MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU.
1. Lí do chọn đề tài.
2.Mục đích nghiên cứu.
3. Đối tượng nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu.
II. NỘI DUNG.
1. Cơ sở lí luận: Cấu trúc của văn bản văn học.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
3.1. Nhận diện cấu trúc song trùng của bài thơ Sóng (Xuân Quỳnh)
Cấu trúc song trùng - sóng và em
3.1.1. Sự tương đồng, trùng hợp về âm điệu.
3.1.2. Sự tương đồng về trạng thái.
3.1.3. Khát vọng lớn lao, cao cả.
3.1.4. Sự hiện hữu, thường trực đồng hành từ quá khứ đến tương lai.
3.1.5. Khởi nguồn bí ẩn.
3.1.6. Tình yêu gắn liền với nỗi nhớ.
3.1.7. Sự thuỷ chung, bền vững.
3.1.8. Hướng tới sự vĩnh hằng, bất tử.
3.2. Tìm hiểu sự phá vỡ cấu trúc song trùng của Xuân Quỳnh trong bài
thơ "Sóng" .
3.2.1. Sự khác biệt trong nỗi nhớ.
3.2.2. Bất đồng đẳng trong sự thủy chung.
3.2.3. Bản thân sóng là trường tồn còn em chỉ là phù du.
III. KẾT LUẬN.
1. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
2. Kết luận, kiến nghị.
I . MỞ ĐẦU.
1. Lí do chọn đề tài.
Tình yêu là nguồn cảm hứng bất tận của thi ca cả trong nước và trên thế giới.
Gần gũi nhất là thế hệ những chàng trai cô gái đang tuổi yêu đương. Bởi thế số
lượng tác phẩm thơ trong chương trình ngữ văn Trung học phổ thông chiếm rất
nhiều. Đề tài vĩnh cửu đó có những thi phẩm xứng tầm kiệt tác của mọi thời đại
như: Tôi yêu em của nhà thơ Nga Puskin; Bài thơ số 28 của nhà thơ Ấn Độ - Tago…
Văn học Việt Nam hiện đại có Tương tư của Nguyễn Bính, Sóng của Xuân Quỳnh…
Thật vậy nhiều nhà thơ nổi tiếng đã viết về tình yêu với tất cả sự nồng nhiệt của một
trái tim tuổi trẻ . Ta bắt gặp một Xuân Diệu nồng nàn, đắm say và khát khao dâng
hiến cho tình yêu, một Nguyễn Bính mơ màng tìm về tình yêu đồng nội, một Anh
Thơ tha thiết nhưng thẹn thùng cái duyên con gái… song chỉ đến Xuân Quỳnh, cái
khát vọng rất đỗi đời thường của con người đó mới được bộc bạch , mà bộc bạch
một cách chân thành như chính cuộc đời nhà thơ vậy : một thứ tình yêu vừa phong
phú, phức tạp, vừa thiết tha sôi nổi của một trái tim phụ nữ đang rạo rực, đang khao
khát yêu đương . Nhưng trong chính sự đa dạng phong phú đó của thơ ca để giảng
dạy thành công một tác phẩm thơ vừa hấp dẫn lại có chiều sâu triết lí thật không hề
đơn giản. Trong khi đa số học sinh ít có hứng thú với tiết giảng thơ nên ảnh hưởng
không tốt đến chất lượng giáo dục, đặc biệt là ở trường miền núi Như Thanh.
Bên cạnh thực trạng gây khó khăn trên ta nhận thấy mục tiêu giáo dục xã hội
đang đặt ra những yêu cầu cấp thiết cần phải giải quyết. Đó là tình trạng các bạn trẻ
còn chưa nhận thức đúng đắn về bản chất tình yêu gây những trăn trở cho các bậc
phụ huynh và nỗi lo lắng cho toàn xã hội. Sóng là một bài thơ có thể phần nào cung
cấp cho học sinh khả năng tự nhận thức về bản chất của tình yêu chân chính.
Trong nguồn tài liệu dồi dào, phong phú, đa dạng hiện nay như : Sách giáo
viên lớp 12; Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn lớp 12;
Tài liệu dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn 12; Đáp án đề thi
Trung học phổ thông Quốc gia các năm ... có liên quan đến bài thơ Sóng và nhiều
bài viết khác trong các tài liệu tham khảo khác đều thống nhất xác định kiến thức cơ
bản: Sóng – hình tượng trung tâm của bài thơ là một hình tượng ẩn dụ cho tình yêu
và những vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ đang yêu. Tuy nhiên cũng chưa có hướng
giải quyết khắc phục để tiếp cận bài thơ dễ dàng hơn.
Từ những lí do nêu trên người viết nhận thấy bản thân lựa chọn vấn đề
"Hướng tiếp cận bài thơ sóng của Xuân Quỳnh qua cấu trúc song trùng và sự
phá vỡ cấu trúc song trùng" để viết sáng kiến kinh nghiệm là cấp thiết.
2.Mục đích nghiên cứu.
"Sóng" là một bài thơ tình xuất sắc của nữ thi sĩ Xuân Quỳnh có một vị trí
riêng trong chương trình Ngữ văn 12. Bài thơ được sáng tác năm 1967, đặt thi phẩm
vào trong giai đoạn lịch sử mà nó sinh thành – giai đoạn văn học Việt Nam
2
1945 – 1975, khi mà khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn là dòng chủ lưu
thì bài thơ thuộc dòng phụ lưu, dòng thơ như lạc ra bên lề những vấn đề chính trị
trọng đại của đất nước. Nhưng sự thực không phải thế. Bài thơ thuộc về một đề tài
vĩnh cửu của nhân loại, bài thơ là bông “hoa” nở “dọc chiến hào”. Bông hoa ấy một
lần nữa cho thấy mạch ngầm của thơ ca Việt Nam vẫn gắn bó, đồng hành với thơ ca
nhân loại ngay cả trong những điều kiện lịch sử không bình thường.
Từ mối quan hệ đặc trưng giữa hai hình tượng của tác phẩm mà xác định
phương pháp phân tích là: làm nổi bật được sự tương đồng giữa hai hình tượng trữ
tình.
Từ nội dung kiến thức và định hướng phương pháp phân tích đã nêu ở trên và
từ thực tiễn giảng dạy của các đồng nghiệp… có thể nhận thấy một nghịch lí: tình
yêu là thứ tình cảm kì diệu nhất mà tạo hoá ban tặng cho loài người, nhưng con
người lại tỏ ra bất lực trong việc hiểu được tình yêu. "Làm sao cắt nghĩa được tình
yêu?" không chỉ là băn khoăn của "ông hoàng thơ tình" Việt Nam Xuân Diệu mà
còn là câu hỏi có lẽ mãi mãi nhân loại không tìm được lời giải đáp trọn vẹn. Đơn
giản vì: tình yêu là một thế giới vô cùng, vô tận mà hiểu biết của con người lại là
hữu hạn. Nhà thơ Ấn Độ Tago người từng đạt giải Nô-ben Văn học với tập "Thơ
Dâng" đã thể hiện nghịch lí ấy đầy ấn tượng trong "Bài thơ số 28 " nổi tiếng:
"... Nhưng em ơi đời anh là một trái tim
Nào ai biết chiều sâu và bến bờ của nó
Em là nữ hoàng của vương quốc đó
Ấy thế mà em có biết gì về biên giới của nó đâu."
