềm tàng ngay trong quá trình dạy học. Bên cạnh đó vai trò
của thầy cô giáo là người tổ chức, hướng dẫn, chỉ đạo cho học sinh các hoạt

động trong giờ học. Giáo viên cần cân nhắc, chọn lọc, sắp xếp theo trình tự logic
để chuyển tải kiến thức sao cho phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất, phương
tiện kỹ thuật dành cho dạy học, đặc biệt là phù hợp với từng đối tượng học sinh,
làm thế nào để mọi học sinh trong lớp đều tham gia hoạt động, vừa đảm bảo
nhịp độ chung nhưng cũng là điều kiện cho học sinh phát triển hết năng lực của
bản thân.
Để tăng cường hiệu quả giáo dục nói chung. Khoản 2 - Điều 28 - Luật Giáo
dục đã chỉ rõ: “Phương pháp dạy học phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với từng đặc điểm của từng lớp
học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập
cho học sinh”. [4]
Muốn vậy, phải tiến hành áp dụng các phương pháp dạy học tích cực, từng
bước chuyển cách dạy và học từ chỗ trang bị kiến thức cho học sinh sang dạy
học sinh cách tiếp nhận và tìm tòi kiến thức, vận dụng vào thực tế và biến thành
kỹ năng của riêng mình. Cùng với các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực
khác, việc triển khai dạy học bằng kỹ thuật sơ đồ tư duy chính là một công cụ
phù hợp mà các trường đang thực hiện để tiến hành giảm tải đạt chất lượng, kích
thích hứng thú học tập làm phong phú thêm phương pháp dạy học tích cực đã và
đang thực hiện.
Sau khi tìm hiểu và nghiên cứu về bản đồ tư duy được phát minh bởi Tony
Buzan. Tôi nhận thấy rằng bản đồ tư duy là công cụ tư duy mang tính tự nhiên,
nếu vận dụng vào dạy học sẽ gây cảm hứng và niềm say mê học tập cho học
sinh. Đặc biệt bản đồ tư duy rất phù hợp với các tiết ôn tập tổng kết chương,
tổng kết bài..... có thể nói đây là công cụ vô giá không những giúp học sinh mà
cả giáo viên trong việc thu thập phân loại thông tin.
Bản đồ tư duy chính là bức tranh tổng thể về chủ đề đang hướng tới để mỗi
cá nhân có thể hiểu được bức tranh đó, nắm bắt được diễn biến của quá trình tư
duy theo nhóm đó đang diễn ra đến đâu, đang ở nhánh nào của sơ đồ tư duy và
5



tổng quan toàn bộ kết quả của nhóm ra sao. Điều này giúp tiết kiệm thời gian
làm việc trong học tập do các thành viên không mất thời gian giải thích ý tưởng
của mình thuộc ý lớn nào. Sơ đồ tư duy tạo nên sự cân bằng giữa các cá nhân và
cân bằng trong tập thể. Mọi thành viên đều đóng góp ý kiến và cùng nhau xây
dựng. Mặt khác, dựa trên nguyên lý hoạt động của bộ não, sơ đồ tư duy có thể
giúp chúng ta ghi nhớ lâu hơn, đọc nhanh hơn, hiệu quả hơn. Không những vậy
chúng ta cũng hiểu được sơ đồ tư duy, thấy được tương thích giữa sơ đồ tư duy
với cấu tạo, chức năng và hoạt động của bộ não. Từ đó thấy được vai trò quan
trọng của nó trong học tập và đời sống.
Đề tài đặt ra mục đích, nhiệm vụ của nghiên cứu đó là: Ứng dụng triệt để
sơ đồ tư duy vào trong dạy học nói chung và giảng dạy môn công nghệ nói riêng
để phát huy tối đa khả năng tư duy đặc biệt là tư duy hệ thống. Khi học sinh đã
biết thiết kế sơ đồ tư duy và tự ghi chép phần kiến thức như trên, các em đã hiểu
sâu kiến thức và biết chuyển kiến thức từ sách giáo khoa theo cách trình bày
thông thường thành cách hiểu ghi nhớ riêng của mình.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Nội dung kiến thức môn công nghệ 11 là những kiến thức lí thuyết thường
trừu tượng, mang nặng tính nguyên lý kỹ thuật. Do đó học sinh rất khó khăn
trong quá trình tiếp nhận cũng như khắc sâu kiến thức vừa nghiên cứu, gây ra sự
nhàm chán đối với môn học. Các em học sinh có thói quen thụ động quen nghe,
quen chép, ghi nhớ và tái hiện một cách máy móc, những gì giáo viên đã giảng.
Mặt khác xu hướng lựa chọn nghề nghiệp, sức thuyết phục của chương trình còn
ở mức độ, tâm lí coi nhẹ môn học của học sinh.....và còn nhiều lí do khác nữa
được đưa ra để biện minh cho một thực tế là chất lượng và hiệu quả của giờ học
chưa cao. Song tôi thiết nghĩ mấu chốt của vấn đề là ở chỗ bản thân người giáo
viên công nghệ cũng đang dạt theo sự ngại học của học sinh, chưa tích cực tìm
giải pháp nâng cao chất lượng giờ học, quá nặng nề đến việc trang bị kiến thức
mà không thấy kiến thức ấy phải được tổ chức thế nào để giúp học sinh tiếp

nhận một cách dễ dàng và hứng thú. Thể hiện ở việc đầu năm trong tiết học đầu
tiên tôi đều tiến hành điều tra hứng thú học tập của học sinh với môn công nghệ
ở các lớp tôi dạy. Cơ sở để thực hiện điều tra là các em đã được học môn công
nghệ với những nội dung liên quan ở cấp học dưới (THCS), qua đó để nắm bắt
tình hình chung về quan điểm thái độ học tập của học sinh đối với bộ môn và
đưa ra được các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục của bộ môn. Nội
dung phiếu điều tra được trình bày ở (Phụ lục 1). (Phiếu điều tra không yêu cầu
ghi tên học sinh để đảm bảo tính khách quan). Kết quả điều tra như sau:
Bảng 2.2.1. Thống kê về hứng thú học tập của HS với môn học Công nghệ.
Năm học 2017 – 2018
Năm học 2018 – 2019
Tổng
Mức độ hứng Lớp 11D4 Lớp 11D3 Lớp 11E2 Lớp 11E4
thú
SL
%
SL
% SL %
SL
%
SL
%
Rất thích
8
18.2 7 16.7 4
9.1
8
19.5 27 15.8
Bình thường
14 31.8 16 38,1 17 38.6 18 43.9 65 38.0

