Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số bài tập phát triển sức mạnh nhằm nâng cao thành tích nhảy cao kiểu nằm nghiêng cho học sinh lớp 10 trường THPT cẩm thủy 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.92 KB, 19 trang )

MỘT SỐ BÀI TẬP PHÁT TRIỂN SỨC MẠNH
NHẰM NÂNG CAO THÀNH TÍCH NHẢY CAO KIỂU “NẰM NGHIÊNG”
CHO HỌC SINH LỚP 10, TRƯỜNG THPT CẨM THỦY 1.

PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Thể dục thể thao (TDTT) không những có vai trò quan trọng trong đời
sống của con người mà còn là một bộ phận của nền văn hoá xã hội. TDTT được
hình thành, phát triển trong thực tiễn lao động sản xuất và chiến đấu của nhân
loại. Nhận thức được vai trò của thể dục trong việc nâng cao sức khỏe con
người nhằm thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, lao động sản
xuất, Bác Hồ đã đặc biệt quan tâm đến sự phát triển của sự nghiệpTDTT. Người
nói: “...Mỗi người dân yếu ớt làm cho cả nước yếu ớt đi một phần, mỗi người
dân khoẻ mạnh làm cho cả nước khoẻ mạnh. Vậy nên tập luyện thể dục bồi
dưỡng sức khoẻ là nghĩa vụ của mỗi người dân yêu nước...”.
Đáp ứng lời kêu gọi của Bác, từ đó đến nay phong trào tập luyện TDTT
quần chúng đã phát triển nhanh chóng cả về chiều rộng và chiều sâu trong mọi
tầng lớp nhân dân. Ngày nay, trong công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hóa đất
nước, trong thời kì hội nhập quốc tế mạnh mẽ, Đảng và Nhà nước ta lại càng
quan tâm tới việc nâng cao trình độ dân trí, bồi dưỡng nhân tài, giáo dục toàn
diện nhằm tạo ra con người mới đảm bảo các mặt: Đức - Trí - Thể - Mỹ. Trong
đó TDTT là một bộ phận quan trọng của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tác
dụng đào tạo một thế hệ trẻ phát triển cân đối, có tri thức, có đạo đức, phát triển
toàn diện các tố chất thể lực, đảm bảo sức khoẻ để làm cơ sở nâng cao năng
suất lao động, trí sáng tạo góp phần thúc đẩy xã hội ngày càng phát triển.
Trong nghị quyết số 29, Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII của Đảng đã
đề ra mục tiêu tổng quát cho giáo dục là “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ
về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công
cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con
người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng
sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt


và làm việc hiệu quả”. Vậy để giáo dục học sinh phát triển toàn diện như mục
tiêu Đại hội Đảng đã nêu thì môn học GDTC nói riêng và các môn học khác nói
chung trong nhà trường phải được quan tâm bình đẳng như nhau. Thông qua bộ
môn thể dục, bồi dưỡng cho học sinh đức tính dũng cảm, giúp các em có được
các kiến thức kĩ năng cơ bản trong tập luyện để giữ gìn sức khỏe, nâng cao thể
lực góp phần rèn luyện nếp sống lành mạnh, tác phong nhanh nhẹn, tính kỉ luật
vào quá trình học tập, sinh hoạt. Trong GDTC, điền kinh là nội dung cơ bản, là
nền tảng để phát triển các tố chất thể lực cơ bản cho các môn thể thao khác.
Trong đó nhảy cao là một nội dung cơ bản để phát triển các tố chất thể lực.

Người thực hiện: Lưu Anh Thắng

1
Năm học: 2018 - 2019


Song, thành tích nhảy cao của học sinh hiện nay còn thấp so với thể lực của các
em và so với yêu cầu của GDTC.
Thấm nhầm quan điểm chỉ đạo của Đảng, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh
Thanh Hóa đã chỉ đạo sát sao việc dạy - học môn GDTC nhằm nâng cao vai trò
vị trí của môn học trong các nhà trường. Ngoài ra, Sở đã tổ chức thi giáo viên
giỏi, học sinh giỏi TDTT; tổ chức Hội khỏe Phù Đổng cấp tỉnh. Đó cũng là một
tiêu chí bắt buộc các nhà trường phải quan tâm nhiều hơn đến chất lượng

dạy - học môn thể dục của giáo viên và học sinh.
Nhằm thực hiện đảm bảo nội dung chương trình môn học do Bộ

Giáo dục và Đào tạo quy định, các nhà trường hiện nay đã quan tâm đến
điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học; sắp xếp thời khóa biểu hợp
lí tạo điều kiện cho thầy và trò hoàn thành tốt môn học. Trước yêu cầu đòi

hỏi về nâng cao chất lượng dạy học thể dục trong các trường Trung học phổ
thông (THPT) đã có nhiều giáo viên bắt nhịp tốt và đổi mới phương pháp giảng
dạy hiệu quả, khi dạy học đã đưa ra nhiều bài tập bổ trợ hợp lí góp phần nâng
cao kết quả môn học.
Tuy nhiên, trong giảng dạy, vẫn còn một số thầy cô đổi mới phương
pháp chậm nên giờ học đơn điệu, tẻ nhạt, dụng cụ tập luyện
thiếu, học sinh vận động quá ít, chưa chú trọng rèn thể lực cho
các em nên kết quả dạy học khôngcao. Một bộ phận phụ huynh chưa
thực sự quan tâm, đầu tư cho việc học tập của con em mình, xem thể dục là
môn học phụ nên không động viên học sinh học tập. Ngoài ra, một số học sinh
THPT đã có định hướng học theo ban, theo khối, các em chỉ chú trọng học các
môn văn hóa nên không chú tâm học thể dục dẫn đến chất lượng hiệu quả môn
học chưa cao, nhất là đối với môn nhảy cao.
Là giáo viên đang trực tiếp giảng dạy ở trường THPT, tôi luôn trăn trở:
“Làm thế nào để các em ham học và nâng cao hiệu quả môn thể dục nói chung
cũng như môn nhảy cao nói riêng cho học sinh lớp 10?”. Xuất phát từ lý do nêu
trên, tôi nghiên cứu và đưa ra SKKN: “Một số bài tập phát triển sức mạnh
nhằm nâng cao thành tích nhảy cao kiểu nằm nghiêng cho học sinh lớp 10
trường THPT Cẩm Thủy 1”.”. Sáng kiến này đã được tôi áp dụng vào thực tế
dạy học trong những năm học qua đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên với trình độ bản
thân có hạn, nội dung sáng kiến không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót.
Tôi rất mong nhận được sự góp ý của Hội đồng khoa học các cấp để tôi tiếp thu
được nhiều kinh nghiệm bổ ích cho bản thân trong việc nâng cao hiệu quả dạy
học nội dung nhảy cao nói riêng và dạy học môn GDTC nói chung. Tôi xin
chân thành cảm ơn!
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Người thực hiện: Lưu Anh Thắng

