Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Sử dụng phương pháp kể chuyện kết hợp với văn học dân gian trong dạy lịch sử lớp 10 THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (596.84 KB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
Trường THPT Hoằng Hóa 2

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI: SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP KỂ CHUYỆN KẾT HỢP VỚI VĂN
HỌC DÂN GIAN TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ LỚP 10 THPT

`

Giáo viên: Lê Thị Hồng
Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn
Đơn vị: Trường THPT Hoằng Hoá 2

Tháng 5 năm 2019
1


MỤC LỤC
I-Phần mở đầu ..................................................................................... Trang 2
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 2
2. Mục đích nghiên cứu....................................................................................4
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ...................................................................5
4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................5
II- Phần nội dung .............................................................................................6
1. Cơ sở lí luận..................................................................................................6
2. Thực trạng và nguyên nhân ......................................................................... 6
1.1. Thực trạng ............................................................................................... 6
1.2. Nguyên nhân ............................................................................................ 7
1.3.Một số lưu ý khi sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử 8
3. Phương pháp kể chuyện kết hợp tài liệu văn học dân gian trong dạy học
lịch sử.................................................................................................................9


4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.............................................................18
III-Kết luận và kiến nghị .................................................................................. 19
Tài liệu tham khảo..............................................................................................22

2


I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nói về tầm quan trọng của việc nắm vững lịch sử, qua đó giáo dục niềm tự
hào về lịch sử dân tộc, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
Tuy nhiên, thực tiễn giáo dục ở nước ta hiện nay, chất lượng dạy học của môn Lịch
sử chưa cao. Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn tới tình trạng này là chậm
đổi mới phương pháp dạy học. Chính vì vậy, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8
khoá XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi
mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối
truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc.”
Dạy học lịch sử là quá trình giúp học sinh (HS) tìm hiểu những gì đã diễn ra ở
quá khứ, và mục tiêu của bộ môn Lịch sử chính là việc giúp HS biết quá khứ, hiểu
quá khứ đồng thời rút ra những bài học từ quá khứ để vận dụng vào trong cuộc sống
hiện tại và tương lai.
Đặc thù học tập của môn Lịch sử là các em phải tiếp cận với nhiều sự kiện
lịch sử, với những vị anh hùng… bản thân những sự kiện lịch sử vốn đã khô khan,
nhất là những bài, những chương viết về các trận đánh có rất nhiều những con số về
ngày, tháng, năm xảy ra sự kiện hoặc những số liệu về các thành tựu đã đạt được
trên các lĩnh vực... Khi học lịch sử thì yêu cầu các em nhớ sự kiện và hiểu nội dung
bài học một cách chính xác và đầy đủ, vì thế bộ môn Lịch sử khó gây được hứng

thú cho các em, làm cho các em cảm thấy nặng nề, gò ép và nhàm chán.
Trong thực tế, lịch sử là môn học có kiến thức liên môn, song có lẽ có mối
quan hệ tác động qua lại mật thiết và bổ sung cho nhau nhiều nhất là mối quan hệ
giữa lịch sử và văn học. Tài liệu văn học nói chung và thơ văn nói riêng ở nước ta
có khả năng biểu hiện nội dung lịch sử rất sâu sắc, nó không chỉ có giá trị như
3


những tài liệu lịch sử, mà còn phản ánh được bản chất của từng sự kiện lịch sử cụ
thể. Nếu như văn học thường mô tả những sự kiện bằng hình tượng thì lịch sử tái
tạo lại quá khứ bằng những con số, sự kiện cụ thể, điều đó đã tác động rất lớn đến
nhận thức của HS.
Trong việc khôi phục lại bức tranh quá khứ một cách sinh động, nội dung
truyền đạt và phương pháp của giáo viên (GV) là yếu tố hết sức cần thiết. Để cho
bài giảng lịch sử không phải rơi vào tình trạng “khô, khó, khổ”, người GV lịch sử
phải linh hoạt sử dụng nhiều phương pháp đổi mới trong dạy học, trong đó sử dụng
các câu chuyện và các tài liệu văn thơ là một trong những phương pháp hữu hiệu
nâng cao chất lượng bài giảng. Thông qua những câu chuyện lịch sử, những tài liệu
thơ văn sinh động có liên quan đến nhân vật, địa danh hay sự kiện sẽ có tác dụng
giúp HS hứng thú hơn, có thể ghi nhớ sâu hơn những sự kiện lịch sử, những nhân
vật, mốc thời gian, có sự hình dung đa dạng về quá khứ, tạo được biểu tượng sinh
động, chính xác về các sự kiện, hiện tượng lịch sử. Từ đó, HS có thể hiểu rõ bản
chất sự kiện, hiện tượng lịch sử, có thể dễ dàng lĩnh hội các kiến thức lịch sử, các
thuật ngữ, hình thành các khái niệm lịch sử, nắm được những kết luận khoa học
mang tính khái quát. Trên cơ sở đó, giáo dục, bồi dưỡng cho HS những tư tưởng,
tình cảm đúng đắn (tự hào, gìn giữ, phát huy các truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
hình thành và phát triển lòng yêu nước, biết khâm phục, kính trọng những anh hùng
dân tộc, người có công với tổ quốc...) và hình thành nhân cách cho HS.
Đã có một số công trình nghiên cứu liên quan như:
- “Sử dụng tài liệu văn học dân gian phục vụ giảng dạy và học tập lịch sử

Việt Nam trong trường phổ thông ” của tác giả Đặng Hoàng Sang - Hội khoa học
lịch sử Đồng Tháp.
- “Giải pháp hữu ích tăng cường hứng thú cho HS thông qua kể chuyện lịch
sử trong dạy học lịch sử ở trường THCS”, tác giả Tạ Văn Tuấn, Trường trung học
cơ sở Đinh Trang Hòa.