Không thích
22 50.0 19 45.2 23 52.3 15 36.6 79 46.2
Tổng
44 100 42 100 44 100 41
100 171 100
6


Kết quả điều tra trên cho thấy: Chỉ 15,8% tổng số học sinh được điều tra là
rất có hứng thú khi học môn công nghệ; Trong khi đó có tới 46,2% tổng số học
sinh được điều tra không thích học môn Công nghệ.
Mặt khác, với địa bàn tương đối khó khăn, nhận thức của người dân còn
thấp, hiểu biết chưa cao, học sinh còn chưa ham muốn học tập bộ môn này. Hơn
nữa chương trình môn công nghệ quá rộng, kiến thức nhiều mà giáo viên chưa
rút gọn những gì cần truyền đạt, những gì chỉ giới thiệu qua và những vấn đề
nào cần hướng dẫn cho học sinh. Qua quá trình điều tra thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2.2.2. Nguyên nhân chủ yếu làm học sinh chưa hứng thú với môn
Công nghệ.
Năm học 2017 – 2018
Năm học 2018 – 2019
Tổng
Nguyên nhân
Lớp 11D4 Lớp 11D3 Lớp 11E2 Lớp 11E4
SL
%
SL
%
SL
%
SL

%
SL
%
Do tiết học buồn tẻ,
không lôi cuốn
17 38.6 17 40,5 16 36.4 18 43.9 68 39.8
Do nội dung kiến thức
SGK còn trừu tượng
khó hiểu, nhiều lý
9
20.5 10 23.8
9
20.5 11 26.8 39 22.8
thuyết
Do đó là môn học phụ
13 29.5 13 30.9 19 43.1 10 24.4 55 32.2
Ý kiến khác
05 11.4 02
4.8
0
0
02
4.9
9
5.2
Tổng
44 100 42 100 44 100 41 100 171 100
Kết quả điều tra trên cho thấy, học sinh chưa có hứng thú học tập với bộ
môn do nhiều nguyên nhân. Song nguyên nhân chủ yếu nhất (chiếm tới 39.8%
tổng số học sinh được điều tra) là do chất lượng giảng dạy của giáo viên còn hạn

chế, tiết học không có gì mới mẻ, đơn điệu, khô khan buồn tẻ…do đó không đủ
sức gây được sự chú ý, hấp dẫn từ phía người học, chưa phát huy được tính tích
cực, chủ động và sáng tạo của học sinh trong giờ học của môn học. Chính vì
những nguyên nhân trên nên dẫn đến khả năng thực hiện và sử dụng sơ đồ tư
duy trong học tập môn học còn hạn chế thể hiện cụ thể ở bảng 2.2.3.
Bảng 2.2.3. Khả năng sử dụng sơ đồ tư duy trong học tập môn học công
nghệ ở trường THPT Triệu Sơn 3.
Năm học 2017 – 2018
Năm học 2018 – 2019
Tổng
Mức độ sử
Lớp 11D4
Lớp 11D3 Lớp 11E5
Lớp 11E4
dụng
SL
%
SL
%
%
SL
SL
%
SL
%
Thường xuyên
1
2.3
0
0

0
0
1
2.4
2
1.7
Thỉnh thoảng
4
9,1
4
9.5
3
6.8
3
7.3
14
8.2
Chưa bao giờ
39 88.6 38
90.5 41 93.2
37
90.3 155 90.1
Tổng
44
100
42
100 44 100
41
100 171 100
Như vậy, đa số học sinh chưa có thói quen sử dụng sơ đồ tư duy trong học

tập môn học, chưa hiểu rõ cách thể hiện nội dung, kiến thức như thế nào trong
việc thiết kế và sử dụng sơ đồ tư duy. Chính vì vậy, chất lượng học tập, sự sáng
tạo, tư duy của học sinh còn yếu cho nên việc sử dụng sơ đồ tư duy trong học
tập của các em vẫn gặp khó khăn. Hầu như các em chưa có thói quen tìm hiểu,
7


vận dụng, sáng tạo mà chỉ quen nghe, quen ghi chép những gì mà giáo viên nói.
Mặt khác học sinh chưa có thói quen chuẩn bị đồ dùng học tập như giấy A4, bút
màu, bút chì, tẩy hoặc bảng phụ trong tiết học.
Vậy làm thế nào để có thể tạo được sự hấp dẫn, cuốn hút đối với học sinh
trong các tiết học, từng nội dung của bài học một cách có hệ thống, bài bản mà
không bị đơn điệu, khô khan, nhàm chán; Làm thế nào để học sinh sử dụng được
thành thạo và có kỹ năng tốt trong sử dụng sơ đồ tư duy vào học tập môn học.
Điều đó đòi hỏi người giáo viên phải biết lựa chọn kiến thức, phương pháp, hình
thức tổ chức phù hợp với từng bài, từng chủ đề, từng đối tượng học sinh, đặc
biệt phải chú ý đến nhu cầu tư duy, tâm lý muốn khám phá cái mới, cái độc đáo
ở học sinh THPT.
Chính vì vậy trong hai năm học 2017 – 2018, năm học 2018 - 2019 sau khi
nghiên cứu kỹ các nội dung tập huấn về việc dạy học theo định hướng phát triển
năng lực học sinh tôi đã sử dụng kỹ thuật sơ đồ tư duy vào dạy học môn công
nghệ 11 ở trường THPT. Nhận thấy bước đầu đã thu được những tín hiệu tích
cực đáng khích lệ từ học sinh. Các em đã rất hào hứng chờ đợi các tiết học được
sử dụng các kỹ thuật sơ đồ tư duy. Bởi ở đó, các em có cơ hội được thể hiện sự
hiểu biết, được bộ lộ khả năng, thế mạnh của mình và đặc biệt các em được chủ
động tích cực trong nắm bắt kiến thức và nội dung bài học.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Trong sáng kiến kinh nghiệm, tôi đã sử dụng kỹ thuật sơ đồ tư duy nhằm
tạo hứng thú học tập, giúp học sinh học tốt môn công nghệ 11 ở trường
THPT qua các hoạt động trong bài học như sau:

