Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Giáo dục trí tuệ cảm xúc(EQ) cho học sinh THPT qua việc dạy học nghữ văn trong nhà trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.66 KB, 21 trang )

Phần 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.

Lí do chọn đề tài
Trong đời sống, con người tác động đến thế giới khách quan cải tạo thế giới,

cải tạo xã hội nhằm phục vụ đời sống, đồng thời cũng cải tạo chính bản thân mình.
Không những thế, con người còn tỏ thái độ của mình với Thế giới. Khi nghe một bản
nhạc, một bài thơ hay, chứng kiến một hình ảnh thương tâm con người đều có những
rung động của riêng mình. Khi thỏa mãn hay không được thỏa mãn những nhu cầu
của bản thân, con người cũng có những cảm xúc tương ứng. Những hình ảnh tâm lí
biểu lộ những rung động, những thái độ của con người đối với sự vật, hiện tượng đó
gọi là cảm xúc và tình cảm.
Trong bối cảnh biến đổi không ngừng của Thế giới hiện nay, con người chúng
ta đã và đang chịu tác động mạnh mẽ đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm nhất là ở lứa
tổi học sinh THPT - lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu ước mơ
ham hiểu biết, thích tìm tòi, thích khám phá, song còn thiểu hiểu biết sâu sắc về xã
hội, chưa có đủ kinh nghiệm sống để đứng vững trước những đổi thay không ngừng
của xã hội, dễ bị lôi kéo, kích động, sa ngã, bắt trước những thói hư tật xấu. Ở lứa
tuổi này, nếu được trang bị đầy đủ kiến thức và đúng phương pháp các em sẽ có khả
năng giao tiếp tốt, có thể bình tĩnh và đưa ra những quyết định đúng đắn trong bất kì
tình huống khó khăn nào. Nhưng nếu không được định hướng đúng các em có thể
lầm đường, lạc lối, hoặc chán nản bi quan,... thiếu khả năng giao tiếp ứng xử là điều
rất dễ xảy ra. Điều này liên quan đến một loại năng lực mà xã hội hiện nay gọi là trí
tuệ cảm EQ Emotional Quotient.Khác với IQ, EQ có thể tăng lên dần qua quá trình
học hỏi, tích lỹ kinh nghiệm của mỗi người. Vì vậy việc đưa giáo dục về EQ vào
trường học hiện nay đang là một vấn đề được quan tâm của toàn xã hội.
Là một giáo viên dạy Ngữ văn, bản thân tôi luôn ý thức được sức mạnh và sứ
mạng của văn học nhà trường trong bối cảnh đất nước hiện nay. Bởi văn học là một
trong số ít những môn học có khả năng phát triển trí tuệ cảm xúc cho học sinh. Văn
học là một nơi chứa đựng một kho tàng các tình huống cảm xúc của con người, là


nơi giúp con người hướng thiện và có thêm niềm tin yêu đối với cuộc đời. Văn học là
nơi có thể giúp học sinh phát triển năng lực ngôn ngữ, khả năng giao tiếp, nhận thức
về con người và xã hội, bồi dưỡng năng lực tư duy, làm giàu cảm xúc thẫm mĩ, giúp
học sinh hoàn thiện nhân cách. Tuy nhiên có rất nhiều ý kiến cho rằng hiện nay nền
giáo dục của nước ta còn để ngỏ vấn đề này. Càng ngày tình trạng bạo lực trong nhà
1


trường càng trở nên nghiêm trọng và có xu hướng gia tăng, ý thức đạo đức của một
bộ phận học sinh ngày càng đi xuống... Đó là biểu hiện của tình trạng thiếu được
quan tâm phát triển trí tuệ cảm xúc.
Bởi vậy,trong quá trình giảng dạy tôi đã ý thức được rất rõ vấn đề trên và
mạnh dạn lựa chọn đề tài nghiên cứu: "Giáo dục trí tuệ cảm xúc  EQ cho học sinh
THPT qua việc dạy học Ngữ văn trong Nhà trường".
2. Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm
- Giáo dục trí tuệ cảm xúc cho học sinh thông qua văn hóa đọc, đáp ứng nhu
cầu phát triển của con người trong xã hội hiện nay.
- Đưa bộ môn Ngữ văn trở về với vị trí, vai trò vốn có của nó trong thực tế đời
sống của người học không chỉ ở hiện tại mà còn trong suốt cả hành trình cuộc đời.
3. Phương pháp nghiên cứu
Khi thực hiện đề tài sáng kiến kinh nghiệm này, tôi đã sử dụng các phương
pháo sau:
- Phương pháp thu thập thông tin lí luận.
- Phương pháp điều tra thực tế.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục.
- Phương pháp khảo nghiệm, thử nghiệm.
- Phương pháp thống kê.

2



Phần 2: NỘI DUNG.
I. Cơ sở lí luận của vấn đề
1. Khái niệm trí tuệ cảm xúc
Như chúng ta đã biết xúc cảm là hoạt động trí tuệ, chịu sự chi phối và kiểm
soát của trí tuệ. Trí tuệ dẫn đường cho cảm xúc biểu hiện một cách hợp lí, giải phóng
những cảm xúc tiêu cực, hướng đến cảm xúc tích cực và có lợi cho hành động của
chủ thể và những người xung quanh, làm thành động lực cho hoạt động của chủ thể.
Goleman là một trong những người đầu tiên nâng co nhận thức về trí tuệ cảm
xúc, là tác giả cuốn "Emotional Intelligence" một cuốn sách đột phá xuất hiện vào
năm 1995. Ông đã chứng minh được tầm qua trọng của trí tuệ cảm xúc EQ như sau:
Trí tuệ cảm xúc dự đoán thành công trong tương lai. Bởi nó ảnh hưởng tới các mối
quan hệ, sức khỏe và chất lượng cuộc sống.
Trí tuệ cảm xúc EQ ảnh hưởng đến:

Sức khỏe
Hạnh phúc
Mức độ tinh thông nghề nghiệp
Ông ước tính rằng chỉ số IQ chiếm 20 các yếu tố quyết định thành công trong
cuộc đời, còn lại các yếu tố khác như EQ, tính khí, nền tảng gia đình và sự may mắn
thuần túy tạo nên sự cân bằng. Và điều này có nghĩa là IQ được làm tròn bằng các kĩ
năng xã hội - cảm xúc như động cơ, sự kiên trì, kiểm soát xung đột, cơ chế đối phó...,
thuộc về EQ.
Tóm lại, trí tuệ cảm xúc hay trí thông minh cảm xúc được hiểu là gì? Là năng
lực nhận biết và bày tỏ xúc cảm, hòa xúc cảm vào suy nghĩ để hiểu, suy luận về cảm
xúc để điều khiển, kiểm soát cảm xúc của mình và của người khác.
2. Các cấp độ và yếu tố cấu thành trí tuệ cảm xúc
EQ gồm cấp độ.
+ Nhận biết, cảm xúc: Nhận biết đúng cảm xúc của mình và cảm xúc của
những người xung quanh.