Và triết lí cụ thể hơn :
" Nhưng em ơi trái tim anh lại là tình yêu
3
Nỗi vui sướng, khổ đau của nó là vô biên
Những đòi hỏi và sự giàu sang của nó là trường cửu
Trái tim anh cũng ở gần em như chính đời em vậy
Nhưng chẳng bao giờ em biết trọn nó đâu”.
Một hiện tượng phong phú, đa dạng, vô tận, vô cùng như một tiểu vũ trụ lại
có thể dồn nén lại trong một khuôn khổ hữu hạn chật hẹp: Những đặc điểm thuộc
tính của một hiện tượng tự nhiên là con sóng biển? Đó là mối quan hệ giữa cái khái
quát và cái cụ thể, giữa vô hạn và hữu hạn. Khi cái khái quát có trị số bằng cái cụ
thể, cái vô hạn có giá trị bằng cái hữu hạn thì hệ quả ý nghĩa của nó thật giản đơn.
Một tình yêu lớn không thể bị giới hạn bởi một khuôn khổ nào cả, càng không phải
là tình yêu của nữ sĩ Xuân Quỳnh.
Như vậy, cần phải chuyển nghịch lí trở thành thuận lí. Cái vô hạn không thể
khuôn bó lại trong cái hữu hạn. Sức mạnh nội lực của tình yêu phải tung phá mọi
khuôn khổ chật hẹp để tình yêu phải được là chính nó. Phá vỡ cấu trúc song trùng
để tạo ra giá trị thẩm mĩ độc đáo sẽ là phương hướng kiếm tìm, khám phá những
giá trị thẩm mĩ đích thực và cũng là mục đích của bài viết này.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Với đề tài này, trên cơ sở nhận diện cấu trúc song trùng giữa hai hình tượng
“sóng” và “em” trong bài thơ, người viết muốn đi sâu khai thác sự phá vỡ cấu
trúc song trùng để nhận chân mức độ tình cảm, cảm xúc của nhân vật trữ tình cũng
như cách nữ sĩ Xuân Quỳnh khái quát qui luật tình cảm muôn đời của nhân loại –
qui luật của tình yêu. Phá vỡ cấu trúc song trùng để tạo ra giá trị thẩm mĩ độc đáo sẽ
là phương hướng kiếm tìm, khám phá những giá trị thẩm mĩ đích thực của bài thơ
"Sóng". Đó chính là đối tượng nghiên cứu của bài viết này.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi vận dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết:
Đây là phương pháp thu thập thông tin thông qua đọc sách báo, tài liệu nhằm mục
đích tìm chọn những khái niệm và tư tưởng cơ bản là cơ sở cho lý luận của đề tài,
hình thành giả thuyết khoa học, dự đoán về những thuộc tính của đối tượng nghiên
cứu, xây dựng những mô hình lý thuyết hay thực nghiệm ban đầu. Sử dụng phương
pháp nghiên cứu lý thuyết (còn gọi là phương pháp nghiên cứu tài liệu), người
nghiên cứu cần hướng vào thu thập và xử lý những thông tin sau:
+ Cơ sở lí thuyết.
+ Thành tựu lý thuyết đã đạt được liên quan trực tiếp đến chủ đề nghiên cứu
+ Các kết quả nghiên cứu cụ thể đã công bố trên các ấn phẩm
+ Số liệu thống kê
4
+ Chủ trương, chính sách liên quan đến nội dung nghiên cứu
+ Nguồn tài liệu.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn là các phương pháp trực tiếp tác động vào
đối tượng có trong thực tiễn để làm bộc lộ bản chất và quy luật vận động của đối
tượng đó, giúp người nghiên cứu thu thập thông tin hoặc làm nảy sinh các ý tưởng
nghiên cứu và đề xuất sáng tạo.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn bao gồm các phương pháp cụ thể :
+ Phương pháp quan sát
+ Phương pháp điều tra
+ Phương pháp chuyên gia
+ Phương pháp thực nghiệm khoa học
+ Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu:
Xử lí và phân tích số liệu hay dữ liệu nghiên cứu là một trong các bước cơ bản
của một nghiên cứu bao gồm xác định vấn đề nghiên cứu , thu thập và xử lí và
phân tích số liệu, báo cáo kết quả. Xác định rõ vấn đề nghiên cứu giúp việc thu thập
số liệu được nhanh chóng và chính xác hơn. Điều cốt lõi của phân tích số liệu là suy
diễn thống kê. Nghĩa là mở rộng hiểu biết từ một mẫu ngẫu nhiên thành hiểu biết về
tổng thể hay còn gọi là suy diễn quy nạp. Muốn có được suy diễn này phải phân tích
số liệu dựa vào các test thống kê để đảm bảo độ tin cậy của các suy diễn. bản thân
số liệu chỉ là các số liệu thô, qua xử lí phân tích trở thành thông tin và sau đó trở
thành tri thức. Đây chính là điều mà tất cả các nghiên cứu đều mong muốn. thông
thường việc xử lí số liệu trải qua các bước : + Mã hóa số liệu.
+ Nhập liệu.
+ Hiệu chỉnh.
Trên đây là những phương pháp cụ thể mà người viết sử dụng có hiệu quả để
nghiên cứu đề tài này.
5
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận: Cấu trúc của văn bản văn học.
Văn bản văn học là những văn bản đi sâu phản ánh hiện thực khách quan và
khám phá thế giới tình cảm và tư tưởng, thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người.
Hành trình khám phá giá trị một tác phẩm văn học là hành trình đi từ tầng ngôn ngữ
đến tầng hình tượng, dần tìm ra tầng hàm nghĩa của văn bản. Đích đến cuối cùng
chính là tầng hàm nghĩa, bởi có tìm ra ý nghĩa ẩn kín, ý nghĩa tiềm tàng ta mới hiểu
được những điều nhà văn muốn nói, những thể nghiệm về cuộc sống, những quan
niệm về về đạo đức xã hội, những hoài bão, những “tấc lòng” mà nhà văn muốn kí
thác cho đời. Nhưng cánh cửa cần mở ra để bước vào thế giới của tầng hàm nghĩa
ấy, người đọc phải đi qua các lớp ngôn ngữ, đặc biệt là lớp hình tượng. Tiếp cận tác
phẩm theo cấu trúc thể loại, theo cấu trúc hình tượng không phải là mới, nhưng
những tác phẩm có cấu trúc đặc biệt – cấu trúc trong ý đồ xây dựng nghệ thuật mang
giá trị thẩm mĩ, thì đó lại là những lựa chọn không thể bỏ qua. Tín hiệu nghệ thuật
ấy có khi phát sáng, nhưng có khi chảy ngầm bên trong mạch cảm hứng của tác
phẩm. Lần theo mạch ngầm ấy ta sẽ bắt gặp giá trị tiềm ẩn của văn bản.