2.3.1. Tổ chức dạy học bằng sơ đồ tư duy
Dựa vào nguyên tắc dạy học và tác dụng của kỹ thuật sơ đồ tư duy chúng ta
áp dụng dạy được ở nhiều dạng bài: Bài mới, ôn tập, hệ thống chương hoặc giai
đoạn, làm bài tập công nghệ, đặc biệt là củng cố bài. Giáo viên hướng dẫn học
sinh đi từ khái quát đến cụ thể, dựa trên cơ sở nguyên lý của sơ đồ tư duy hướng
dẫn học sinh lập sơ đồ tư duy: (Nội dung chìa khóa là cây cành nhánh) từ đó học
sinh mở rộng, phát triển thêm. [3]
Thực hiện dạy học bằng cách lập sơ đồ tư duy được tóm tắt qua 4 bước như sau:
- Bước 1: Học sinh lập sơ đồ tư duy theo nhóm hay cá nhân với gợi ý,
hướng dẫn của giáo viên.
- Bước 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm lên báo cáo, thuyết minh về
sơ đồ tư duy mà nhóm mình đã thiết lập.
- Bước 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện sơ đồ tư
duy về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp
học sinh hoàn chỉnh sơ đồ tư duy, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
- Bước 4: Củng cố kiến thức bằng một sơ đồ tư duy mà giáo viên đã chuẩn
bị sẵn hoặc một sơ đồ tư duy mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho
học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó. Khi củng cố kiến thức giáo
viên hướng dẫn HS hệ thống kiến thức bài học bằng sơ đồ tư duy.
(Lưu ý: - Sơ đồ tư duy là một sơ đồ mở, GV yêu cầu các nhóm HS nên vẽ các
kiểu SĐTD khác nhau, GV chỉ nên chỉnh sửa cho HS về mặt kiến thức, góp ý
thêm về đường nét vẽ, màu sắc và hình thức, cấu trúc (nếu cần)).
8


- Ghi bảng: Giáo viên tóm tắt bài học bằng một sơ đồ kiến thức (Dàn bài)
Ví dụ 1: Dạy bài 7: “Hình chiếu phối cảnh” Công nghệ 11
- Đặc điểm của bài là học sinh nắm được khái niệm về hình chiếu phối cảnh
và biết được cách vẽ phác hình chiếu phối cảnh đơn giản. Vì vậy khi dạy bài này
chúng ta cần hướng dẫn học sinh hoạt động nhóm thiết lập sơ đồ tư duy với

“Chìa khóa” là “Hình chiếu phối cảnh” Từ đó xậy dựng kiến thức của từng nội
dung lớn, nhỏ (cây → cành → nhánh) việc làm này giúp học sinh tư duy lựa
chọn kiến thức để lập và phát triển thêm.
Hoạt động 1: Lập sơ đồ tư duy
- Giáo viên hướng dẫn, gợi ý học sinh tiếp cận những nội dung chính của bài
học. Chia lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm được phân công vẽ 1 sơ đồ tư duy cho 1
nội dung chính của bài và hướng dẫn học sinh triển khai sơ đồ theo các vấn đề,
nội dung.
- Lưu ý với học sinh nguyên tắc của sơ đồ tư duy là chỉ viết những nội dung
chính, ngắn gọn, khi trình bày phát triển thêm.
Hoạt động 2: Báo cáo, thuyết minh về sơ đồ tư duy
- Cử học sinh hoặc đại diện của các nhóm lên báo cáo, thuyết minh về sơ đồ tư
duy mà nhóm mình đã thiết lập. Qua hoạt động này giáo viên nắm được việc
hiểu kiến thức, kỹ năng trình bày, tinh thần học tập của học sinh, từ đó giáo viên
vừa bổ sung kiến thức vừa rèn cho các em khả năng thuyết trình trước đông
người, kỹ năng tự tin hơn, mạnh dạn hơn, đây cũng là một trong những điểm cần
rèn luyện của học sinh hiện nay đó là (kỹ năng sống).
Hoạt động 3: Thảo luận, chỉnh sửa, hoàn thiện sơ đồ tư duy
- Tổ chức cho học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa, chất vấn, khắc sâu kiến
thức và hoàn thiện sơ đồ tư duy về kiến thức của nội dung vừa tìm hiểu. (Giáo
viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn thiện sơ đồ tư duy).
Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một sơ đồ tư duy
- Giáo viên cho học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức của bài, thông
qua một sơ đồ tư duy do GV đã chuẩn bị sẵn (vẽ ở bảng phụ hoặc phần mềm
minmap), hoặc sơ đồ tư duy mà các em vừa thiết kế và cả lớp đã chỉnh sửa, hoàn
thiện.
9


Sử dụng kỹ thuật sơ đồ tư duy dạy bài 7: Hình chiếu phối cảnh

2.3.2. Sử dụng kỹ thuật sơ đồ tư duy trong việc kiểm tra bài cũ.
Vì thời gian kiểm tra bài cũ không nhiều, chỉ khoảng 5-7 phút nên yêu cầu
của giáo viên thường không quá khó, không đòi hỏi nhiều sự phân tích, so sánh
để trả lời câu hỏi. Giáo viên thường yêu cầu học sinh tái hiện lại một phần nội
dung bài học bằng cách gọi học sinh lên bảng trả lời câu hỏi. Giáo viên sẽ chấm
điểm tùy vào mức độ thuộc bài của học sinh. Cách làm này vô tình để nhiều học
sinh rơi vào tình trạng “học vẹt”, đọc thuộc lòng mà không hiểu bài. Do đó, cần
phải có sự thay đổi trong việc kiểm tra, đánh giá nhận thức của học sinh, yêu cầu
đặt ra không chỉ “phần nhớ” mà cần chú trọng đến “phần hiểu”. Thay vì sử dụng
câu hỏi vấn đáp trong kiểm tra bài cũ và chỉ kiểm tra được 1 - 3 học sinh, tâm lý
học sinh lúc nào cũng căng thẳng lo học thuộc lòng bài thầy cô đã cho ghi, thì
với việc ứng dụng kỹ thuật sơ đồ tư duy trong dạy học giáo viên có thể kiểm tra
được nhiều học sinh hơn, học sinh tích cực, tự tin hơn và đặc biệt không bị căng
thẳng trong việc học bài cũ của môn học. Cách làm này vừa tránh được việc học
vẹt, vừa đánh giá chính xác học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng học tập.
Các sơ đồ thường được giáo viên sử dụng ở dạng thiếu thông tin, yêu cầu
học sinh điền các thông tin còn thiếu và rút ra nhận xét về mối quan hệ của các
nhánh thông tin với từ khóa trung tâm.
Ví dụ 1: Để kiểm tra bài cũ phần I: Sơ lược lịch sử phát triển động cơ đốt
trong - Bài 20 SGK công nghệ 11.
Giáo viên yêu cầu 2 nhóm học sinh (mỗi nhóm 2-3 em) lên bảng điền các
thông tin còn thiếu để hoàn thiện cây sơ đồ tư duy về lịch sử phát triển động cơ
đốt trong. Thông qua trò chơi “ai nhanh hơn” để kích thích hứng thú học tập.
Sau khi hoàn thành giáo viên yêu cầu học sinh mỗi nhóm thuyết trình về sản
phẩm đồng thời trình bày về vấn đề ô nhiễm môi trường do các ngành sử dụng
nguồn động lực động cơ đốt trong gây ra. Điều này sẽ giúp học sinh bớt căng
10


thẳng khi kiểm tra bài cũ, tránh được tình trạng học vẹt, máy móc thụ động,

khắc sâu được nội dung kiến thức sâu hơn, giáo viên có thể kiểm tra bài cũ một
lần được nhiều đối tượng học sinh tham gia.