+ Thấu hiểu được cảm xúc: Khả năng hiểu và thấu cảm được các loại cảm xúc.
Đồng thời biết nguyên nhân và hậu quả của các loại cảm xúc ấy.
+ Tạo ra cảm xúc: Khả năng diễn tả và đáp lại các cảm xúc của người khác.
Thông qua đó biết lắng nghe, thông cảm và chia sẻ với người khác.

3


+ Quản lí cảm xúc: Khả năng tự quản lí được cảm xúc của mình, cư xử hợp lí
để dễ dàng hòa đồng với tập thể.
EQ gồm 5 yếu tố cơ bản:
+ Tự nhận thức: Cảm xúc ảnh hưởng đến suy nghĩ và hành vi của mình như thế
nào?
+ Tự kiểm soát cảm xúc tiêu cực: Kiểm soát cảm xúc và hành vi bột phát và có
thể thích ứng với hoàn cảnh thay đổi,
+ Thấu cảm quản lí mối quan hệ: Cá nhân biết làm thế nào để phát triển và
duy trì mối quan hệ tốt và quản lí xung đột. Hiểu được cảm xúc, nhu cầu và mối
quan tâm của người khác dựa tín hiệu cảm xúc.
+ Có niềm tin vào cuộc sống.
+ Có các kĩ năng về xã hội nhận thức xã hội: Nắm được các kiến thức về xã
hội và các kĩ năng: Thuyết trình; ra quyết định; giao tiếp; đàm phán; thương lượng;
giải quyết mâu thuẫn.
3.Vai trò, tác dụng của trí tuệ cảm xúc
- Giúp phát triển khả năng lãnh đạo: Tăng khả năng ảnh hưởng và kết nối
nhóm.
- Giúp bản thân ít bị stress, có sức khoe tốt, thành công trong công việc, cân
bằng công việc và cuộc sống.
- Giúp cho tổ chức thành công: Nhân viên có trí tuệ cảm xúc cao sẽ làm việc
hiệu quả hơn và đem lại thành công cho tổ chức.
- Giúp cho đội, nhóm gắn kết hòa hợp và làm việc có hiệu quả.

- Giúp gia đình hiểu nhau hơn và sống vui vẻ, hạnh phúc.
Như vậy chỉ số EQ cao sẽ giúp cho học sinh phát triển tốt kỹ năng giao tiếp,
diễn đạt, hòa đồng với bạn bè, thích ứng nhanh với cuộc sống. Điều này sẽ tạo cho
các em có một nền tảng tốt về nhân cách cũng như những kỹ năng cần thiết trong
cuộc sống để có thể thành công vững chắc sau này.
4. Sức mạnh và sứ mạng của văn học trong nhà trường đối với việc bồi dưỡng
giáo dục trí tuệ cảm xúc cho học sinh.
Văn học là một phương tiện giáo dục hết sức tinh tế, có khả năng tác động sâu
sắc vào tâm hồn, tư tưởng và nhận thức của con người. Từ lâu người ta đã nhận thấy
văn học là nguồn suối không bao giờ cạn của tri thức và kinh nghiệm sống mà con
người cần tiếp thu và phát triển. Người ta cũng thấy rõ vị trí, sức mạnh riêng của tác
4


phẩm văn học trong sự nghiệp giáo dục nói chung. Nó trở thành nội dung và phương
tiện hữu hiệu để giáo dục thế hệ trẻ. Nhà nghiên cứu phê bình văn học Nga
V.G.Bieelinxki đã từng nói: "Một tác phẩm viết cho thiếu nhi là để giáo dục mà giáo
dục là một sự nghiệp vĩ đại vì nó quyết định số phận con người"  V.G.Bieelinxki
toàn tập, tập IV, Matxcơva, NXB Viện hàn lâm khoa học Liên Xô, 1974, trang 79.
Nói đến chức năng của văn học là nói đến mục đích, ý nghĩa xã hội của văn
học. Mĩ học và lí luận nghệ thuật Macxit hiện nay cho rằng văn học có nhiều chức
năng, song có các chức năng chủ yếu sau: Chức năng nhận thức, chức năng giáo dục
và chức năng thẫm mĩ. Với các chức năng ấy, văn học có ưu thế đặc biệt trong việc
thực hiện các nhiệm vụ giáo dục học sinh ở lứa tuổi học đường. Mỗi một bài thơ,
một truyện ngắn đều có thể phản ánh cuộc sống xã hội và con người với nhiều mối
quan hệ, cả những tình huống những mâu thuẫn phức tạp. Học văn giúp học sinh có
được lượng tri thức và kinh nghiệm sống đáng kể có thể nâng cao được trí tuệ cảm
xúc như: Tự nhận thức về suy nghĩ và hành vi của mình; tự kiểm soát cảm xúc tiêu
cực; hiểu được cảm xúc của những người xung quanh, có được kỹ năng giao tiếp, kỹ
năng thuyết trình, thương lượng, đàm phán, ra quyết định và giải quyết được những

mâu thuẫn trong cuộc sống.
II. Thực trạng của vấn đề.
1. Thực trạng.
Nếu giá trị then chốt của văn hóa là tâm hồn, là trí tuệ của con người thì chúng
ta không thể trông chờ, ỷ lại vào công nghệ, kĩ thuật. Bởi vì khoa học công nghệ chỉ
là phương tiện để nâng cao giá trị con người chứ không phải để con người lệ thuộc
vào nó. Vì vậy phải quan tâm đến việc giáo dục tâm hồn, tình cảm, trí tuệ xúc cảm
cho con người - nhất là thế hệ trẻ hiện nay. Và để làm được điều đó văn học có một
vai trò hết sức quan trọng. Bởi văn học là một công cụ, một phương tiện hữu hiệu
giúp con người không bị máy móc hóa, không bị chai lì cảm xúc, không bị chai cứng
tâm hồn. Trong nhà trường phổ thông hiện nay môn văn chỉ được xem như là một
môn công cụ, rèn luyện cho học sinh bốn kỹ năng nghe-nói-đọc-viết với mục tiêu để
giao tiếp, chưa chú ý nhiều đến giáo dục tư tưởng, thái độ, tình cảm, đạo đức của học
sinh. Trong khi đó mục tiêu cuối cùng của dạy học văn là phát triển năng lực văn cho
học sinh. Năng lực văn là một hệ thống phức tạp bao gồm nhiều phương diện có
liên quan chặt chẽ với nhau: Năng lực đọc-hiểu, năng lực phân tích-khái quát, năng
lực cảm thụ thẫm mĩ, năng lực trình bày, diễn đạt tư tưởng và cảm xúc của mình
5