4


- “Sử dụng tài liệu thành văn nhằm tạo hứng thú học tập cho HS trong dạy
học lịch sử Việt Nam giai đoạn (1919 – 1945” của Nguyễn Hải Yến.
- “Sử dụng thơ văn để tạo hứng thú cho HS trong dạy học bộ môn Lịch sử ở
trường THPT” của Nguyễn Thị Thúy.
- “Phương pháp kể chuyện nhân vật lịch sử trong dạy học lịch sử Việt Nam
giai đoạn (1946 – 1954)” của Mai Thị Ngọc Lệ.
- “Sử dụng thơ văn trong dạy học lịch sử” của Ngô Thị Hòa.
Tuy nhiên, mỗi công trình chỉ nghiên cứu một mảng của vấn đề, hoặc là sử
dụng phương pháp kể chuyện hoặc là sử dụng tài liệu thơ văn trong dạy học lịch sử
ở trường THPT, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu sử dụng phương pháp kể
chuyện kết hợp thơ văn trong dạy học lịch sử lớp 10.
Với những lí do trên, tôi muốn thực hiên một đề tài có tính thực tiễn trong việc
áp dụng phương pháp kể chuyện lịch sử kết hợp với văn học dân gian trong dạy
Lịch sử lớp 10 THPT nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong các giờ học trên lớp.
2. Mục đích nghiên cứu
Trong đề tài này, tôi nghiên cứu việc sử dụng phương pháp kể chuyện kết hợp
với thơ văn trong giảng dạy bài 14 (Các quốc gia cổ đại trên đất nước Việt Nam),
bài 15 (Thời Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập (từ thế kỉ II TCN
đến đầu thế kỉ X) và bài 16 (Thời Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập
(từ thế kỉ II TCN đến đầu thế kỉ X)- (Tiếp theo)) chương trình Lịch sử lớp 10 và
coi đó là nguồn cung cấp thông tin tạo hứng thú học tập, giúp HS nắm rõ bản chất

sự kiện, hiện tượng lịch sử.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Tên đề tài đã nói lên đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài sáng kiến kinh
nghiệm. Đó là phương pháp sử dụng các tài liệu văn học dân gian để dạy học lịch sử
Việt Nam ở lớp 10. Tài liệu văn học dân gian phục vụ cho dạy học là văn học dân
gian phản ánh lịch sử mang tính chất tư liệu lịch sử, như các câu chuyện cổ tích,
5


truyền thuyết, truyện cười, các câu ca dao, tục ngữ, vè… do nhân dân sáng tác trong
điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình giảng dạy, GV lựa chọn một số câu chuyện và các bài thơ văn
phù hợp với nội dung bài học để giảng dạy. GV dẫn các câu chuyện và các bài thơ
văn vào bài giảng theo dạng nhập đề (chuẩn bị cho HS tiếp thu bài mới), giới thiệu
vấn đề (khắc sâu kiến thức trọng tâm) và kết luận (tóm tắt những tư tưởng chính, rút
ra kết luận, khái quát hóa) nhằm tạo hứng thú học tập cho HS, giúp HS ghi nhớ tốt
những sự kiện lịch sử, những nhân vật, mốc thời gian, qua đó hiểu rõ bản chất sự
kiện, hiện tượng lịch sử. Trên cơ sở đó giáo dục, bồi dưỡng cho HS những tư tưởng,
tình cảm đúng đắn.
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp kể chuyện kết hợp thơ văn trong dạy
học lịch sử ở bậc THPT là một giải pháp rất tốt để nâng cao kết quả học tập của HS,
nhưng để sử dụng phương pháp này có hiệu quả người GV cần phải đầu tư nhiều
thời gian và công sức; biết khai thác các nguồn thông tin, tài liệu; biết chọn lọc tư
liệu để đưa vào tiết dạy sao cho có hiệu quả nhất. Một vấn đề cần lưu ý khác là khi
sử dụng phương pháp này yêu cầu GV phải có giọng nói diễn cảm nếu không kiến
thức đưa vào nhiều khi sẽ phản tác dụng vì giọng của GV khiến HS mất hứng thú.
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
Kể chuyện lịch sử là một phương pháp dùng lời nói để diễn tả một cách sinh

động hấp dẫn, có hình ảnh về một câu chuyện đã xảy ra trong quá khứ. Câu chuyện
kể có khi chỉ là những mảnh sự kiện, biến cố lịch sử liên quan đến nội dung bài học,
có khi là những tình tiết liên quan đến các nhân vật lịch sử, có khi chỉ là giải thích
cho một cái tên, địa danh, cho một khái niệm, thuật ngữ trong bài học. “Những câu
chuyện lịch sử mang lại giá trị vô cùng to lớn bởi đó là những bài học làm người,
hình thành nhân cách sống”.
6


