Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Một số cách thức tổ chức hoạt động khởi động trong giờ đọc hiểu văn bản ngữ văn, ở trường THCS và THPT nghi sơn, tĩnh gia, thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (695.52 KB, 19 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THCS VÀ THPT NGHI SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ CÁCH THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG
TRONG GIỜ ĐỌC HIỂU VĂN BẢN NGỮ VĂN, Ở TRƯỜNG
THCS VÀ THPT NGHI SƠN, TĨNH GIA, THANH HÓA.

Người thực hiện: Nguyễn Thị Thu Hiền
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Ngữ Văn

THANH HÓA, NĂM 2018


MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài:............................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu:.....................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu................................................................................2
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM....................................................3
1. Cơ sở lý luận:.................................................................................................3
2. Thực trạng vấn đề:..........................................................................................4
3. Khái lược về hoạt động khởi động:................................................................4
3.1. Yêu cầu hoạt động khởi động:.................................................................4
3.2. Đặc điểm của hoạt động khởi động:........................................................5
3.3. Phân loại hoạt động khởi động:...............................................................5
3.4. Quy trình thiết kế hoạt động khởi động:..................................................5


3.5. Mục đích của hoạt động khởi động:.........................................................6
4. Một số cách thức tổ chức hoạt động khởi động:...........................................6
4.1. Khởi động bằng hoạt động “Kể chuyện”:................................................6
4.2. Khởi động bằng hoạt động trực quan:......................................................7
4.3. Khởi động bằng hoạt động tổ chức trò chơi.............................................9
4.4. Khởi động bằng hoạt động đặt câu hỏi nêu vấn đề:...............................10
4.5. Khởi động bằng hoạt động thảo luận:....................................................11
5. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm...........................................................12
III. KẾT LUẬN...................................................................................................14
1. Kết luận:.......................................................................................................14
2. Đề xuất:........................................................................................................14


I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng lần XI, đặc biệt là nghị quyết Trung ương
số 29-NQ/TW ngày 4 tháng 11 năm 2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; nghị quyết số
88/2014/QH13 ngày 28 tháng 11 năm 2014 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam về đổi mới chương trình sách giáo khoa, giáo dục phổ
thông trong phạm vi cả nước đang thực hiện đổi mới đồng bộ về mục tiêu, nội
dung, phương pháp, hình thức tổ chức, thiết bị và đánh giá chất lượng giáo dục
Nghị quyết số 29-NQ/TW yêu cầu: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp
dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và
vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một
chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự
học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển
năng lực”1. Như vậy, đổi mới phương pháp dạy-học một trong những nội dung
căn bản rất được quan tâm. Trong rất nhiều nội dung đổi mới, đổi mới các hoạt

động dạy- học có sự khác biệt rõ rệt so với giáo dục truyền thống. Tiến trình tổ
chức hoạt động của học sinh trong mỗi bài học cần được thiết kế thành các hoạt
động học theo tiến trình sư phạm của các phương pháp dạy học tích cực.
Bộ môn Ngữ văn cũng không nằm ngoài đường lối chỉ đạo chung. Kinh
nghiệm giảng dạy của cá nhân cho thấy: muốn học tốt môn văn, bên cạnh rất
nhiều phương pháp dạy học thì phương pháp nhằm chuẩn bị tốt tâm thế cho học
sinh trước mỗi giờ học là điều vô cùng quan trọng! Tâm thế đó có được hay
không đều tùy thuộc vào hoạt động khởi động trước mỗi giờ học. Và để đạt
được điều đó thì giáo viên phải lôi cuốn được tất cả học sinh vào hoạt động khởi
động này.
Sự chú ý, ấn tượng, hứng thú, cảm xúc của học sinh đều được tạo lập ngay từ
những giây phút đầu tiên.Từ đây sẽ kéo theo thái độ, hành vi học tập của các em
trong suốt tiết học. Tuy vậy, ở hầu hết nhà trường các cấp và ở hầu hết giáo viên,
hoạt động khởi động chưa thực sự được chú ý đầu tư như một hoạt động nghiêm
túc và cần thiết trong quá trình lên lớp. Trong thời gian tìm hiểu người viết cũng
chưa tìm được tài liệu nào luận giải hệ thống và đầy đủ về hoạt động này, đồng
thời nhận thấy tầm quan trọng của hoạt động nên đã chọn “Một số cách thức tổ
chức hoạt động khởi động trong giờ đọc hiểu văn bản Ngữ văn , ở trường
THCS và THPT Nghi Sơn, Tĩnh Gia, Thanh Hóa” làm đề tài nghiên cứu.

1 Được

tham khảo từ TLTK số [2].
1


2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu và thực hiện việc xây dựng một hoạt động học đó là Hoạt động
khởi động trong giờ đọc- hiểu văn bản văn học ở cấp trung học phổ thông. Từ
đó người viết đưa ra một số cách thức tổ chức hoạt động khởi động trong giờ

đọc hiểu văn bản Ngữ văn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Trong khuôn khổ của SKKN, người viết chỉ nghiên cứu và thực hiện việc đổi
mới xây dựng, tổ chức Hoạt động khởi động trong giờ đọc-hiểu văn bản văn
học ở cấp trung học phổ thông.
Các ví dụ minh họa nằm ở chương trình Ngữ văn Trung học phổ thông ban
cơ bản của sách giáo khoa hiện hành.
Đối tượng khảo sát, điều tra và hướng tới là giáo viên, học sinh THPT
trường THCS và THPT Nghi Sơn, Tĩnh Gia, Thanh Hóa” .
4. Phương pháp nghiên cứu
- Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
+ Thu thập thông tin ở sách, báo, tài liệu chuyên môn và mạng internet
+ Phân tích, tổng hợp,hệ thống hóa tri thức
- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Quan sát.
+ Khảo sát thực tế.
+ Phát phiếu điều tra.
+ Thực nghiệm sư phạm.