Các nhóm học sinh hoàn thành nội dung kiểm tra bài cũ qua sơ đồ tư duy

Sản phẩm sơ đồ tư duy của học sinh sau khi đã hoàn thành

11


Sơ đồ tư duy GV đã chuẩn bị được vẽ qua phần mềm mindmap
Ví dụ 2: Để kiểm tra bài cũ phần II: Nguyên lý làm việc của động cơ 4 kì - Bài
21 SGK công nghệ 11.
GV gọi hai nhóm học sinh đồng thời lên kiểm tra hoàn thành sơ đồ tư duy
về nguyên lý làm việc của động cơ 4 kì, mỗi nhóm gồm 3 học sinh.
Nội dung: - Nhóm 1: Nguyên lý làm việc của động cơ điêzen 4 kì
- Nhóm 2: Nguyên lý làm việc của động cơ xăng 4 kì
Sau khi hoàn thành sơ đồ yêu cầu nhóm cử đại diện trình bày nội dung vừa
hoàn thành và trình bày vấn đề ô nhiễm môi trường do ngành động cơ đốt trong
gây ra? Biện pháp khắc phục? [6] xem (phụ lục 2)

Học sinh thảo luận hoàn thành chuỗi sơ đồ tư duy giáo viên yêu cầu
2.3.3. Sử dụng kỹ thuật sơ đồ tư duy vào tìm hiểu từng nội dung kiến thức
của bài học.
Sử dụng kỹ thuật sơ đồ tư duy là một gợi ý cho cách trình bày. Giáo viên
thay vì gạch chân đầu dòng các ý cần trình bày lên bảng thì việc sử dụng sơ đồ
tư duy để thể hiện một phần hoặc toàn bộ nội dung bài học một cách rất trực
quan, khoa học. Khi đó giáo viên cũng cần phải nghiên cứu làm thế nào để tạo
được sự uyển chuyển về nhận thức thông qua đó tạo được sức hấp dẫn, lôi cuốn
với người học để tiếp tục cuộc hành trình chinh phục những kiến thức mới và

một trong các biện pháp đem lại hiệu quả tích cực đó là kết hợp sử dụng các
phương pháp kỹ thuật dạy học tích cực (kỹ thuật sơ đồ tư duy trong đề tài đang
đề cập) cùng với các kiến thức liên môn, thông qua các trò chơi truyền hình, dẫn
học sinh vào tìm hiểu phần kiến thức mới. Qua đó giáo viên giúp học sinh khắc
sâu kiến thức mới của bài học, rèn luyện được tác phong nhanh nhẹn, phối hợp
nhịp nhàng giữa các thành viên trong nhóm; giáo dục ý thức tích cực và tinh
thần hợp tác trong các hoạt động tập thể.
Ví dụ 1: Để làm rõ nội dung kiến thức phần II “Các biện pháp đảm bảo sự
phát triển bền vững trong sản xuất cơ khí” Bài 19 (Tự động hóa trong sản xuất
cơ khí – Công nghệ 11) giáo viên sử dụng “kỹ thuật sơ đồ tư duy” qua phần
chơi “Ai nhanh hơn” trong chương trình “Ai thông minh hơn học sinh lớp 5”
để tìm hiểu về nguyên nhân và các biện pháp khắc phục ô nhiễm môi trường do
sản xuất cơ khí gây ra, thông qua việc giáo viên chia lớp thành 2 đội chơi để tìm
12


những hình ảnh tương ứng giáo viên cung cấp để dán vào cây sơ đồ tư duy đã
được hình thành sẵn về các tác nhân gây ô nhiễm, đối tượng ô nhiễm gây biến
đổi khí hậu và biện pháp khắc phục trong 4 phút. Đội có sản phẩm nhanh nhất,
chính xác và đẹp là đội thắng cuộc. Giáo viên yêu cầu học sinh dựa vào sơ đồ tư
duy vừa hoàn thành xong trong quá trình hoạt động nhóm rút ra các nguyên
nhân gây ô nhiễm môi trường và các biện pháp đảm bảo sự phát triển bền vững
trong sản xuất cơ khí. [5]

13


Sản phẩm sơ đồ tư duy của học sinh thông qua hoạt động nhóm

Các nhóm trình bày về vấn đề ô nhiễm môi trường do sản xuất cơ khí gây ra

- GV dẫn ý: Các em vừa được tìm hiểu về ô nhiễm môi trường do sản xuất cơ
khí gây ra và đưa ra được một số biện pháp khắc phục để đảm bảo sự phát triển
bền vững trong sản xuất cơ khí qua sơ đồ tư duy. Để từ đó chúng ta nhận thấy
được ô nhiễm môi trường nói chung hay ô nhiễm môi trường lao động nói riêng
đang là vấn đề thời sự cấp bách gây nên biến đổi khí hậu toàn cầu. Giáo viên
cung cấp thông tin về hiện tượng biến đổi khí hậu và cung cấp cho học sinh biết
một số kỹ năng phòng chống giảm nhẹ rủi ro thiên tai qua kỹ thuật sơ đồ tư duy,
giúp học sinh khắc sâu kiến thức bài học. [2]

Một số kỹ năng phòng chống giảm nhẹ rủi ro thiên tai qua kỹ thuật sơ đồ tư duy
Ví dụ 2: Để tìm hiểu “Cấu tạo cơ cấu trục khuỷu thanh truyền” - Bài 23 SGK
công nghệ 11.
GV chia lớp làm hai nhóm, giao nhiệm vụ cho các nhóm tìm hiểu cấu tạo
của các nhóm chi tiết: Pit-tông; Thanh truyền; Trục khuỷu thông qua việc sử
dụng sơ đồ tư duy, kết hợp với tranh ảnh và vật thật chuẩn bị sẵn để trình bày
vào sơ đồ tư duy. Sau khi các nhóm hoàn thành sản phẩm, các nhóm cử đại diện
trình bày về nội dung đã được giao. Các nhóm nhận xét, GV nhận xét kết luận.