Cùng với ngôn từ và thể loại, cấu trúc (hay còn gọi là kết cấu) là các khái niệm
thường được coi là thuộc về mặt hình thức của một văn bản văn học (Sách giáo
khoa Ngữ văn 10, tập II, trang 128, NXB Giáo dục Việt Nam). Cấu trúc là sự sắp
xếp, tổ chức các thành tố của văn bản thành một đơn vị thống nhất, hoàn chỉnh, có ý
nghĩa. Như bản thiết kế cần thiết cho việc xây dựng ngôi nhà, bất kì văn bản văn học
nào cũng phải có một cấu trúc nhất định. Cấu trúc hàm chứa dụng ý của tác giả sao
cho phù hợp với nội dung văn bản. Có cấu trúc hoành tráng của các sử thi, có kết
cấu đầy yếu tố bất ngờ của truyện trinh thám, có cấu trúc mở theo dòng suy nghĩ của
tùy bút, tản văn, có kết cấu theo qui phạm của thơ Đường, có kết cấu theo khổ thơ
hiện đại, và cũng có kết cấu hình tượng …
Cần phân biệt bố cục và cấu trúc của tác phẩm. Thuật ngữ bố cục nhằm chỉ sự
sắp xếp, phân bố các chương đoạn, các bộ phận của tác phẩm theo một trình tự nhất
định. Thuật ngữ cấu trúc thể hiện một nội dung rộng rãi phức tạp hơn. Tổ chức tác
phẩm không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mặt, ở những tương quan bên ngoài giữa
các bộ phận, chương đoạn mà còn bao hàm sự liên kết bên trong, nghệ thuật kiến
trúc nội dung cụ thể của tác phẩm. Bố cục là một phương diện của cấu trúc.
Bài thơ "Sóng" của Xuân Quỳnh có cấu trúc song trùng. Hình tượng sóng – em
chạy suốt dọc bài thơ. Bên trong cấu trúc song trùng ấy còn có sự phá vỡ cấu trúc
song trùng, để em bên cạnh những nét tương đồng với sóng còn phải thoát khỏi hạn
định của hình tượng sóng, để đích thực là em – một cái tôi trữ tình hồn nhiên, tươi
tắn, đằm thắm, chân thành mà không kém phần cuộn dâng dữ dội.
6
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Từ thực tế giảng dạy lâu năm ở trường qua các khóa học của học sinh khối lớp
12 người viết nhận thấy phần lớn học sinh đều không hứng thú chủ động tiếp cận
kiến thức phần các tác phẩm thơ ca. Bởi thực tế hiện nay đa số học sinh làm quen và
hứng thú với tin nóng trong các trang báo mạng hay là các tác phẩm có yếu tố gây
cười. Tuyệt nhiên với dòng thơ ca cách mạng hay tình yêu các em có tâm lí chung
chỉ ngồi nghe giảng, không chịu nhập tâm. Với bài thơ sóng nếu chỉ tiếp cận đơn
thuần ở hình ảnh ẩn dụ dễ rơi vào tình trạng nhàm lặp, không thể gợi hứng thú cho
các em. Bản thân người viết cũng đã từng dạy rất nhiều năm, nhiều khóa lớp cũng
như đi dự giờ đồng nghiệp đều vấp phải thực trạng trên. Cụ thể chỉ 1/4 học sinh các
lớp đại trà , 1/2 các lớp chọn theo khối chú ý tiếp cận "Sóng" một cách chủ động.
Trong khi Sóng là thi phẩm xuất sắc của Xuân Quỳnh cũng là "Bông hoa nở dọc
chiến hào" trong dòng thơ ca Việt Nam hiện đại.
Người viết tiến hành khảo sát 2/3 tổng số lớp dạy khi chưa áp dụng dạng cấu
trúc song trùng và sự phá vỡ nó khi tìm hiểu bài thơ Sóng thì kết quả cho thấy cả 2
lớp phần lớn học sinh đều không hứng thú và cho rằng kết cấu nhàm chán, không có
điểm mới.
Nguồn tài liệu và ý kiến đóng góp của đồng nghiệp cũng đều xoay quanh trục
sóng đôi đã cũ. Vậy vấn đề đặt ra là phải tìm hướng tiếp cận mới cho bài thơ rất giá
trị này bằng cách làm so sánh để làm nổi bật điểm tương đồng và khác biệt giữa
"sóng" và "em." Thực trạng trên chỉ có thể khắc phục khi nghiêm túc nhìn nhận và
nghiên cứu cặp hình tượng sóng đôi đó để giải mã ẩn ý của nhà thơ, tiếng lòng của
nữ sĩ dám sống đến tận cùng cho tình yêu. Và để khắc phục nó hoàn toàn tự nhiên
người viết tiến hành nghiên cứu và đi đến đáp án bằng sự phá vỡ cấu trúc song trùng
một cách tất yếu của "Sóng". Quyết liệt nhưng hiệu quả.
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
7
3.1. Nhận diện cấu trúc song trùng của bài thơ Sóng (Xuân Quỳnh)
Cấu trúc song trùng - sóng và em
Nữ thi sĩ Xuân Quỳnh đặt nhan đề bài thơ là “Sóng”, đó cũng chính là hình
tượng ẩn dụ cho tình yêu của người phụ nữ. Chạy dọc suốt bài thơ, mỗi khám phá
về sóng cũng là một khám phá về tình yêu. Những biểu hiện của tâm trạng trữ tình,
mỗi trạng thái tâm hồn lại tìm thấy sự tương hợp với một đặc tính, một biểu
hiện nào đó của sóng. Xuân Quỳnh là nhà thơ của hạnh phúc đời thường . Thơ bà là
tiếng lòng của một tâm hồn luôn luôn khao khát tình yêu, gắn bó hết mình với cuộc
sống hàng ngày, trân trọng, nâng niu và chăm chút cho hạnh phúc đời thường. Trong
các nhà thơ nữ Việt Nạm, Xuân Quỳnh xứng đáng được gọi là nhà thơ của tình yêu .
Bà viết nhiều , viết hay về tình yêu nhưng có lẽ "Sóng" là bài thơ đặc sắc hơn cả.
Bởi nó nói lên được một tâm hồn khao khát yêu đương, một tình yêu vừa hồn nhiên
chân thật, vừa mãnh liệt, sôi nổi của một trái tim phụ nữ .