2


II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận:
Khác với dạy học định hướng nội dung, dạy học theo định hướng phát triển
năng lực học sinh là tổ chức cho học sinh hoạt động học. Trong quá trình dạy
học, học sinh là chủ thể nhận thức, giáo viên có vai trò kiểm tra, hỗ trợ hoạt
động học tập của học sinh một cách hợp lý sao cho học sinh tự chủ chiếm lĩnh,
xây dựng tri thức. Quá trình dạy học là quá trình hoạt động của giáo viên và của
học sinh trong sự tương tác thống nhất giữa giáo viên, học sinh và tư liệu hoạt

động dạy học.
Quan niệm giáo dục mới, hoạt động khởi động được hiểu là hoạt động tạo
được tình huống, vấn đề học tập nhằm huy động kiến thức, kinh nghiệm hiện có
của học sinh và nhu cầu tìm hiểu kiến thức mới liên quan đến tình huống, vấn đề
học tập. Người học phải là trung tâm của hoạt động dạy-học nên hoạt động dẫn
vào bài cũng được nâng lên, được đánh giá đúng đắn và đầy đủ hơn. Những lời
dẫn vào bài đơn giản được đưa thành một hoạt động thúc đẩy tư duy thực sự.
Tạo mâu thuẫn và hứng thú ngay khi giờ học bắt đầu là cách thu hút sự chú ý, sự
tập trung, bắt não bộ của các em phải vận động, phải tư duy tích cực. Giáo viên
cần phải có đầu tư chính đáng về công sức, trí tuệ, thời gian, sự chuẩn bị để thực
hiện hoạt động khởi động trên lớp; và để không gây nhàm chán cho học sinh,
giáo viên cần tìm tòi, đổi mới, sáng tạo, mở rộng hoạt động. Theo quan điểm sư
phạm tương tác, quá trình dạy-học là quá trình tác động đến hệ thần kinh trung
ương của con người. Điều quan trọng mỗi hoạt động dạy-học đều phải kích thích
được sự hứng thú, sự hưng phấn trong não bộ, như vậy quá trình học tập mới đạt
đến hiệu quả. Hoạt động khởi động trong dạy-học cũng cần phải đáp ứng được
yêu cầu trên.
Hoạt động khởi động có vai trò tích cực trong việc kích thích sự phát triển
của các giác quan; giảm sự nhàm chán, căng thẳng trong quá trình học tập; dần
hình thành sự tự chủ chiếm lĩnh tri thức của học sinh; góp phần hình thành kiến
thức, kỹ năng, thái độ,... từ đó xây dựng năng lực và phẩm chất người học sinh.
Trong cơ chế dạy học mới “giáo viên là nhạc trưởng điều khiển mọi
nhạc công sử dụng hài hoà mọi nhạc cụ của mình. Nhạc trưởng không biến
thành nhạc công. Học sinh không phải là bình chứa mà là những ngọn lửa. Giáo
viên là người thắp sáng lên những ngọn lửa đó”. “Phân tích tác phẩm trong nhà
trường phải đi từ học sinh, bằng học sinh và cho học sinh” là như vậy.
Lý luận dạy học cũng đặt ra việc giáo dục và học tập trên cơ sở độc lập tư
duy và độc lập hoạt động của học sinh. Vai trò của giáo viên lúc này là người
“điều khiển”, “dẫn dắt” khéo léo để học sinh độc lập suy nghĩ, tìm ra cái mới
trên cơ sở những hiểu biết đã có, bằng tư duy logic và sáng tạo. Mỗi vấn đề

được giải quyết là học sinh đã tháo gỡ được những thắc mắc, thoả mãn hiểu biết
một vấn đề mới nhưng đồng thời lại có khát khao tiếp tục tìm kiếm những chân
3


lý mới, làm phong phú thêm kiến thức của mình. Như vậy, hoạt động khởi động
trong giờ đọc –hiểu ngữ văn có vai trò quan trọng trong việc hình thành năng lực
và phẩm chất của người học sinh theo nhu cầu mới của xã hội.
2. Thực trạng vấn đề:
Hoạt động khởi động này được nhận thức là “không thể thiếu” trước mỗi giờ
dạy, đặc biệt là dạy đọc - hiểu văn bản văn học. Trải qua hơn 15 năm công tác
tôi nhận thấy:
Nội dung hoạt động thường mang tính chất giới thiệu giản đơn, định hướng
giản đơn.Thực chất đây chỉ là lời nói có tính chất “đưa đẩy” để vào bài cho đỡ
đường đột, chưa được coi là “khởi động”; lời giới thiệu mới chỉ tạo ra được “địa
chỉ” phân biệt bài A với bài B mà chưa tạo ra được vấn đề và hứng thú, không
tạo được mâu thuẫn giữa cái đã biết, cái chưa biết và cái muốn biết. Cũng có
những giáo viên đầu tư phần dẫn vào bài hơn, thậm chí có người đã làm được
rất hay, rất hiệu quả song con số đó chưa nhiều, chưa ổn định trong chính giáo
viên đó và chưa đồng đều ở các giáo viên.
Sự đa dạng hóa các hình thức hoạt động khởi động khá đơn điệu và
nghèo nàn. Dễ gặp nhất là lời dẫn trực tiếp, đi thẳng, trực diện vào bài; đầu tư
hơn là một vài câu hỏi hay liên hệ từ thực tế, thảo luận; hoạt động tập thể, liên
tưởng loại suy cần sự chuẩn bị nhiều hơn nên ít xuất hiện.
Về nhận thức của giáo viên đối với hoạt động khởi động hầu hết chưa thấu
đáo. Đa phần họ coi nhẹ hoạt động này, coi đây là hoạt động phụ trợ, bởi thực tế
họ không phải thể hiện trong giáo án và họ chỉ quan tâm đến việc học sinh khắc
sâu được những kiến thức gì sau giờ học. Điều quan tâm đó là đúng nhưng chưa
đầy đủ.
Thực trạng trên không xứng tầm với vai trò, ý nghĩa và tác dụng của hoạt