2

Năm học: 2018 - 2019


Nghiên cứu chương trình, nội dung kiến thức, phương pháp dạy học thể
dục, các biện pháp nâng cao chất lượng dạy môn nhảy cao cho học sinh lớp 10.
Các biện pháp lựa chọn bài tập và một số bài tập phát triển sức mạnh trong
môn nhảy cao kiểu nằm nghiêng phù hợp với học sinh nhằm nâng cao hiệu
quả nhảy cao kiểu nằm nghiêng và giúp các em hoàn thành
mục tiêu môn học.
Các phương pháp dạy học; bồi dưỡng học sinh TDTT nhằm
nâng cao hiệu quả công tác giảng dạy môn thể dục ở nhà trường.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
- 270 học sinh lớp 10 trường THPT Cẩm Thủy 1.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp quan sát và thực nghiệm sư phạm.
- Phương pháp kiểm tra đánh giá các tố chất, thể lực và kỹ thuật
- Phương pháp phân tích, tổng hợp số liệu, so sánh kết quả.
V. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA SKKN
- Đã áp dụng có hiệu quả cao trong công tác giảng dạy môn TD năm học
2017-2018; 2018-2019 và thi đấu TDTT cấp tỉnh.
PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Trong sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo nhằm thực
hiện mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thì
yếu tố con người luôn luôn chiếm vi trí quan trọng hàng đầu. Sinh thời, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Muốn có chủ nghĩa xã hội phải có con người xã
hội chủ nghĩa”. Trong hình mẫu và phẩm chất con người, sức khoẻ và thể chất
chiếm một vị trí quan trọng để đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Do
đó thể dục thể thao còn là một bộ phận của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, nó

tổng hợp các phương tiện, phương pháp nhằm giúp con người phát triển toàn
diện, hài hoà. Đặc biệt hoạt động thể dục thể thao là một trong những hình thức
cơ bản để rèn luyện sức khỏe, nâng cao thể lực phục vụ cho lao động và các
hoạt động khác.
Trong môn thể dục có nhiều nội dung để nâng cao sức khỏe thể lực cho
học sinh trong đó có nhảy cao. Nhảy cao là một hoạt động không có chu kì, đòi
hỏi người tập phải đủ về thể lực, kĩ thuật và tư duy thực hiện động tác. Trong
giảng dạy, việc hướng dẫn học sinh nắm bắt kĩ thuật là quan trọng, nhưng việc
tìm ra những hạn chế học sinh thường mắc và nguyên nhân của nó rồi đưa ra
các biện pháp và bài tập để sửa chữa khắc phục những hạn chế đó cũng quan
trọng không kém. Chính vì vậy, trong quá trình dạy học, việc tìm ra các biện
pháp, các bài tập giúp học sinh nâng cao kĩ thuật nhảy cao kiểu nằm nghiêng
Người thực hiện: Lưu Anh Thắng

3
Năm học: 2018 - 2019


cho học sinh THPT là cần thiết. Để nâng cao chất lượng này, trước tiên, người
dạy phải nắm vững kĩ thuật của 4 giai đoạn: chạy đà, giậm nhẩy, trên không và
tiếp đất.
+ Giai đoạn chạy đà: Học sinh THPT nên chạy đà 6- 8 bước (bước chẵn)
hoặc 7 - 11 bước (bước lẻ). Mỗi bước tương đương độ dài của 5 - 6 bàn chân
nối tiếp nhau. Góc chạy đà chếch với xà ngang khoảng 30 - 40 độ; giậm nhảy
chân phải đứng phía bên phải của xà theo bên phải của xà theo chiều nhìn vào
xà và ngược lại.
+ Giai đoạn giậm nhẩy: Sau khi đặt chân vào điểm giậm nhẩy, chân giậm
nhẩy hơi trùng ở gối tạo thế co cơ, sau đó dồn sức để giậm nhẩy. Khi đá lăng
chân ra trước cần chủ động dựng sức của đùi và độ linh hoạt của khớp hông đá
chân lên cao. Hai tay phối hợp gần như đồng thời với chân lăng, đánh hơi vòng

xuống dưới - lên cao, khi hai khuỷu tay đến ngang vai thì dừng lại để tạo thế
nâng người lên. Giậm nhẩy là giai đoạn quan trọng nhất trong nhẩy cao. Sự phối
hợp chính xác, nhịp nhàng giữa giậm nhẩy đá lăng và đánh tay với tốc độ di
chuyển của cơ thể ( do chạy đà tạo ra ) là yếu tố quyết định hiệu quả giậm nhẩy.
+ Trên không: Giai đoạn trên không bắt đầu từ khi chân giậm nhẩy rời
khỏi mặt đất. Tiếp theo, co nhanh chân giậm nhẩy đồng thời xoay mũi chân đá
lăng về phía xà (hoặc xoay gót chân ra ngoài ) tạo cho thân người nằm nghiêng
so với xà (chân giậm nhẩy co ở phía dưới, chân đá lăng thẳng ở phía trên, giống
như tư thế khi ta nằm nghiêng, hai tay phối hợp khéo léo để qua xà.
+ Tiếp đất: Sau khi qua xà chân giậm nhảy duỗi nhanh để chủ động tiếp
đất, 2 tay duỗi thẳng ra để hỗ trợ giữ thăng bằng. Khi chân giậm nhảy bắt đầu
tiếp đất cần chủ động chùng chân để giảm chấn động.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN.
Nhảy cao là môn thể thao không đòi hỏi nhiều về trang thiết bị; kĩ thuật
thực hiện tuy có hơi khó nhưng lại dễ phổ cập, phù hợp với mọi lứa tuổi, giới
tính. Do đó nhảy cao là một nội dung cơ bản trong chương trình giáo dục thể
chất và trong các kì thi học sinh giỏi, Hội khỏe Phù Đổng từ cấp trường đến cấp
quốc gia đều có thi đấu nhảy cao. Kết quả đạt được của sinh và các vận động
viên rất đáng khen ngợi. Tuy nhiên thành tích nhảy cao của học sinh chưa thực
sự cao. Trong các kì thi học sinh giỏi, Hội khỏe Phù Đổng các cấp
cũng như hội thảo chuyên môn thì vấn đề trăn trở, được giáo
viên bàn thảo nhiều nhất là các phương pháp giảng dạy và
huấn luyện bồi dưỡng các môn điền kinh trong đó có nhảy cao
còn hạn chế. Điều này dẫn đến việc khó khăn cho giáo viên khi
trực tiếp giảng dạy bộ môn thể dục (GDTC). Mặt khác, trong
việc giảng dạy, tìm hiểu, phát hiện và bồi dưỡng học sinh ở cấp
THPT nhằm phát triển toàn diện cho học sinh và hình thành các
phẩm chất đạo đức; chuyển vận động từ kĩ năng sang kĩ sảo thì
các phương pháp giảng dạy và những bài tập ứng dụng của
Người thực hiện: Lưu Anh Thắng