Sóng trong tác phẩm cùng tên của nhà thơ mang hình ảnh ẩn dụ . Nó là sự hóa
thân của cái tôi trữ tình đầy mơ mộng của thi nhân . Sóng và em tuy hai mà một, có
lúc phân đôi để soi chiếu vào nhau làm nổi bật sự tương đồng, có lúc lại hòa nhập để
tạo nên âm vang cộng hưởng . Và có thể nói qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã
bày tỏ một tình yêu dạt dào, mênh mông và một khát vọng vĩnh hằng về tình yêu đôi
lứa
3.1.1. Sự tương đồng, trùng hợp về âm điệu.
Nhịp điệu triền miên, lúc dào dạt, lúc sôi nổi trào dâng, lúc thì thầm sâu lắng…
của con sóng biển cũng là nhịp điệu của con sóng lòng, của tâm hồn đang xao động,
chất chứa những khát khao rạo rực tràn ra thành câu chữ, thành sóng thơ. Thể thơ
năm chữ quen thuộc, lối sử dụng vần cách lẽ- bể; thế- trẻ; đâu- nhau; nước - được;
qua- xa; nhỏ- vỗ..., cách ngắt nhịp biến hoá sáng tạo 2/1/2 (Dữ dội/ và /dịu êm , Ồn
ào/ và /lặng lẽ...) ; 1/2/2 (Ôi/ con sóng/ ngày xưa); 3/2 (Nỗi khát vọng /tình yêu),
cách tổ chức ngôn ngữ tinh tế… "Dữ dội và dịu êm / Ồn ào và lặng lẽ..."
8
Tất cả những điều đã nói trên tạo nên một hình tượng sóng bằng âm điệu đồng
điệu với tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu.
3.1.2. Sự tương đồng về trạng thái.
Mở đầu bài thơ là trạng thái tâm lý đặc biệt của một tâm hồn đang khao khát yêu
đương, đang tìm đến một tình yêu rộng lớn hơn. Xuân Quỳnh diễn tả thật cụ thể cái
trạng thái khác thường, vừa phong phú vừa phức tạp trong một trái tim cồn cào khao
khát tình yêu. Tính khí của người con gái đang yêu, cũng như sóng vậy thôi, vốn
mang trong nó nhiều trạng thái đối cực: “Dữ dội và dịu êm, Ồn ào và lặng lẽ” …
Sóng có nhiều đối cực như tình yêu có nhiều cung bậc, trạng thái và tâm hồn người
phụ nữ đang yêu có những mâu thuẫn mà thống nhất. Biển cả bao la khi cuồng
phong dữ dội nhưng lúc lại cũng dịu êm sâu lắng thanh bình.Khi cuồng phong là
sóng bạc đầu khi tưởng dịu êm nhưng lại có sóng ngầm. Người con gái khi yêu lúc
cũng ồn ào sôi nổi khi thâm trầm lặng lẽ đến khó hiểu.
Rõ ràng sóng và em có sự tương đồng về trạng thái ở biển khơi cũng như trong
tình yêu.
3.1.3. Khát vọng lớn lao, cao cả.
Chân lí của tự nhiên: trăm sông đều đổ về biển ứng với hình tượng sóng trong
thơ Xuân Quỳnh. Con sóng nhỏ mang trong mình khát vọng lớn, mạnh mẽ, dứt
khoát đến quyết liệt :
" Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể."
Và cũng như sóng, trái tim người con gái đang yêu không chấp nhận sự tầm
thường, nhỏ hẹp, luôn vươn tới cái lớn lao để có thể đồng cảm, đồng điệu với mình
“Sông không hiểu nổi mình, Sóng tìm ra tận bể” . Có thể thấy, ngay trong khổ thơ
đầu tiên này một nét mới mẻ trong quan niệm về tình yêu. Người con gái khao khát
yêu đương nhưng không còn nhẫn nhục, cam chịu nữa . Nếu “Sông không hiểu nổi
mình” thì sóng dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó “tìm ra tận bể”, đến với cái cao
rộng, bao dung.
Hành trình của sóng từ sông ra biển, từ không gian chật hẹp đến không gian
rộng như hành trình của một tình yêu chân chính, từ bỏ những giới hạn tù túng,
những hạnh phúc nhỏ bé, những thoả mãn tầm thường để tìm đến chân trời bao la,
những khát khao rộng lớn, vô biên tuyệt đích. Thật là minh bạch và cũng thật là
quyết liệt !
3.1.4. Sự hiện hữu, thường trực đồng hành từ quá khứ đến tương lai:
Nỗi khát vọng tình yêu xôn xao, rạo rực trong trái tim con người, trong quan
niệm của Xuân Quỳnh, là khát vọng muôn đời của nhân loại mà mãnh liệt nhất là
của tuổi trẻ . Xuân Diệu cũng từng tha thiết với tình yêu không chỉ khi đang còn
9
sống, còn trẻ mà cho đến cõi chết cũng không ngăn trở được tình cảm ấy
" Nếu
chết rồi thì tôi sẽ yêu ma". Cũng như sóng, mãi mãi trường tồn , vĩnh hằng với thời
gian. Từ ngàn xưa, con người đã đến với tình yêu và mãi mãi cứ đến với tình yêu .
Với con người, tình yêu bao giờ cũng là một khát vọng bồi hồi:
"Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ."
Sóng là trường tồn vĩnh hằng “... ngày xưa và ngày sau vẫn thế” cũng như khát
vọng tình yêu của loài người đã có từ xa xưa và còn mãi đồng hành cùng nhân loại.
Trước sau tình yêu vẫn là điều kì diệu bất biến trong trái tim mỗi người dù già hay
trẻ, khỏe mạnh hay đau yếu, người giàu hay người nghèo. Trong tình yêu mọi người
đều bình đẳng và không có bất kì một sự phân biệt kì thị nào. Bởi nếu có thì đó hẳn
không phải là một tình yêu đơn thuần trong sáng nữa.
3.1.5. Khởi nguồn bí ẩn.
Khi tình yêu đến, như một tâm lý tự nhiên và thường tình, người ta luôn có
nhu cầu tự tìm hiểu và phân tích . Nhưng tình yêu là một hiện tượng tâm lý khác
thường, đầy bí ẩn, không thể giải quyết được bằng lý lẽ thông thường, làm sao có
thể giải đáp được câu hỏi về khởi nguồn của tình yêu, về thời điểm bắt đầu của một
tình yêu. Cái điều mà trước đó đã từng là Xuân Diệu băn khoăn “Làm sao cặt được
nghĩa tình yêu? ” thì nay một lần nữa Xuân Quỳnh bộc bạch một cách hồn nhiên,
thật dễ thương. Tình yêu cũng như sóng biển, như gió trời vậy thôi, làm sao có thể
hiểu hết được. Nó cũng tự nhiên, hồn nhiên như thiên nhiên ,và cũng khó hiểu,
nhiều bất ngờ như tự nhiên vậy. Dĩ nhiên khi ấy khởi nguồn của sóng cũng bí ẩn như
khởi nguồn của tình yêu:
"Từ nơi nào sóng lên?
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau."
Và chính vì lẽ bí ẩn đó mà tình yêu luôn là điều diệu kì, hấp dẫn mỗi chúng ta,
nhất là những trái tim bạn trẻ.
