Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Từ lý thuyết tiếp nhận đến việc giảng dạy tác phẩm văn chương ở trường phổ thông ứng dụng dạy tác phẩm thơ Việt Nam hiện đại ở SGK các lớp THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (886.24 KB, 123 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH





Nguyễn Thị Phú



TỪ LÝ THUYẾT TIẾP NHẬN ĐẾN VIỆC
GIẢNG DẠY TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG
Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG ỨNG DỤNG
DẠY TÁC PHẨM THƠ VIỆT NAM
HIỆN ĐẠI Ở SGK CÁC LỚP THPT



Chuyên ngành : Lý luận và phương pháp dạy học môn Văn
Mã số : 60 14 10



LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TSKH. LÊ NGỌC TRÀ






Thành phố Hồ Chí
Minh – 2008
LỜI CẢM ƠN



Tôi xin gởi lời tri ân sâu sắc đến GS.TSKH Lê Ngọc Trà, người đã
quan tâm, động viên tôi vượt qua khó khăn; tận tình chỉ bảo, hướng dẫn để
tôi hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô của Trường Đại học Sư phạm
Tp. Hồ Chí Minh đã hết lòng dạy dỗ, giúp đỡ chúng tôi trong thời gian học
tập tại trường.
Xin chân thành cảm ơn Khoa Ngữ văn, Phòng Khoa học công nghệ -
Sau Đại học (Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh); Sở Giáo dục và

Đào tạo Tp. Hồ Chí Minh, Ban Giám hiệu, giáo viên và học sinh các
trường THPT Mạc Đĩnh Chi, THPT Nguyễn Thị Minh Khai, THPT Thủ
Đức và THPT Nguyễn Hiền – Tp. HCM); gia đình, bạn bè và đồng nghiệp
đã tạo mọi điều kiện, động viên tôi vượt qua khó khăn, nhiệt tình giúp đỡ
tôi về vật chất cũng như tinh thần trong suốt thời gian học tập cũng như
hoàn t
hành luận văn tốt nghiệp.



Tác giả luận văn

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong bối cảnh nền kinh tế xã hội, khoa học kỹ thuật phát triển với
tốc độ chóng mặt thì nhu cầu hội nhập, hợp tác với các quốc gia trên thế
giới ngày càng cao. Để đáp ứng được nhu cầu hội nhập, vấn đề nguồn nhân
lực là vấn đề ưu tiên phát triển hàng đầu. Đào tạo nguồn nhân lực không
chỉ chú trọng việc phát triển kỹ thuật nghề nghiệp mà còn chú trọng phát
triển vốn sống, phát triển những kỹ năng mềm để thích ứng tốt với m
ôi
trường làm việc và môi trường sống. Để thực hiện được điều đó, chương
trình giáo dục phải thay đổi từ gốc đến ngọn, giải quyết vấn đề triết lý, tầm
nhìn. Không chỉ chạy đua theo bề nổi thành tích để khỏa lấp những lỗ hổng
vốn đã có từ trước, g
iáo dục cần phải đổi mới từ chương trình đào tạo, từ
phương pháp (PP) dạy học đến vấn đề kiểm tra đánh giá. Và phải bắt đầu
thực hiện từ bậc học thấp nhất đến cao nhất.
Nhằm mục đích giáo dục con người toàn diện với các yếu tố Đức,
Trí, Thể, Mỹ; học để biết, học để làm v
à học để sống, phát huy tính chủ
động, tích cực, sáng tạo của học sinh, đào tạo những con người năng động,
tài năng để làm chủ tương lai của đất nước, nhà nước ta đã thực hiện nhiều
cuộc cải cách giáo dục, mới nhất là cuộc cải cách giáo dục phổ thông với
việc biên soạn chương trình, sách giáo khoa (SGK) phân ban ở trung học
phổ thông (THPT) và được thực hiện đại trà vào năm học 2006-2007 sau
ba năm thực hiện thí điểm.

Cùng với việc biên soạn lại chương trình, SGK cho phù hợp với
khuynh hướng phát triển của thế giới, đổi mới PP giảng dạy là nhu cầu cấp
bách của giáo dục phổ thông nước ta hiện nay. Những năm gần đây, không
ít dư luận phàn nàn về chất lượng dạy và học môn Ngữ văn ở nhà trường

phổ t
hông. Học sinh (HS) ngày càng chán học, lơ là với môn Ngữ văn; các
em không biết viết một bài văn như thế nào, làm một lá đơn cũng không
biết phải bắt đầu từ đâu… Vai trò của môn Ngữ văn trong nhà trường đang
ngày càng không được nhìn nhận đúng. Đối với môn Ngữ văn, việc đổi
mới PP giảng dạy là vô cùng cấp thiết. Vấn đề đặt ra là đổi mới như thế
nào? Và phải chăng những PP mà GV dùng để giảng dạy xưa nay là không
phù hợp, không đạt chất lượng?
Trong các phân m
ôn của môn Ngữ văn, phần dạy học tác phẩm văn
chương là phân môn giúp HS có nhiều hứng thú với môn học nhất. Tuy
nhiên, hiệu quả của dạy học tác phẩm văn chương hiện nay cũng là vấn đề
đáng bàn. Hướng đến mục đích phát huy vai trò của người học, góp phần
nâng cao chất lượng dạy học môn Văn ở trường phổ thông, chúng tôi muốn
góp một chút công sức trong việc nghiên cứu và giảng dạy tác phẩm văn
chương ở trường phổ thông sao cho chất lượng và hiệu quả. Để nâng cao
chất lượng dạy và học m
ôn Ngữ văn, đã có rất nhiều PP được nêu ra và
đang ngày càng được ứng dụng rộng rãi như: PP dạy học nêu vấn đề, PP
dạy học thảo luận nhóm, PP dạy học theo dự án… những PP này đều dựa
trên lý thuyết dạy học tích cực, lấy HS làm trung tâm, chú trọng đến vai trò
của người học. Điều đó có nghĩa là dạy học bằng PP tích cực lấy HS làm
trung tâm
là chú trọng đến vai trò của người học, người tiếp nhận.
Trong giảng dạy tác phẩm văn chương, từ lâu người ta đã nói đến lý
thuyết tiếp nhận, trong đó đề cao vai trò của bạn đọc - HS. Tuy nhiên,
hướng khai thác lý thuyết tiếp nhận và ảnh hưởng của nó đến các PP giảng
dạy trong việc dạy học tác phẩm văn chương thì chưa được k
hai thác đáng
kể. Nghiên cứu lý thuyết tiếp nhận và PP dạy học tích cực có một ý nghĩa