4
Năm học: 2018 - 2019


môn học điền kinh là một vấn đề nan giải đối với giáo viên. Để
thực hiện tốt nhiệm vụ mục tiêu, yêu cầu của môn học, tôi
mạnh dạn đưa ra một số bài tập cụ thể giúp học sinh lớp 10
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ học tập của mình.
III. THỰC TRẠNG.
1. Về nhà trường:
- Ban giám hiệu đã sắp xếp thời khóa biểu hợp lí để giáo
viên và học sinh thuận lợi trong dạy học môn thể dục.
- Cơ sở vật chất được Ban giám hiệu nhà trường quan tâm
mua sắm đầy đủ đồ dùng phương tiện dạy học môn thể dục.
Tuy nhiên cơ sở vật chất, thiết bị vẫn chưa phong phú, dụng cụ
lâu năm đã cũ nhiều…..
- Sân học thể dục rộng, có bóng mát, thoáng đãng và đủ
diện tích, đảm bảo điều kiện dạy và học.
- Về chương trình giảng dạy môn Nhảy cao ở trường THPT cho học sinh
lớp 10 chỉ cung cấp cho các em các kỹ thuật của nhảy cao chứ các em chưa
được trang bị thể lực. Nếu giáo viên không đưa các bài tập bổ trợ vào để giảng
dạy mà chỉ thực hiện các bài tập trong yêu cầu của phân phối chương trình và
các bài tập hướng dẫn trong SGK thì :
HS chỉ biết được kỹ thuật cơ bản chứ khi áp dụng vào thi đấu thì không
thực hiện được các em vì thiếu thể lực, di chuyển chậm, lực chân không đủ để
giậm nhảy đúng yêu cầu.
Yêu cầu của chương trình sách giáo khoa hiện nay chủ yếu dạy để các em
phát triển thể lực chung là chính. Không chú ý củng cố thể lực chuyên môn cho
các em mà nội dung học nhiều trong khi thể lực chuyên môn của người học yếu

dẫn đến người học sớm bị mệt mỏi, nhàm chán, thiếu hứng thú tập luyện.
2. Về học sinh:
- Khối 10 năm học 2017 - 2018 có 480 học sinh. Trong đó
tôi trực tiếp dạy 6 lớp với 270 học sinh:
10 A1 45 em
10 A2 45 em
10 A3 45 em
10 A4 45 em
10 A5 45 em
10 A6 45 em
Trong qúa trình dạy học môn Thể dục cho học sinh, tôi thấy được ưu và
nhược điểm như sau:
* Ưu điểm:
- Đa số các em ngoan, chịu khó học tập, thường xuyên
hoàn thành kiến thức, kĩ năng yêu cầu bài học.
Người thực hiện: Lưu Anh Thắng

5
Năm học: 2018 - 2019


- Trong đó có một số em có năng khiếu vượt trội so với các
bạn, các em nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng, vị trí môn
học đối với học sinh và đối với việc rèn luyện sức khỏe cho bản
thân để học tập tốt các môn học khác và lao động.
* Nhược điểm:
- Sự phát triển thể lực nói chung và sức mạnh nói riêng của nhiều em
còn hạn chế dẫn đến kết quả của môn học chưa thực sự cao.
- Một số học sinh coi nhẹ việc tập luyện, đặc biệt là môn
nhảy cao; ý thức tập luyện chưa cao.

- Trình độ năng lực và khả năng tập luyện của học sinh
không đồng đều; khi nhảy cao vẫn còn hiện tượng học sinh
dùng tay đẩy xà hoặc chui qua xà.
3. Nguyên nhân của thực trạng trên:
- Do các em là học sinh mới vào trường, thầy cô mới bước đầu tiếp cận nên
chưa thực sự hiểu được khả năng tiếp thu được phương pháp học của học sinh.
- Một số thầy cô đổi mới phương pháp dạy học chậm, việc vận dụng kết
hợp giữa các phương pháp giảng dạy chưa linh hoạt, chưa nghiên cứu kĩ bài để
có hệ thống bài tập bổ trợ nâng cao sức khỏe, nâng cao kỹ năng cho học sinh.
- Một số em chưa tập trung còn phân tán tư tưởng bởi không gian rộng
và cảnh vật xung quanh; ý thức tự giác tích cực, chủ động trong quá trình lập
luyện ở nhà trường và gia đình chưa cao.
- Tình trạng sức khoẻ của một số em chưa tốt để phát huy hết tính năng,
yêu cầu của bộ môn.
- Điều kiện học, thời gian học của các em ở gia đình còn rất hạn chế.
IV. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
Giảng dạy kĩ thuật nhảy cao cũng như giảng dạy các môn
thể dục khác đều phải tuân thủ các nguyên tắc chung được
xây dựng trên cơ sở quy định hình thành kĩ năng vận động. Kĩ
thuật nhảy cao là một hoạt động không mang tính chất chu kì,
động tác thực hiện nhanh, tương đối phức tạp. Nên khi giảng
dạy kĩ thuật này, tôi đã kết hợp hài hòa các phương pháp dạy
học, quan tâm đến từng đối tượng học sinh trong lớp, xây
dựng hệ thống bài tập hợp lí, phù hợp với trình độ năng lực
tiếp thu của học sinh thông qua SKKN “Một số bài tập phát triển
sức mạnh nhằm nâng cao thành tích nhảy cao kiểu nằm nghiêng cho học
sinh lớp 10 trường THPT Cẩm Thủy 1”. trong những năm qua tương
đối cao. Cụ thể nội dung các biện pháp như sau:
1. Biện pháp “Nghiên cứu đặc điểm tâm sinh lí của học sinh để lựa
chọn các bài tập phù hợp nhằm phát triển sức mạnh cho các em học sinh lớp

10”.