động khởi động. Hy vọng vấn đề này cần được cải thiện hơn trong một tương lai
gần. Chính vì vậy, người viết muốn tạo được một cái nhìn đầy đủ, hoàn thiện và
sâu sắc hơn về hoạt động khởi động trong giờ học nói chung và trong giờ đọchiểu văn bản văn chương nói riêng.
3. Khái lược về hoạt động khởi động:
3.1. Yêu cầu hoạt động khởi động:
- Giáo viên hoặc học sinh thực hiện đều phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, có sự
đầu tư về trí tuệ, công sức, thời gian.
- Ngắn gọn về thời lượng (2 đến 5 phút)
- Tạo được không khí vui vẻ, thoải mái trong lớp học; tạo sự thân thiện giữa
thầy và trò.
- Có tính hấp dẫn, gây được sự sôi nổi, hào hứng, kích thích được sự hứng
thú, tò mò hay tâm lý thi đua, thích khen thưởng của học sinh.
4


- Gợi được vấn đề của bài học.
- Học sinh chỉ có thể phán đoán một phần mà chưa thể dùng tri thức cũ lý giải
vấn đề, buộc phải chú ý bài học mới có thể khám phá điều muốn biết.
3.2. Đặc điểm của hoạt động khởi động:
- Hoạt động khởi động là một hoạt động đầu tiên nằm trong chuỗi hoạt động
học theo mô hình trường học mới(VNEN): hoạt động khởi động, hoạt động hình
thành kiến thức, hoạt động luyện tập, hoạt động vận dụng, hoạt động tìm tòi mở
rộng2. Bởi vậy: hoạt động khởi động chính là hoạt động tạo nền móng, tạo bàn
đạp để các hoạt động sau được diễn ra hiệu quả.
- Nhiệm vụ học tập trong hoạt động khởi động cần đảm bảo học sinh không
thể giải quyết trọn vẹn với kiến thức-kỹ năng cũ mà cần phải học thêm kỹ năng,
kiến thức mới trong các hoạt động hình thành kiến thức và luyện tập để hoàn
thiện.
- Hoạt động khởi động diễn ra nhanh chóng trong một thời gian rất ngắn,
thường chỉ tối đa là 5 phút sau khi ổn định tổ chức và trước khi vào bài mới.

Nếu lâu hơn sẽ bất lợi.
3.3. Phân loại hoạt động khởi động:
Có rất nhiều cách phân loại dựa trên những tiêu chí khác nhau:
- Xét về hình thức: có hoạt động động và hoạt động tĩnh. Hoạt động động là
những hoạt động thiên về vận động thể chất, các nhóm cơ. Ví dụ các trò chơi trí
tuệ kết hợp tay chân, các giác quan: hát, múa, vẽ tranh, ghép tranh, ngâm thơ, kể
chuyện,…Hoạt động tĩnh thiên về vận động trí não như: thảo luận theo chủ đề,
giải ô chữ, hùng biện, phân tích sơ đồ tư duy, câu hỏi nêu vấn đề,…
- Xét về đối tượng thực hiện: Hoạt động khởi động có thể được thực hiện bởi
giáo viên: lời dẫn gián tiếp, trích dẫn ý kiến hay danh ngôn, câu hỏi gợi vấn đề,
liên hệ thực tế,…Bên cạnh đó là những hoạt động được thực hiện bởi người học
- học sinh: các trò chơi, các phần thi nhỏ,vẽ tranh minh họa,…
Sự phân loại trên có tính chất tương đối.Trên thực tế giảng dạy không có hoạt
động nào dành riêng biệt cho từng đối tượng. Hoạt động của người dạy và người
học có tính chất luân phiên. Giáo viên đưa ra ý tưởng, yêu cầu và học sinh đáp
ứng thực hiện, sau đó giáo viện nhận xét, đánh giá, chốt vấn đề. Chỉ có hoạt
động thiên về đối tượng này hơn đối tượng kia.
3.4. Quy trình thiết kế hoạt động khởi động:
- Nghiên cứu kỹ tác phẩm, đặc biệt là tư tưởng cốt lõi của tác giả gửi qua tác
phẩm để tìm ra nội dung của hoạt động cho phù hợp.
- Xác định đối tượng thực hiện chủ đạo: giáo viên hay học sinh.
2 Được

tham khảo từ TLTK số [1].
5


- Xác định hình thức hoạt động: tĩnh hay động
- Xác định các phương tiện hỗ trợ (tranh ảnh, mô hình, máy chiếu, băng đĩa,
…)