bằng nói, viết và cuối cùng là năng lực vận dụng vào thực tiễn, nhân thức xã hội,
giải quyết các mối quan hệ và các vấn đề trong cuộc sống. Thế nhưng vấn đề dạy
học văn hiện nay chủ yếu vẫn là truyền thụ kiến thức để đáp ứng với thi cử. Lối học
tầm chương trích cú, không coi trọng thực tiễn vẫn tồn tại ở giáo dục nước ta. Điều
này càng khiến môn văn ngày càng xa rời cuộc sống.
Học sinh đi học là để học cách sống, để có một cái đầu logic, một trái tim nhân
ái và một lối sống hòa thuận với người khác. Chung qui lại là học sinh cần phải được
giáo dục, bồi đắp trí tuệ cảm xúc. Nhưng thực tế việc dạy học văn hiện nay lại không
phát huy được thế mạnh của văn học, khiến cho việc phát triển trí tuệ cảm xúc của
học sinh phổ thông có phần bị hạn chế. Điều này dẫn đến tình trạng học sinh ngày

càng chán ghét học văn. Môn văn không những đang mất dần vị thế vốn có mà còn
không thực hiện được mục tiêu giáo dục của môn học như đã nói ở trên. Hơn thế
nữa, chính việc không phát huy được vai trò của môn học cũng như sức mạnh và sứ
mạng của văn học trong nhà trường đã trở thành một trong những yếu tố dẫn đến
những hệ lụy vô cùng đau xót trong việc hình thành nhân cách, đạo đức, kỹ năng
sống của giới trẻ hiện nay.
Thời gian qua nhiều vụ việc vô nhân đạo, phản nhân văn, hay phi nhân tính
trong đời sống xã hoioj cũng như trong học đường diễn ra rất n hiều. GS.Phan Trọng
Luận đã viết "Chúng ta phải bận tâm nhiều việc như mưu sinh hàng ngày, nhà chụng
cư 18 tầng bị cháy, công nhân rơi từ tầng cao, đường sá mắc kẹt hàng ngày, mỡ lợn
lòng lợn thiu thối bán ra thị trường hàng ngày, kẹo phát sáng tran lan trong học
đường... Nhưng nỗi đau tinh thần này, cái gốc của mọi nỗi đau, mọi mất mát kia có
khi lại bị coi nhẹ hay chưa được quan tâm sâu sắc đúng mức. Chúng ta không thể
dửng dưng, không thể bàng quan, không thể không cùng nhau góp sức hãm phanh
nạn xuống cấp đạo đức này. Vì đây là sinh mệnh lâu dài của dân tộc, là bản chất tốt
đẹp của một xã hội văn minh, là động lực đi lên của đất nước..."
Gần đây việc dùng hóa chất để tẩy rửa thực phẩm thiu thối, ngâm ủ rau quả,
hay dùng pin Con Ó để làm giả cà phê, hồ tiêu bán kiếm lời... đang là những vấn đề
gây bức xúc trong dư luận. Hàng ngày mỗi khi đọc báo thấy rất ít tin bài biểu dương
người tốt, việc tốt. Đa số chỉ thấy đưa tin rất nhiều các vụ cướp của, giết người, tự
vẫn. Đau lòng hơn trong xã hội ngày nay căn bệnh trầm cảm ở người lớn, tự kỉ ở trẻ
em ngày một gia tăng. Bởi con người ta phải trải qua quá nhiều áp lực mà không
được học cách làm thế nào để tự mình thoát khỏi căng thẳng. Hiện tượng này xảy ra
6


ở cả lứa tuổi học sinh - lứa tuổi vô lo vô nghĩ, hồn nhiên yêu đời nhất: ngày 1-42010, một em học sinh quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh nhảy lầu tự tử. Ngay sau đó
là một sinh viên trường cao đẳng Tuy Hòa đốt xăng giết bạn tình rồi tự tử... Gần đây
hơn là một nam sinh trường Nguyễn Khuyến, TP Hồ Chí Minh cũng đã tìm đến cái
chết do áp lực học hành, một nữ sinh ở Bắc Giang bị giết ngay tại cổng trường vì

chia tay với người yêu... và rất nhiều vụ việc đau lòng khác như mẹ giết con, con giết
mẹ, con đánh bố, chồng giết vợ rồi tự tử, cả gia đình cùng chết... Rõ ràng, cơn lốc
bạo lực đang có chiều hướng gia tăng trong xã hội và trong cả học đường hiện nay.
Vậy, nguyên nhân là do đâu?
2. Nguyên nhân
2.1. Nguyên nhân khách quan ngoài bộ môn
Do xã hội hiện đại mọi thứ đều thay đổi đên chóng mặt. Nhịp sống quá nhanh,
quá gấp gáp đôi khi khiến con người rơi vào tình trạng căng thẳng, không được thư
giãn, nghỉ ngơi, dẫn đến những suy nghĩ và hành vi tiêu cực. Điều này cũng đã ảnh
hưởng không nhỏ đến lứa tuổi học trò vì ngày càng phải chứng kiến lối sống tiêu cực
của người lớn. Thêm vào đó là sự phát triển của công nghệ thông tin, nhiều trang
mạng xã hội ra đời. Bất cứ tiêu cực nào của đời sống cũng được đưa lên báo mạng,
lên Facbook, Zalo... đã khiến cho giới trẻ dần quen, dần trở nên trơ lì về cảm xúc.
Về phía gia đình, nhiều bậc cha mẹ chỉ lo kiếm tiền, không quan tâm đến con
cái. Ở thành thị thì phó mặc con cho người giúp việc, cho nhà trường, còn ở nông
thôn thì phó mặc con cho ông bà, họ hàng. Nhiều bậc cha mẹ còn bỏ đi làm ăn xa, để
con cái ở nhà tự xoay sở... Điều này còn khiến con cái rơi vào tình trạng cô đơn hoặc
thiếu sự định hướng, dễ dẫn đến những suy nghĩ và hành vi tiêu cực.
2.2.Nguyên nhân chủ quan
Về phía ngành giáo dục: ở đây tôi không bàn đến phương diện quản lí của
ngành. Bởi vấn đề ấy ở cấp độ vĩ mô hơn nhiều. Tôi chỉ nhận thấy một điều: cuộc
sống xã hội diễn biến phức tạp , có bao nhiêu biến đổi trên mọi lĩnh vực kinh tế,
chính trị, xã hội , văn hóa, nghệ thuật. Những biến động và biến đổi biến đổi gay
gắt , dữ dội bao nhiêu thì những hạn chế trong giảng dạy của văn học nhà trường
càng được bộc lộ rõ rệt. Văn học nhà trường đã đi quá chậm so với thành tựu của
một số ngành khác, lại đang đứng trước một sự khủng hoảng về phương pháp. Đã có
rất nhiều nghiên cứu và ứng dụng thay đổi phương pháp đối với việc dạy văn - học
văn, nhưng vẫn không thể phù hợp được với tất cả đối tượng học sinh. Dễ đến 20
7