Những câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết, sấm truyền, ca dao, tục ngữ,
vè… là những tài liệu sống động để tạo biểu tượng về một sự kiện, thời đại lịch sử .
Các loại hình văn học dân gian góp phần minh họa những sự kiện lịch sử, làm
cho bài giảng thêm sinh động, hấp dẫn, tạo không khí thoải mái trong lớp học, gây
chú ý cho học sinh. Từ đó xây dựng được một biểu tượng lịch sử sinh động – không
chỉ có vậy, việc sử dụng các tài liệu văn học dân gian còn tạo được sự gần gũi với
bối cảnh lịch sử, phản ánh những sự kiện lịch sử cụ thể .
Sử dụng văn học dân gian người giáo viên có thể tiến hành có kết quả việc
giáo dục tư tưởng, đạo đức nói chung, giáo dục truyền thống ý thức dân tộc nói
riêng cho học sinh, đặc biệt là đạt hiệu quả trong học tập. Văn học dân gian phản
ánh lịch sử một cách sinh động, học sinh sẽ hiểu rõ hơn về sự kiện, nhân vật lịch
sử…
2. Thực trạng và nguyên nhân
2.1. Thực trạng
Nội dung kiến thức chương trình và sách giáo khoa môn Lịch sử ở trường
THPT còn quá nặng, bài giảng thiên về lý thuyết khô khan, HS khó nắm vững, dẫn
đến chán nãn không thích thú học môn Lịch sử.
Quan niệm của xã hội, gia đình và đặc biệt là của HS đối với bộ môn Lịch sử
còn khá lệch lạc: không đầu tư, không chú ý thậm chí xem thường hoặc học cho
xong. Việc dạy và học lịch sử ở bậc phổ thông hiện nay dường như chỉ chú tâm vào
học thuộc bài là chính, hay còn gọi là “học vẹt”.

Ở mỗi lớp học, trình độ không đồng đều, HS cá biệt ngày càng nhiều ở
trường, lớp làm ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả giảng dạy của GV.
Thực tế trong chương trình sách giáo khoa lịch sử lớp 10, các câu chuyện và
các bài thơ văn đã được lồng ghép vào nội dung một số bài học. Nhưng do nội dung
và thời lượng chương trình nên số lượng các câu chuyện và các bài thơ văn được
đưa vào chương trình còn hạn chế.

7


Nhiều GV hiện nay đã sử dụng các câu chuyện kết hợp văn thơ trong dạy học
lịch sử, nhưng trong quá trình giảng dạy và tích hợp câu chuyện với văn thơ chưa có
hệ thống và chưa hiệu quả.
Qua việc thăm lớp, dự giờ khảo sát trước khi tác động, khi giảng dạy GV đã
cố gắng sử dụng các câu chuyện và tài liệu thơ văn vào bài giảng. Tuy nhiên, hầu
hết các GV đều bám vào các câu chuyện và thơ văn trong sách giáo khoa mà ít liên
hệ, mở rộng đối với các câu chuyện và thơ văn bên ngoài, vì vậy chưa tạo được
hứng thú học tập cho HS.
2.2. Nguyên nhân
- GV ít đầu tư sưu tầm và sử dụng tư liệu.
- Phương pháp dạy học sử dụng trong môn Lịch sử chưa phát huy được tính
tích cực của HS, chưa tạo được sự hứng thú của HS. Các sự kiện, hiện tượng lịch
sử, nhân vật lịch sử, ... không được trình bày một cách cụ thể, sinh động.
- Việc giảng dạy được xem là “lối dạy truyền thống” (thầy đọc, trò chép, nói
lại những điều trong sách giáo khoa, học sinh chỉ ghi nhớ, học thuộc mà không hiểu
nên chóng quên…) đã ăn sâu vào suy nghĩ, thói quen trong cách dạy và học của GV
và HS, chi phối việc chỉ đạo dạy học, việc tổ chức kiểm tra, thi cử.
- Tư tưởng xem nhẹ bộ môn chính, phụ.
- Việc tích cực chủ động tìm tòi tài liệu lịch sử ở HS còn hạn chế.
2.3. Một số lưu ý khi sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử

Sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử Việt Nam có ý nghĩa
rất lớn. Tuy nhiên việc sử dụng nó phải rất cẩn thận, nếu không sẽ phản tác dụng.
Thứ nhất, ta phải sưu tầm lựa chọn tư liệu văn học dân gian phản ánh ghi
nhận lịch sử.
Thứ hai, lựa chọn văn học dân gian tiêu biểu, phù hợp cho mỗi giai đoạn thời
kỳ, sự kiện, nhân vật lịch sử, chính xác, tránh trường hợp dẫn chứng sai lệch hoặc
không hợp lý thì sẽ gây tai hại cho nhận thức của học sinh .