3.1.6. Tình yêu gắn liền với nỗi nhớ.
Thơ Xuân Quỳnh có nét rất riêng, trong số các nhà thơ nữ của Việt Nam, đó là:
chân thật và đam mê mãnh liệt. Trong thơ chị cháy lên cái sắc màu của một thế giới
lung linh, thế giới tình yêu. Thơ Xuân Quỳnh, thơ tình Xuân Quỳnh là niềm khao
khát hạnh phúc. Thơ Xuân Quỳnh rất tình, rất đời và rất đàn bà bởi niềm khát khao
ấy. Nói đến khát khao hạnh phúc trong thơ Xuân Quỳnh có nghĩa là nói đến “Sóng”.
Trong bài thơ này, nỗi nhớ niềm thương của người đang yêu được Xuân Quỳnh diễn
10
tả thật cảm động và đầy nghệ thuật. Nỗi nhớ như bao trùm cả không gian bao la. Nó
chiếm cả tầng sâu, bề mặt của tâm hồn. Và nó khắc khoải da diết. “Con sóng dưới
lòng sâu;con sóng trên mặt nước” là những cung bậc, những biểu hiện phong phú
đa dạng nỗi nhớ của “em”. “Sóng trên mặt nước” là biểu hiện nỗi nhớ khi thương.
Còn “sóng dưới lòng sâu” là nỗi nhớ âm thầm lắng sâu trong cõi lòng và “cả những
lúc giận anh mà lòng em vẫn nhớ”. Nỗi nhớ ấy mới khắc khoải, bồn chồn, thổn thức
sâu thẳm biết nhường nào! Bàn chân con người có thể “xuôi về phương Bắc” hay
“ngược về phương Nam”, nhưng trái tim chỉ “hướng về anh một phương” như hoa
hướng dương hướng về mặt trời vậy… Ở đây, một lần nữa, Xuân Quỳnh đã mượn
kết cấu trùng điệp để tăng tiến nỗi nhớ của lòng mình. Thành thật và cháy bỏng đến
nhường ấy, da diết đến nhường ấy! Dù hơi táo bạo, nhưng sự đắm say của khát vọng
tình yêu đã trở thành điểm tựa để thơ Xuân Quỳnh cất cánh. Nỗi nhớ được thể hiện
hằng hình tượng gián tiếp chưa đủ, nó còn được biểu hiện trực tiếp như trái tim
không thể kìm nén nổi, tự thốt thành lời: “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn
thức” . Để nhấn mạnh tính đa dạng, sâu đằm của nỗi nhớ, tác giả còn sử dụng thủ
pháp điệp “con sóng” (ba lần), nhân cách hoá “con sóng nhớ bờ”, biện pháp đối lập
“dưới lòng sâu” – “trên mặt nước”. Nỗi nhớ ở đây đã trở thành tình cảm thường trực
trong “trái tim bé nhỏ mà không bến bờ” của thi sĩ cứ trào dâng, cứ tầng tầng, lớp
lớp tưởng chừng như tới tột độ, cứ nối tiếp nhau hối thúc trào ứ trong tâm hồn. Đã
có biết bao câu ca dao, biết bao bài thơ viết rất hay về nỗi nhớ của người phụ nữ
trong tình yêu:
“Em nhớ anh không chỉ trong giấc ngủ
Em nhớ anh không chỉ lúc dạo chơi
Em nhớ anh không chỉ khi trăng tỏ
Em nhớ anh không chỉ lúc mưa rơi
Ôi! Cái nhớ sao mà kì diệu
Ôi! Cái thương sao khéo mặn mà
Có phải lúc xa nhau ta mới hiểu
Hết lòng người trong mỗi phút giây qua”
(Hoàng Thị Minh Khanh)
Và, như trên đã nói, vẫn là hình tượng song hành của sóng và em bổ sung đắp đổi
cho nhau nhằm diễn tả sâu sắc hơn, ám ảnh hơn tình yêu và nỗi nhớ cùng với lòng
thủy chung vô hạn của một trái tim đang rạo rực yêu thương. Tình yêu của người
con gái ở đây vừa thiết tha, mãnh liệt, vừa trong sáng, giản dị, vừa thủy chung duy
nhất. Qua hình tượng sóng và em Xuân Quỳnh đã nói lên thật chân thành, táo bạo,
không hề giấu giếm cái khát vọng tình yêu sôi nổi, mãnh liệt của mình, một phụ nữ,
một điều hiếm thấy trong văn học Việt Nam.
3.1.7. Sự thuỷ chung, bền vững.
11
Tình yêu chân chính là như vậy: vừa sôi nổi thiết tha, mãnh liệt, vừa trong sáng,
thuỷ chung. Vì tình yêu mà nữ thi sĩ suy tư ở đây không phải là một thứ tình cảm
phiêu diêu, huyền ảo nào mà là tình yêu trần thế gắn với đời thường. Mà đời thường
không hoàn toàn bình yên, phẳng lặng; trái lại, lắm khi gặp giông tố, bão bùng. Vì
vậy, trong tình yêu cần phẩm chất thuỷ chung, ý chí, nghị lực, sức mạnh của tình
cảm để vượt qua mọi không gian, thời gian, mọi trắc trở để tìm đến bến bờ của hạnh
phúc lứa đôi:
"Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
Hãy quan sát cái hiện tượng gần như trở thành quy luật có vẻ nghịch lý của
đại dương. Dù gió từ bờ thổi ra thì sóng ở ngoài xa vẫn hướng vào bờ. “Em” cũng
thế, cho dù gặp biết bao trở ngại, “em” cũng sẽ vượt qua hết để đến với “anh”, đến
với một mái ấm hạnh phúc gia đình… Chế Lan Viên cũng từng viết:
“Cây nối đầu cây chạy đến em
Đếm cây hoài lại mọc cây thêm
Tình anh làm cái cây sau chót
Về tới quê em mọc tận thềm”
Thật như ca dao xưa:
“Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo
Ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cũng qua”
Rõ ràng tình yêu chân thành, yêu hết mình đòi hỏi sự thuỷ chung, bền vững cũng
như sóng khao khát tới bờ vậy!
3.1.8. Hướng tới sự vĩnh hằng, bất tử.
Xuân Quỳnh viết bài thơ Sóng năm 1967, khi mà nhà thơ đã từng nếm trải
sự đổ vỡ trong tình yêu. Song, người phụ nữ hồn hiên tha thiết yêu đời này vẫn còn
ấp ủ biết bao hi vọng, vẫn phơi phới một niềm tin vào hạnh phúc trong trương lai.
Vừa tự động viên, an ủi mình, tác giả vừa tin vào cái đích cuối cùng của một tình
yêu lớn như con sóng nhất định sẽ “tới bờ”, “dù muôn vời cách trở”. Tương lai hạnh
phúc như đang còn ở phía trước . Và vì thế, ý thức về thời gian chưa làm nhà thơ lo
âu mà chỉ làm tăng thêm niềm tin tưởng:
"Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa."