- Nếu do học sinh thực hiện có nhận xét, đánh giá.
Đối với mỗi kiểu bài, mỗi bài học cụ thể, hoạt động khởi động sẽ khác nhau.
Trong giờ đọc-hiểu văn bản Ngữ văn cũng không có khuôn mẫu nào nhất định
cho hoạt động khởi động. Không có kiểu khởi động nào là tối ưu nhất, có khi
phải khởi động phải lồng ghép nhiều hình thức để hỗ trợ nhau trong cùng một
bài dạy. Bí quyết thành công là sự tìm tòi, sáng tạo và đa dạng hóa của giáo viên.
3.5. Mục đích của hoạt động khởi động:
Hoạt động khởi động nhằm hướng tới đích rất phù hợp với lý thuyết của dạy
học mới là học sinh tích cực, chủ động chiếm lĩnh tri thức:
- Thu hút sự chú ý ngay từ đầu giờ học, tránh sự mất tập trung, xao nhãng, lộn
xộn, mất thời gian.
- Khơi mạch nguồn cảm hứng cho người học; đánh thức năm giác quan.
- Dẫn dắt học sinh vào “bầu không khí văn chương”. Hoạt động khởi động sẽ
là cây cầu đưa người học vào bầu không khí đó.
- Tạo “thử thách”, tạo “tình huống” để học sinh buộc phải bị “vấp” trong tư
duy. Từ đó kích thích nhu cầu tò mò, kích thích khả năng chinh phục và khám
phá tri thức của các em. Đây là mục đích quan trọng nhất.Tư duy vận động thì
tri thức mới có lối vào. Hoạt động khởi động không tạo được tình huống có vấn
đề chưa phải là một hoạt động thuyết phục và có tính khoa học
4. Một số cách thức tổ chức hoạt động khởi động:
Đối với mỗi kiểu bài, mỗi bài học cụ thể, hoạt động khởi động sẽ khác nhau.
Trong giờ đọc-hiểu văn bản Ngữ văn cũng không có khuôn mẫu nào nhất định
cho hoạt động khởi động. Không có kiểu khởi động nào là tối ưu nhất, có khi
phải khởi động phải lồng ghép nhiều hình thức để hỗ trợ nhau trong cùng một
bài dạy.
4.1. Khởi động bằng hoạt động “Kể chuyện”:
Những câu chuyện của hoạt động này thường xoay quanh chuyện đời tư,
chuyện văn. chuyện nghề, chuyện tác phẩm,… của một nhà văn, nhà thơ nào đó.
Hoạt động này không đơn thuần là cung cấp những tri thức thú vị ngoài văn bản,
ngoài sách giáo khoa mà còn hướng học sinh bắt đầu nhận ra một ngụ ý sâu xa

nào đó, liên quan đến tác giả hoặc tác phẩm sẽ học.
Hình thức này rất dễ gây được sự chú ý, tò mò ngay từ ban đầu. Văn thường
gắn liền với đời nên sự đồng điệu xảy ra nhanh chóng. Người giáo viên “lợi
dụng” tâm lý này mà dẫn dắt học sinh. Giáo viên nên chọn lọc những vấn đề thú
6


vị, hấp dẫn, mới lạ và nhất định phải làm nảy sinh nhu cầu hiểu biết mới. Để
thực hiện buộc giáo viên phải là người đọc nhiều, biết nhiều, hiểu rộng và sâu về
từng tác giả và tác phẩm. Hình thức kể chuyện đa số được thực hiện bởi giáo
viên, sẽ khắc sâu hơn nếu học sinh có khả năng tự tìm những câu chuyện đó
trong sách, tài liệu tham khảo.
VD: Dạy bài “Người trong bao” của A.Sê-khốp3:
Câu chuyện: Một con bọ có cánh được một chú bé bắt về chơi. Chú thả con
bọ vào trong cái hộp không nắp, và liền mấy ngày sau đó chú bé rất phải mất
công đi tìm con bọ về bởi nó nhảy dễ dàng ra khỏi hộp. Bực mình, lập tức chú
bé làm ngay cho chiếc hộp một cái nắp. Ngày đầu tiên, chú liên tục nghe thấy
tiếng “bộp, bộp” phát ra từ những cú đập lưng và cánh của con bọ khi chạm
nắp hộp. Rồi ngày một ngày hai, tiếng “bộp, bộp” thưa dần và một thời gian
sau thì mất hẳn. Khi đó, chú bé bỏ hẳn nắp hộp đi vì con bọ có cánh không nhảy
ra khỏi hộp nữa4. Tại sao vậy? Tại sao con bọ lại không nhảy ra được nữa? Vấn
đề gì được đặt ra ở câu chuyện này? (Giáo viên ngừng lời, để học sinh suy nghĩ,
trả lời, rồi kết luận). Ai trong chúng ta đều có những mặt mạnh, những khả năng
nhất định. Nhưng nếu khả năng đó bị kìm hãm, bị hạn chế, bị bó buộc, không
được phát triển thì nó sẽ bị thui chột và tiêu biến. Nhân cách, phẩm chất của con
người cũng vậy. A.Sê-khốp đã bắt bệnh cho chúng ta qua câu chuyện rất hấp dẫn
về anh chàng “mang bao”. Các em sẽ xem “bác sĩ tâm lý” Sê-khốp chỉ ra “bệnh”
gì trong tác phẩm “Người trong bao” nhé!
4.2. Khởi động bằng hoạt động trực quan:
Dựa trên đặc điểm của học sinh yêu đời, ưa ca hát, giáo viên có thể dẫn