lớn trong việc phát huy vai trò của người học, nâng cao năng lực văn học
cho HS. Vì thế, luận văn chọn đề tài “Từ lý thuyết tiếp nhận đến việc
giảng dạy tác phẩm văn chương ở nhà trường phổ thông - Ứng dụng
giảng dạy phần thơ Việt Nam hiện đại ở sách giáo khoa các lớp trung học
phổ thông”
2. Lịch sử vấn đề:
Tác phẩm văn chương thực sự trở thành tác phẩm khi bắt đầu dòng
đời của nó xuất phát từ tác giả đến tay người đọc. Hoạt động tiếp nhận là
hoạt động tương tác giữa người đọc và tác phẩm và tương tác với cả tác
giả. Có thể nói lý luận văn học chỉ chú trọng lý thuyết tiếp nhận nghiên cứu
vai trò của người tiếp nhận, nghiên cứu quá trình biện chứng của các mối
quan hệ trong tiếp nhận. Hoạt động tiếp nhận vốn phong phú, đa chiều do
bản chất của văn học là một t
ác phẩm nghệ thuật; do mỗi người tùy vào
tình cảm, tri thức, kinh nghiệm, vốn sống của bản thân mà tiếp nhận tác
phẩm mỗi
khác. Tiếp nhận văn học đề cao vai trò của người tiếp nhận,
chính người tiếp nhận quyết định số phận tác phẩm. Và việc dạy học tác
phẩm văn chương trong nhà trường là một hoạt động tiếp nhận khá đặc
biệt. Sở dĩ chúng tôi cho rằng nó đặc biệt bởi lẽ đối tượng tiếp nhận ở đây
là học sinh, với lứa tuổi còn trẻ người, ít vốn sống,
ít kinh nghiệm, tư duy
của các em phần nào còn non nớt thì việc tiếp nhận tác phẩm phụ thuộc vào
những yếu tố nhất định.
Nghiên cứu vấn đề tiếp nhận tác phẩm văn chương của HS bắt buộc
chúng ta phải nghiên cứu những vấn đề PP luận dạy học Văn học; nghiên
cứu mối quan hệ giữa lý thuyết tiếp nhận với việc vận dụng các PP dạy học
tác phẩm văn chương để tìm
một hướng đi đúng trong dạy học tác phẩm
hiện nay.

Xét về mặt lịch sử, so với các môn khoa học kỹ thuật thì môn Văn –
Tiếng việt (hiện nay gọi là Ngữ văn) vốn được giảng dạy trong nhà trường
từ rất sớm. Các nhà giáo giảng dạy trên cơ sở tích lũy những tri thức, ki
nh
nghiệm thẩm bình, dạy học qua các hoạt động bình giảng, ngâm vịnh của
các nhà nho xưa. Dần dần, môn Ngữ văn chiếm một vị trí quan trọng trong
chương trình giáo dục phổ thông. Điểm số của môn Ngữ văn và Toán ở nhà
trường luôn có hệ số điểm như nhau và gấp đôi các môn học khác. Thế nhưng,
một thời gian dài chúng ta dạy học văn theo kiểu học hỏi kinh nghiệm, tích
lũy những kiến thức của người đi trước chứ chưa có một hệ PP luận s
oi đường
nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề dạy học môn Ngữ văn nói chung và tác
phẩm văn chương nói riêng. Mãi đến những năm 60 của thế kỷ XX mới xuất
hiện những bài viết, công trình nghiên cứu về vấn đề này.
Nếu tính từ năm 1950 khi cuốn Giảng văn Chinh phụ ngâm khúc của
giáo sư Đặng Thai Mai được ấn hành ở liên khu trong thời kì kháng chiến
chống Pháp đến nay, phải đến cuối thập kỉ 60 của thế kỉ XX, nhiều chuyên
luận lần lượt ra đời như “Rèn luyện tư duy học sinh qua giờ giảng dạy văn
học” (1969) của Phan Trọng Luận; “Vấn đề giảng dạy văn học theo loại
thể” (1970) Trần Thanh Đạm c
hủ biên; “Phân tích tác phẩm văn học trong
nhà trường (1977) của Phan Trọng Luận... Những công trình đó bước đầu
đã nghiên cứu về PP theo hướng chú ý đến sự tiếp nhận của HS và từng
bước đi vào con đư
ờng cải tiến, hoàn thiện và đổi mới về PP. Đến năm
1983, Phan Trọng Luận xuất bản chuyên luận “Cảm thụ văn học và giảng
dạy văn học”. Với PP luận nghiên cứu khoa học liên hợp, ứng dụng, kết
hợp giữa lý luận với khảo sát t
hực tiễn Phan Trọng Luận đã cung cấp một
số hiểu biết khoa học về tính đặc thù của cảm thụ văn chương, mối quan hệ

thẩm mỹ của người đọc với tác phẩm, tính chủ quan, sáng tạo của tiếp nhận
và những khái quát về đặc điểm cũng như tiêu chí phát triển văn học ở
người đọc. Qua chặng đường dài, để hình thành l
ý luận dạy học văn học ở
nước ta có thể kể đến những ảnh hưởng của các tài liệu hướng dẫn như
“Phương pháp dạy văn học ở trường phổ thông” của V.A.Nhikônxki,
“Phương pháp luận dạy văn học” do Z.Ia.Rez chủ biên…
Nghị quyết Trung Ương II (khoá 8) về giáo dục và khoa học công
nghệ, vấn đề nội dung và PP giáo dục đã được đặc biệt lưu ý. Vấn đề đổi
mới PP được đặt ra một cách chính thức trong văn kiện của Đại hội Đảng
cũng như những văn bản pháp quy của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Đổi mới
PP đã trở thành vấn đề thời sự khoa học. Những bài viết nhỏ lẻ đăng trên
các báo, các tạp chí về mối quan hệ giữa tác phẩm với HS, hướng đổi mới
dạy học văn chương trong nhà trường phổ thông… đã được đúc kết lại
trong tài liệu bồi dưỡng chính thức cho các giáo viên toàn quốc trong các
chu kì bồi dưỡng thường xuyên.
Theo xu hướng phát triển của xã hội, việc dạy học phải đáp ứng
những yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội, khoa học kỹ thuật, những
PP giảng dạy truyền thống trong nhà trường không còn thích hợp. Nên từ
nghị quyết TW lần thứ tư về "Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào
tạo tháng 1-1993 chỉ rõ xác định lại mục tiêu, thiết kế lại chương trình, kế
hoạch nội dung phương pháp gi
áo dục và đào tạo”. Yêu cầu phải có một PP
dạy học thích hợp - PP dạy học tích cực phát huy tính chủ động sáng tạo
của HS, lấy HS làm
trung tâm để đào tạo ra những con người năng động,
làm chủ đất nước trong tương lai.
Trước sự đòi hỏi phải đổi mới PP dạy học, vận dụng những PP phát
huy vai trò của HS trong giờ học, tạo điều kiện để HS hoạt động, làm chủ
giờ học, hạn chế việc thuyết giảng một chiều của GV đặt việc dạy học t