năm hô hào thay đổi phương pháp nhưng đa số học sinh bước vào nhà trường THPT
vẫn không chọn môn văn như một môn học yêu thích. Một môn học đáng lẽ khơi gợi
nhiều tình cảm, cảm xúc nhất ở học sinh thì lại trở thành một môn học ''cực hình''. Vì
các em vẫn giữ thói quen từ THCS, đó là phụ thuộc vào văn mẫu, học thuộc văn mẫu
để đối phó với các kì thi. Nhiều học sinh tâm sự với tôi, rằng các em phải thuộc
không sót một từ nào, không chỉ một mà nhiều bài văn mẫu, để làm theo ý cha mẹ,
thầy cô. Nghe chuyện này, tôi bất giác rùng mình vì các em đang dần bị biến thành
những cỗ máy ghi nhớ.
Thêm một vấn đề nữa, tâm lí học sinh ngày nay đã dữ dội, mãnh liệt và quyết
liệt hơn xưa. Đòng thời, họ cũng sống sòng phẳng hơn, thẳng thắng hơn. Họ dám
biểu hiện thái độ trực tiếp. Nhiều vấn đề xã hội , chính trị, văn hóa, nghệ thuật trong
sách vở, nhà trường quá ư lạc hậu, xa lạ và bức bối với họ. Làm sao cứ buộc học sinh
nghe một chiều lời ca ngợi những điều lí tưởng hóa trong khi chung quanh nhan nhản
những điều tiêu cực, khác xa những gì sách vở, nhà trường ca ngợi.... Và đây là một
vấn đề gây ra bởi nội dung chương trình sách giáo khoa của chúng ta chưa phù hợp.
Về phía người học: Thái độ lạnh lùng, thờ ơ của học sinh trước những nỗi đau
buồn của con người trong cuộc đời cũng như trong văn chương là điều khiến mỗi
chúng ta phải trăn trở, suy nghĩ. Tiếng kêu xé lòng của nàng Kiều, sự hi sinh của
những người lính Tây Tiến... đã chẳng thể làm các em mảy may rung cảm, xúc động.
Đó là những dấu hiệu không lành mạnh trong tâm hồn, tình cảm của học sinh. Đây
không phải là chuyện chữ nghĩa, văn chương, mà là vấn đề nhân văn, là chất lượng
phát triển tình cảm, tâm hồn học sinh. Điều đáng lo ngại là sự sa sút về nhân văn
không phải là hiện tượng lẻ tẻ, thưa thớt, mà đã trở thành một thứ tâm lí của học sinh
ngày nay. Nhiều giáo viên phàn nàn là trước những hành vi cao thượng, xả thân vì
nghĩa lớn của nhân vật anh hùng, nhiều học sinh không cso thái độ cảm phục, xúc
động mà có khi còn giễu cợt, nhạo báng. sự lạnh lùng, vô cảm của học sinh trước các
hình tượng văn học tất cũng sẽ dấn đến sự lạnh lùng vô cảm trước các hiện tượng
ngoài đời. Và bởi thế, trí tuệ cảm xúc từ đó mà bị ăn mòn, giảm sút.
Từ những nguyên nhân kể trên, có thể tựu chung lại rằng môn văn trong Nhà

trường đang mất đi vị trí và vai trò như nó vốn có. Mà một khi đã mất đi chỗ đứng
thì làm sao có thể thực hiện được mục tiêu giáo dục của một môn học đặc thù: Giáo
dục nhân cách, bồi dưỡng tình cảm...Và đó cũng chính là nguyên nhân khiến cho học
sinh của chúng ta nói riêng, người Việt Nam nói chung không phát triển về trí tuệ
8


cảm xúc, dẫn đến nhiều vấn đề tiêu cực nảy sinh, làm đảo lộn môi trường xã hội, làm
kìm hãm sự phát triển của con người.
III. Giải pháp và biện pháp giải quyết vấn đề
Trước một thực tế xã hội với những mặt tích cực và cả những mặt tiêu cực đều
tăng theo cấp số nhân, thì giá trị then chốt của văn hóa xã hội vẫn là tâm hồn và trí
tuệ của con người. Vì vậy, xã hội chúng ta ngày nay càng cần phải quan tâm đến việc
giáo dục, phát triển tâm hồn, tính cách, trí tuệ cảm xúc cho con người, đặc biệt là thế
hệ trẻ. Và trước nhu cầu ấy của một xã hội hiện đại, là một giáo viên dạy môn ngữ
văn, tôi luôn ý thức rất rõ về vị trí của môn ngữ văn, về vai trò của một giáo viên môn
ngữ văn. Bởi văn học là một công cụ, một phương tiện hữu hiệu để giúp con người
không bị máy móc hóa, không bị trơ lì cảm xúc, tâm hồn không bị động cứng, đặc
biệt là không để con người ta rơi vào trạng thái tiêu cực. Và để làm được điều đó,
trong quá trình giảng dạy tôi đã nghiên cứu, áp dụng một số giải pháp và biện pháp
sau:
1. Nắm vững các cảm xúc, tình cảm được giáo dục trong mỗi bài học Ngữ văn để
định hướng mục tiêu bài học hiệu quả:
Ở mỗi bài học Ngữ văn, giáo viên cần căn cứ vào mục tiêu cần đạt về kiến
thức, kĩ năng và thái độ ở mỗi bài học để xác định.
Ví dụ: Mục tiêu cần đạt của bài học "Thông điệp nhân ngày Thế giới phòng
chống AIDS 1.12.2003" của C.Annan SGK Ngữ văn 12 là:
Về kiến thức: Giúp học sinh:
- Nhận thức được: Đại dịch HIV/AIDS là một hiểm họa mang tính toàn cầu
nên việc phòng chống HIV/AIDS là vấn đề có ý nghĩa bức thiết và tầm quan trọng