vào bài bằng cách cho học sinh xem những bức tranh, nghe những bài hát, xem
những đoạn phim ngắn phù hợp với nội dung tác phẩm. Hoạt động này nhằm tạo
cho học sinh sự thích thú và tập trung.
Học sinh sự thích thú và tập trung. Học sinh được “mắt thấy tai nghe”, cảm nhận
trực tiếp những minh họa thú vị. Mục đích để các em sẽ tự đặt câu hỏi trong đầu:
nó liên quan gì tới bài học? Như vậy, tư duy đã nảy sinh vấn đề muốn biết.
Ngày nay, với sự hỗ trợ nhiều của công nghệ thông tin và các thiết bị điện
tử, cho phép giáo viên khai thác tốt hơn hoạt động khởi động kích thích trực
quan, đặc biệt là thị giác và thính giác. Nếu có thể, giáo viên hoặc học sinh sẽ tự
thực hiện (hát, múa, ngâm thơ, diễn kịch, vẽ tranh,...) thay vì máy tính, máy
chiếu. Giáo viên đặc biệt là thị giác và thính giác. Nếu có thể, giáo viên hoặc
học sinh sẽ tự thực hiện (hát, múa, ngâm thơ, diễn kịch, vẽ tranh,...) thay vì máy
tính, máy chiếu. Giáo viên chú ý, để hoạt động cần sự chuẩn bị chu đáo từ khâu
tìm nội dung phù hợp với bài, máy chiếu, máy tính hoặc đạo cụ.

3 Được

tham khảo từ TLTK số [3].

4 Được tham khảo từ TLTK số [5].
7


VD: Dạy bài “Thơ Hai-cư của Ba-sô”5
- Giáo viên đưa câu hỏi: Em biết gì về đất nước Nhật Bản xinh đẹp, đặc biệt là
văn hóa Nhật Bản? (Dành thời gian cho học sinh thảo luận)
- Giáo viên đưa ra lời dẫn, mỗi đặc điểm về văn hóa kèm theo một hình ảnh
tương ứng được chiếu trên máy chiếu:
Nghệ thuật trà đạo (Chado):


Nghệ thuật gấp giấy (Origami):

Thế giới của những cuốn truyện tranh nổi tiếng:

Lễ hội hoa anh đào:

6

5 Được

tham khảo từ TLTK số [3].

6 Được

tham khảo từ TLTK số [5].
8


(Đa phần các em chưa nghĩ đến thơ Hai-cư cũng là một “đặc sản văn hóa”), lúc
này giáo viên nhấn mạnh: ngoài những nét văn hóa nổi bật trên, Nhật Bản còn
nổi tiếng bởi có một thể thơ độc nhất vô nhị, có một không hai trên thế giới, đó
là thơ Hai-cư. Đây là bìa một cuốn thơ Hai-cư và hai nhà thơ tiêu biểu.

7

(M.Ba-so)

(Kobayashi)

4.3. Khởi động bằng hoạt động tổ chức trò chơi.

Đây là hình thức được các em đón nhận nồng nhiệt nhất. Các em được học
thông qua các trò chơi, vận động cả tay chân và đầu óc. Hoạt động này làm tăng
sựnhanh nhạy,óc phán đoán, sự suy luận; khả năng kết hợp nhóm và làm việc
theo nhóm. Nếu kết hợp kiểm tra bài cũ sẽ giảm được những căng thẳng và áp
lực cho học sinh, tránh tình trạng các em “sợ” đối mặt với sự chất vấn của giáo
viên. Hình thức này sẽ được thực hiện thuận lợi hơn trong những tiết học có nội
dung liên quan, kế thừa, đặc biệt là ở các tiết dạy chuyên đề.
Hoạt động này đòi hỏi giáo viên cần chuẩn bị chu đáo, công phu. Lựa chọn
nội dung chơi và hình thức chơi cũng không đơn giản: đảm bảo hứng thú, vừa
sức, thời gian tiến hành. Để thực hiện hoạt động này, giáo viên có thể lồng ghép
hoạt động kiểm trả bài cũ sẽ có nhiều thời gian hơn, nội dung hoạt động phong
phú hơn.
VD: Dạy bài “Trao duyên”, bài cũ là bài: “Truyện Kiều” phần một: Tác giả
Chơi giải ô chữ. Chia lớp làm hai nhóm lớn, thi trả lời câu hỏi nhanh giữa các
nhóm. Nhóm nào thắng được thưởng. Ai tìm ra từ chìa khóa nhanh nhất được
thưởng một cây bút.(Các câu hỏi tương ứng với số thứ tự các hàng ngang).
Câu 1:Từ gồm 9 chữ cái, tính từ, khái quát cuộc đời của Nguyễn Du.
Câu 2: Điền tiếp vào câu sau: “Nguyễn Du được vinh danh là…văn hóa thế
giới”
Câu 3: Gồm 6 chữ cái, bắt đầu bằng chữ “C”, là yếu tố rất giàu trong các tác
phẩm của Nguyễn Du!
7 Được

tham khảo từ TLTK số [5].
9


Câu 4: Gồm 10 chữ cái. Kiệt tác của Nguyễn Du được dịch ra rất nhiều ngôn
ngữ trên thế giới?
Câu 5: Từ có 3 chữ cái: đây là biện pháp nghệ thuật phổ biến trong thơ Đường

cũng như trong thơ Nguyễn Du.
Câu 6: Gồm 6 chữ cái. Nhân vật của Nguyễn Du thường là những con người “…
bạc mệnh”.
Câu 7: Các tác phẩm Đoạn trường tân thanh, Văn chiêu hồn được viết bằng chữ
Hán hay chữ Nôm?
Câu 8: Từ chìa khóa 7 chữ cái: Đây là giá trị nổi bật nhất trong các tác phẩm của
Nguyễn Du?
1