ác
phẩm văn chương trước một vấn đề nan giải. Làm sao để có thể vừa khơi
nguồn thích thú, kích thích tư duy hình tượng cho các em, vừa để các em
thảo luận, trao đổi và phát biểu ý kiến trong giờ học? Dành thời gian cho
HS trao đổi, thảo luận thì GV sẽ bình giảng vào lúc nào? Nếu không bình
giảng sâu sắc, chi tiết vấn đề, so sánh liên tưởng đến những hình tượng văn
học tương tự thì làm hình thành được đam
mê, yêu thích tác phẩm? Nếu
vận dụng những PP dạy học tích cực, vô tình tạo cho cả thầy và trò những
áp lực lớn trong việc dạy và học. Thầy thì phải lo vận động để dạy cho kịp
giáo án, vận dụng càng nhiều PP dạy tích cực càng tốt để đối phó với việc
kiểm tra đánh giá giáo viên. Trò thì căng mình ra để tham gia các hoạt động
trong giờ học, không còn khoảng lặng nào cho những hình tượng văn học
len lỏi vào tâm hồn HS suốt tiết học.
Vì thế, việc nghiên cứu lý thuyết tiếp nhận, mối quan hệ của n
ó với
các PP dạy học trong việc dạy học tác phẩm văn chương cung cấp một cách
nhìn khác về hướng nghiên cứu, đổi mới dạy học tác phẩm văn chương nói
riêng và dạy học môn Ngữ văn nói chung ở nhà trường phổ thông hiện nay.
Đó là cơ sở để chúng tôi thực hiện luận văn này.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu:
3.1. Mục tiêu nghiên cứu:
Mỗi một nghệ sĩ khi sáng tác thường là bộc lộ những tâm
tư, tình
cảm, suy nghĩ của mình với người đọc. Nhưng bên cạnh đó người nghệ sĩ
còn có nhu cầu giao cảm, chính nhu cầu giao cảm đó tác động đến người
đọc. Bản chất của văn học nghệ thuật chính là sự hô ứng, sự giao cảm.
Người đọc chịu sự tác động của nhà văn qua tác phẩm, từ đó có sự tiếp
nhận của riêng m
ình. Việc giảng dạy tác phẩm văn chương không thể bỏ

qua yếu tố này. Mỗi HS là một chủ thể độc lập trong tiếp nhận, sự tác động
của nhà văn, của hình tượng văn học, của tác phẩm đến mỗi học sinh là
không giống nhau. Vì thế khai thác vai trò chủ thể tiếp nhận, vai trò chủ
động của người học là một khuynh hướng phù hợp với tiến trình đổi mới
giáo dục hiện nay.
Trên cơ sở kết hợp giữa lý thuyết tiếp nhận với PP dạy học tích cực
lấy HS làm trung tâm, đề tài khai thác vai trò của sự tác động của hình
tượng văn học trong việc giảng dạy tác phẩm văn chương. Phân tích, đánh
giá cơ sở lý luận của vấn đề này và những hình thức biểu hiện của nó trong
thơ ca. Ứng dụng thực tế vào vấn đề giảng dạy tác phẩm thơ Việt nam hiện
đại ở trường THPT. Qua đó đánh giá, rút ra những cơ sở lý luận để dạy học
tác phẩm văn chương và đề xuất một số hướng ứng dụng vấn đề này vào
thực tế dạy học tác p
hẩm văn chương ở trường phổ thông.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu các vấn đề cơ sở lý luận của lý thuyết tiếp nhận, đặc biệt
là tính chất tác động của hình tượng nghệ thuật và vị trí của nó trong
việc dạy học tác phẩm văn chương.
- Nghiên cứu những đặc điểm của thơ ca từ góc độ của hoạt động nghệ
thuật nhắm vào người đọc, người học.
- Tiến hành thực nghiệm s
oạn giảng một số bài giảng ứng dụng lý
thuyết trên trong giảng dạy tác phẩm thơ Việt Nam hiện đại ở trường
THPT. Phân tích, đánh giá mức độ tiếp nhận của người học qua thực
nghiệm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Với đề tài này, chúng tôi nghiê
n cứu cơ sở lý luận của lý thuyết tiếp
nhận, sự cộng hưởng giữa lý thuyết tiếp nhận và các PP dạy học hiện đại,
đặc biệt là tính chất tác động của hình tượng văn học lên người học trong

dạy học tác phẩm và vận dụng vào giảng dạy các tác phẩm thơ hiện đại
trong chương trình THPT.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Từ mục đích, nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu nghiên cứu trên,
chúng tôi vận dụng các PP sau trong luận văn:
Phương pháp nghiê
n cứu lý luận: nghiên cứu những vấn đề lý luận
về lý thuyết tiếp nhận, sự cộng hưởng của nó với các phương pháp dạy học
trong quá trình dạy học tác phẩm văn chương ở nhà trường phổ thông.
Phương pháp quan sát, điều tra, phỏng vấn: dự giờ GV dạy các tiết
học tác phẩm thơ hiện đại, điều tra bằng bảng hỏi, phỏng vấn GV về những
thuận lợi, khó khăn trong việc dạy học tác phẩm văn chương theo hướng
chú trọng thi pháp tác động; khảo sát mức độ tiếp nhận của học sinh.
Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm: thực hành soạn giảng một số
bài dạy các tác phẩm văn chương ở trường phổ thông theo sự chi phối của
lý thuyết tiếp nhận.
Phương pháp thống kê toán học.
Phương pháp phân t
ích, đánh giá: phân tích hiệu quả của việc khai
thác thi pháp tác động trên cơ sớ lý thuyết tiếp nhận và sự kết hợp của nó
với phương pháp dạy học hiện đại trong dạy học tác phẩm văn chương và
đánh giá những đóng góp của l
uận văn.
6. Giới hạn của đề tài:
Đề tài: “Từ lý thuyết tiếp nhận đến việc giảng dạy tác phẩm văn
chương ở nhà trường phổ thông - Ứng dụng giảng dạy phần thơ Việt
Nam hiện đại ở SGK các lớp THPT” nhằm đưa ra một hướng tiếp cận
mới trong việc giảng dạy tác phẩm văn chương ở nhà trường. Đề tài phân
tích những vấn đề lý luận về lý
thuyết tiếp nhận, và những khả năng ứng

dụng của nó trong việc giảng dạy tác phẩm văn chương ở trường phổ thông
như thế nào, kết hợp vận dụng vào việc giảng dạy các tác phẩm thơ hiện
đại ở chương trình sách giáo khoa lớp 11, 12 THPT. Do giới hạn của một
luận văn cao học và thời gian có hạn nên đề tài chỉ ứng dụng giảng dạy
phần thơ hiện đại, còn những thể loại khác nếu có cơ hội chúng t
ôi sẽ
nghiên cứu ớ những đề tài tương tự.

7. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài:
7.1. Cơ sở khoa học:
Luận văn thể hiện sự kết hợp giữa lý thuyết tiếp nhận với PP dạy học
hiện đại lấy học sinh làm trung tâm, đặc biệt tính chất tác động của hình
tượng văn học trong dạy học tác phẩm văn chương góp phần tạo nên hứng
thú, say mê, phát huy năng lực cảm t
hụ của học sinh đáp úng yêu cầu đổi
mới giảng dạy văn chương trong nhà trường.
7.2. Cơ sở thực tiễn:
Luận văn thực hiện theo chương trình sách giáo khoa THPT của Bộ
Giáo dục và Đào tạo, khảo sát, thực nghiệm giảng dạy tại các trường THPT
tại Tp.HCM năm học 2006-2007, 2007-2008.
8. Đóng góp của luận văn:
Vai trò của người tiếp nhận, mối tương quan giữa nguời tiếp nhận và
chủ thể sáng tác, vấn đề cảm thụ văn học của HS đã được nghiên cứu nhiều
trong những năm gần đây. Tuy nhiên, vấn đề kết hợp, cộng hưởng giữa lý

thuyết tiếp nhận với các PP dạy học hiện đại lấy HS làm trung tâm, phát
huy năng lực tiếp nhận của HS qua dạy học tác phẩm văn chương thì chưa
có một công trình nghiên cứu cụ thể, chuyên sâu. Trong giới hạn có thể,
luận văn cung cấp một cái nhìn chi tiết hơn về vấn đề này nhằm
góp một

chút công sức trong việc nghiên cứu và đổi mới dạy và học tác phẩm văn
chương trong nhà trường.
9. Bố cục của luận văn:
Luận văn được thiết kế theo 3 phần:
Phần mở đầu: Nêu lý do chọn đề tài, lịch sử phát triển của vấn đề,
đối tượng nghiên cứu, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, đối tượng và
phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, giới hạn của đề tài, cơ sở
khoa học và thực tiễn của đề tài và bố cục của luận văn.
Phần nội dung: gồm 3 chương
Chương một: Cơ sở lý luận của lý thuyết tiếp nhận và sự kết hợp
giữa lý thuyết tiếp nhận và phương pháp dạy học tích cực lấy học
sinh làm trung tâm.
Chương hai: Những hình thức tác động của hình tượng văn học tới
người đọc trong thơ ca và việc dạy tác phẩm thơ hiện đại.
Chương ba: Thực nghiệm g
iảng dạy các tác phẩm thơ hiện đại trong
nhà trường phổ thông.
Phần kết luận.
Tài liệu tham khảo
Phụ lục





CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT TIẾP NHẬN VÀ SỰ KẾT
HỢP GIỮA LÝ THUYẾT TIẾP NHẬN VÀ PHƯƠNG
PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC LẤY HỌC SINH LÀM
TRUNG TÂM


1.1. Lý thuyết tiếp nhận và những vấn đề lý luận:
1.1.1. Một số vấn đề về lý thuyết tiếp nhận.
1.1.1.1 Sơ lược về nguồn gốc và cơ sở lý luận:
Tác phẩm văn học được sáng tác ra để thưởng thức, tiếp nhận. Một
tác phẩm sau khi được tác giả hoàn thành còn ở dưới dạng văn bản, nó thật
sự trở thành tác phẩm chỉ khi đến tay người đọc, bắt đầu đời sống của nó.
Đời sống của một tác phẩm văn học diễn tiến từ hai
phía: người sáng tạo ra
nó và phía người tiếp nhận. Nghiên cứu văn học cũng xuất phát từ hai phía,
phía sáng tạo và phía tiếp nhận. Thế nhưng, từ trước đến nay lý luận văn
học chủ yếu tập trung nghiên cứu khâu sáng tác, nghiên cứu sáng tác tách
rời với các quy luật tiếp nhận.
Với tư cách là một lý thuyết khoa học, lý thuyết tiếp nhận là một bổ
sung cần thiết cho khoa nghiên cứu văn học nhằm khám
pháp đầy đủ hơn
tác phẩm văn học và sự vận hành của nó trong đời sống. Lý luận tiếp nhận
không phủ nhận mối quan hệ giữa tác phẩm với nhà văn, với môi trường
sinh thành ra nó, không phủ định tác phẩm như một quá trình sáng tạo và
như một cấu trúc thẩm mỹ.
Lý thuyết tiếp nhận vốn không xa lạ. Ở phương Đông, từ thế kỷ I
trước CN l
ý luận tiếp nhận văn học đã hình thành hai quan niệm: Tri âm và
Kí thác. Quan niệm tri âm cho rằng nhiệm vụ tiếp nhận văn học là cảm và
hiểu cuộc sống được gợi lên trong tác phẩm như chính tác giả. Vì sao Bá
Nha đập vỡ cây đàn khi Chung Tử Kỳ chết? Vì đã không còn người tri âm,
thấu hiểu nỗi lòng của cầm gia thì đàn còn ý nghĩa gì nữa. Quan niệm ký
thác thì xem tác phẩm như nơi để gởi gắm tư tưởng, tình cảm của người
đọc. Ở phương Tây, trường phái phê bình ấn tượng do J.Lemaitre chủ
xướng chủ trương tái hiện cảm xúc tinh khôi, tươi mới của người đọc trong
việc tiếp nhận tác phẩm. Hoạt động cảm t

hụ, phê bình tác phẩm diễn tiến
phong phú, đa dạng tác động không ít đến những người nhà nghiên cứu lý
luận, những người muốn đặt lý thuyết tiếp nhận trên bình diện phương
pháp luận để mổ xẻ, nghiên cứu.
Năm 1967, Hans Rober Jauss, một đại biểu của trường phái
Constance đã nêu ra vấn đề tiếp nhận: sự tiếp nhận của truyền thống văn
hóa này đối với tác phẩm của truyền t
hống văn hóa khác; của một xã hội
này đối với tác phẩm của một xã hội khác và của công chúng xác định đối
với một tác phẩm. Trong quyển “Vì một nền mỹ học tiếp nhận”, Jauss đã
đặt giả thuyết rằng một tác phẩm đồng thời bao gồm văn bản với tư cách là
một cấu trúc cho sẵn và sự tiếp nhận của người đọc. Ý nghĩa của nó thay
đổi theo điều kiện và lịch sử xã hội của tiếp nhận nê
n nó không cố định, bất
biến mà mang ý nghĩa của cuộc đối thoại.
Năm 1976-1978, công trình “Xã hội, văn học, sự đọc” của các nhà
nghiên cứu Đức do Manfred Nauman chủ biên đã nêu những vấn đề cốt lõi
nhất của lý thuyết tiếp nhận. Họ cho rằng t
rung tâm lý thuyết tiếp nhận là
giải quyết vấn đề tương quan chặt chẽ giữa các thành tố khác nhau của quá
trình tiếp nhận văn học. Từ đó cần làm rõ ý nghĩa các thành tố: tác giả, tác
phẩm, người đọc và hiện thực.
Xét về mặt giáo trình giảng dạy ở nhà trường sư phạm, theo Trần
Đình Sử, cấu trúc của các giáo trình lý luận văn học, kể cả sách lý luận của
Viện Văn học Liên Xô như Dẫn luận nghiên cứu văn học (M., 1976, 1983),
Lý luận văn học, 3 tập (M., 1962-1965), Khoa học về văn học của Viện sĩ
Busowmin (1980) đều không nhắc đến vấn đề tiếp nhận văn học. Lý luận
văn học với tư cách là một khoa học ra đời vào buổi giao thời thế kỷ XVIII-
XIX (P.Nikolaiek, 1983) thì lý luận tiếp nhận phải đến đầu thế kỷ XX mới
được ý thức và đến năm 1986 ở nước ta mới có