14


GV nêu vấn đề để các nhóm thảo luận hoàn thành sản phẩm trên giấy A0

Sơ đồ tư duy giáo viên chuẩn bị sẵn để học sinh tham khảo
Hoặc giáo viên cũng có thể cho học sinh thảo luận trình bày sản phẩm trực
tiếp trên bảng bằng sơ đồ tư duy. (phụ lục 3)
Ví dụ 3: Để tìm hiểu nội dung phần “II: Hệ thống làm mát bằng nước” Bài
26 SGK công nghệ 11. Giáo viên cũng áp dụng hình thức như ví dụ trên. Sản
phẩm và kết quả thu được xem (phụ lục 4)


Giáo viên giao nhiệm vụ học sinh thảo luận hoàn thành sản phẩm
2.3.4. Sử dụng kỹ thuật sơ đồ tư duy trong việc củng cố kiến thức bài học.
Giáo viên củng cố kiến thức cho học sinh sau bài học thì dạng bài tập thích
hợp là yêu cầu học sinh, các nhóm HS tự thiết kế cho mình một bản đồ theo ý
muốn sáng tạo của mình với màu sắc tùy ý, có thể sơ đồ thiếu nội dung kiến
thức cụ thể hoặc đầy đủ lượng kiến thức của bài học như vừa tiếp thu trong bài
học. Tuy nhiên, các thông tin còn thiếu này sẽ bao trùm nội dung toàn bài để
một lần nữa nhằm khắc sâu kiến thức và lưu ý đến trọng tâm của bài học.
Ví dụ 1: Khi dạy Bài 1 “Tiêu chuẩn trình bày bản vẽ kỹ thuật” – SGK công
nghệ 11.
15


Sau khi kết thúc nội dung của bài học, giáo viên có thể ứng dụng trò chơi
trong một số chương trình truyền hình cùng với sử dụng các phương pháp, kỹ
thuật dạy học tích cực “ kỹ thuật sơ đồ tư duy” đề tài đang đề cập để củng cố
kiến thức đã truyền thụ [1]. Với phương pháp này, tiết học vừa hấp dẫn, hiệu quả
học tập vừa cao, học sinh hào hứng và bị cuốn hút trong quá trình tiếp nhận kiến
thức. Tiết học kết thúc nhẹ nhàng, các em hào hứng chờ đợi được chinh phục
kiến thức mới ở những tiết học tiếp theo hoặc khi học sinh đã tự thiết kế cho
mình một cây sơ đồ tư duy xong thì giáo viên có thể so sánh, đối chiếu, nhận xét
đánh giá bài của học sinh với sơ đồ tư duy mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn. Lưu ý
chỉ đánh giá, nhận xét về kiến thức được thể hiện ở bản đồ chứ không tập trung
đánh giá, nhận xét về màu sắc, hình vẽ.

Sơ đồ tư duy tổng kết nội dung bài 1: Tiêu chuẩn trình bày bản vẽ kỹ thuật
16


Ví dụ 2: Sử dụng kỹ thuật sơ đồ tư duy hướng dẫn học sinh tổng kết nội dung

bài 20 “Khái quát về động cơ đốt trong”. (phụ lục 5)
Ví dụ 3: Sử dụng kỹ thuật sơ đồ tư duy hướng dẫn học sinh tổng kết nội dung
bài 16: “Công nghệ chế tạo phôi”. (phụ lục 6)
2.3.5. Sử dụng kỹ thuật sơ đồ tư duy hỗ trợ cho các tiết ôn tập chương, ôn tập
kiến thức.
Sau mỗi chương mỗi phần, giáo viên cần phải tổng kết, ôn tập, hệ thống
hóa kiến thức cho học sinh trước khi các em làm bài tập và làm bài kiểm tra
chương, kiểm tra học kì, thi cuối năm học.Với thế mạnh của sơ đồ tư duy là kiến
thức được hệ thống hóa dưới dạng sơ đồ, các đường nối là sự diễn tả mạch logic
kiến thức hoặc các mối quan hệ nhân quả hay quan hệ tương đương, cộng thêm
màu sắc của các đường nối, màu sắc của các đơn vị kiến thức, sẽ giúp học sinh
nhìn thấy “Bức tranh tổng thể” cả một phần kiến thức đã học. Có nhiều cách xây
dựng cây sơ đồ tư duy trong tiết ôn tập, củng cố:
- Thông thường giáo viên cho một số câu hỏi và bài tập để học sinh chuẩn
bị ở nhà. Trong tiết ôn tập, củng cố, giáo viên hướng dẫn học sinh tự lập sơ đồ tư
duy, sau đó cho học sinh trao đổi kết quả với nhau và sau cùng đối chiếu với sơ
đồ tư duy do giáo viên lập ra. Từng em có thể bổ sung hay sửa lại sơ đồ tư duy
của mình và coi đó là tài liệu ôn tập của mình.
- Cách khác: Giáo viên lập sơ đồ tư duy mở. Trong giờ ôn tập, củng cố,
giáo viên chỉ vẽ một số nhánh chính, thậm chí không đủ nhánh, hoặc thiếu, hoặc
thừa thông tin trong tiết học đó, giáo viên yêu cầu học sinh tự bổ sung, thêm
hoặc bớt thông tin, để cuối cùng cả lớp lập được một sơ đồ tư duy ôn tập, củng
cố kiến thức chương đó tương đối hoàn chỉnh và hợp lý. Cách làm này sẽ lôi
cuốn được sự tham gia của học sinh (suy nghĩ nhiều hơn, trao đổi nhiều hơn,
tranh luận nhiều hơn) và giờ ôn tập, tổng kết chương sẽ không tẻ nhạt và có chất
lượng hơn. Với cách lập sơ đồ tư duy như trên, chắc chắn giờ ôn tập, củng cố
kiến thức sẽ mang lại hiệu quả cao.
- Bên cạnh đó còn có cách khác như chia nhóm và từng nhóm lập sơ đồ tư
duy. Sau đó các nhóm lên trình bày sơ đồ tư duy của nhóm, các nhóm khác nhận
xét về các mặt như sau:

+ Nội dung cơ bản kiến thức trong chương đã đủ chưa? Còn sót kiến thức
nào không? Cấu trúc của sơ đồ tư duy, cách trình bày đã hợp lý chưa?
+ Nhìn tổng thể có hợp lý không, vị trí các thông tin như thế nào? có hấp
dẫn được người học không?
Ví dụ 1: Hướng dẫn HS ôn tập qua sơ đồ tư duy “Các hình biểu diễn trên
bản vẽ kỹ thuật”.