T

H

A

N

G

T

R

A

2

D

A


N

H

N

H

A

N

C

A

M

X

U

C

E

N

K


I

E

U

Đ

O

I
H

O

A

3
4

T

R

U

Y

5

6

T

A

I

7

N

O

M

M

Câu 9: Lý do cô giáo chọn từ “Nhân đạo” làm từ chìa khóa của ô chữ?
“Nhân đạo” là cốt lõi trọng tâm thơ của Nguyễn Du. Vậy: tinh thần nhân đạo

của Nguyễn Du được biểu hiện như thế nào, chúng ta cùng theo dõi các trích
đoạn tiếp theo: Trao duyên, Nỗi thương mình, Chí khí anh hùng. Và đầu tiên là
Trao duyên.
4.4. Khởi động bằng hoạt động đặt câu hỏi nêu vấn đề:
Trong dạy học tác phẩm văn chương, điều quan trọng là đưa học sinh vào
trong “bầu không khí văn chương”, gây sức lôi cuốn học sinh vào bài giảng
bằng các tình huống nêu vấn đề. Muốn vậy không thể không có câu hỏi nêu vấn
đề trong bài giảng. Câu hỏi nêu vấn đề là biện pháp đắc dụng nhất trong dạy học
nêu vấn đề, bởi nó giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách chủ động tích cực,

không hề có sự áp đặt. Những kết quả bài học các em rút ra từ sự tư duy sẽ là
những kiến thức khắc đậm sâu trong não, hơn thế nữa nó giúp các em hình thành
và phát triển kỹ năng phân tích, bình giá tác phẩm văn chương một cách logic và
khoa học, từ đó các em có thể tự đi sâu tìm hiểu nhiều tác phẩm văn chương
khác. Hiệu quả của giờ học không thể gọi là cao nếu không có tình huống nêu
10


vấn đề, không có câu hỏi nêu vấn đề. Thực tế đang chứng minh hiệu quả của dạy
học nêu vấn đề. Giáo sư Phan Trọng Luận đã nhận định rằng: “Nhưng cuối cùng
cho đến nay ngay cả những ý kiến hay hoài nghi nhất cũng phải thừa nhận khả
năng phát triển trí tuệ một cách có hiệu lực rõ rệt của phương pháp giảng dạy
này. Dư luận nói chung đã thấy rõ những thế mạnh của dạy học nêu vấn đề mà
các phương pháp truyền thống không thể có được”.8
VD: Dạy bài “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam
- Giáo viên yêu cầu : Tóm tắt truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam!
- Học sinh thực hiện (Lúng túng hoặc thấy đơn giản, nhận thấy sự khác biệt
trong cốt truyện thông thường)
- Giáo viên khẳng định: Thạch Lam là một trong những cây bút truyện ngắn
tiêu biểu của văn học hiện đại Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Mỗi câu chuyện
Thạch Lam viết mặc dù rất đậm đà yếu tố hiện thực nhưng yếu tố lãng mạn vẫn
bao trùm. Ấn tượng về văn Thạch Lam là sự nhẹ nhàng, tinh tế, giàu cảm xúc,
giàu chất thơ. Điều độc đáo ở đây là Thạch Lam viết truyện mà không có
chuyện, truyện không có cốt truyện. Vậy thế nào là “truyện không có cốt
truyện”? Các em hãy suy nghĩ trả lời câu hỏi trên!
- Học sinh cùng suy ngấm, thảo luận và đưa ra ý kiến
- Giáo viên nhận xét và kết luận: Thông thường, “truyện” bao giờ cũng có
“cốt”, truyện của Thạch Lam vẫn có cốt truyện nhưng được tối giản, chỉ còn lại
rất ít sự việc và chi tiết tiêu biểu. Yếu tố này mờ đi để làm nổi bật yếu tố khác
lên: đó là tâm trạng, là cảm xúc. “Hai đứa trẻ” là truyện ngắn tiêu biểu cho

phong cách viết truyện đó của Thạch Lam.
4.5. Khởi động bằng hoạt động thảo luận:
Hoạt động khởi động bằng cách thảo luận là hoạt động học rất tích cực. Học
sinh phải tập trung cao độ sự chú ý và suy nghĩ sâu về vấn đề được đưa ra. Khi
không tư duy vào vấn đề các em sẽ không hoàn thành được hoạt động. Hoạt
động này kích học sinh: bạo dạn, nhanh nhẹn hơn, tự tin hơn; rèn luyện được
khả năng thuyết trình , trình bày một vấn đề trước tập thể, lâu dần sẽ bồi dưỡng
được thái độ học và tinh thần học tập tốt.
Với hoạt động này giáo viên cần chọn vấn đề có sức hấp dẫn, không quá
“đánh đố” học sinh sẽ gây giảm sút sự hào hứng; có thể nhờ tới sự hỗ trợ thêm
hình thức trực quan hay trò chơi; hơn nữa hoạt động chỉ diễn ra trong ít phút nên
có thể đưa vấn đề ra từ phần “Dặn dò” của bài học trước để các em có dịp suy
nghĩ ở nhà, trước khi đến lớp. Trong quá trình thảo luận giáo viên phải rất chú ý
lắng nghe mới phát hiện những ý kiến đúng, cả những ý kiến chưa đúng trọng
tâm hay lệch lạc mà có sự ngợi khen hay điều chỉnh kịp thời.
8 Được