Người thực hiện: Lưu Anh Thắng

6
Năm học: 2018 - 2019


Tuổi đầu thanh niên là thời kì đầu đạt được sự tăng trưởng về mặt thể lực.
Nhịp độ tăng trưởng về chiều cao và trọng lượng đã chậm lại. Sự phát triển của
hệ thần kinh có những thay đổi quan trọng do cấu trúc bên trong của não phức
tạp và các chức năng của não phát triển. Lứa tuổi học sinh THPT là lứa tuổi quá
độ và là giai đoạn rất nhạy cảm, có sự phát triển đặc biệt mạnh mẽ, linh hoạt
của các đặc tính nhân cách. Các em luôn mong muốn thử sức mình theo các
phương hướng khác nhau, nên hành vi của các em phức tạp và mâu thuẫn.
Vì vậy, giáo viên cần phải gần gũi quan tâm, thường xuyên giám sát và giáo
dục cho phù hợp trên cơ sở phát huy tính tích cực, sáng tạo; giúp các em biết điều
chỉnh và tổ chức hoạt động; tạo điều kiện phát triển tốt các khả năng cho các em.
a. Đối với hệ thần kinh:
Não bộ ở lứa tuổi này của học sinh đang thời kì hoàn chỉnh, hoạt động
của thần kinh chưa ổn định, hưng phấn chiếm ưu thế. Các em thường có thái độ
rõ ràng đối với các vấn đề, hiện tượng xảy ra trong xã hội, đã biết đưa ra nhận
xét, đánh giá đối với các vấn đề đó. Hiện tại, các em rất say mê các môn học
theo cách sáng tạo, do đó khi học tập, các em dễ tập trung tư tưởng. Tuy nhiên,
nếu thời gian học kéo dài, nội dung nghèo nàn, hình thức học tập đơn điệu, thì
thần kinh sẽ chóng mệt mỏi và dễ phân tán sự chú ý.
Vì vậy dạy học cho học sinh ở lứa tuổi này, giáo viên cần phải chịu khó
nghiên cứu kĩ bài dạy. Trước khi lên lớp phải chuẩn bị đầy đủ giáo án và đồ
dùng phục vụ tiết học. Khi dạy học, giáo viên phải kết hợp nhiều phương pháp
một cách linh hoạt, mềm dẻo; phải chú trọng sử dụng và phát huy tác dụng của

đồ dùng trực quan; phải chú ý khi thực hiện các động tác mẫu trước học sinh
sao cho chính xác và mô phạm. Giáo viên phải vận dụng hình thức tổ chức
phong phú và phối hợp nhịp nhàng với học sinh trong giờ học. Từ đó sẽ phát
huy được tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh trong mỗi giờ học.
Ngoài ra, giáo viên gần gũi động viên các em tăng cường tập luyện thêm ngoài
giờ học và tham gia các hình thức vui chơi khác để làm phong phú khả năng
hoạt động và phát triển các tố chất thể lực một cách toàn diện.
b. Hệ vận động:
+ Về hệ xương: Xương của các em vẫn đang trong giai đoạn phát triển về
chiều dài. Hệ xương sụn tại các khớp đang đòi hỏi điều kiện tốt để tiếp tục phát
triển và hoàn thiện.
Học thể dục thể thao có tác dụng tốt đến sự phát triển hệ xương của các
em. Tuy nhiên, khi tập các em phải thực hiện đúng tư thế, đúng kĩ thuật để tránh
ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của xương và sụn cũng như và kìm hãm sự
phát triển về chiều dài của xương. Muốn vậy, khi dạy học, giáo viên phải chú ý
hướng dẫn, uốn nắn và điều chỉnh tư thế của các em sao cho đúng kĩ thuật, phải
quan tâm đến sự cân đối trong hoạt động của các em. Có như vậy học tập thể
Người thực hiện: Lưu Anh Thắng

7
Năm học: 2018 - 2019


dục mới có tác dụng phát triển thể lực cho các em, với đúng với yêu cầu của
môn học mà Bộ giáo dục Đào tạo đề ra.
+ Về hệ cơ: Hệ cơ của các em phát triển chậm hơn sự phát triển của hệ
xương, chủ yếu là phát triển về chiều dài, thiết diện cơ chậm phát triển. Do sự
phát triển không đồng bộ, thiếu cân đối nên các em không phát huy được sức
mạnh và chóng mệt mỏi.
Để hệ cơ các em phát triển hoàn thiện và đúng cách, khi dạy học, giáo viên

cần chú ý xây dựng các bài tập hợp lí, ưu tiên tăng cường phát triển cơ bắp và phát
triển toàn diện cho học sinh. Giáo viên hướng dẫn luyện tập phải đúng cách còn
học sinh phải tích cực, phải luyện tập thường xuyên thì mới làm tăng khả năng
trao đổi, vận chuyển và sử dụng khí oxy tại cơ và các mô tế bào của cơ thể. Từ
đó còn có tác dụng tăng khả năng đáp ứng của cơ thể các em với những hoạt
động cần tốn nhiều sức khỏe.
c. Hệ tuần hoàn:
Ở tuổi này, tim phát triển chậm hơn so với sự phát triển mạch máu, sức
co bóp yếu, khả năng điều hòa hoạt động của tim chưa ổn định nên khi hoạt
động quá căng thẳng sẽ chóng mệt mỏi.
Vì vậy giúp học sinh tập luyện thể dục thể thao thường xuyên là nhiệm vụ
của giáo viên, từ đó sẽ ảnh hưởng tốt đến hoạt động của hệ tuần hoàn và hoạt
động của tim dần dần được thích ứng. Khi hướng dẫn học sinh luyện tập, giáo
viên cần hướng dẫn để học sinh đảm bảo nguyên tắc vừa sức và nguyên tắc tăng
tiến trong giáo dục thể chất để học sinh thích nghi dần, tránh hoạt động quá sức
và đột ngột.
d. Hệ hô hấp:
Hiện tại, phổi của các em phát triển chưa hoàn thiện, phế nang còn nhỏ,
các cơ hô hấp chưa phát triển hết, dung lượng phổi còn bé. Vì vậy khi hoạt động
các em phải thở nhiều, thở nhanh nên chóng mệt mỏi.
Muốn các em duy trì việc rèn luyện thể chất tốt và toàn diện, giáo viên phải
chú ý đến sự phát triển của các cơ hô hấp. Phải có các bài tập hợp lí và hướng dẫn
các em biết cách thở sâu, thở đúng nhất biết cách thở khi vận động thì các em mới
tránh được sự hụt hơi và mệt mỏi khi hoạt động và hoạt động mới được lâu và có
hiệu quả.
2. Biện pháp “Nghiên cứu cơ sở khoa học của GDTC trong trường THPT
để đưa ra các dạng bài tập phát triển phù hợp”.
Như chúng ta đã biết, giáo dục các tố chất thể lực luôn được coi là vấn đề
quan trọng. Các tố chất thể lực của con người như sức nhanh, sức mạnh, sức
bền, năng lực phối hợp vận động, mềm dẻo... có mối quan hệ biện chứng, thống