17


GV lập sơ đồ tư duy dạng mở yêu cầu HS hoàn thiện trong tiết ôn tập

Sản phẩm sơ đồ tư duy sau khi đã hoàn thành
Ví dụ 2: Hướng dẫn học sinh hệ thống hóa kiến thức phần động cơ đốt trong qua
sơ đồ tư duy xem (phụ lục 7).
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Đối với bản thân và đồng nghiệp: Ứng dụng đề tài SKKN đã góp phần tích
cực trong phong trào đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa
hoạt động của học sinh, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường.
Đối với học sinh: Sau khi triển khai các giải pháp đã nêu tại trường THPT
Triệu Sơn 3, qua quan sát thực tế tôi thấy rằng hiệu quả mang lại không chỉ ở
việc học sinh thay đổi quan điểm môn công nghệ không phải là môn học phụ mà
thực sự rất có ích cho bản thân các em, các em đã tìm được niềm đam mê thực
sự trong học tập và thấy rằng không chỉ học để biết mà còn học để đó là cơ sở
nền tảng phục vụ cho các em ở các chương trình đào tạo cao hơn sau khi các em
rời khỏi ghế nhà trường. Qua nhiều năm giảng dạy môn công nghệ tôi nhận thấy
rằng đổi mới phương pháp dạy học được sử dụng nhuần nhuyễn trong các tiết
dạy sẽ làm cho tiết dạy sinh động, học sinh hứng thú học tập và đặc biệt là phát
huy hết khả năng tư duy, sáng tạo, óc thẩm mỹ của các em. Từ đó tôi đã hướng

dẫn các em sử dụng không chỉ trong học môn công nghệ mà có thể tự học các
môn học khác theo cách lập sơ đồ tư duy như các bước mà tôi đã hướng dẫn.
Để đánh giá khách quan hiệu quả của đề tài tôi đã sử dụng phiếu điều tra về
hứng thú học tập của học sinh với môn công nghệ đã làm ở đầu năm học để điều
tra ở tiết học cuối cùng của năm học sau khi áp dụng các giải pháp trên trong
quá trình dạy học của bộ môn kết quả như sau:
18


Bảng 2.4.1: Kết quả thống kê về hứng thú học tập của học sinh đối với môn
công nghệ của các lớp qua kết quả khảo sát cuối năm học.

Năm học 2017 – 2018

Mức độ
hứng thú
Rất thích
Bình thường
Không thích
Tổng

Lớp 11D4
SL
25
14
5
44

Lớp 11D3


%
56.8
31.8
11.4
100

SL
22
16
4
42

Năm học 2018 – 2019

Tổng

%
SL
52.4 47
38.1 30
9.5 9
100 86

%
54.7
39.5
5.8
100

Lớp 11E2


Lớp 11E4

SL
31
13
0
44

SL
29
11
1
41

%
70.5
29.5
0
100

%
70.7
26.8
2.5
100

Tổng
SL %
60 70.6

24 28.2
1 1.2
85 100

So sánh các bảng thống kê cho thấy: Về số lượng học sinh rất hứng thú với
tiết học môn Công nghệ ở các lớp cuối năm học tăng lên một cách rõ rệt so với
điều tra ban đầu. So với điều tra đầu (ở bảng 2.2.1) thì ở bảng 2.4.1 mức độ
hứng thú với môn học tăng từ 15.8 % lên 54.7% (năm 2017-2018). Số học sinh
không thích giảm từ 46,2% xuống còn 5.8%. Năm học 2018 – 2019 sau khi ứng
dụng đề tài rộng rãi đã thực sự thu hút được đa số HS, thể hiện ở tỉ lệ rất thích đã
tăng lên tới 70.6% còn thái độ bình thường và không thích chỉ chiếm 29.4%.
Qua kết quả đạt được đó cho thấy rằng các em đã yêu thích bộ môn công
nghệ, nhận thức đúng đắn về việc học tập bộ môn.
Để kiểm chứng về việc sử dụng sơ đồ tư duy giúp học sinh học tốt, đạt kết
quả cao trong môn học. Tôi đã cho 2 lớp làm bài kiểm tra ở hai thời điểm trước
tác động (kiểm tra viết 45 phút lần 1) và sau khi tác động (kiểm tra viết 45 phút
lần 2, hai đề lần 1 và lần 2 lượng kiến thức tương đương nhau) để thấy được
hiệu quả của sáng kiến.
Kết quả bài kiểm tra được thống kế như sau:
Bảng 1: Lớp thực nghiệm 11E4
Điểm
Số bài
0–2 3
4
5
6
7
8
9
10

Trước tác
sl 0
4
5
11
11
6
4
0
0
động
41 % 0,0
9,8 12, 26, 26, 14, 9,8 0,0 0,0
2
8
8
6
Sau tác
sl 0
0
0
9
12
5
7
8
0
động
41 % 0,0
0,0 0,0 21, 29, 12, 17, 19, 0,0

9
3
2
1
5
Bảng 2: Lớp đối chứng 11E5
Điểm
Số bài
0–2 3
4
5
6
7
8
9
10
Trước tác
sl 0
4
4
10
12
7
4
0
0
41
động
% 0
9,8 9,8 24,4 29,2 17,0 9,8 0,0 0,0

Sau tác

41

sl

0

3

4

9

12

8

5

0

0
19


động
% 0,0
Bảng 3: Trước tác động


7,3

Điểm trung bình
Chênh lệch điểm trung bình (SMD)
Bảng 4: Sau tác động

9,8

21,9 29,3 19,5 12,2 0,0

Lớp đối chứng
5,63
Lớp đối chứng
5,80

0,0

Lớp thực nghiệm
5,54
0,09
Lớp thực nghiệm
6,83

Điểm trung bình
Chênh lệch điểm trung bình (SMD)
1,03
So sánh kết quả: Năm học 2018 – 2019 tôi đã áp dụng các giải pháp nêu
trong đề tài vào thực tiễn dạy học, cụ thể:
Lớp đối chứng 11E5 năm học 2018- 2019, sĩ số 41: tôi dạy các chủ đề trên
nhưng không sử dụng các giải pháp như đã nêu trong đề tài.