tham khảo từ TLTK số [4].
11


Hoạt động này có thể diễn ra theo nhóm lớn, nhóm nhỏ, thi đua giữa nhóm
với nhóm. Giáo viên cũng có thể kết hợp vẽ sơ đồ tư duy trên bảng theo các ý
kiến thảo luận của học sinh, nên tóm tắt và ghi cả những ý kiến chưa đúng tỏ ý
tôn trọng sau đó phân tích loại bỏ và có thái độ động viên, khuyến khích. Giáo
viên cũng dự đoán trước những ý kiến mà các em có thể trình bày, để có những
gợi ý bổ sung. Nội dung hoạt động khá đa dạng: tác giả, tác phẩm, xuất xứ văn
bản, tựa đề.
VD: Dạy bài “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
- Nguyễn Bỉnh Khiêm có quan niệm “Nhàn” như thế nào? (Học sinh thảo

luận)
- Quan niệm của ông có khác chúng ta ngày nay hay không? ( Học sinh
thảo luận)
Các em hãy tự tìm câu trả lời ở cuối buổi học sau khi tìm hiểu bài thơ “Nhàn”
của ông nhé!
5. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Trong quá trình thực hiện, thực nghiệm, chủ yếu bằng quan sát học sinh, kết
hợp phiếu khảo sát, người viết đã thu được một số kết quả như sau:
Bằng quan sát trực quan của cá nhân: Phản ứng của học sinh theo quá trình
sau: Nhanh chóng im lặng => Chăm chú theo dõi => Nhiệt tình, hào hứng thực
hiện => Mong đợi được thỏa mãn thắc mắc, tò mò => tập trung chú ý vào bài
mới. Quá trình này xảy ra rất nhanh, giáo viên phải tinh tế quan sát để điều
chỉnh hoạt động cho phù hợp với tâm thế học sinh . Đa số giờ học các em hứng
thú, hoạt động tích cực ( Lớp 10A2), các em tỏ ra vui tươi, thoải mái và tham gia
nhiệt tình hơn rõ rệt (Lớp 11A4). Hình thức càng hấp dẫn càng thu hút được
nhiều em. Tính thi đua giữa cá nhân với cá nhân, giữa nhóm với nhóm rất hăng
hái. Không khí lớp học trở nên sôi nổi, truyền cảm hứng ngược lại cho giáo
viên. Vì vậy, nó thúc đẩy quá trình dạy-học, chất lượng giờ học.
Kết quả phiếu khảo sát: Năm học 2017-2018, người viết đảm nhận dạy 2
khối lớp 10 và 11, tiến hành thực nghiệm ở 2 lớp : Lớp 11A4- có 44 học sinh,
lớp 10A2 - có 40 học sinh (Trường THCS VÀ THPT NGHI SƠN)) trong các giờ
khác nhau: bài có và bài không có hoạt động khởi động.
Lớp 10A2-sĩ số (40 học sinh): Thực hiện 5 bài có hoạt động khởi động(theo
trình tự phân phối chương trình Ngữ văn 10): Truyện An Dương Vương và Mỵ
Châu-Trọng Thủy; Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa; Nhàn (Nguyễn
Bỉnh Khiêm; Lầu Hoàng Hạc (Thôi Hiệu); Thơ Hai-cư của Ba-sô.
Kết quả:
LỚP 10A2

Không hứng


Hứng thú

Rất hứng

12


thú

thú

Bài có hoạt động khởi động

0/40=0%

20/40= 50%

20/40=55%

Bài không có hoạt động

35/40=87,5%

5/40= 12,5%

0/40=0%

khởi động
*Lớp 11A4: Thực hiện 3 bài có hoạt động khởi động (Theo trình tự phân phối

chương trình Ngữ văn 11): Hai đứa trẻ (Thạch Lam), Tràng giang (Huy Cận),
Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử).
Kết quả:
LỚP 11A4

Không hứng
thú

Bài có hoạt động khởi động

0/44=0%

Bài không có hoạt động
khởi động

39/44=88,6%

Hứng thú

Rất hứng
thú

14/44=31,81% 30/44=68,18%
5/44=11,36 %

0/44=0%

Kết quả khảo sát có sự giống nhau: Với bài giảng có tiến hành hoạt động
khởi động, mức độ “hứng thú”chiếm từ 30% trở lên, mức độ “rất hứng thú”
chiếm từ 55% trở lên và em nào cũng có sự hứng thú; nghĩa là các em hưởng

ứng các hoạt động khởi động hấp dẫn. Đây là con số khá lạc quan, nó khẳng
định tác dụng của hoạt động khởi động trước giờ học. Điều quan trọng là giáo
viên nỗ lực tiếp tục nâng cao sự thích thú. Ngược lại, với bài học không có hoạt
động khởi động, mức độ “rất hứng thú” không còn (0%). Quá trình thực nghiệm
và khảo sát chứng minh rằng học sinh nào cũng bộc lộ sự mong mỏi được tham
gia hoạt động, không còn biểu hiện sự thụ động, tạo hứng thú trong giờ học.