đặc biệt, là trách nhiệm của mỗi người và mỗi quốc gia.
- Thấy rõ sức thuyết phục mạnh mẽ của bản thông điệp, tầm nhìn, tầm suy nghĩ
sâu rộng của tác giả.
- Hiểu được những ý nghĩa sâu sắc và những cảm xúc chân thành của tác giả.
- Hiểu được những suy nghĩ sâu sắc và những cảm xúc chân thành của tác giả.
Về kĩ năng: Biết trao đổi, trình bày ý kiến cá nhân về hiện trang, về giải pháp
để đấu tranh chống nguy cơ lây lan đại dịch HIV/AIDS để xây dựng một thế giới
lành mạnh.
Về thái độ: Nhận thức rõ ý thức trách nhiệm của từng cá nhân trong việc sát
cánh, chung tay đẩy lùi hiểm họa HIV/AIDS.
9


Trên cơ sở mục tiêu bài học này, giáo viên giúp học sinh hình thành trí tuệ cảm
xúc trên các phương diện sau:
- Nhận biết cảm xúc, thấu hiểu cảm xúc và tạo ra cảm xúc: Thông qua bài học
học sinh thấy được niềm thống thiết của C.Annan trước hiểm họa HIV/AIDS trên
toàn cầu. Từ đó đồng cảm, lắng nghe và chia sẻ.
- Suy nghĩ và sáng tạo: Biết suy nghĩ, đánh giá, bình luận về hiện trạng và
nguy cơ của đại dịch HIV/AIDS. Từ đó có thể đưa ra những giải pháp và việc làm
cần thiết của cá nhân và cộng đồng để đẩy lùi đại dịch ấy.
- Giao tiếp: Biết trình bày ý tưởng của cá nhân, biết lắng nghe, phản hồi tích
cực về hiện trạng và giải pháp để đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ lây lan của
đại dịch HIV/AIDS .
- Ra quyết định: Đưa ra những quyết định đúng đắn về những việc làm cụ thể
của các cá nhân và xã hội vì một thế giới không HIV/AIDS...
Việc nhận thức rõ khả năng có thể bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc cho học sinh
trong mỗi bài học sẽ giúp giáo viên linh hoạt, lựa chọn các phương pháp dạy học phù
hợp với đối tượng học sinh và lựa chịn các tình huống học tập trong mỗi bài học hợp
lí hơn để giáo dục trí tuệ cảm xúc chọ học sinh.

2. Sử dụng phương pháp đọc diễn cảm để khơi gợi cảm cúc, tình cảm của học
sinh.
Đọc diễn cảm là thể hiện sáng tạo tác phẩm văn học trong giọng đọc nhằm tác
động đến những người nghe. Nếu như các biện pháp khác thông thường tác động đến
lý trí thì đọc diễn cảm, trước hết và chủ yếu tác động đến tình cảm. Bởi vì, về thực
chất đọc diễn cảm thuộc nghệ thuật trình diễn, nó có những điểm tương đồng với
ngâm thơ hoặc trình diễn ca khúc. Nếu giáo viên đọc diễn cảm tốt thì sẽ tạo nên bầu
không khí tươi mát trong giờ học. Người học, trong chừng mực nào đó, có thể
thưởng thức giọng đọc và dễ sản sinh những ấn tượng, xúc động tự nhiên về văn bản.
Có thể thấy rất rõ rằng trên thực tế học sinh ở nhà đã tiếp xúc với văn bản không chỉ
một lần; việc lên lớp đọc lại văn bản nếu không tạo được sự khác biệt thì dễ gây
nhàm chán và mất tập trung. Do đó, bằng hình thức đọc diễn cảm, giáo viên có thể
tạo cho học sinh những bất ngờ, hoặc sự hứng thú và có thể khiến các em bỗng nhiên
có cảm nhận mới mẻ về văn bản.
10


Đó là chưa nói nếu như giáo viên yêu cầu học sinh trình bày thì có thể tạo cơ hội
cho các em bộc lộ bản thân. Đương nhiên, giáo viên phải gieo vào học sinh ý thức
đọc sao cho cuốn hút chứ không phải là qua chuyện, và đọc ở đây là thể hiện sự cảm
thụ và thể nghiệm sâu sắc về tác phẩm, là làm sao để người khác cũng có thể sản
sinh những ấn tượng tương tự như mình. Diễn cảm ở đây hoàn toàn không phải là ở
sự uốn éo đầu lưỡi mà thể hiện những cảm xúc nội tại của tâm hồn.
Vấn đề đang nói sẽ sáng tỏ hơn khi chúng ta làm rõ vấn đề tại sao lại phải đọc
diễn cảm. Trước hết, vì ngôn từ văn bản nghệ thuật được tổ chức đặc biệt, nhà văn
phải là nghệ sĩ ngôn từ. Ngôn từ văn học là ngôn từ mang tính hình tượng, biểu cảm,
và ở những tác phẩm thơ chúng ta có thể nói đến tính nhạc của ngôn từ. Đọc thơ là
để làm cho tác phẩm thơ vang lên như một bản nhạc làm cho nó ngân nga trong hồn
người. Giáo sư Trần Thanh Đạm cho rằng đọc diễn cảm tác phẩm thơ là phải đọc làm
sao cho tác phẩm “sáng hết hình và ngân hết nhạc”. Tuy nhiên, một phương diện

khác quan trọng hơn, đấy là nội dung cảm hứng của văn bản, sản phẩm của việc thể
hiện những rung động mãnh liệt, cảm hứng nồng nàn, cháy bỏng của nghệ sĩ vào tác
phẩm. Đọc diễn cảm là làm sao lột tả được nội dung tình cảm của nó, phải đọc đúng
giọng điệu, làm lây lan cảm xúc của nhà văn đến người đọc, truyền cảm hứng cho
độc giả. Ngay tên gọi đã nói đúng bản chất của việc đọc diễn cảm, đó là người đọc
phải thể hiện xúc cảm, tình cảm trong giọng đọc.
Những cảm xúc này không phải giả tạo mà phải là cảm xúc chân thành, sâu sắc về
văn bản. Nói đọc diễn cảm thuộc nghệ thuật trình diễn trước hết không phải là “khoe
giọng” mà là sự thể hiện xúc động của trái tim. Chính vì thế, giáo viên sử dụng thích
đáng biện pháp này sẽ tạo cho học sinh những ấn tượng tươi mới, những xúc động
mạnh mẽ về văn bản; đồng thời nó có khả năng kích thích liên tưởng, tưởng tượng
tạo sự thâm nhập thuận lợi vào thế giới nghệ thuật của văn bản. Cho nên, đây là biện
pháp có tác dụng rèn luyện cảm thụ văn học cho học sinh.
3.Trần thuật sáng tạo:
11