bài Tiếp nhận văn học
trong giáo trình Lý luận văn học, trong khi trước đó các giáo trình nghiên
cứu Lý luận văn học đều không đề cập đến vấn đề tiếp nhận. Và trong thế
kỷ XX, lý luận tiếp nhận văn học đã được hình thành và phát triển có hệ
thống dần dần trở thành một hướng nghiên cứu có triểm vọng.
Mối quan hệ giữa tác phẩm và người đọc là vấn đề trung tâm
của lý
thuyết tiếp nhận, là cơ sở lý luận của lý thuyết tiếp nhận. Nghiên cứu lý
thuyết tiếp nhận tức là nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa tác phẩm
và người đọc. Tác phẩm văn học đến tay độc giả, được độc giả đọc, thẩm
bình. Sau đó tác phẩm lại quay về với nhà văn, tác động ngược trở lại nhà
văn. Có trường hợp nhà văn phải viết những chuyên luận để giải thích cho

bạn đọc những vấn đề đã thể hiên trong tác phẩm. Tuy nhiên, việc tiếp
nhận văn học vốn vận động, bất biến. Qua mỗi thời đại, mỗi hoàn cảnh xã
hội lịch sử khác nhau, mỗi con người khác nhau thì việc tiếp nhận đã hoàn
toàn đổi khác. Nhà văn không thể sống mãi với thời gian và cũng không thể
giải thích hết được những vấn đề người đọc suy nghĩ.
Có thể thấy vai trò của người đọc quyết định số phận tác phẩm. Vì

sao Chiến tranh và hòa bình (L. Tolstoi), Những người khốn khổ
(V.Huygo)… sống mãi với thời gian, trở thành những kiệt tác vượt qua mọi
thời đại, mọi đối tượng tiếp nhận? Vì sao lại có những tác phẩm mới đến
tay người đọc hôm
nay hôm sau đã không còn một dư âm nào về nó cả? Ở
đây, người tiếp nhận là người thẩm định tốt nhất giá trị tác phẩm. “Hữu xạ
tự nhiên hương”, đối với những tác phẩm lớn thì cuộc đời nó luôn ẩn chứa
những khả năng mới sẽ bộc lộ khi nó tiến hành cuộc hành trình qua không
gian và thời gian.
Bạn đọc, và mối quan hệ giữa bạn đọc và tác phẩm văn học là nguồn

gốc xuất hiện lý luận tiếp nhận văn học và cũng là cơ sở lý luận nghiên cứu
vấn đề tiếp nhận.
1.1.1.2. Những đặc điểm của lý thuyết tiếp nhận.
Tiếp nhận văn học là một quá trình tiếp thu lĩnh hội một đối tượng
nghệ th
uật là tác phẩm văn học. Tiếp nhận văn học đồng nghĩa với việc đọc
hiểu những gì đã đọc thông qua ngôn từ và những gì có ý nghĩa nhân sinh
thẩm mỹ trong tác phẩm văn chương. Nguyên lý chú giải theo Gađamelà
“phải cố gắng hiểu tất cả những gì có thể hiểu được”. Khi đọc tác phẩm văn
chương, người tiếp nhận không thể với tới hiện t
hực tiếp nhận ở dạng nguyên
thủy được mà chỉ có thể hiểu được qua thế giới nghệ thuật được sắp đặt, tổ
chức bằng ngôn ngữ và trong ngôn ngữ. Theo Gađame con người sống trong
ngôn ngữ và không thể bước ra ngoài dù là một phút giây nào.
Tác phẩm văn học là một đối tượng nhận thức đặc thù vì nó là sản
phẩm
tinh thần đặc biệt. Muốn chiếm lĩnh, tiếp nhận không thể vận dụng
những năng lực hoạt động nhận thức chung mà cần đến những năng lực đặc
thù qua hình tượng thẩm mỹ vốn là một hình tượng nhận thức phát triển ở
mức cao hơn những hoạt động nhận thức bằng lý luận. Tác phẩm văn học
là một sán
g tạo tinh thần của cá nhân người nghệ sĩ. Nó không phải là một
vật thể thẩm mỹ cụ thể mà là một tồn tại phi vật thể thông qua hình tượng
thẩm mỹ được vật chất hoá bằng hệ thống tín hiệu ngôn ngữ nghệ thuật.
Tác phẩm văn chương nào cũng nhằm mục đích thông báo tình cảm thẩm
mỹ. Nhà văn gửi đến cho người đọc nhiều xúc động mãnh liệt nhất về cuộc
sống, con người dưới ánh sáng của một lý tưởng t
hẩm mỹ. Nội dung đó nó
được thể hiện qua hình tượng thẩm mỹ được hệ thống hoá qua hệ thống
ngôn ngữ nghệ thuật do nhà văn sáng tạo nên. Nó là một đặc trưng riêng