nhất và ràng buộc chặt chẽ với nhau. Việc phát triển các tố chất thể lực một
cách toàn diện là nhiệm vụ bắt buộc đối với những người làm công tác thể dục
8
Người thực hiện: Lưu Anh Thắng

Năm học: 2018 - 2019


thể thao quần chúng và đặc biệt là trong bồi dưỡng học sinh giỏi nhằm đạt
thành tích tối đa. Đối với các trường THPT, mục đích của GDTC là góp phần
thực hiện mục tiêu phát triển hài hoà, có thể lực để phát triển sức khỏe học tập
các môn học khác và tham gia các hoạt động ngoài giờ lên lớp, tham gia lao
động và các sinh hoạt khác trong gia đình, xã hội, bước đầu học sinh có khả
năng tiếp cận với thực tiễn lao động phù lớp lứa tuổi.
Bộ môn GDTC được đưa vào chương trình chính khóa từ rất lâu và có
hướng dẫn phân phối chương trình cụ thể cho từng khối lớp. Ngoài ra, dạy thể
dục còn giúp nhà trường phát hiện và bồi dưỡng học sinh năng khiếu có tố chất
thể dục thể thao để các em dự thi học sinh giỏi các cấp và là tiền đề để định
hướng nghề nghiệp trong tương lai cho học sinh.
Hệ quả của GDTC gắn liền với đặc điểm giải phẫu sinh lí, tâm lí học và
đặc điểm phát triển tố chất thể lực ở mỗi lứa tuổi con người. Tác dụng của
GDTC là rất lớn, nó không chỉ đem lại sức khỏe cho học sinh mà còn góp phần
đào tạo con người phát triển toàn diện.
Tố chất thể lực là sự biểu hiện tổng hợp của hệ thống chức năng các cơ
quan trong cơ thể, tố chất thể lực tăng trưởng theo sự tăng trưởng của lứa tuổi.
Sự tăng trưởng này có tốc độ nhanh, biên độ lớn trong thời kì dậy thì. Tuy nhiên
trong cùng một lứa tuổi, tố chất thể lực khác nhau thì sự phát triển cũng khác
nhau.
Tố chất thể lực từ giai đoạn tăng trưởng chuyển qua giai đoạn ổn định
theo một thứ tự phát triển sau: Tố chất nhanh phát triển đầu tiên, sau đó là tố

chất bền và tố chất mạnh.
+ Tố chất nhanh:
Tố chất nhanh phát triển sớm hơn sự phát triển tố chất mạnh, thời kì phát
triển tố chất nhanh quan trọng nhất ở tuổi học sinh Tiểu học và Trung học cơ sở.
+ Tố chất mạnh:
Sức mạnh là năng lực chống đỡ hoặc khắc phục sức cản bên ngoài nhờ
những nỗ lực của cơ bắp.
Đối với môn nhảy cao, chúng ta cần quan tâm đến sự phát triển sức mạnh
tốc độ của người tập. Để phát triển sức mạnh tốc độ cần xen kẽ tập luyện đúng
mức với phương pháp dùng sức lớn nhất. Như vậy, trong quá trình cho học sinh
tập luyện môn nhảy cao chúng ta cần đưa vào các bài tập phát triển sức mạnh bột
phát của các nhóm chi dưới, giúp cho việc thực hiện động tác giậm nhảy trong
nhảy cao thật nhanh, mạnh, để đưa cơ thể bay lên cao hơn.
- Sức mạnh tốc độ: Dạng sức mạnh này thể hiện trong động tác chạy đà.
- Sức mạnh bột phát: Dạng sức mạnh thể hiện trong động tác giậm nhảy
(sức bật).
+ Tố chất khéo léo:
Khéo léo là năng lực tiếp thu nhanh các động tác ứng phó kịp thời với
Người thực hiện: Lưu Anh Thắng

9
Năm học: 2018 - 2019


những thay đổi bất ngờ. Xác định và đánh giá tố chất khéo léo là việc khó. Có thể
tính bằng khoảng thời gian tiếp thu động tác. Để rèn luyện khéo léo cần phải tập
nhiều các loại hình động tác, nhờ quá trình tập để tiếp thu các động tác đó các tố
chất khác cũng phát triển theo.
Tóm lại, trong quá trình giảng dạy và huấn luyện điền kinh nói chung và nhảy
cao nói riêng, chúng ta cần căn cứ vào đặc điểm phát triển tố chất, đồng thời