8


Thứ ba, khi sử dụng văn học dân gian chúng ta phải phân tích một cách rõ
ràng, lược bỏ các yếu tố thần thánh, hoang đường …để thấy được lịch sử ở trong đó
…Thí dụ, khi đưa truyện “Thánh Gióng” để dẫn chứng cho cuộc đấu tranh chống
giặc xâm lược của nhân dân ta thời đại Hùng Vương, chúng ta phải loại bỏ những
yếu tố hoang đường, phân tích cho học sinh hiểu theo hướng là hình tượng Thánh
Gióng là tượng trưng cho tập thể - quân đội ( binh lính) chống giặc xâm lược – là
sức mạnh của cả dân tộc và qua câu chuyện đó, ta cũng thấy được sự phát triển về
mọi mặt của đất nước ở thời kì này, như ngành nông nghiệp hoặc đồ sắt đã xuất hiện
và phát triển đến trình độ cao.
Thứ tư, văn học dân gian phản ánh lịch sử theo chủ quan của nhân dân, có thể
do tình cảm, lòng kính phục của một bộ phận quần chúng nhân dân rồi đánh giá một
sự kiện hiện tượng, một nhân vật lịch sử một cách thiên lệch làm học sinh hiểu sai
lịch sử, hiểu thiên lệch quá về một sự kiện, nhân vật hay cả một triều đại lịch sử…
Thí dụ, đối với triều đình phong kiến nhà Nguyễn, nhân dân ta thường tố cáo cái tội
ác và ươn hèn của Triều Nguyễn mà quên đi những đóng góp to lớn của triều đại
này, cho sự phát triển của dân tộc như khai phá mở rộng đất nước vào phía nam,
hình thành lãnh thổ quốc gia Việt Nam rộng lớn như ngày nay, từ Ải Tam Quan đến
mũi Cà Mau thống nhất …
Thứ năm, khi sử dụng văn học dân gian chúng ta không được tuyệt đối hóa

mà phải có sự hài hòa, đưa nó vào một tình huống để thức tỉnh sự hứng thú cho học
sinh.
Thứ sáu, mặc dù văn học dân gian là tài liệu lịch sử quan trọng nhưng trong
quá trình dạy học chúng ta cũng không nên lạm dụng quá mức, không nên đưa văn
học dân gian vao bài giảng quá nhiều sẽ dẫn đến “cháy” giáo án mà chưa truyền đạt
hết nội dung kiến thức cơ bản của bài…
Sử dụng phương pháp kể chuyện lịch sử kết hợp với thơ văn không chỉ tạo
hứng thú học tập cho HS, giúp HS nắm vững bản chất sự kiện, hiện tượng lịch sử
mà còn góp phần giáo dục, bồi dưỡng cho HS những tư tưởng, tình cảm đúng đắn.
9


3. PHƯƠNG PHÁP KỂ CHUYỆN KẾT HỢP THƠ VĂN TRONG DẠY HỌC
BÀI 14, BÀI 15 VÀ BÀI 16 LỊCH SỬ 10
Sau đây là việc sử dụng phương pháp kể chuyện kết hợp thơ văn trong dạy
học lịch sử ở bài 14, bài 15 và bài 16 trong chương trình Lịch sử lớp 10 ở trường
THPT mà bản thân tôi đã thực hiện.
Bài 14: Các quốc gia cổ đại trên đất nước Việt Nam
Mục 1. Quốc gia Văn Lang - Âu Lạc
GV liên hệ những câu chuyện truyền thuyết như: Con rồng cháu tiên, Thánh
Gióng, Bánh chưng bánh dày, ... những câu chuyện này đã cơ bản phản ánh được
“cái thần” của sự kiện, của mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể.
Ví dụ, khi cung cấp cho HS nội dung: công cụ sản xuất bằng đồng thau đã trở
nên phổ biến và bước đầu sử dụng công cụ bằng sắt, GV tóm tắt ngắn gọn nội dung
truyền thuyết Thánh Gióng và sử dụng chi tiết Thánh Gióng yêu cầu: “Sứ giả hãy
mau về tâu với nhà vua đúc cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt, một áo giáp sắt
và một cái nón sắt. Ta sẽ đánh tan quân giặc”.
GV đặt câu hỏi: Tại sao Thánh Gióng không yêu cầu sứ giả đúc cho các loại
vũ khí bằng công cụ khác mà phải bằng sắt?
Sau khi HS trả lời, GV nhận xét, bổ sung: thời Hùng Vương tương ứng với

giai đoạn văn hóa Đông Sơn nhân dân ta đã sử dụng công cụ bằng sắt tuy mới ở
“bước đầu”. Từ đó, giúp HS nhận thức được rằng nhờ sử dụng công cụ mới nên
người Việt cổ có được một nền kinh tế phát triển mạnh để từ đây tạo nên những
chuyển biến to lớn về mặt xã hội. Bên cạnh đó, qua câu chuyện ta xác định được
những yếu tố thời gian là thời Hùng Vương thứ 6 (tương ứng với thời nhà Ân ở
Trung Quốc), đồng thời nêu cao truyền thống đoàn kết chống giặc ngoại xâm, bảo
vệ lãnh thổ của nhân dân ta (cả làng góp gạo thổi cơm cho Gióng ăn).
Khi giảng về nguồn gốc và quốc hiệu nước ta, GV có thể đọc câu thơ sau của
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài “Lịch sử nước ta”:
“Hồng Bàng là tổ nước ta
10


Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang”
Tiếp đó, GV có thể trích dẫn câu ca dao sau để HS khắc sâu kiến thức về cội
nguồn dân tộc:
“Dù ai đi ngược về xuôi, nhớ ngày giỗ tổ mùng 10 tháng 3”
Hoặc:
“Ai về Phú Thọ cùng ta
Nhớ ngày giỗ tổ tháng ba mồng mười.
Ai về đến ngả ba Chanh
Ghé xem phong cảnh Loa Thành Thục Vương
Cổ Loa thành ốc lạ thường
Trải bao năm tháng nẻo đường còn đây”
Từ đó HS thêm tự hào về truyền thống dân tộc và có ý thức giữ gìn và xây
dựng đất nước.
Về sự thất bại của nước Văn Lang – Âu Lạc trước sự tấn công của phương
Bắc, từ đó nước ta bước vào thời kì Bắc thuộc, chúng ta có thể kể câu chuyện “Mị
Châu, Trọng Thủy” để HS dễ học dễ nhớ hơn. Hoặc cũng có thể trích dẫn đoạn thơ
sau trong tác phẩm “Việt Nam sử ca”:

“Loa thành nhà Thục thật, hư:
“Nỏ thần trăm phát”? Gian mưu Triệu Đà:
Se duyên, Thục - Triệu thông gia
Đà mang giảo kế lừa nhà Thục Vương.
Xót nàng duyên gãy mà thương
Tội nàng tình thiệt vạ vương rụng rời.
Triệu Đà được nỏ, nuốt lời
An Dương Vương phải bỏ đời giữa khơi!”
Để tổng kết mục 1, GV có thể trích dẫn đoạn thơ sau trong “Việt Nam sử ca”:
“"Giấy rách còn giữ lấy lề"
Người Việt đâu cũng nhớ về chốn quê.
11


Lạc Long Quân lấy Âu Cơ
Mười lăm bộ họp dưới cờ Văn Lang.
Họ Hồng Bàng, giữ giang san
Mười tám đời rạng ngai vàng Hùng Vương!”
Qua đoạn trích trên sẽ khắc sâu cho HS kiến thức khái quát về giai đoạn lịch
sử thời kì dựng nước của dân tộc. Từ đó, bồi dưỡng cho HS ý thức về cội nguồn dân
tộc, lòng yêu quê hương đất nước và tình đoàn kết gắn bó dân tộc.
Mục 2. Quốc gia cổ Chăm pa
GV có thể kể chuyện về quá trình mở rộng lãnh thổ của nước ta xuống phía
Nam.
Ví dụ: Năm 1069, Lý Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành, bắt được
vua Chế Củ và 5 vạn dân. Năm sau (1070), vua Chế Củ xin đem ba châu: Địa Lý,
Ma Linh, Bố Chính (Quảng Bình và Bắc Quảng Trị) để chuộc.
Tiếp đó, GV có thể kể cho HS câu chuyện về Công chúa Huyền Trân, con gái
vua Trần Nhân Tông. Năm 1306, Huyền Trân được gả cho vua Chiêm Thành là Chế
Mân để đổi lấy hai châu Ô, Lý (Quảng Trị, Thừa Thiên Huế)...

Sau đó GV kết luận: Cuối thế kỉ XV, Chăm pa suy thoái và trở thành một bộ
phận của lãnh thổ, cư dân và văn hóa Việt Nam.

12


Bài 15: “Thời Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc (Từ
thế kỉ II TCN đến đầu thế kỉ X)”
Mục 1. Chế độ cai trị
GV sử dụng đoạn thơ trong “Việt Nam sử ca” để HS hiểu được chế độ cai trị
của các triều đại phong kiến phương Bắc đối với nước ta:
“Tượng Quận gọi bởi nhà Tần
Hán diệt Triệu, xẻ ba phần nước Nam:
Cửu Chân, Giao Chỉ, Nhật Nam
Giao Chỉ, Đông Hán đổi làm Giao Châu.
Nhà Đường nước chiếm, nhà thâu:
“An Nam đô hộ phủ”, sầu quốc vong!”
Khi dạy đến chính sách đồng hóa về văn hóa, với nội dung mở trường dạy
chữ Hán, truyền bá Nho giáo vào Việt Nam, GV có thể kể chuyện về Khổng Tử,
trích dẫn một số câu nói của Khổng Tử trên quan điểm Nho học.
Mục 2. Những chuyển biến về kinh tế - xã hội
GV có thể kể tóm tắt nội dung câu chuyện “Sự tích bánh chưng bánh dày” để
khẳng định các phong tục, tập quán truyền thống của dân tộc vẫn được bảo tồn,
nhân dân ta không bị đồng hóa về văn hóa.