trong sáng tác văn học và trong tiếp nhận văn học. Tiếp nhận chính là tìm
hiểu những tình cảm thẩm mỹ bằng hình tượng thẩm mỹ qua hệ thống ngôn
ngữ. Đây là một qui trình khép kín của tác phẩm văn học từ sáng tác đến
bạn đọc và ngược lại.
Từ qui trình tác động của tác phẩm văn học đối với bạn đọc, chúng ta
nhận thấy qui trì
nh tiếp nhận tác phẩm là quá trình tiếp thu, lĩnh hội những
giá trị mà văn bản tác phẩm văn học mang đến cho người đọc. Nó đòi hỏi
người đọc phải có những năng lực cụ thể. Quá trình đó diễn ra theo một
chiều duy nhất đó đọc văn và tri giác ngôn ngữ. “Tiếp nhận văn học là một
quá trình, vì nó chỉ thực sự diễn ra theo một hoạt động duy nhất là đọc
văn”[34, t
r.35].
Tiếp nhận văn học là giai đoạn hoàn tất qua trình sáng tác - giao
tế của tác phẩm: Nghệ sĩ sáng tạo tác phẩm là để truyền đạt những khát
quát, rung cảm của mình về cuộc sống cho người đọc, chỉ khi người đọc
tiếp nhận tác phẩm thì quá tình sáng tạo mới hoàn tất. Muốn hiểu rõ bản
chất của quá trình tiếp nhận, cần thấy rõ hình tượng nghệ thuật tồn tại như
một quá trình có nhiều giai đoạn. trước t
iên nó nảy sinh trong ý đồ tác giả,
sau đó được vật chất hóa qua tác phẩm. Tác phẩm chỉ được tồn tại khi đến
tay độc giả, hình tượng văn học bước vào giai đoạn chuyển nội dung văn
bản thành yếu tố tinh thần, biến tác phẩm thành một yếu tố của đời sống ý
thức xã hội.
Sự tiếp nhận văn học không phải là việc sử dụng từ ngữ, tì
m kiếm
kiến thức xã hội, văn hóa, lịch sử, kinh tế, chính trị… mà là sự tiếp nhận,
giao thoa giữa người đọc với tác phẩm, là những kết tinh kinh nghiệm, tư
tưởng tình cảm mà người đọc có được từ tác phẩm.
Tiếp nhận đòi hỏi người đọc phải biết tri giác, cảm thụ tác phẩm,

phải hiểu tình tiết, ngôn ngữ, cốt truyện, thể loại cảm nhận hình tượng văn
học toàn vẹn. Người đọc thâm nhập vào hệ thống hình tượng tác phẩm và
đưa hình tượng tác phẩm vào văn cảnh đời sống và kinh nghiệm sống của
mình để thể nghiệm, đồng cảm. Mức độ cuối cùng của quá trình tiếp nhận
là người đọc lí giải tác phẩm,
hiểu được vị trí của tác phẩm trong lịch sử
văn hóa, tư tưởng và truyền thống nghệ thuật. Tiếp nhận văn học đòi hỏi sự
tham gia của tri giác, cảm giác, trực giác, tưởng tượng; và bộc lộ cá tính
của người tiếp nhận, lập trường của người đọc với giá trị tác phẩm.
Tính khách quan của tiếp nhận văn học: Tiếp nhận văn học x
uất
phát từ người đọc. Mỗi người đọc có một suy nghĩ chủ quan riêng, và việc
tiếp nhận tùy thuộc vào những suy nghĩ, độ tinh tế, kiến thức, vốn sống của
người đó. Cùng một tác phẩm nhưng có người thì say mê ngôn ngữ của tác
phẩm, người thì tìm kiếm trong đó sự đồng cảm, đồng điệu trong cuộc
sống, có người thì chú trọng khai thác tác phẩm trên các quan điểm n
ghệ
thuật. Có nhiều trường hợp cùng một câu chữ nhưng mỗi người lại có mỗi
cách tiếp cận khác nhau, lý giải khác nhau tùy thuộc vào thị hiếu, vào vốn
sống, vào năng lực thẩm mỹ của mỗi người.
Tuy nhiên, tiếp nhận văn học lại là hoạt động mang tính lịch sử xã
hội và khách quan. Có rất nhiều quan niệm về tiếp nhận văn học như vấn
đề tri âm, người tri âm là người thấu hiểu nỗi lòng của người sáng tạo.
Nhưng trong đời sống văn học nghệ thuật, có
được bao nhiêu Bá Nha với
Chung Tử Kỳ? Quan niệm đọc văn lấy lòng mình mà đọc không quan tâm
đến dụng tâm của tác giả giải phóng sức sáng tạo, liên tưởng của người
đọc. Có lẽ nhờ cách đọc văn, bình văn như thế mà Tây Sương K
ý trở thành
tuyệt tác qua lời bình của Kim Thánh Thán. Tuy nhiên, cách tiếp nhận này

dễ khiến người đọc rơi vào chủ quan và có thể xuyên tạc tác phẩm.
Văn học phản ánh đời sống xã hội nên vốn mang tính khách quan.
Nội dung tinh thần của tác phẩm được sáng tạo trên cơ sở ngôn ngữ toàn
dân và các phương tiện tạo hình, biểu hiện nên hoàn toàn có thể truyền đạt
những yếu tố, nội dung tương đồng từ tác giả đến người đọc. Đó là những
cơ sở định hướng tiếp nhận của người đọc. Bằng chứng Lỗ Tấn sau khi

xuất bản AQ chính truyện đã bị rất nhiều độc giả gởi thư mắng chửi tại sao
ông lại đưa họ vào tác phẩm của ông. Thành công của Lỗ Tấn là đã xây
dựng một hình tượng nhân vật phổ chúng, mọi tầng lớp người đều như thấy
dáng dấp của mình trong tác phẩm.
Tiếp nhận là hoạt động khách quan. Người tiếp nhận phải dựa tr
ên
những định hướng giới hạn về nội dung, nghệ thuật tác phẩm để tránh chủ
nghĩa cá nhân và xuyên tạc nội dung tác phẩm. Một tác phẩm luôn có giá
trị tự thân của nó, người đọc phải cảm thụ khách quan và tôn trọng. Không
phải nói tiếp nhận là chủ quan của người đọc thì anh muốn hiểu thế nào
cũng được.
Tính sáng tạo của tiếp nhận văn học: Như ta đã biết, tiếp nhận văn
học là hoạt động chủ quan của người đọc, người đọc lí giải tác phẩm bình
giảng tác phẩm v
ì thế nó là một hoạt động tích cực. Tùy vào tri thức, kinh
nghiệm sống của mỗi người mà việc lý giải có thể sâu sắc, cũng có thể hời
hợt, phiến diện tác phẩm văn học khi mới đến tay người đọc tự bản thân nó
mang những ý tưởng m
à tác giả thể hiện. Thế nhưng, khi người đọc bắt đầu
can thiệp vào tác phẩm bằng những suy nghĩ cá nhân thì tác phẩm không
còn ý nghĩa như ban đầu nữa. Tiếp nhận văn học không chỉ đọc tác phẩm,
mà còn phân tích, bình giải những nội dung ý tưởng của tác phẩm.
Do tính tương tác, do những yếu tố tự thân của tác phẩm, do trình độ

của người đọc mà sự sáng tạo trong tiếp nhận cũng đa dạng và phong phú.

Người đọc có thể phát hiện ra những tầng bậc ý nghĩa mà ngay cả tác giả
cũng sẽ bất ngờ. Đỉnh cao của sáng tạo trong tiếp nhận văn học là những
kiến giải bình giảng tác phẩm còn sâu sắc hơn bản thân tác phẩm, thẩm
bình về Tây Sương Ký của Kim Thánh Thán là một ví dụ. Hay như hoạt
động sáng tạo lại tác phẩm từ nguyên tác Đoạn trường tân thanh, Nguyễn
Du đã để lại cho dân tộc Việt Nam một tuyệt tác bất hủ - Truyện Kiều.
1.1.2. Tính chất tác động của hình tượng văn học – cơ sở của lý thuyết
tiếp nhận.