dùng các phương pháp huấn luyện khoa học, xúc tiến cho việc phát triển tố chất
thể lực của người tập nói chung và học sinh nói riêng.
+ Hệ thống các nội dung tập luyện ban đầu cần đáp ứng yêu cầu:
- Củng cố và nâng cao sức khoẻ giúp cho cơ thể phát triển cân đối, khắc
phục sửa chữa những sai lệch.
- Bài tập hình thành các kỹ năng, kỹ sảo vận động cần thiết và sự phối
hợp các hoạt động khác nhau với độ chính xác ngày càng cao.
- Giáo dục ý thức kỷ luật, đạo đức, nếp sống văn minh, nhanh nhẹn,
thông minh, sáng tạo và dũng cảm.
- Khái quát và tích luỹ những tri thức chuyên môn trong tập luyện thể
thao nói chung, điền kinh nói riêng, gây hứng thú say mê tập luyện hàng ngày
để hoàn thiện mình.
- Phát triển các tố chất thể lực: Sức mạnh, tốc độ, phát triển thể lực.
3. Một số bài tập và tiến trình dạy học phát triển sức mạnh nhằm nâng cao
thành tích nhảy cao kiểu nằm nghiêng cho học sinh lớp 10 trường THPT
Cẩm Thủy 1.
a. Hệ thống bài tập: Gồm 8 bài tập, trong đó 4 bài tập về sức mạnh tốc độ, 4 bài
tập về sức mạnh bột phát:
* Nhóm 1: Bốn bài tập về sức mạnh tốc độ:
Bài tập 1: Chạy 30m xuất phát cao.
Bài tập 2: Chạy 30m tốc độ cao.
Bài tập 3: Chạy 60m xuất phát cao
Bài tập 4: Chạy đạp sau 30m.
* Nhóm 2: Bốn bài tập về sức mạnh bột phát:
Bài tập 1: Bật xa tại chỗ.
Bài tập 2: Bật cao tại chỗ.
Bài tập 3: Bật cóc 15m
Bài tập 4: Lò cò nhanh một chân 30m.
b. Thời gian áp dụng các bài tập.
1

Chạy 30m xuất phát cao.
2
Chạy 30m tốc độ cao
3
Chạy 60m xuất phát cao
Người thực hiện: Lưu Anh Thắng

x
x
x

x

x
x
x

x

x
x
x

x

x
x
x

x


x
x
x

10
Năm học: 2018 - 2019


4
5
6
7
8

Chạy đạp sau 30m
Bật xa tại chỗ
Bật cao tại chỗ
Bật cóc 15m
Lò cò nhanh một chân

c. Tiến trình dạy các bài tập.
TT Nội dung

1

2

3


4

5

x
x
x
x
x

Thời
gian

x
x
x
x
x

Nghỉ

Chạy 30m xuất phát
cao

3 phút

30”1phút

Chạy 30m tốc độ cao


3 phút

30”1phút

Chạy 60m xuất phát
cao

4 phút

30”1phút

Chạy đạp sau 30m

3 phút

30”1phút

Bật xa tại chỗ

1-2 phút

30”

Bật cao tại chỗ

1-2phút

30”

Bật cóc 15m


1-2phút

30”

6

7
8

Lò cò nhanh một chân 3phút
30m
Người thực hiện: Lưu Anh Thắng

30”

x
x

x
x
x
x
x

x
x

x


x
x

x
x

x
x

Mục đích, yêu cầu
Rèn luyện sức mạnh
tốc độ
Yêu cầu: tự giác tích
cực
Rèn luyện sức mạnh
tốc độ
Yêu cầu : tự giác tích
cực
Rèn luyện sức mạnh
tốc độ
Yêu cầu : tự giác tích
cực
Rèn luyện sức mạnh
tốc độ
Yêu cầu : tự giác tích
cực
Rèn luyện sức mạnh
bột phát
Yêu cầu : tự giác tích
cực

Rèn luyện sức mạnh
bột phát
Yêu cầu : tự giác tích
cực
Rèn luyện sức mạnh
bột phát
Yêu cầu : tự giác tích
cực
Rèn luyện sức mạnh
bột phát
Yêu cầu : tự giác tích
11
Năm học: 2018 - 2019


cực
Sau khi sử dụng hệ thống 8 bài tập trên tôi thấy mục đích của các dạng bài
tập đạt được hiệu quả khác nhau và đều góp phần nâng cao hiệu quả nhảy cao
kiểu nằm nghiêng cho học sinh. Cụ thể:
- Mục đích của dạng bài tập phát triển sức mạnh tốc độ là: Rèn luyện sức mạnh
tốc độ trong kĩ thuật chạy đà.
- Mục đích dạng bài tập phát triển sức mạnh bột phát là: Nhằm rèn luyện sức
mạnh bột phát trong kĩ thuật giậm nhảy.
+ Đối tượng và biện pháp thực hành.
Tôi chọn dạy 6 lớp 10 với 270 em. Ban đầu kiểm tra, tôi thấy số lượng
học sinh và trình độ tiếp thu giữa các lớp tương đương với nhau. Thể lực giữa
các lớp lúc chọn vào là ngẫu nhiên đều bằng nhau, được chia làm 2 nhóm: 1
nhóm dạy thực nghiệm theo các phương pháp và bài tập đã nêu trên, nhóm còn
lại để đối chứng.
Nhóm thứ nhất: Tập luyện theo phương pháp thực nghiệm áp dụng các bài tập

bổ trợ phát triển thể lực chuyên môn môn nhảy cao vào giảng dạy.
Đối tượng được chọn là:
10A1 có 45 học sinh
10A2 có 45 học sinh
10A3 có 45 học sinh.
Tổng số học sinh của nhóm thứ nhất là 135 học sinh.
Cách thực hiện: Hệ thống các bài tập trên được tôi sử dụng một cách phù
hợp vào tập luyện cho học sinh trong các giờ học. Tôi chia học sinh làm hai
hàng thực hiện các bài tập đưa ra theo đội hình nước chảy.
Tuy nhiên, khi sử dụng các bài tập này, giáo viên phải lưu ý là tùy vào
mỗi bài học để chọn một số bài tập cụ thể cho học sinh luyện tập thì mới đảm
bảo thời gian cho các em học phần cơ bản, nội dung mới phong phú và vẫn đảm
bảo kiến thức và nổi bật trọng tâm. Giáo viên không được chọn tất cả 8 bài tập
đó vào một tiết học; nếu chọn ôm đồm như vậy vô hình dung trong tiết học
nhảy cao học sinh lại chỉ học các bài tập bổ trợ, các em sẽ không còn thời gian
học kiến thức cơ bản; hiệu quả giờ học sẽ không cao, dễ nhàm chán, nội dung
chính của bài học bị phân tán, không nổi bật kiến thức trọng tâm. Ngoài ra, khi
chọn bài tập bổ trợ rèn luyện phải kết hợp chọn cả hai dạng bài tập trên vào
cùng một tiết để học sinh vừa đảm bảo phát triển sức mạnh tốc độ và phát triển
sức mạnh bột phát. Từ đó vừa nâng cao thể lực vừa nâng cao sức bật… giúp
cho học sinh tập đúng kĩ thuật hơn, hiệu quả hảy sẽ cao hơn.
Nhóm thứ hai: Tập luyện bình thường theo phân phối chương trình và hướng
dẫn của Sách giáo viên bao gồm các lớp:
10A4 có 45 học sinh
Người thực hiện: Lưu Anh Thắng