13


Bài 16: “Thời Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc
(Từ thế kỉ II TCN đến đầu thế kỉ X)”- Tiếp theo

Mục 1. Khái quát phong trào đấu tranh từ thế kỉ I đến đầu thế kỉ X
GV có thể trích đọc một số câu ca dao sau để HS tạo biểu tượng lịch sử, hình
dung rõ hơn được bối cảnh lịch sử lúc đó như:
Về khởi nghĩa của Bà Triệu:
“Có bà Triệu tướng
Vâng lệnh trời ta
Trị voi một ngà
Dựng cờ mở nước”
Và tương truyền, quân Ngô khiếp uy dũng của Bà Triệu nên có câu:
“Cầm ngang ngọn giáo chống hổ dễ
Giáp mặt vua bà thực khó ghê”
Với khởi nghĩa Mai Thúc Loan, GV có thể đọc bài thơ sau (được ghi trong
“Tiên chân báo huấn tân kinh” ở đền thờ Ông), để HS nhớ và hiểu hơn nguyên
nhân bùng nổ khởi nghĩa, ca tụng công đức của Mai Thúc Loan:
“Hùng cứ châu Hoan đất một vùng,
Vạn An thành lũy khói hương xông,
Bốn phương Mai Đế lừng uy đức,
Đường đi cống vải từ đây dứt,
Dân nước đời đời hưởng phúc chung”
Mục 2. Một số cuộc khởi nghĩa tiêu biểu
Về khởi nghĩa Hai Bà Trưng, GV sử dụng đoạn thơ trong “Đại Nam quốc sử
diễn ca” để giúp HS nắm được nguyên nhân bùng nổ, kẻ thù, diễn biến và kết quả
của cuộc khởi nghĩa. Từ đó, thấy được khí phách anh hùng của phụ nữ Việt Nam
trong buổi đầu đấu tranh giành độc lập:
“Bà Trưng quê ở Châu Phong
Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên
14


Chị em nặng một lời nguyền

Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân
Ngàn tây nổi áng phong trần
Ầm ầm binh mã xuống dần Long Biên
Hồng quần nhẹ bước chinh yên
Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành
Kinh kì đóng cõi Mê Linh
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta”
Hoặc có thể sử dụng đoạn thơ sau trong “Việt Nam sử ca”:
“Tô Định bạo ngược khôn lường
Giết người Giao Chỉ không tường thị phi.
Bắt Thi Sách đem giết đi
Hai Trưng Trắc, Nhị tức thì khởi binh.
Con dòng Lạc tướng Mê Linh
Đuổi quân Tô Định mà bình đất Nam.
Cửu Chân, Hợp Phố, Nhật Nam”
Chẳng bao lâu hạ sáu lăm thành trì.
Xưng vua, lừng lẫy ai bì
Mê Linh đóng phủ, uy nghi một miền.
Hay có thể sử dụng đoạn thơ trong “Thiên Nam ngữ lục” để nói về nguyên nhân
cuộc khởi nghĩa:
“Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kêu oan ức lòng chồng
Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này”
Khi giảng về cuộc khởi nghĩa Lý Bí và sự thành lập nước Vạn Xuân, GV có
thể trích đoạn thơ trong “Lịch sử nước ta” để đánh giá sự kiện lịch sử:
“Anh hùng thay ông Lý Bôn
15



Tài kiêm văn võ, sức hơn muôn người
Đánh tàu đuổi sạch ra ngoài
Lập nên triều Lý sáu mười năm liền”
Hay có thể sử dụng đoạn thơ trong “Việt Nam sử ca” để nói về nét chính cuộc khởi
nghĩa:
“Tham tàn thái thú, người ghê
Hùng tâm, Lý Bí giương cờ diệt gian.
Vạn Xuân thoát cảnh lầm than
"Thái bình thiên đức", xua tan bóng tà.
Bình minh chiếu sáng sơn hà
Thanh bình tự chủ như là đến phiên!
Nghe qua, Lương Đế đảo điên
Xua quân lấn chiếm, Bá Tiên phụng quyền.
Thua đi, thắng lại truân chuyên
Lý Bôn quyết định trao quyền Triệu Vương.”
Khi giảng về Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938, GV kể về tài
năng của Ngô Quyền trong việc lợi dụng thủy triều lên xuống, ông đã tính toán và
cho đóng cọc xuống cửa sông Bạch Đằng, lên kế hoạch cho quân mai phục và nhử
địch vào trận địa, đúng như kế hoạch đánh thắng giặc sau một ngày. HS sẽ thấy
được tài trí của người Việt từ đó bồi dưỡng niềm tự hào dân tộc, phát huy được tính
sáng tạo trong cuộc sống:
“Sông Bạch Đằng có tên nôm là sông Rừng, vì hai bên bờ sông nhất là phía tả
ngạn toàn là rừng rậm. Hạ lưu sông thấp, độ dốc không cao nên ảnh hưởng của thuỷ
triều lên xuống rất mạnh, chênh nhau đến 3m. Khi triều lên, lòng sông rộng mênh
mông đến hàng nghìn mét, sâu tới chục mét. Biết rõ quân địch sẽ kéo vào nước ta
theo đường sông Bạch Đằng, Ngô Quyền đã huy động cho quân, dân lên rừng chặt
gỗ, đẽo nhọn đầu và bịt sắt, đem đóng xuống lòng sông Bạch Đằng ở những nơi
hiểm yếu. Lúc nước triều lên bãi cọc chìm trong một biển nước mênh mông. Phía
16