Trần thuật sáng tạo là tự đặt mình vào một nhân vật nào đó trong văn bản mà trần
thuật lại câu chuyện của nó. Hình thức này phát huy sáng tạo của học sinh, rèn luyện
năng lực hoá thân, nhập thân vào nhân vật. Khi trần thuật, trong chừng mực nào đó,
học sinh phải đặt mình vào vị trí nhân vật, thể nghiệm những gì mà nhân vật nếm trải
trong tình huống của nó, từ đó hiểu sâu sắc hơn về nhân vật và mở rộng kinh nghiệm
đời sống. Biện pháp này khiến học sinh hào hứng học tập, xoá bỏ khoảng cách với
văn bản, phát huy được sự sáng tạo. Giáo viên phải thực hiện biện pháp này một
cách linh hoạt, không nên rập khuôn. Việc trần thuật có thể thay cho việc đọc, hoặc
thực hiện ở phần củng cố bài học, tuỳ vào đối tượng học sinh.
Giáo viên nhất thiết phải có sự động viên khích lệ cũng như những hướng dẫn,
uốn nắn cần thiết. Mục đích chính của trần thuật sáng tạo không phải là để học sinh
nắm vững hệ thống cốt truyện của văn bản mà là con đường để cảm thụ văn bản. Do
đó, giáo viên phải định hướng việc trần thuật vào lĩnh hội và thể nghiệm giá trị của

văn bản. Chẳng hạn, lưu ý học sinh diễn tả thế nào về những tình huống trọng yếu,
những diễn biến tâm lý và xúc cảm tế nhị của nhân vật. Cũng cần lưu ý rằng đây là
biện pháp phát huy sáng tạo của học sinh nhưng giáo viên phải có định hướng để học
sinh không vì cảm xúc và tình cảm mà thay đổi ý đồ sáng tác của nhà văn hay tính
cách của nhân vật.
4.Đặt những câu hỏi gợi cảm xúc, liên tưởng, tưởng tượng để học sinh được trải
nghiệm.
Để đảm bảo tính khoa học và tính giáo dục trong một bài học Ngữ văn, người
giáo viên phải thiết kế những câu hỏi phù hợp với yêu cầu đó nhằm nâng cao trí tuệ
cảm xúc cho học sinh.
Trước hết là những câu hỏi gợi cảm xúc, ở dạng đơn giản nhất chúng là những
câu hỏi trắc nghiệm tình cảm. Những câu hỏi này có thể kiểm tra phản ứng tình cảm
của học sinh; mặt khác nó thúc đẩy sự đồng cảm, khuyến khích các em lắng nghe
tiếng nói của trái tim. Chẳng hạn, sau khi đọc diễn cảm, giáo viên có thể hỏi: Em có
ấn tượng thế nào về văn bản? Dạng câu hỏi này thường được gọi là câu hỏi ấn tượng
chung. Và ở dạng tương tự, sẽ có các câu hỏi như: Em ấn tượng thế nào về (đoạn thơ,

12


khổ thơ, câu thơ…trong bài thơ; hay hành động, ngôn ngữ, tích cách nhân vật…
trong truyện)?
Nhưng cũng có những hình thức đặt câu hỏi sáng tạo hơn, dựa vào việc khơi
gợi liên tưởng của học sinh mà tạo sự đồng cảm, thể nghiệm văn bản. Chẳng hạn,
dạy bài "Rama buộc tội", khi phân tích hình tượng Xi-ta, đến đoạn nhà văn miêu tả
nỗi đau đớn như nghẹt thở của nàng, giáo viên có thể đọc câu: “Gia-na-ki xấu hổ
cho số kiếp của nàng. Nàng muốn chôn vùi cả hình hài và thân xác mình”, và hỏi
học sinh: Khi chúng ta xấu hổ chúng ta có cảm giác thế nào khi đứng trước mặt mọi
người?
Khi dạy tác phẩm "Chí Phèo" của Nam Cao SGK Ngữ Văn II, tập 1, muốn

học sinh hiểu và cảm thông sâu sắc bi kịch của Chí Phèo. từ đó rút ra nhiều bài học
bổ ích cho bản thân, tôi đã thực hiện như sau:
Để giúp học sinh có khả năng thoát khỏi tình trạng bế tắc khi phân tích đoạn
văn miêu tả tiếng chửi của Chí Phèo có thể nêu những câu hỏi: Vì sao Chí Phèo
chửi? Chí Phèo chửi những đối tượng nào? Tiếng chửi ấy biểu hiện điều gì? Tiếng
chửi ấy có mang lại được điều gì hay có thay đổi được điều gì trong tình cảnh hiện
tại của Chí Phèo không?
Nếu không may các em lâm vào tình trạng cùng quẫn, bế tắc chúng ta có nên
chửi giống Chí Phèo không? Khi ấy chúng ta sẽ làm gì để thoát khỏi tình trạng ấy?
Hoặc khi phân tích đoạn sau 7, 8 năm đi tù về, Chí Phèo thay đổi hoàn toàn về
nhân hình và nhân tính. Để giúp học sinh có thể nhận biết và quản lí cảm xúc tôi đặt
những câu hỏi sau:
Hãy tìm những chi tiết miêu tả ngoại hình của Chí Phèo ở đoạn này? Những
chi tiêt về ngoại hình ấy so với trước kia cho ta thấy Chí Phèo đã thay đổi như thế
nào? Đó có còn là ngoại hình của một người lương thiện không? Ngoại hình ấy cho
ta thấy được điều gì bên trong con người Chí Phèo?
Như vậy, ngoại hình của con người phần nào nói lên tính cách. Vì thế chúng ta
cần phải có một ngoại hình như thế nào?
Hoặc để giúp học sinh có kĩ năng giải quyết xung đột một cách tích cực, khi
phân tích đoạn Chí Phèo đến nhà Bá Kiến để rạch mặt ăn vạ, giáo viên có thể hỏi:
13


Tại sao sau khi đi tù về, Chí Phèo không đến nhà ai khác mà laiị đến nhà Bá Kiến để
rạch mặt ăn vạ? Mục đích của hắn là gì? Hắn có thực hiện được mục đích ấy không?
Hắn đã lâm vào tình trạng như thế nào?...
Qua việc trả lời những câu hỏi về Chí Phèo, học sinh sẽ rút ra nhiều bài học
cho mình. Chẳng hạn tôi hỏi: Khi giải quyết xung đột chúng ta có cần xác định trúng
đối tượng không? Có cần chọn thời gian và địa điểm phù hợp không? Trong một
xung đột chúng ta có nên làm xấu thêm tình hình không?... Từ đó tôi định hướng cho