12
Năm học: 2018 - 2019



10A5 có 45 học sin
10A6 có 45 học sinh
Tổng số học sinh nhóm thứ hai là : 135 học sinh.
4. Kết quả thực nghiệm đề tài :
Sau khi dạy cho học sinh hai nhóm trên với hai phương pháp khác nhau,
tôi thấy, các lớp được sử dụng bài tập bổ trợ các em học tập tốt hơn, kết quả thu
được cao hơn hẳn so với lớp dạy đối chứng. Cụ thể kết quả như sau:
- Đối với nhóm các lớp đã đưa các bài tập bổ trợ vào dạy
học luyện tập theo phương pháp thực nghiệm:
Đạt yêu cầu ở
Chưa đạt yêu
TT
Lớp
Số HS
Đạt yêu cầu
mức độ tốt
cầu
1
10A1
45
29 HS = 64,4% 16 HS= 35,6%
0 HS = 0%
2
10A2
45
28 HS = 62,2% 17 HS= 37,8%
0 HS = 0%
3
10A3
45

32 HS = 71,1% 13 HS= 28,9%
0 HS = 0%
4
Tổng
135
89 HS = 65,9% 46 HS= 34,1%
0 HS = 0%
- Nhóm lớp không đưa các bài tập bổ trợ, tập các bài tập
đơn thuần:
Đạt yêu cầu ở
Chưa đạt yêu
TT
Lớp Số HS
Đạt yêu cầu
mức độ tốt
cầu
1
10A4
45
15 HS = 33,4% 25 HS= 55,5% 5 HS = 11,1%
2
10A5
45
17 HS =37,8%
24 HS= 53,3% 4 HS = 8,9%
3
10A6
45
20 HS =44,5%
24 HS= 53,3% 1 HS = 2,2%

4
Tổng
135 52 HS =38,5%
73 HS=54,1% 10 HS =7,4%
Biểu đồ thể hiện giữa nhóm lớp thực nghiệm và nhóm lớp không thực
nghiệm:
+ Đạt yêu cầu ở mức độ tốt.

Người thực hiện: Lưu Anh Thắng

13
Năm học: 2018 - 2019


Đạt yêu cầu.

Chưa đạt yêu cầu.

Người thực hiện: Lưu Anh Thắng

14
Năm học: 2018 - 2019


* Nhận xét, đánh giá.
Sau khi áp dụng SKKN vào dạy học và thu được kết quả của hai 2 nhóm
đối tượng thực nghiệm và không thực nghiệm như trên cho thấy đối với nhóm
dạy theo phương pháp thực nghiệm kết quả như sau:
+ Các em được áp dụng các bài tập bổ trợ trong giờ học, các em chăm
chú học bài, phấn khởi luyện tập. Nội dung học phong phú, các em không bị

nhàm chán. Sự phối hợp giữa thầy và trò diễn ra nhịp nhàng hơn, giờ học sôi
nổi hơn. Thể lực của các em tốt hơn, kỹ thuật thực hiện động tác đúng hơn. Kết
quả kiểm tra đánh giá về kỹ thuật cũng như tố chất thể lực của nhóm được thực
nghiệm tăng lên rõ rệt.
+ Từ cơ sở các bài tập thể lực đó ở trường, ở lớp, các em đã tích cực hơn
trong việc luyện tập ở nhà và các phong trào thi TDTT khi có môn nhảy cao. Từ
đó các em phát triển tốt hơn về mặt thể chất cũng như năng lực, giúp các em có
sức khỏe để học tập các môn học khác.
Cụ thể: - Ở nhóm 1 áp dụng phương pháp thực nghiệm 100% học sinh
đạt mức độ hoàn thành và hoàn thành tốt; Nhóm 2 không áp dụng sáng kiến trên
thì số học sinh chưa hoàn thành vẫn còn 7,4%, số học sinh hoàn thành tốt ít.
-. Ở nhóm 1 so với nhóm 2:
Loại Hoàn thành tốt: Cao hơn 27,9% (Do loại Hoàn thành giảm, loại
chưa hoàn thành không có)
Loại Hoàn thành: Ít hơn 20% (Do loại Hoàn thành tốt đã tăng lên nhiều,
không có học sinh chưa hoàn thành)
Loại Chưa Hoàn thành: Không còn (Do đã đạt 100% Hoàn thành trở lên)
5. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
- Đối với bản thân:
Sau khi áp dụng SKKN này, tôi đã thực sự được nâng cao hơn về kiến thức
lí luận môn GDTC; nắm bắt kĩ hơn về nội dung chương trình môn nhảy cao lớp
10. Thông qua dạy học, các phương pháp dạy học ngày càng được củng cố, kĩ
năng sư phạm được nâng lên, hiệu quả giảng dạy tăng lên rõ rệt. Giờ dạy diễn ra
nhẹ nhàng mà lại giúp các em được hoạt động nhiều và chủ động lĩnh hội kiến
Người thực hiện: Lưu Anh Thắng