trên bãi cọc ngầm, Ngô Quyền còn bố trí một lực lượng thuỷ binh ẩn nấp hai bên bờ
sông. Nhiều thuyền được giấu kín trong các bụi lau sậy. Hàng ngàn quân bộ, cung
nỏ sẵn sàng mai phục bên cạnh các vách núi.
Ngô Quyền đích thân cầm quân ra trận.
Năm 938, Lưu Hoằng Tháo cầm đầu thuỷ quân Nam Hán tiến vào cửa sông
Bạch Đằng đánh chiếm nước ta. Đợi cho nước triều lên ngập hết trận địa bãi cọc,
Ngô Quyền cho một số thuyền n hỏ đánh nhử địch. Quân ta vờ thua rút chạy, Hoằng
Tháo hăm hở thúc quân đuổi theo, vượt qua trận địa bãi cọc ngầm của ta. Ngô
Quyền chỉ huy quân ta cầm cự với giặc. Khi nước thuỷ triều bắt đầu rút, ông mới ra
lệnh phản kích. Những mũi tên từ các vách đá vun vút lao ra như mưa, hàng trăm
thuyền bất ngờ xuất hiện. Quân giặc hoảng hốt quay đầu tháo chạy. Ra đến gần cửa
sông, đúng lúc nước triều rút mạnh. Bãi cọc ngầm nhô lên. Quân ta dồn sức tấn
công. Quân từ phía thượng lưu đánh xuống, quân mai phục từ hai bên bờ sông và
quân thuỷ từ các sông nhánh xông ra đánh tạt ngang. Đội hình thuyền của địch rối
loạn, xô vào nhau, va phải bãi cọc ngầm bị thủng vỡ, đắm rất nhiều. Quân địch bỏ
cả chèo lái, nhảy xuống sông, phần bị giết, phần chết đuối, thiệt hại quá nửa. Hoằng
Tháo bỏ mạng nơi đây.
Thất bại nặng nề của đạo thuỷ quân Hoằng Tháo đã làm cho vua Nam Hán
kinh hoàng, chỉ biết thương khóc con trai và hạ lệnh rút quân tiếp ứng, hoàn toàn bỏ
mộng xâm lược nước ta.
Cuối cùng, GV chốt lại: Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 thể hiện nghệ thuật
độc đáo, sáng tạo của Ngô Quyền - đã biết lợi dụng thiên thời, địa lợi, nhân hoà.
Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền đã chấm dứt hơn 1000 năm nước
ta bị các triều đại phong kiến phương bắc thống trị, mở ra một thời đại mới - thời
đại độc lập, tự chủ lâu dài của dân tộc ta.
Trên đây là một số ví dụ cụ thể về sử dụng các câu chuyện và tài liệu văn thơ
trong giờ dạy lịch sử ở một số bài học mà bản thân tôi đã tổng kết và thực hiện khi
dạy lịch sử khối lớp 10 ở trường THPT nhằm tạo hứng thú cho HS, nâng cao hiệu
17



quả bài học. Từ những câu chuyện, đoạn thơ, bài ca nội dung kiến thức, hình ảnh
nhân vật sẽ được toát lên một cách sinh động, sẽ đi theo năm tháng cùng với các em
về các sự kiện, các cuộc khởi nghĩa, mà HS không cần phải học thuộc lòng cứng
nhắc ở trong sách giáo khoa.Tuy nhiên, trong quá trình vận dụng đòi hỏi GV phải có
sự sáng tạo, linh hoạt trên cơ sở khoa học và điều kiện cụ thể của từng lớp học, tiết
học...
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Qua nhiều năm dạy học lịch sử ở nhà trường phổ thông, tôi đã thực hiện
nhiều phương pháp dạy học, phần lịch sử Việt Nam ở lớp 10- tôi thường sử dụng tài
liệu văn học dân gian để bổ trợ cho việc xây dựng biểu tượng, hình ảnh, sự kiện,
nhân vật lịch sử. Phương pháp này đã đạt hiệu quả đáng khích lệ, nhất là tạo hứng
thú học tập cho học sinh, làm cho lớp học thêm sinh động- từ đó nâng cao kết quả
học tâp.
Cùng với sự nâng cao nhận thức, hứng thú học tập, học sinh cũng đã biết vận
dụng kiến thức văn học dân gian trong học tập môn lịch sử- biết sử dụng các câu ca
dao, tục ngữ, vè... để minh họa , xây dựng biểu tượng hình ảnh lịch sử sinh động...
Qua phương pháp này giúp HS hứng thú hơn khi học lịch sử, có sự hình dung
đa dạng về quá khứ, tạo được biểu tượng sinh động, chính xác về các sự kiện, hiện
tượng lịch sử. Từ đó, các em có thể dễ dàng lĩnh hội các thuật ngữ, hình thành các
khái niệm lịch sử, nắm được những kết luận khoa học mang tính khái quát. Mặt
khác, nó còn có tác dụng trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm đạo đức và hình
thành nhân cách cho HS.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Văn học dân gian là tấm gương lớn phản chiếu quá trình lịch sử dân tộc một
cách toàn diện và sinh động .Văn học dân gian mang lại, chuyển tải cả quá trình lịch
18