13


III. KẾT LUẬN
1. Kết luận:
Thực tế, giáo viên chúng ta đã nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của
hoạt động khởi động nói chung và hoạt động khởi động trong giờ đọc-hiểu văn
bản Ngữ văn ở trường THPT nói riêng. Sáng kiến kinh nghiệm nhỏ này người
viết một lần nữa muốn khẳng định sự cần thiết của hoạt động khởi động và đưa
ra một số cách thức tổ chức hoạt động khởi động trong giờ đọc hiểu văn bản
Ngữ văn góp phần tăng sự hứng thú, yêu thích học tập môn Ngữ văn của học
sinh. Trong giờ đọc -hiểu Ngữ văn, hoạt động này thực chất cũng rất phong phú,
đa dạng về nội dung lẫn hình thức, không hạn chế sức đầu tư và sáng tạo của
người dạy; đồng thời lại lôi cuốn được phần đông học sinh tham gia. Nếu hoạt
động này được thực hiện bền bỉ ở mỗi giờ, cùng với các hoạt động khác, chắc
chắn sẽ góp phần làm tăng tư duy tích cực chủ động, hoàn thiện thêm các kỹ
năng của học sinh; điều này sẽ hình thành năng lực và phẩm chất của người học
sinh trong thời đại mới.
Trong quá trình thực hiện, người viết thấy cần phải hoàn thiện và trau dồi
thêm rất nhiều tri thức, phương pháp và kỹ năng ở giáo viên. Trước khi năng
lực, phẩm chất của người học phát triển thì giáo viên - người dạy lại là người
“được phát triển” trước. Như vậy, tổ chức hoạt động khởi động cho học sinh
cũng là cách giáo viên tích lũy tri thức, kinh nghiệm và hoàn thiện mình.

Vấn đề hoạt động khởi động còn có thể phát triển thêm ở những cách thức tổ
chức vừa đa dạng hơn vừa chi tiết hơn ; hoặc phát triển theo tính hệ thống hóa
các ví dụ, theo phân môn hoặc theo khối lớp. Hy vọng rằng người viết sẽ có điều
kiện nghiên cứu vấn đề sâu sắc hơn.
Sáng kiến kinh nghiệm trên là một hình thức cụ thể hóa những hiểu biết của
người viết trên con đường “đổi mới” dạy-học văn, theo quan điểm dạy-học mới
của Đảng và Nhà nước. Sáng kiến có tính khả thi cao, tức thì và có tính chất
tham khảo. Tuy nhiên, đây là sản phẩm nghiên cứu mang tính cá nhân nên
không tránh khỏi những phiến diện, chưa sâu. Rất mong được quan tâm đóng
góp để hoàn thiện và phát triển đúng đắn đề tài khi mở rộng.
2. Đề xuất:
Với ý nghĩa, vai trò và tầm quan trọng của hoạt động khởi động trong giờ đọc
hiểu Ngữ văn ở nhà trường Trung học phổ thông, người viết mong muốn mỗi
giáo viên ý thức rõ ràng và sâu sắc hơn nữa đối với hoạt động này, tăng cường
đầu tư và thực hiện làm cho giờ đọc-hiểu thêm sinh động và kích thích tối đa
nhu cầu khám phá tri thức của học sinh, tạo tiền đề, cho các hoạt động trọng tâm
tiếp theo của bài học.
Xin trân trọng cảm ơn!

14


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 25 tháng 5 năm
2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.


Nguyễn Thị Thu Hiền

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bộ Giáo dục và đào tạo-“Tài liệu hội thảo-tập huấn đổi mới tổ chức và
quản lý hoạt động giáo dục ở trường Trung học phổ thông theo định hướng phát
triển năng lực học sinh”-Tháng 1 năm 2016.
[2]. Bộ Giáo dục và đào tạo – “Tài liệu tập huấn phương pháp kĩ thuật tổ chức
hoạt động học theo nhóm và hướng dẫn học sinh tự học môn Ngữ văn ”- Tháng
7 năm 2017.
[3]. Sách giáo khoa Ngữ văn 10,11 cơ bản hiện hành – NXBGD-2006.
[4].Tài liệu Ebook: “Một số kỹ thuật mở đầu bài giảng hiệu quả môn Ngữ Văn”.
“Thiết kế mở đầu và củng cố bài giảng Ngữ Văn”
[5]. Tài liệu nguồn internet.

16


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN.
Họ và tên tác giả:

Nguyễn Thị Thu Hiền

Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên - Trường THCS và THPT Nghi Sơn.


STT
Tên đề tài SKKN
1

Cấp đánh giá
xếp loại ( Sở,
Tỉnh...)

Tìm hiểu truyện ngắn “
Chiếc thuyền ngoài xa” của
Sở GD & ĐT
Nguyễn Minh Châu, từ lý
thuyết hoạt động giao tiếp ở
trường THCS và THPT Nghi
Sơn, Tĩnh Gia.

KQĐG

Năm được đánh
giá xếp loại

XL (A, B, C)

C

Quyết định số
988/QĐSGD&ĐT ngày
03/11/2015.


17



×