học sinh: Trong những tình huống xung đột, chúng ta không nên đổ lỗi cho người
khác. Hãy tìm kiếm cơ hội để thỏa hiệp nhằm đạt được những kết quả tốt nhất cho cả
đôi bên. Nếu không hiệu quả, rơi vào tình trạng thái quá cảm xúc hoặc buồn chán,
mệt mỏi, hãy ngừng lại và làm điều gì đó khác đi...
5. Giáo dục trí tuệ cảm xúc thông qua việc tổ chức hình thức sân khấu hóa và
loại hình trò chơi:
Học sinh tiếp thu rất nhanh thông qua hình ảnh và sự trải nghiệm thực tế.
Phương pháp này đã rất nhiều giáo viên áp dụng và cũng đã rất thành công với mục
tiêu khiến giờ văn trở nên sinh động, hấp dẫn. Muốn làm được điều này, giáo viên
chỉ cần phân công nhiệm vụ cho học sinh trước khoảng 3 - 5 ngày. Cần phát huy tinh
thần xung phong của học sinh để các em tự nhận vai diễn, viết kịch bản, đề xuất
trang phục, đạo cụ. Giáo viên chỉ định hướng chỉnh sửa khi dạy. Và học sinh được
diễn xuất trong 10 phút. Điều quan trọng là trong 10 phút ấy các em được trải
nghiệm cảm xúc của mình, được sống cuộc sống của nhân vật, được tham gia vào
các tình huống của đời sống. Để từ đó mà hiểu người, hiểu đời và trên cơ sở đó có
thể rút ra được điều gì đó cho bản thân sau này.
Để giáo dục trí tuệ cảm xúc cho học sinh thông qua hình thức này, tôi thường
tổ chức cho các em đóng kịch một số trích đoạn như: "Chí Phèo", "Chữ người tử tù",
"Hạnh phúc của một tang gia", Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài", "Tình yêu và thù
hận","Người cầm quyền khôi phục uy quyền", "Vợ chồng A Phủ", "Rừng xà nu",
"Những đứa con trong gia đình", "Vợ nhặt", "Chiếc thuyền ngoài xa", "Hồn Trương
Ba da hàng thịt"...

14


6. Giáo dục kĩ năng giao tiếp, kĩ năng thuyết trình, đàm phán, thương lượng
thông qua thảo luận nhóm.
Tác phẩm văn học ở mức này hay mức khác đều là sự tranh cãi, đối thoại giữa
các nhân vật, giữa nhà văn và nhân vật về những vấn đề phức tạp trong cuộc sống.

Vì vậy, đọc văn, học văn thì học sinh được tham gia với tư cách vừa như người trong
cuộc, vừa như một quan tòa, vừa bằng con mắt của người quan sát, phán xét. Từ đó
mà có thể nhận thức được hành vi.
Tổ chức thảo luận nhóm để các em trao đổi và học hỏi lẫn nhau. Thông qua
hoạt động này không chỉ phát huy tính tích cực, trách nhiệm mà còn phát triển kĩ
năng hợp tác làm việc, kĩ năng giao tiếp, thương lượng, ra quyết định và kĩ năng
thuyết trình cho học sinh. Vì thế ở hình thức này, tôi thường chú ý đến đối tượng học
sin h yếu kém, tính cách còn rụt rè, thiếu mạnh dạn, thiếu tự tin, nói năng còn lúng
túng... để các em có cơ hội được rèn luyện.
Ví dụ: Khi dạy "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu Ngữ văn 12,
tôi chô các em thảo luận các vấn đề như:
- Người đàn bà cam chịu, nhẫn nhục như vậy là tốt hay không tốt? Tại sao? Nếu
là em, em sẽ làm gì?
- Người đàn ông đổi tính như vậy là do đâu? Ông ta có đáng phê phán không?
Tại sao?
- Tại sao khi đánh vợ, người đàn ông lại đưa vợ lên bãi xe tăng hỏng để đánh?
Đó có phải là sự ngẫu nhiên hay là chứa đựng dụng ý gì của nhà văn?
- Hành động của bé Phác nói lên điều gì? Em có suy nghĩ gì về hành động này?
Nếu lâm vào hoàn cảnh của bé Phác em sẽ làm gì?...
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã thực hiện trong quá trình giảng dạy bộ
môn Ngữ văn tại trường THPT Lê Hoàn. Áp dụng những biện pháp này tôi có mong
muốn là để phục vụ cho một khía cạnh nhỏ trong quá trình dạy học: Giáo dục trí tuệ
cảm xúc cho học sinh THPT.
IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC.

Giáo dục trí tuệ cảm xúc cho học sinh thông qua việc vận dụng ngữ văn trong
nhà trường là một việc làm đòi hỏi sự kiên trì, nhẫn nại. Bởi hiệu quả của vấn đề này
15



không rõ ràng để có thể thấy ngay tức thì. Nhưng tác dụng của nó thì vô cùng sâu sắc
và bền lâu. Có thể thấy ngay được , có cái phải trải nghiệm thời gian và thực tế cuộc
sống. Chỉ biết rằng áp dụng phương pháp này tôi nhận thấy giờ học văn trở nên sống
hơn rất nhiều. Các em hăng hái tham gia thảo luận các vấn đề của bài học. Các em đã
biết cách đặt mình vào tình huống của nhân vật trong tác phẩm, giúp họ giải quyết
những mâu thuẫn, bế tắc, những mối quan hệ phức tạp chằng chịt như nhân vật trong
tác phẩm “Chí Phèo”, “Vợ nhặt”, “Vợ chồng A Phủ”, “Chiếc thuyền ngoài xa”…
Khảo sát về vấn đề này,kết quả như sau:
*Trước khi thực nghiệm (Khảo sát đầu năm 2015-2016)
Lớp

Sĩ số

11A1
11A2

45
44

Hứng thú
SL
TL %
10/45
22.2%
12/44
27.3%

Ít hứng thú
SL
TL

15/45
33.3%
10/44
27.7%

11A6
45
15/45
33.3%
10/45
22.2%
*Sau khi thực nghiệm (Khảo sát cuối năm 2016-2017)

Không hứng thú
SL
TL
20/45
44.4%
22/44
50.0%
20/45

44.4%

Hứng thú
Ít hứng thú
Không hứng thú
SL
TL
SL

TL
SL
TL
12A1
45
30/45
66.7%
10/45
22.2%
5/45
11.1%
12A2
45
27/44
61.4%
13/44
29.5%
4/44
9.1%
12A6
45
32/45
71.1%
8/45
17.8%
5/45
11.1%
Đặc biệt khi tôi cho học sinh tự kiểm nghiệm về sự thay đổi của bản thân trước và sau
Lớp