sử - thông qua các câu chuyện truyền thuyết cho đến chuyện cổ tích, ca dao, tục
ngữ... là ở đó ta thấy được một bức tranh sinh hoạt xã hội sinh động cũng như công
cuộc đấu tranh chống ngoại xâm bảo vệ độc lập dân tộc của tổ quốc. Mỗi câu ca
dao là một sự kiện lịch sử, mỗi câu chuyện là một giai đoạn lịch sử...
Trong dạy học lịch sử tùy theo bài, tùy theo sự kiện, vấn đề lịch sử mà ta lồng
vào các tài liệu văn học dân gian để xây dựng một biểu tượng lịch sử, phương pháp
đó sẽ đạt được mục đích giáo dục đạo đức, tư tưởng và kiến thức lịch sử một cách
hiệu quả. Kiến thức lịch sử trong các tác phẩm văn học dân gian rất phong phú, đa
dạng nó phản ánh lịch sử một cách toàn diện.
Việc sử dụng phương pháp kể chuyện kết hợp thơ văn trong giảng dạy lịch sử
10 Trường THPT đã góp phần nâng cao kết quả học tập của HS.
Qua giảng dạy, tôi đã rút ra được một kinh nghiệm mà bản thân tôi cho là rất
quý. Đó là: khi sử dụng các câu chuyện, kiến thức thơ văn vào việc giảng dạy lịch
sử sẽ gây hứng thú cho HS trong việc tiếp thu bài. Những tiết học như vậy trở nên
sinh động hẳn. Khi GV kể chuyện hay đọc thơ minh hoạ, cả lớp chăm chú lắng nghe
và tỏ ra rất thích thú. Những tiết học như thế đã để lại trong lòng các em những ấn
tượng sâu sắc và lâu bền. Chắc chắn những sự kiện trong bài học lịch sử sẽ lưu lại
trong ký ức các em sâu hơn, lâu hơn. Tuy nhiên, trong chương trình lịch sử 10
không phải trong bài giảng nào GV cũng sử dụng phương pháp kể chuyện kết hợp
thơ văn, nó chỉ được sử dụng khi đảm bảo tính cần thiết và hiệu quả cần đạt.
2. Kiến nghị
* Đối với các cấp lãnh đạo: cần quan tâm xây dựng và tiến tới sử dụng những
phương tiện kỹ thuật hiện đại trong dạy học, cần chỉ đạo cho thư viện nhà trường
tăng cường sưu tầm, tập hợp các loại sách, tài liệu tham khảo phục vụ nhu cầu dạy
và học Lịch sử của GV và HS.
Cần hỗ trợ và tạo điều kiện cho GV lịch sử tổ chức các cuộc thi, các trò chơi
lịch sử, các chuyến tham quan di tích lịch sử, bảo tàng…


19


* Đối với GV: không ngừng tự học, tự bồi dưỡng, chịu khó đầu tư thời gian,
công sức để sưu tầm tài liệu, sắp xếp thành hệ thống theo từng tiết học, từng
chương, từng phần phù hợp với nội dung và kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa.
GV cần đưa ra những yêu cầu cụ thể đối với HS trong quá trình dạy học như
sưu tầm tại liệu trước ở nhà theo định hướng của GV.
Với kết quả của đề tài này, tôi mong rằng các bạn đồng nghiệp quan tâm, chia
sẻ và đặc biệt là GV giảng dạy bộ môn Lịch sử có thể ứng dụng đề tài này vào việc
dạy học để tạo hứng thú cho HS nhằm nâng cao kết quả bộ môn.
XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

Người viết sáng kiến

LÊ THỊ HỒNG

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng,
Nxb Đại học Sư phạm.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Tài liệu tập huấn dạy học và kiểm tra, đánh
giá kết quả học tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh môn Lịch sử
cấp trung học phổ thông, Hà Nội.

3. Trương Hữu Quýnh (Chủ biên), Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh (2003),
Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb Giáo dục.
4. Phan Ngọc Liên (Tổng Chủ biên), Nguyễn Ngọc Cơ (Chủ biên), Nguyễn Anh
Dũng, Trịnh Đình Tùng, Trần Thị Vinh (2006), Lịch sử 10, sách giáo viên,
Nxb Giáo dục.
5. Phan Ngọc Liên (Tổng Chủ biên), Lương Ninh, Trương Hữu Quýnh (Chủ
biên), Đinh Ngọc Bảo, Nguyễn Hồng Liên, Nguyễn Cảnh Minh, Nghiêm
Đình Vỳ (2013), Lịch sử 10, Nxb Giáo dục Việt Nam.
6. Nguyễn Thành (Chủ biên), Phùng Đức Thắng, Đặng Văn Thái (2000), Hồ
Chí Minh Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Nguyễn Khắc Thuần (2003), Việt sử giai thoại, tập 1, Nxb Giáo dục.
8. Trịnh Tùng (1999), Phương pháp dạy học lịch sử, Nxb Giáo dục.
9. Thái Duy Tuyên (2007), Phương pháp dạy học truyền thống và đổi mới, Nxb
Giáo dục.
10.Việt Nam sử ca – sách điện tử.
11.Mạng

internet:

vi.wikipedia.org,

www.sugia.vn,

baigiang.violet.vn,

hotrodayhoc.com, vinhphuc.edu.vn …

21



22



×