Lớp thực nghiệm 11E4 năm học 2018 - 2019, sĩ số 41: tôi dạy các chủ đề
trên bằng cách sử dụng các giải pháp như đã nêu trong đề tài.
Bảng 3 và bảng 4 cho thấy, sau tác động sự chêch lệch giữa điểm trung
bình của các lớp thực nghiệm và các lớp đối chứng rất có ý nghĩa, tức là chênh
lệch kết quả điểm trung bình của các lớp thực nghiệm đều cao hơn điểm trung
bình của các lớp đối chứng không phải ngẫu nhiên mà do kết quả của tác động.
Năm học 2018 – 2019, SMD = 1,03 cho thấy mức độ ảnh hưởng của việc
hướng dẫn học sinh khai thác kỹ thuật sơ đồ tư duy ở trường THPT Triệu Sơn 3
là rất lớn. Kết quả của bài kiểm tra sau tác động của lớp thực nghiệm 11E4 là
điểm trung bình = 6,83 và kết quả bài kiểm tra của lớp đối chứng 11E5 là điểm
trung bình = 5.80. Độ chênh lệch điểm số giữa hai lớp là 1,03. Kết quả cho thấy
điểm trung bình của lớp thực nghiệm so với lớp đối chứng đã có sự tiến bộ rõ
rệt, lớp được tác động 11E4 có điểm trung bình cao hơn lớp đối chứng 11E5.
Kết quả thu được
- Qua quan sát thực tế từ việc trực tiếp giảng dạy, tôi thấy học sinh lớp
11E4 học tập rất tích cực, học tốt, tư duy tốt. Còn lớp 11E5 đa số các em học
sinh kỹ năng còn chậm, chưa linh hoạt, khả năng tư duy chưa cao. Hai lớp được
chọn tham gia nghiên cứu cho đề tài có nhiều điểm tương đồng nhau về ý thức
học tập, đặc biệt là năng lực học tập và kết quả điểm kiểm tra môn công nghệ
trước khi tác động.
- Tiết học sôi nổi, học sinh hứng thú và chủ động khai thác kiến thức,
100% học sinh trong lớp đã thực hiện các nội dung theo yêu cầu câu hỏi và có
kết quả cụ thể.
Từ những kết quả trên tôi mạnh dạn khẳng định những giải pháp mà đề tài
đưa ra là hoàn toàn khả thi và có thể áp dụng hiệu quả trong quá trình dạy học.
Như vậy, có thể khẳng định rằng việc ứng dụng đề tài sáng kiến kinh
nghiệm vào dạy học môn học là một trong những biện pháp có hiệu quả trong
việc nâng cao hứng thú học tập và giúp học sinh học tốt môn công nghệ 11 trong
nhà trường phổ thông hiện nay.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

3.1. Kết luận
20


Với những biện pháp mà tôi vận dụng trong các bài dạy của mình tại
trường THPT Triệu Sơn 3 nhận thấy đã mang lại hiệu quả rất rõ rệt: Thông qua
việc sử dụng kỹ thuật sơ đồ tư duy vào dạy học các bài môn công nghệ 11 đã
giúp học sinh học tập một cách chủ động, tích cực và huy động được tất cả học
sinh tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Với sản phẩm độc đáo “kiến
thức và hội họa” là niềm vui sáng tạo hàng ngày của học sinh và cũng là niềm
vui của chính thầy cô giáo và phụ huynh học sinh khi chứng kiến thành quả lao
động của học trò. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng học
sinh không chỉ về trí tuệ (vẽ, viết gì trên sơ đồ tư duy), hệ thống hóa kiến thức
(huy động những điều đã học trước đó chọn lọc các ý để ghi), khả năng hội họa
(hình thức trình bày, kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc). Theo đánh giá của
nhiều giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, sơ đồ tư duy sau khi ứng dụng vào
các tiết học đã mang lại hiệu quả thiết thực như: Giúp học sinh thuộc bài ngay
tại lớp, nhớ nhanh, nhớ sâu và lâu những nội dung của bài học.
Mặt khác, dạy học bằng sơ đồ tư duy giúp học sinh không nhàm chán về
bài học mà luôn sôi nổi, hào hứng từ đầu đến cuối tiết học. Phương pháp này đặc
biệt có ích trong việc củng cố kiến thức và rèn luyện, phát triển tư duy logic,
năng lực cho học sinh, nhất là những học sinh khá, giỏi. Học sinh có thể tự học ở
nhà rất hiệu quả, không tốn kém. Sử dụng kỹ thuật sơ đồ tư duy là một công cụ
có tính khả thi cao vì có thể vận dụng được với bất kì điều kiện cơ sở vật chất
nào của các nhà trường hiện nay. Có thể thiết kế sơ đồ tư duy trên giấy, bìa, bảng
phụ,… bằng cách sử dụng bút chì màu, phấn màu hoặc cũng có thể thiết kế trên
phần mềm sơ đồ tư duy. Với trường có điều kiện cơ sở hạ tầng công nghệ thông
tin tốt có thể cài vào máy tính phần mềm Mindmap cho giáo viên, học sinh sử
dụng, bằng cách vào trang google.com.vn hoặc download.com.vn gõ vào ô “tìm
kiếm” cụm từ “Mindmap”, ta có thể tải về phần mềm này không hạn chế số

ngày sử dụng và việc sử dụng nó cũng khá đơn giản. Từ đó đã nâng cao được
hiệu quả sử dụng phương tiện, công cụ, thiết bị đồ dùng dạy học trong trường
THPT hiện nay.
Việc vận dụng sơ đồ tư duy trong dạy học sẽ dần hình thành cho học sinh tư
duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách
hệ thống, khoa học. Sử dụng kỹ thuật sơ đồ tư duy kết hợp với các phương pháp
dạy học tích cực khác như vấn đáp gợi mở, thuyết trình, dạy học tích hợp có
tính khả thi cao góp phần đổi mới PPDH, nâng cao chất lượng bộ môn, thực
hiện được chủ trương của ngành là không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục
và điều quan trọng hơn đó là học sinh có hứng thú trong giờ học môn công nghệ,
các em học tập hăng say và tích cực hơn, nhiều em đã phát huy tối đa được tính
sáng tạo và nhạy bén trong tư duy, tự tìm tòi kiến thức, có sự say mê trong học
tập và nghiên cứu, tự bản thân các em thấy đây là môn học thực sự bổ ích, giúp
các tự tin hơn trong mọi hoạt động của cuộc sống thường ngày.
Khi đó bản thân mỗi giáo viên phải không ngừng nâng cao tay nghề về
chuyên môn nghiệp vụ mà cả về sự sáng tạo, nghệ thuật hội họa. Phải thường
xuyên tổ chức dạy học theo phương pháp sử dụng sơ đồ tư duy để phát triển hết
khả năng sáng tạo, thẩm mỹ, khả năng tư duy của học sinh. Cần phải hướng dẫn
kỹ cho học sinh chuẩn bị nội dung bài học ở nhà thông qua sơ đồ tư duy, sau đó
21