Tác động là một tính chất của quá trình tiếp nhận. Tác phẩm văn học
thông qua các phương tiện biểu đạt như ngôn từ, cú pháp, biện pháp tu từ…
tạo nên những hình tượng âm thanh, hình ảnh, nhịp điệu… tác động lên tri
giác, xúc giác của người đọc, bắt đầu một quá trình chuyển hóa tác phẩm từ
văn bản đến nội dung ý nghĩa trong tư duy của người đọc.
Quá trình tác động có tính chất tương tác. Hình tượng văn học tác
động lên tri giác, xúc giác của n
gười đọc, khai mở những giác quan, tư duy.
Ngược lại, người đọc tiếp nhận các hình tượng lại tác động ngược lại hình
tượng, gắn cho nó những cung bậc ý nghĩa mới.
Hình tượng văn học vốn phong phú, đa dạng. Một tác phẩm nghệ
thuật luôn chứa trong m
ình cả một hệ thống hình tượng. Màu sắc, âm
thanh, nhịp điệu, nhạc tính… là những biểu hiện sinh động thể hiện hình
tượng tác phẩm xây dựng nên. Tại sao trái tim ta cũng như ngừng đập, tĩnh
lặng theo Xuân Diệu để lắng nghe, để cảm giác mùa thu đang về đâu đây?
Có phải do những hình tượng hoa lá, những âm thanh, sắc màu của cảnh
vật, những rung cảm rất tinh tế, nhạy cảm của tác giả kéo chúng ta vào tác
phẩm, vào cùng cảm giác giao mù

a? Vì sao rất nhiều chàng trai muốn mình
được một lần “mắt trừng gởi mộng qua biên giới”? Có phải do tác động
của hình tượng người anh hùng Tây Tiến quá bay bổng, quá lãng mạn trong
lòng người đọc?
Tác phẩm văn chương được biểu đạt bằng hệ thống hình tượng,
những hình tượng này tác động tích cực hay tiêu cực lên người đọc tùy
thuộc vào hoàn cảnh, tâm trạng của người tiếp nhận, tùy thuộc vào bối cảnh
mà người tiếp nhận thực hiện quá trình tiếp nhận.
Để phản ánh và nhận thức hiện thực, các khoa học đều chịu tác động
của các quy luật nhận thức nhưng phương thức phản ánh của khoa học v
à
văn học không giống nhau. Tính hình tượng là một trong những thuộc tính
cơ bản của văn học nghệ thuật. Văn học phản ánh bằng hình tượng. Hình
tượng được xây dựng bằng vật liệu ngôn ngữ, bằng hư cấu và theo lý tưởng
thẫm mỹ của nhà văn. Trong khoa học, cái đơn lẻ được phản ánh thông qua
cái chung, dưới hình thức khái quát của các quy luật, các khái niệm, cô
ng
thức… Ngược lại, trong văn học cái đơn lẻ, cá thể lại trở thành hình thức
phản ánh cái chung. Hình tượng văn học vừa có tính khái quát sâu vừa
mang tính cụ thể. Tính chất tác động của hình tượng văn học lên người đọc
chính là cơ sở để hình thành sự tiếp nhận.
Tính chất tác động của hình tượng văn học lên người đọc là một đặc
tính của vấn đề tiếp nhận. Nếu không có sự tác động, không có sự hô ứng
của hình tượng văn học lên tri giác, cảm giác, xúc giác của n
gười đọc thì
quá trình tiếp nhận sẽ không thể diễn ra. Có thể thấy, tính chất tác động của
hình tượng đến người đọc, người học là hạt nhân của sự tiếp nhận. Nghiên
cứu lý luận tiếp nhận không thể bỏ qua vấn đề tác động của hình tượng lên
người đọc.
1.2.

Sự kết hợp giữa lý thuyết tiếp nhận và phương pháp dạy học tích
cực lấy học sinh làm trung tâm
1.2.1. Vai trò của lý thuyết tiếp nhận trong việc dạy học tác phẩm văn
chương ở nhà trường phổ thông.
1.2.1.1. Vai trò của người đọc - học sinh và vấn đề tiếp nhận văn học.
Người đọc bình thường bao gồm tất cả công chúng thuộc mọi tầng
lớp, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, thành phần xã hội,
thị hiếu thẩm mỹ và khuynh hướng tư tưởng. Công chúng tiếp nhận văn
học xuất phát từ thực tiễn đời sống và nhu cầu tự nhiên của tình cảm vì thế
mà sụ tiếp nhận cũng đa dạng muôn màu như cá tính của mỗi cá nhân.
Có thể phân biệt nhiều loại tiếp nhận: tiếp nhận của bạn đọc nói
chung, tiếp nhận của nhà văn, nhà phê bình và đặc biệt ở đây chúng ta khai
thác vấn đề tiếp nhận của HS.
Tiếp nhận của công chúng như trên đã nói vốn đa dạng, phong phú,
tùy vào hoàn cảnh, năng lực cá nhân mà việc tiếp nhận ở những mức độ
khác nhau. Trong hoàn cảnh xã hội phong kiến, Tự Đức đọc Truyện Kiều
đã đòi nọc
Nguyễn Du ra đánh mấy roi, có một thời gian nhiều người còn
cho nó là “dâm thư”, nhưng đến hôm nay thời đại cởi mở, nghiên cứu tiếp
nhận văn học không bị bao phủ bởi những tư tưởng, định kiến xã hội,
Truyện Kiều đã được thừa nhận là một tuyệt phẩm lớn của nền văn học
nước nhà.
Tiếp nhận của nhà văn, nhà phê bình là hoạt động tiếp nhận mang
tính chất nghề nghiệp và chuyên sâu. Nhà văn vừa là người sáng tạo vừa là
người đọc nên việc tiếp nhận của nhà văn thường t
heo khuynh hướng tìm
tòi những khía cạnh tư duy nghề nghiệp mới, những phân tích có tính chất
nghề nghiệp, thiên về kỹ thuật. Tiếp nhận của nhà phê bình cũng mang tính
chất chuyên nghiệp nhưng ở khía cạnh ý thức về văn học t
rên cấp độ ý