Tình yêu là như vậy, luôn luôn gắn liền với lòng tin, tin ở cuộc đời, tin ở người
mình yêu, tin ở chính sức mạnh của tình yêu. Chả thế mà qua bấy nhiêu năm tháng
12
sống dưới cảnh đạn bom tàn phá những gì quý giá do chính bàn tay mình xây dựng
nên, vậy mà trong tâm hồn người con gái bé nhỏ “Nguyệt vẫn có tình yêu và niềm
tin mãnh liệt vào cuộc sống, cái sợi chỉ xanh óng ánh ấy dù cho bao nhiêu bom đạn
dội xuống cũng không thể đứt, không thể tàn phá nổi” ("Mảnh trăng cuối rừng"Nguyễn Minh Châu). Bài thơ thoáng một chút khắc khoải, lo âu về sự chảy trôi của
thời gian, cái ngắn ngủi của cuộc đời mình và tình yêu cuả bản thân. Giữa lúc trái
tim đang yêu nồng nàn, yêu hết mình vẫn thấp thoáng một dự cảm day dứt rất chính
đáng.Xuân Quỳnh vừa thổ lộ trực tiếp, vừa mượn hình tượng sóng để nói và suy
nghĩ về tình yêu. Những ý nghĩ này có vẻ tự do, tản mạn, nhưng từ trong chiều sâu
của thi tứ vẫn còn sự vận động nhất quán . Đó là cuộc hành trình khởi đầu là sự từ
bỏ cái chật chội, nhỏ hẹp để tìm đến một tình yêu bao la, rộng lớn, cuối cùng là khát
vọng được sống hết mình trong tình yêu, muốn hóa thân vĩnh viễn thành tình yêu
muôn thủa:
"Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ ."
Người con gái mong muốn hòa mình vào bể đời rộng lớn, bứt mình ra khỏi những lo
toan tính toán , để ngập chìm trong bể lớn tình yêu . Phải có một tình yêu như thế
nào thì mới có được một mong muốn cao cả đến chừng ấy. Cuộc đời con người tuy
dài nhưng không phải vĩnh hằng, dù con người không mong đợi nhưng năm tháng
vẫn bình thản trôi qua đời người theo quy luật tất yếu khắc nghiệt của thời gian.
Không gian và thời gian là vô hạn. Xuân Quỳnh cũng đã có một câu thơ tương
tự :“Thời gian như là gió/ Mùa đi cùng tháng năm/ Tuổi theo mùa đi mãi”. Vì thế,
đứng trước biển, con người càng có cảm giác về cái nhỏ nhoi, hữu hạn của kiếp
người trước cái vĩnh hằng của vũ trụ.Niềm khát khao ấy, Xuân Quỳnh lại gửi vào
hình tượng “sóng”: Những con sóng tan ra không phải để biến mất trên đại dương
mà là để hóa thân, để tồn tại vĩnh viễn trong vô tận các con sóng khác. Cũng thế,
con người sẽ ra đi nhưng tình yêu thì ở lại, một tình yêu vô tận, vĩnh hằng như sóng
giữa biển khơi. Đây là một khát vọng rất con người.Tình yêu của bản thân thì hữu
hạn với đời người. Muốn nó đi vào vĩnh hằng, chỉ còn một cách là hoà tan tình yêu
vào những con sóng tình yêu của biển đời để ngàn vạn năm sau, con sóng đó “Vẫn
hát mãi bên ghềnh; Một tình chung không hết” (Xuân Diệu). Ở đây, tình yêu dường
như đã lớn hơn cả bản thân, dài hơn cả cuộc dời. Trong bài thơ “Tự hát”, nữ thi sĩ
Xuân Quỳnh cũng đã khẳng định:
“Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có
Vẫn ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa
13
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”
Như vậy, bằng trái tim phụ nữ đằm thắm, thiết tha, bằng bút pháp thơ giản dị mà
hàm súc, hồn nhiên mà đầy nghệ thuật, Xuân Quỳnh qua bài thơ “Sóng” đã làm nổi
bật được vẻ đẹp và sức sống của tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu – một tình
yêu giàu nữ tính, rất truyền thống mà cũng rất hiện đại. Những thuộc tính, những
đặc điểm của sóng là hữu hạn, mà tình yêu, nhất là một tình yêu lớn thì vô cùng, vô
hạn. Khi cái vô hạn có trị số bằng cái hữu hạn thì ý nghĩa của nó nghèo đi biết bao
nhiêu. Sóng trở thành một giới hạn, một khuôn khổ chật hẹp trong việc biểu đạt tình
yêu. Đó không thể là một tình yêu lớn, càng không phải tình yêu của Xuân Quỳnh
trong thi phẩm này. Sự phá vỡ cấu trúc song trùng là một tất yếu để biểu đạt cảm
xúc mãnh liệt của nhân vật trữ tình.
3.2. Tìm hiểu sự phá vỡ cấu trúc song trùng của Xuân Quỳnh trong
bài thơ "Sóng" .
Sự vô hạn của một tình yêu lớn _ tín hiệu cấu trúc song trùng sẽ bị phá vỡ. Một
tình yêu lớn thì không thể bị giới hạn trong bất cứ một khuôn khổ nào . Mãnh liệt
vốn là phẩm chất lớn của tình yêu. Cấu trúc song trùng hoàn toàn tất yếu sẽ bị phá
vỡ. Những câu mở đầu bài thơ đã là tín hiệu của cuồng phong, bão tố:
"Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận biển."
Thật dứt khoát, thật mạnh mẽ, thật quyết liệt!
Sự tung phá, vượt ra khỏi giới hạn chật hẹp của sóng, tình yêu tự biểu hiện mình
trong một không gian, thời gian vô hạn đã tạo nên những điều thú vị. Hiệu quả bất
ngờ về phương diện nghệ thuật: tính cân xứng, nhịp nhàng trong cấu trúc song trùng
bị biến dạng. Sóng không còn là hình tượng ẩn dụ hoàn chỉnh trọn vẹn để chỉ em
trong tình yêu nữa. Đó là những giờ phút tình yêu thể hiện bản chất đích thực và
khát khao vươn xa đến vô cùng của mình. Ta gọi đó là sự vô hạn của một tình yêu
lớn.
14
3.2.1. Sự khác biệt trong nỗi nhớ.
Sau tín hiệu ban đầu mang dấu hiệu "cựa quậy" để tìm ra tận biển, cấu trúc song
trùng bắt đầu bị phá vỡ. Đó là khi sóng biểu hiện một thuộc tính của tình yêu: nếu
sóng là sự sống của biển cả thì nỗi nhớ là sự sống của tình yêu:
" Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được."
Trong bài thơ thì đây là đoạn thơ có dấu hiệu "bất thường" về hình thức: là khổ
thơ duy nhất có sáu câu. Tám khổ thơ còn lại đều đặn mỗi khổ bốn câu. Nó như là
đỉnh của một con sóng lớn, con sóng bạc đầu giữa biển khơi.
Sóng mang trong mình nỗi nhớ bờ. Nỗi nhớ chiếm lĩnh cả chiều sâu, bề rộng,
sóng cồn cào trong lòng biển cả. Nhớ bờ, yêu bờ nên sóng bao giờ cũng thức, thao
thức suốt ngày đêm, trọn cả cuộc đời. Ghê ghớm đến thế nhưng vẫn không thể sánh
được với nỗi nhớ của em và tình yêu của em dành cho anh. Nỗi nhớ của em như con
sóng xuyên qua hai cõi thực và mộng, ý thức và tiềm thức. Rồi đột biến vụt sáng cả
tâm linh, chói loà rực rỡ cả một thế giới diệu kì: "Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức."