kiểm tra sự chuẩn bị của các em và quan tâm các nhóm, các học sinh yếu kém,
tuyên dương, động viên những nhóm học sinh làm tốt nhiệm vụ mà giáo viên
giao để khuyến khích các em phát huy tạo niềm say mê cho các em yêu thích
môn học. Tuy nhiên, không phải nội dung nào, bài học nào cũng có thể sử dụng
sư đồ tư duy và cũng không phải sử dụng cho mọi giờ học. Giáo viên cần có sự
linh hoạt trong sử dụng kỹ thuật sơ đồ tư duy đúng lúc, đúng cách, phù hợp với
đối tượng HS và quan trọng là đảm bảo việc truyền tải nội dung bài học.
Trên cơ sở đề xuất phương pháp tổ chức dạy học tôi đã xây dựng một số

giáo án chi tiết và tiến hành thực nghiệm giảng dạy để thấy rõ được tính khả thi
của sáng kiến kinh nghiệm.Với mong muốn có thể xây dựng kho tư liệu, góp
phần nhỏ bé của bản thân vào việc dạy học môn công nghệ ở trường phổ thông
mà tôi đã tìm hiểu, tham khảo nhiều tài liệu và thực tiễn giảng dạy tại trường
THPT Triệu Sơn 3 vừa qua. Vì vậy đề tài sẽ được phát triển trong thời gian tới
theo hướng: Mở rộng đề tài không chỉ đối với chương trình môn công nghệ 11
mà với toàn bộ chương trình công nghệ THPT, cao hơn nữa là có thể ứng dụng
với nhiều bộ môn khác trong chương trình giáo dục phổ thông.
3.2. Kiến nghị
Đối với giáo viên, phải không ngừng tự học, tự bồi dưỡng để hiểu biết về
công nghệ thông tin, biết khai thác thông tin trên mạng Internet, có kĩ năng sử
dụng thành thạo và đặc biệt phải biết phát huy các tính năng của trang thiết bị
hiện đại trong việc thiết kế bài dạy. Giáo viên cần động viên, khuyến khích, tạo
cơ hội và điều kiện cho học sinh tham gia một cách tích cực trong quá trình lĩnh
hội kiến thức. Để lĩnh hội các kiến thức một cách dễ dàng và khắc sâu vấn đề
cần nghiên cứu cũng đòi hỏi học sinh phải có sự chuẩn bị tốt ở nhà, nghiên cứu
bài học mới trước khi đến lớp. Học sinh phải nhiệt tình, tích cực, chủ động trong
quá trình lĩnh hội kiến thức; nghiêm túc thực hiện các quy định của lớp học, thể
hiện một tinh thần thái độ tốt trong học tập .
Đối với các cấp lãnh đạo, cần quan tâm hơn về cơ sở vật chất như: Trang
thiết bị máy tính có nối mạng, máy chiếu Projector...tại các phòng học đa năng,
khuyến khích và động viên giáo viên áp dụng công nghệ thông tin vào dạy học.
Với kết quả của đề tài này, tôi thiết nghĩ những giải pháp mà đề tài đã đưa
ra có thể là những gợi ý tốt để các thầy cô giáo trong và ngoài đơn vị tổ chức tốt
và hiệu quả hoạt động học tập mà trước tiên là phải tạo hứng thú và gợi động cơ
học tập cho học sinh. Có đam mê, có hứng thú, có quyết tâm thì các em sẽ học
hết khả năng sẽ mang lại nhiều kết quả tiến bộ, đặc biệt là đối với giáo viên của
các môn học khác cũng có thể ứng dụng đề tài này vào việc dạy học bộ môn một
cách phù hợp nhằm tạo hứng thú và nâng cao kết quả học tập cho học sinh.


22


XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 05 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)

Trịnh Thị Hậu

23


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Hải Châu, Đỗ Ngọc Hồng, TS.Lê Huy Hoàng, Lưu Văn Hùng
2.
3.
4.

5.

6.

7.

(2007), giới thiệu giáo án công nghệ 11, NXB Hà Nội.
Tài liệu “Giáo dục ứng phó biến đổi khí hậu và phòng chống thiên tai ở

cấp trung học phổ thông” Sở GD & ĐT Thanh Hóa, năm 2015.
Lê Nguyên Long (1998), Thử đi tìm những PPDH hiệu quả, NXB Giáo
Dục.
Trần Thị Lan Hương, GV Trường THPT Đoàn Kết - Đồng Nai “Tổ chức
trò chơi trong dạy và học Địa Lý ở trường THPT”. SKKN năm học: 2014
– 2015.
Mai Thị Ngọc Hà, GV Trường THPT Triệu Sơn 3 – Triệu Sơn – Thanh
Hóa “Ứng dụng các trò chơi kết hợp với sử dụng các phương pháp, kỹ
thuật dạy học tích cực theo định hướng phát triển năng lực học sinh nhằm
tạo hứng thú, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho
học sinh qua dạy học một số bài môn GDCD 10,12 ở trường THPT”.
SKKN năm học 2015 - 2016.
Nguyễn Văn Khôi, Nguyễn Văn Ánh, Nguyễn Trọng Bình, Đặng Văn Cứ,
Nguyễn Trọng Khanh, Trần Hữu Quế (2007), Sách giáo viên công nghệ
11, NXB Giáo Dục.
/>

DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Trịnh Thị Hậu
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên – Trường THPT Triệu Sơn 3
T
T
1.

2.
3.


Tên đề tài SKKN
Khai thác sử dụng phương tiện trực
quan tạo hứng thú học tập cho học
sinh qua dạy học phần động cơ đốt
trong môn công nghệ 11
Sử dụng hình ảnh trực quan tạo
hứng thú giúp học sinh học tốt phần
vẽ kỹ thuật môn công nghệ lớp 11
Ứng dụng các trò chơi truyền hình
kết hợp với sử dụng kiến thức liên
môn, các phương pháp, kỹ thuật
dạy học tích cực, nhằm tạo hứng
thú học tập, tăng cường hiệu quả
công tác tuyên truyền phổ biến,
giáo dục một số vấn đề cấp thiết
trong cuộc sống cho học sinh qua
dạy học một số bài môn công nghệ
11,12 ở trường THPT

Cấp đánh
giá xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá
xếp loại (A,
B, hoặc C)

Năm học

đánh giá
xếp loại

Sở GD &ĐT
Thanh Hóa

C

2012 – 2013

Sở GD &ĐT
Thanh Hóa

C

2015 – 2016

Sở GD &ĐT
Thanh Hóa

C

2016-2017


×