nghĩa xã hội của tác phẩm.
Như chúng ta đã biết, người tiếp nhận là HS có tính chất đặc thù
riêng. Thứ nhất, tuổi đời các em còn rất trẻ, tâm lý đang giao thoa giữa tính
cách còn trẻ con trên bước đường thành người lớn nên chưa ổn định. Thứ
hai là do non tuổi đời nên những tri thức về lịch sử xã hội còn khá hạn hẹp.
Các em chỉ mới tích lũy được những kiến thức được dạy ở nhà trường,
những tri thức khác nếu có cũng ở mức độ giới hạn. Và nhất là các em còn
rất non kinh nghiệm, vốn sống, trải đời nên việc hiểu nghĩa, liên tưởng
trong học tập tác phẩm văn chương, hiểu hết được ý nghĩa lịch sử xã hội
của tác phẩm là một thách thức không nhỏ.
Tuy vậy, ở lứa tuổi này, các em đã bắt đầu hình thành tính chủ định
trong quá trình tư duy nhận thức. L.I. Boj
ovich thừa nhận:
Khác với thiếu niên, là lứa tuổi trong một chừng mực đáng
kể, vẫn hướng về việc tự nhận thức bản thân mình, cảm xúc của
mình, khác với các em học sinh nhỏ hoàn toàn bị cuốn hút vào thế
giới bên ngoài, học sinh các lớp lớn trong nhà trường lại cố gắng
tìm hiểu cái thế giới bên ngoài ấy nhằm tìm thấy chỗ đứng của
mình trong đó, và cũng có thể một chỗ dựa mà xác lập quan điểm
và niềm ti
n của mình” [75, tr.75]
.

Cùng với sự phát triển về nhận thức, các em bắt đầu hình thành tâm
lý tự ý thức. Các em có nhu cầu tự khám phá những đặc điểm tâm lý và lý
giải nó theo quan điểm riêng, theo mục đích sống và theo lý tưởng của các
em. Việc biết tự nhìn nhận, đánh giá thể hiện khả năng cảm thụ, sáng tạo
của các em trong học tập.
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật và internet đã tạo ra những trào
lưu mới trong HS. Những thú vui giải trí vì thế cũng đặc thù như game,


chat, truyện tranh… trở thành ưu tiên số một nên việc tích lũy kiến thức
lịch sử xã hội đối với các em không được coi trọng. Trước thực trạng một
số em HS phát biểu em không sinh ra vào thời Nguyễn Đình Chiểu làm sao
hiểu được Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (Nguyễn Đình Chiểu), các em không
phải là Kiều làm
sao hiểu và chia sẻ tâm tư tình cảm và hiểu số phận bi
thương của Kiều. Tất nhiên, tiếp nhận tác phẩm văn chương là phải đặt nó
trong hệ quy chiếu với hoàn cảnh lịch sử xã hội, xuất xứ của tác phẩm,
những hoàn cảnh mà tác giả trải qua khi cho tác phẩm ra đời, từ đó có cái
nhìn tổng thể, bao quát và chính xác trong tiếp nhận. Những ý kiến của các
em chỉ là ngụy biện nhưng cũng đặt ra những vấn đề cần giải quyết tận gốc
trong việc dạy học tác phẩm văn chương ở nhà trường.
Tuy non nớt về tuổi đời, kinh nghiệm sống nhưng các em lại có một
tâm
hồn tinh tế, rộng mở, trí tưởng tượng phong phú, đa dạng, khả năng
liên tưởng cao. Vấn đề là làm thế nào kích thích, định hướng và phát huy
những mặt tích cực cũng như hạn chế những suy nghĩ, tác động tiêu cực
của tác phẩm văn học lên tư tưởng, tâm hồn các em. Một khi hiểu được vấn
đề tâm sinh lý HS, việc nghiên cứu để tạo cho các em
sự hứng khởi trong
học tập là rất cần thiết. Phát huy vai trò bạn đọc, năng lực cảm thụ của HS
là huy động một cách khoa học những năng lực chủ quan của các em, để
các em thật sự thấy hứng khởi, chủ động tham gia vào quá trình tiếp nhận
văn học, như thế giờ dạy học tác phẩm văn chương mới có hiệu quả.
1.2.1.2. Vai trò của lý thuyết tiếp nhận t
rong việc dạy học tác phẩm văn chương.
Dạy học tác phẩm văn chương là quá trình người thầy chuyển tải
những nội dung mà hình tượng tác phẩm thể hiện đến HS. Mối quan hệ
giữa giáo viên - học sinh - tác phẩm là mối quan hệ vòng tròn khép kín. Tác

phẩm là đối tượng chung để giáo viên lẫn HS cùng nhau khai thác. GV
trong tư cách là người đọc trước có kinh nghiệm nắm vững kiến thức sẽ là
người hướng dẫn, truyền thụ kinh nghiệm cho HS, chỉ cho các em con
đường tiếp cận tác phẩm
. HS chính là trung tâm của dạy học, bằng mọi con
đường trực tiếp tác động lên tác phẩm để tìm ra chân lý dưới sự hướng dẫn
của giáo viên. Chúng ta có thể thấy mối quan hệ đó qua mô hình sau:

Tác phẩm văn chương được xây dựng từ ngôn từ nghệ thuật. Dạy
đọc hiểu tác phẩm văn chương là dạy cho HS cách thức tiếp nhận tác phẩm
văn chương trên cơ sở đọc hiểu ngôn từ nghệ thuật là chủ yếu. Muốn hiểu
được tác phẩm văn chương phải đi từ ngôn từ nghệ thuật và vận dụng
những kiến thức về loại thể, xã hội, Tiếng Việt, Làm
văn để tìm hiểu nghĩa
từ và nắm bắt thông tin tác phẩm muốn truyền đạt.
Muốn dạy học tác phẩm văn chương, trước tiên đòi hỏi GV phải nắm
rõ những đặc điểm của quá trình tiếp nhận; nắm rõ đặc tính của bạn đọc
HS; nắm rõ mối quan hệ biện chứng, tương tác giữa thầy giáo, tác phẩm và
HS; và cuối cùng là phải nắm rõ đặc trưng cơ bản của tác phẩm văn
chương, những vấn đề nội dung, nghệ thuật, hình tượng mà tác phẩm
chuyển tải.
Tác phẩm văn chương tự bản thân người thầy tiếp nhận đã khó,

chuyển tải cho HS những vấn đề xương sống và nhất là cái thần của tác
phẩm càng khó. Và lý giải cho HS cảm thụ trong các mối tương tác của quá
trình dạy học càng là một việc khó hơn nữa.
Một thời gian dài chúng ta dạy học tác phẩm t
heo kiểu truyền thụ
một chiều, thầy giảng trò nghe. Thầy nói theo khả năng của thầy, thầy hiểu
đến đâu thì giải nghĩa đến đó, không chú ý đến vai trò của HS trong tiến

trình dạy học. Trên cơ sở lý thuyết tiếp nhận, việc dạy học tác phẩm văn
chương mở ra một con đường mới, chú trọng đến tiếp nhận của HS, chú

trọng việc hô ứng trong dạy học. Nếu chỉ truyền thụ một chiều, không đặt
việc dạy học trong tương quan giữa thầy giáo – tác phẩm – học trò – thầy

×