Lời thơ phi lí về logic hiện thực nhưng lại có lí trong logic biểu đạt của một tình yêu
thật chân thành, cảm động. Sự phi lí đã chứa đựng một chân lí. Là chân lí của tình
yêu đích thực. Đây chính là những câu thơ xuất thần của Xuân Quỳnh trong thi
phẩm này.
3.2.2. Bất đồng đẳng trong sự thủy chung.
Nếu như nỗi nhớ nhung là thuộc tính của tình yêu thì lòng chung thuỷ được
xem như là thước đo của tình yêu, là một giá trị văn hoá truyền thống, đã hoá thành
những tượng đài bất tử trong không gian và thời gian:
"Những người vợ nhớ chồng góp cho Đất Nước những núi VọngPhu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái."
(Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm)
Nhân vật trữ tình trong bài thơ "Sóng " – con người của thời hiện đại, dám sống
với toàn bộ những gì mình có cũng đề cao tuyệt đối lòng chung thuỷ:
" Nơi nào em cũng nghĩ / Hướng về anh một phương."
Em cũng như con sóng, suốt cuộc đời thuỷ chung với bờ:
"Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở."
Ở đây lòng thủy chung có sự giống nhau nhưng tương quan ý nghĩa thì không
đồng đẳng, không tương ứng. Sóng thuỷ chung với bờ được khẳng định bằng một
mệnh đề: "Dù muôn vời cách trở."Còn tình cảm thuỷ chung son sắt của em dành cho
anh được khẳng định bằng một tập hợp điệp cấu trúc câu tạo sự tăng cấp liên tiếp về
ý nghĩa. Từ liên kết “dẫu” đồng nghĩa với “dù” nhưng ý nghĩa được nhấn mạnh hơn
15
lại là điệp từ kết hợp với các từ chỉ sự vận động đảo chiều, ngược hướng xuôi bắc,
ngược nam gợi sự tất tả, bươn chải, ngược xuôi thường thấy ở người phụ nữ nhiều
lo toan, hi sinh bản thân mình cho gia đình, cho người yêu. Đặc biệt cụm từ nơi
nào đã khái quát toàn bộ mọi miền không gian xa cách, không chỉ là phương Bắc,
phương Nam mà tất cả muôn hướng giữa dòng đời ngược xuôi bất tận. Ở phương
trời nào thì phương anh, phương của tình yêu vẫn là duy nhất, là bất biến, là vĩnh
hằng.
Đây là khổ thơ thể hiện sự quyết liệt của nhân vật trữ tình trong tình yêu và lần
thứ hai trong bài thơ, cấu trúc song trùng bị phá vỡ, bị biến dạng để tình yêu được
đúng với danh xưng của nó.
3.2.3. Bản thân sóng là trường tồn còn em chỉ là phù du.
Như một phản ứng dây chuyền, con sóng tình yêu liên tiếp tung phá cấu trúc
song trùng để tình yêu phải là chính nó. Tình yêu xưa nay là vậy! Với Xuân Quỳnh
lại càng như vậy!
"Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ."
Tình yêu hoá sóng để trường tồn như sóng và sóng hoá tình yêu để vĩnh viễn
như tình yêu. Có một sự chuyển hoá nhịp nhàng, cân xứng, tạo sự cộng hưởng để ý
thơ có sức ngân vang cả vào khoảng vô ngôn khi lời thơ đã hết. Nhưng suy ngẫm kĩ
thì không phải thế. Bởi vì sinh ra, sóng đã là trường tồn, vĩnh hằng, bất tử. Còn em
và tình yêu của em đâu được tạo hoá ưu ái đến vậy. Đời người ngắn ngủi thoáng
chốc, kiếp người nhỏ nhoi, vô nghĩa, phù du. Nỗi đau buồn thời thế, man mác hoài
cổ nhưng lại có chút gì an nhiên tự tại, thấu suốt lẽ sinh tử, tồn vong của tạo hóa ở
"Đăng U Châu đài ca" đã kết thành giọt lệ của Trần Tử Ngang trong cổ thi :
" Người trước chẳng thấy ai
Người sau thì chưa thấy
Gẫm trời đất thật vô cùng
Riêng lòng đau mà lệ chảy..."
( Tương Như dịch )
Kiếp nhân sinh ngắn ngủi khiến cho Xuân Diệu đã phải “nổi đoá” lên rằng:
"Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi..."
(Vội vàng)
Kiếp người là thế, còn sóng là tự nhiên, sóng hồn nhiên, vô tư “Ngày xưa... và
ngày sau vẫn thế”, bình thản tận hưởng đặc quyền mà tạo hoá ban phát. Cho dù
Xuân Quỳnh đã phả vào hình tượng sóng vốn rất quen thuộc, hơi thở yêu đương
nồng nàn của mình khiến nó như mới được sinh ra lần đầu. Sự hoá thân vào sóng
sâu sắc đến mức sóng cũng thành ra có dáng hình… vất vả, lo toan, tất bật.
16
Trong một lần “Nói cùng anh”, Xuân Quỳnh cũng đã viết:
"Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn
Hôm nay yêu, mai có thể xa rồi".
Thân phận phù du nào cũng muốn hoá vĩnh hằng, bất tử để được sống, để được
yêu. Sống mãi trong tình yêu, ấy là hạnh phúc. Mãnh liệt là phẩm chất lớn của tình
yêu. Vượt qua những giới hạn của cái bình thường để trở nên phi thường, Xuân
Quỳnh đã mượn cả vũ trụ mới đo nổi kích cỡ lãng mạn, khát vọng của trái tim mình.
Khát khao vô biên tuyệt đích của “em” không thể soi mình, nhận diện mình trong
“sóng”. Vượt qua cái hữu hạn của kiếp người để trở nên bất tử. Khát vọng tình yêu
và tỏ lời yêu thương “Biết yêu anh cả khi chết đi rồi” (Tự hát – Xuân Quỳnh) thì
tình yêu ấy đã hoá thành bất tử. Đó là điều không chỉ riêng Xuân Quỳnh, không của
riêng ai. Nó là của chung, của mọi trái tim người, của toàn nhân loại khi biết yêu
thương.
Sóng là một bài thơ tình yêu rất tiêu biểu cho tư tưởng và phong cách thơ Xuân
Quỳnh ở giai đoạn đầu. Một bài thơ vừa xinh xắn, duyên dáng, vừa mãnh liệt, sôi
nổi, vừa hồn nhiên, trong sáng, vừa ý nhị sâu xa. Sau này khi đã nếm trải nhiều cay
đắng trong tình yêu, giọng thơ Xuân Quỳnh không còn phơi phới bốc men say nữa,
nhưng cái khát vọng tình yêu vẫn tồn tại mãi mãi trong trái tim tràn ngập yêu
thương của nữ thi sĩ .