Sĩ số

học thực nghiệm đa số các em đều cảm nhận mình trở nên mạng dạn hơn, không còn
e dè như trước, nói năng cũng lưu loát hơn, mối quan hệ bạn bè trở nên dề hòa đồng
dễ thấu hiểu hơn. Đặc biệt khi không may vướng vào những mâu thuẫn , các em cũng
đã biết giải quyết bằng cách đối thoại , không dùng đến vũ lực như trước đây.
Qua đối chiếu với các số liệu trên tôi khẳng định rằng SKKN "Giáo dục trí tuệ
cảm xúc  EQ cho học sinh THPT qua việc dạy học Ngữ văn trong Nhà trường".
có hiệu quả một cách rõ rệt trong việc nâng cao chất lượng học tập của học sinh và
nhiệm cụ của giáo dục đào tạo, góp phần tích cực trong giáo dục nhân cách, trí tuệ và
phát triển năng lực của người học.
Phần 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

16


I. Kết luận:
Bối dưỡng trí tuệ cảm xúc (EQ) chính là con đường giúp ta tìm lại bản thể, khi
mà con người chợt nhận ra nền giáo dục cơ bắp nhấn mạnh vào kiến thức đã lỗi thời.
Một khi các công cụ về công nghệ đã đủ cho con người thực thi ý tưởng thì trí tuệ thứ không dễ dàng dẫn dắt ra ý tưởng đã trở nên phù phiếm. Đây là lúc nền giáo dục
cảm xúc lên ngôi. Cảm xúc ở trái tim sẽ phát sinh phản ứng ở bộ não để tạo ra ý
tưởng. Lúc đó não phải sẽ phát huy trí tưởng tượng của mình. Cảm xúc kích thích suy
nghĩ và hành động.
Là giáo viên, chúng ta cần phải truyền được cảm xúc tới học sinh thông qua
kiến thức chứ không phải truyền kiến thức đơn thuần đến học sinh. Một giáo viên tầm
thường sẽ nói cho học sinh biết. Một giáo viên giỏi sẽ minh họa và chứng minh cho
học sinh hay. Nhưng một giáo viên tuyệt vời phải là người truyền cảm hứng cho học
sinh. Có cảm xúc thì con người ta mới có thể chuyển hóa thành sức mạnh hành động.
Do vậy việc giáo dục trí tuệ cảm xúc cho học sinh thông qua các bài học Ngữ văn
thực sự quan trọng và cần thiết. Nên giáo viên cần nắm được phương pháp, kĩ thuật

dạy học phù hợp để phát huy tính chủ động sáng tạo trong học tập nói riêng cũng
như trong giáo dục trí tuệ cảm xúc cho học sinh nói chụng. Từ đó giúp học sinh
không chỉ yêu thích môn văn mà còn xem môn văn như là một chìa khóa vàng để các
em mở được cánh cửa đến với cuộc đời rộng lớn một cách dễ dàng và gặt hái được
thành công.
Hướng đến giáo dục trí tuệ cảm xúc cho học sinh thông qua các tiết học Ngữ
văn còn giúp cho bộ môn lấy lại được vị trí vốn có của một môn học đặc thù - trong
đó có một sức mạnh không thể không nhắc đến của văn học là giúp con người có
thêm niềm tin yêu cuộc đời dù kết thúc của tác phẩm ấy có buồn thế nào đi chăng
nữa.
Đề tài "Giáo dục trí tuệ cảm xúc  EQ cho học sinh THPT qua việc dạy học
Ngữ văn trong Nhà trường" là tất cả những gì mà tôi trăn trở thực hiện từ năm học
2015-2016 cho đến nay. Trong phạm vi nhỏ hẹp của một sáng kiến kinh nghiệm tôi
không thể dẫn ra hết tất cả và cụ thể những gì mình đã làm. Nhưng tôi sẽ tiếp tục áp
dụng và phát triển để giúp học sinh có được trí tuệ cảm xúc và tình yêu đối với môn
Ngữ văn. Hi vọng qua đề tài này, tôi nhận được sự góp ý chân thành để việc làm của
mình được hoàn thiện hơn và có ý nghĩa hơn.
17


2. Kiến nghị: Không.
Xin chân thành cảm ơn
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 15 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết


Nguyễn Minh Nguyệt

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. SGK Ngữ văn 10, 11, 12, tập 1, tập 2 - Nhà xuất bản giáo dục 2009.
2. SGV Ngữ văn 10, 11, 12, tập 1, tập 2 - Nhà xuất bản giáo dục 2009.
18


3. Dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ năng 11 - Phan Trọng Luận - Nhà xuất bản ĐHSP
2010.
4. Văn học Nhà trường - những điểm nhìn - Phan Trọng Luận - Nhà xuất bản ĐHSP
năm 2011.
5. Văn học Nhà trường - nhận diện tiếp cận đổi mới - Phan Trọng Luận - Nhà xuất
bản ĐHSP năm 2008.
6. Nuôi dưỡng trí tuệ cảm xúc - TranLeTam - tháng 12 năm 2015
7. Giáo dục kĩ năng sống trong môn Ngữ văn - Lê Minh Châu - Nhà xuất bản GD
2010
8. ''Khơi gợi niềm say mê đọc sách cho học sinh qua các bài dạy đọc hiểu trong
chương trình ngữ văn trung học phổ thông - SKKN - Nguyễn Minh Nguyệt, 2016,
trng 14.

MỤC LỤC
Tiêu đề

Trang

Phần 1: ĐẶT VẤN ĐỀ

1

19


Phần 2: NỘI DUNG

2

I. Cơ sở lí luận của vấn đề

2

1. Khái niệm trí tuệ cảm xúc

2

2. Các cấp độ và yếu tố cấu thành trí tuệ cảm xúc

3

3.Vai trò, tác dụng của trí tuệ cảm xúc

4

4. Sức mạnh và sứ mạng của văn học trong nhà trường đối 4
với việc bồi dưỡng giáo dục trí tuệ cảm xúc cho học sinh
II. Thực trạng của vấn đề.

5

1. Thực trạng.


5

2. Nguyên nhân

7

2.1. Nguyên nhân khách quan ngoài bộ môn

7

2.2.Nguyên nhân chủ quan

7

III. Giải pháp và biện pháp giải quyết vấn đề

9

1. Nắm vững các cảm xúc, tình cảm được giáo dục trong 9
mỗi bài học Ngữ văn để định hướng mục tiêu bài học hiệu
quả
2. Sử dụng phương pháp đọc diễn cảm để khơi gợi cảm 10
cúc, tình cảm của học sinh.
3. Trần thuật sáng tạo:

10

4.Đặt những câu hỏi gợi cảm xúc, liên tưởng, tưởng tượng 12
để học sinh được trải nghiệm

5. Giáo dục trí tuệ cảm xúc thông qua việc tổ chức hình 14
thức sân khấu hóa và loại hình trò chơi
6. Giáo dục kĩ năng giao tiếp, kĩ năng thuyết trình, đàm 14
phán, thương lượng thông qua thảo luận nhóm
IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI 15
HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC
Phần 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

17

TÀI LIỆU THAM KHẢO

20


21



×