15
Năm học: 2018 - 2019



thức. Ngoài ra, trong khi dạy, tôi đã tự tin làm chủ kiến thức, chủ động trong
phương pháp, đa dạng trong hình thức dạy học, cách xử lí tình huống sư phạm
hợp lí hơn; đáp ứng được yêu cầu dạy học sáng tạo như yêu cầu hiện nay.
- Đối với đơn vị:
Sáng kiến đã được tôi và đồng nghiệp áp dụng vào giảng dạy môn GDTC
đạt hiệu quả cao, chất lượng học sinh học môn nhảy cao nâng lên một cách toàn
diện. Vì vậy, nội dung SKKN thực sự có tác dụng góp phần đổi mới phương
pháp dạy học, nâng cao hiệu quả giảng dạy trong nhà trường.
Học sinh được củng cố về kiến thức, về kĩ năng thực hành, chất lượng học
tập cao hơn, các em yêu thích môn học nhiều hơn. Ngoài ra còn góp phần giúp
các em rèn luyện nâng cao thể lực tham gia học tập các môn học khác và sinh
hoạt hàng ngày ở nhà trường cũng như gia đình. Từ đó thực sự góp phần giáo dục
toàn diện cho học sinh để các em trở thành con người mới xã hội chủ nghĩa.
Trong những năm vừa qua, với phương pháp dạy như trên, tôi đã bồi
dưỡng được nhiều học sinh giỏi cấp tỉnh, đặc biệt trong năm học 2017-2018 đội
Điền kinh mà tôi huấn luyện xếp thứ nhất toàn tỉnh và đóng góp vào bề dày thành
tích chung của đơn vị.
PHẦN KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT:
1. Kết luận:
Thông qua các bước nghiên cứu đề tài và sử dụng các bài tập phát
triển sức mạnh nhằm nâng cao thành tích nhảy cao kiểu nằm nghiêng cho
học sinh nam lớp 10, tôi thấy hệ thống bài tập đưa ra rất phù hợp với việc
dạy học và bồi dưỡng học sinh giỏi môn nhảy cao, các bài tập cụ thể là:
STT Bài tập về sức mạnh tốc độ STT Bài tập về sức mạnh bột phát
1 Chạy 30m xuất phát cao.
5 Bật xa tại chỗ
2 Chạy 30m tốc độ cao
6 Bật cao tại chỗ
3 Chạy 60m xuất phát cao
7 Bật cóc 15m

4 Chạy đạp sau 30m
8 Lò cò nhanh một chân 30m
Sau khi áp dụng các bài tập bổ trợ trên vào môn nhảy cao cho các em học
sinh nam lớp 10, tôi thấy thể lực, kiến thức môn học của các em nâng lên rõ rệt.
Từ đó, học sinh nắm bắt kỹ thuật động tác tốt hơn, các em luyện tập dẻo dai
hơn; giờ học của các em sinh động, không còn bị nhàm chán, gò bó, cứng nhắc
như trước.
Giúp các em vui chơi thể thao ngoài giờ và tham gia các hoạt động khác
tốt hơn tạo tinh thần phấn khởi, tự tin hơn. Còn khi tham gia thi cử, các em đã
mạnh dạn hơn, nhanh nhẹn hơn, sức khỏe bền bỉ hơn, động tác chính xác và học
sinh tự tin hơn.
Với con số 135 em được thực nghiệm và 135 em không được áp dụng bài
tập trên ở 6 lớp 10 trong năm học vừa qua tại Trường THPT Cẩm thủy 1, tôi
thấy kết quả rất khả quan với những em được học theo phương pháp thực
nghiệm. Vì vậy, tôi đã mạnh dạn đưa sáng kiến nhỏ của mình góp phần chung
16
Người thực hiện: Lưu Anh Thắng

Năm học: 2018 - 2019


vào việc đào tạo thế hệ trẻ. Tuy nhiên đó chỉ là ý kiến chủ quan của cá nhân tôi
nên không thể tránh được những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý bổ
ích của HĐKH các cấp để sáng kiến kinh nghiệm của tôi hoàn thiện hơn, có thể
áp dụng rộng rãi hơn trong giảng dạy GDTC ở các trường THPT.
2. Kiến nghị:
Đề nghị nhà trường và các cấp có thẩm quyền quan tâm đầu tư hơn nữa
về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học môn thể dục.
Với giáo viên dạy môn học này phải chịu khó sáng tạo, tích cực đổi mới
phương pháp trong dạy học, xây dựng thêm hệ thống bài tập bổ trợ và vận dụng

linh hoạt vào mỗi tiết học một cách phù hợp để hiệu quả giờ học cao hơn.
Cấp trên tổ chức giao lưu, thi học sinh giỏi các cấp để yêu cầu giáo viên
thường xuyên quan tâm đến chất lượng giảng dạy, bồi dưỡng học sinh, đổi mới
phương pháp dạy học.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Cẩm Thủy, ngày 16 tháng 5 năm 2019.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết

Lưu
Anh Thắng
Tài liệu tham khảo
1. Phân phối chương trình môn thể dục năm học
2. Thể dục 10 SGV NXB Giáo Dục 2006 của Vũ Đức Thu
3. Thể dục 11 SGV NXB Giáo Dục 2007 của Vũ Đức Thu – Trương Anh Tuấn
4. Thể dục 12 SGV NXB Giáo Dục 2008 của Vũ Đức Thu – Trương Anh Tuấn
5. Lý luận và phương pháp GDTC- Vũ Đức Thu - Nguyễn Chương Tuấn NXB TDTT 1995

Người thực hiện: Lưu Anh Thắng

17
Năm học: 2018 - 2019


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU.............................................................................................1

I.
Lý do chọn đề tài…………………………………………………...1
II.
Mục đích nghiên cứu……………………………………………….1
III. Đối tượng nghiên cứu………………………………………………2
IV. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………...3
V.
Những điểm mới của SKKN……………………………………….3
PHẦN NỘI DUNG………………………………………………………. ..3
I.
Cơ sở lý luận……………………………………………………… 3
II.
Cơ sở thực tiễn……………………………………………………. 4
III. Thực trạng………………………………………………………….4
1. Về nhà trường………………………………………………………….4
2. Về học sinh…………………………………………………………….5
3. Nguyên nhân của thực trạng trên………………………………………5
Người thực hiện: Lưu Anh Thắng

18
Năm học: 2018 - 2019


IV. Các biện pháp thực hiện… ………………………………………..6
1. Biện pháp “Nghiên cứu đặc điểm tâm sinh lý của học sinh để lựa chọn
các bài tập phù hợp nhằm phát triển sức mạnh cho các em hs lớp 10....6
2. Biện pháp “Nghiên cứu cơ sở khoa học của GDTC trong trường THPT
để đưa ra các dạng bài tập phát triển phù hợp…………………………8
3. Một số bài tập và tiến trình dạy học phát triển sức mạnh nhằm nâng cao
thành tích nhảy cao kiểu nằm nghiêng cho học sinh lớp 10 trường THPT

Cẩm Thủy 1…………………………………………………………..10
4. Kết quả thực nghiệm đề tài……………………………………………12
5. Hiệu quả của sáng kiến………………………………………………..15
PHẦN KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT………………………………………...15
1. Kết luận…………………………………………………..……………15
2. Kiến nghị ……………………………………………………………...16
TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………………….17

Người thực hiện: Lưu Anh Thắng

19
Năm học: 2018 - 2019



×