III. KẾT LUẬN.
1. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Về mặt lí luận, trên cơ sở tuân thủ cách đọc – hiểu văn bản theo đặc trưng thể
loại thơ trữ tình, đề tài này đem đến một cách tiếp cận mới với văn bản "Sóng", đó là
tiếp cận từ phương diện cấu trúc. Cách tiếp cận này đem lại cho người đọc hứng thú
vì những phát hiện bất ngờ trong tư duy sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ.
Về mặt thực tiễn, đề tài này phục vụ thiết thực cho giáo viên và học sinh trong
quá trình tiếp cận văn bản "Sóng" của nhà thơ Xuân Quỳnh, từ đó hình thành
phương pháp tiếp cận theo cấu trúc - với tác phẩm thơ trữ tình nói riêng và tác
phẩm văn học nói chung.
17
( Học sinh lớp 12B8 hứng thú trả lời câu hỏi của giáo viên)
18
( Học sinh tích cực xây dựng bài học trong giờ đọc hiểu bài thơ " Sóng").
( Học sinh hào hứng trình bày quan điểm của mình về tình yêu qua " Sóng").
2. Kết luận, kiến nghị.
19
Lối cảm nhận quen thuộc lâu nay về bài thơ "Sóng" dường như đã được định
hình trong cấu trúc song trùng hoàn toàn của hình tượng ẩn dụ. Bằng cách này
người đọc có thể khám phá ra được nhiều đặc điểm tương đồng và thể hiện thành
từng cặp sóng đôi, cân xứng, nhịp nhàng, hô ứng, đồng vọng…
Nếu như có những khám phá nào đó mới mẻ thì đó là ở một cấp độ khác ngoài
văn bản như tác giả, cái tôi trữ tình hoặc những khái quát, những suy luận… Ví như:
bài thơ cho thấy nhà thơ không đặt tình yêu trong quan hệ chiêm ngưỡng, tụng ca
một chiều mà diễn đạt khát vọng tình yêu như một nhu cầu tự nhận thức, khám phá
cái tôi bản thể để cho cảm xúc vừa sôi nổi mãnh liệt, vừa gợi chiều sâu triết lí rất
nhân bản về cuộc đời.
Khái quát hơn nữa là đặt cái tôi trữ tình vào thời đại của nó để nhận diện ý thức
về cái tôi cá nhân, cái tôi riêng tư đã có vị trí bên cạnh cái ta cộng đồng dù còn
khiêm nhường. Cái tôi này cũng ghi nhận sự mở rộng của quan niệm nghệ thuật so
với thơ giai đoạn trước đó. Tất cả đều là những quy nạp bằng những lời lẽ đại ngôn,
hơi quá cỡ, quá khổ so với kết quả phân tích trong cấu trúc song trùng hoàn toàn về
ý nghĩa của tác phẩm.
Thực chất giá trị thẩm mĩ độc đáo của bài thơ là ở những điểm đột phá khi cấu
trúc song trùng bị phá vỡ. Đó là khi tình yêu được là chính nó, tương xứng với danh
xưng của nó, không còn phải thu mình, khuôn mình vào một khuôn khổ, một giới
hạn nào khác, là hằng số nhân bản, đồng thời nó in đậm dấu ấn của một cái tôi trữ
tình Xuân Quỳnh. Có khai thác được giá trị thẩm mĩ độc đáo đó thì những quy nạp,
những khái quát đã nói ở trên mới có sức thuyết phục.
Dĩ nhiên: “Như tình yêu muôn thuở/ Có bao giờ đứng yên." (Thuyền và biển
– Xuân Quỳnh) một bài thơ hay, một tác phẩm nghệ thuật có giá trị bao giờ cũng là
một kiến trúc nghệ thuật mở có sức thu hút nhiều thế hệ người đọc kiếm tìm, khám
phá. Nó là nhân tố tạo nên sức sống vượt thời gian. Như mong ước của Xuân Quỳnh
“Giữa biển lớn tình yêu” con sóng thơ, con sóng của tình yêu được nữ thi sĩ hoá
thân vào vẫn dạt dào vỗ mãi tới tận mai sau.
Theo hướng khai thác theo cấu trúc như thế này, sau bài học cái đọng lại ở các
em học sinh không đơn thuần là sự tương liên, trùng hợp sóng – em trong sự tự biểu
đạt tình yêu của cái tôi Xuân Quỳnh, mà sâu sắc hơn đó là cái sống động, cựa quậy
trong tâm trạng, cảm xúc, sự mãnh liệt trong khát vọng của một tình yêu lớn đằng
sau một sáng tạo nghệ thuật tưởng như quen thuộc mà vẫn mới lạ, tưởng đơn giản
mà hoá ra rất tài hoa, tinh tế.
Trên đây chỉ là một hướng khai thác mà tôi rút ra được trong quá trình giảng dạy
của mình. Người viết rất mong nhận được sự góp ý, chia sẻ của bạn bè,đồng nghiệp.
Ý kiến của Ban giám hiệu
2018
Thanh Hóa, ngày 20 tháng 04 năm
20
Người viết SKKN
Quách Thị Thảo
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lữ Huy Nguyên, 2004, Xuân Quỳnh Thơ và Đời, NXB Văn Học.
2. Lữ Huy Nguyên, 2004, Xuân Diệu Thơ và Đời, NXB Văn Học.
3. Phan Trọng Luận, 2011, SGK Ngữ Văn 10, tập 2, Trang 128, NXB Giáo Dục.
4. Phan Trọng Luận, 2011, SGK Ngữ Văn 11, tập 1, Trang 61, NXB Giáo Dục.
5. Phan Trọng Luận, 2011, SGK Ngữ Văn 12, tập 2, Trang 117, 154, NXB Giáo Dục.
6. Phương Lựu, 2006, Lí Luận Văn Học, NXB Giáo Dục.
7. Nguyễn Trọng Hoàn, 2002, Nguyễn Minh Châu về tác gia và tác phẩm, NXB
Giáo Dục.
8. Nguyễn Thanh Hùng, 2003, Hiểu Văn Dạy Văn, NXB Giáo Dục.
9. Hoài Thanh _ Hoài Chân, 2000, Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học.
10. Nguyễn Thanh Bình, 2005, Tìm hiểu nhà văn và tác phẩm trong nhà trường,
NXB Đại học Sư phạm.
11. Nguyễn Đức Khuông, 2005, Tác gia tác phẩm Văn học Việt Nam trong con mắt
người nước ngoài, NXB Đại học Sư phạm.
21
DANH MỤC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG
KIẾN KINH NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH
VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Quách Thị Thảo
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường THPT Như Thanh.
TT
1.
Tên đề tài SKKN
Cấp đánh giá
xếp loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh...)
Nâng cao chất lượng cho bài
nghị luận xã hội của học sinh Ngành GD cấp
THPT Như Thanh 2 qua giờ Tỉnh
học tự chọn.
22
Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B, hoặc C)
C
Năm học
đánh giá xếp
loại
2012_2013