Lời cảm ơn
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này tôi đã nhận được sự
hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của quý thầy cô trường Đại
học Quảng Bình.
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô trường Đại học
Quảng Bình đặc biệt là những thầy cô khoa sư phạm Tiểu học- Mầm
non và những thầy cô đã tận tình giảng dạy cho tôi trong suốt thời
gian học tập tại trường.
Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đên ThS. Nguyễn Chiêu Sinh, người
thầy kính mến đã hết lòng quan tâm, giúp đỡ tận tình, hướng dẫn
nghiên cứu tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Đồng thời cũng xin cảm ơn Ban giám hiệu, giáo viên trường
Mầm non Đồng Phú đã tạo điều kiện cho tôi khảo sát để hoàn thành
khóa luận này.
Xin chân thành cảm ơn!
Đồng Hới, 5/2016
Tác giả: Lương Thị Hồng Thúy
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự hướng
dẫn khoa học của ThS. Nguyễn Chiêu Sinh. Các số liệu, kết quả trong khóa luận là
trung thực và chưa được công bố dưới bất kì hình thức nào trước đây.
Ngoài ra trong khóa luận còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu
của các tác giả khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc.
Nếu phát hiện có bất kì sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội
dung khóa luận của mình.
Đồng Hới, 5/2016
Tác giả: Lương Thị Hồng Thúy
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG KHẢO SÁT
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Viết đầy đủ
Vết tắt
Hoạt động tạo hình
HĐTH
Giáo viên mầm non
Mẫu giáo lớn
Phần trăm
GVMN
MGL
%
LỜI NÓI ĐẦU
Hoạt động tạo hình là một trong các lĩnh vực hoạt động của xã hội. Xã hội có văn
minh, hiện đại như ngày nay là có phần đóng góp không nhỏ của hoạt động tạo hình.
Hoạt động tạo hình ra đời từ rất sớm. Từ xa xưa con người đã biết mô tả cuộc
sống của mình qua những bức tranh, những hình vẽ trên các vách đá với rất nhiều hình
ảnh sống động như săn bắn, cảnh trồng trọt hay nhảy múa, những đàn súc vật muông
thú cỏ cây… các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những tượng đá, tượng đồng những đền
đá có hình chạm trổ nằm trong lòng đất đó là kết quả tạo hình của loài người từ hàng
nghìn năm về trước. Nó gắn liền với nền văn minh, văn hóa, tồn tại và phát triển cùng
với xã hội loài người. Trong đời sống con người hoạt động tạo hình là một hoạt động
nghệ thuật góp phần đem đến cái đẹp làm phong phú cho đời sống con người. Hoạt
động tạo hình còn là phương tiện quan trọng giáo dục trẻ. Nó có tác động to lớn trong
việc hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ Mầm non. Tác động tích cực
đến 5 mặt giáo dục: đức, trí, thể, mỹ, lao động của trẻ ở tuổi mầm non. Một nhà giáo
dục xô viết đã nói: “ Phải giáo dục cho trẻ biết yêu cái đẹp từ tuổi bé nhất vì đó là cơ
sở ban đầu cho việc hình thành nhân cách con người”
Trên cơ sở nhận thức được tầm quan trọng của bộ môn tạo hình nói chung và
hoạt động vẽ theo ý thích nói riêng đối với sự phát triển của trẻ nên tôi đã mạnh dạn
nghiên cứu đề tài: “ Một số hình thức tổ chức thực hiện hoạt động vẽ theo ý thích
cho trẻ mẫu giáo lớn tại trường Mầm non ”
Do điều kiện và thời gian có hạn nên không thể tránh khỏi những thiếu sót vì vậy
kính mong được sự góp ý chân thành của Ban giám hiệu nhà trường, các cán bộ
chuyên môn để đề tài của tôi được hoàn chỉnh và mang lại hiệu quả cao.
1. Lý do chọn đề tài
Tạo hình là một loại hình nghệ thuật xuất hiện từ rất sớm trong sự phát triển của
xã hội loài người. Nó trở nên gần gũi, cần thiết và quan trọng đối với cuộc sống. Nó có
sức hấp dẫn thu hút hầu hết các lứa tuổi, nhất là lứa tuổi mầm non.
Hoạt động tạo hình trong chương trình mẫu giáo nhằm cho trẻ tiếp xúc, làm quen
với nghệ thuật tạo hình ở mức độ sơ đẳng đơn giản gần gũi quen thuộc với cuộc sống
hàng ngày mà trẻ được tiếp xúc. Từ đó trẻ thấy được vẻ đẹp của cảnh vật xung quanh,
có thái độ tích cực đối với những đối tượng xung quanh.
Chức năng cơ bản của hoạt động tạo hình là phản ánh hiện thực bằng hình tượng,
nhằm phát triển ở trẻ khả năng cảm thụ và cảm xúc thẩm mỹ, hình thành tình yêu cái
đẹp trong thiên nhiên, trong cuộc sống và nghệ thuật…
Trẻ biết yêu quý cái đẹp, cảm nhận cái đẹp và biết giá trị, biết sáng tạo ra cái đẹp.
Chính vì vậy mà hoạt động tạo hình đã hình thành ở trẻ những kỹ năng, khả năng quan
sát, phát triển khả năng ghi nhớ, trí tưởng tượng nhằm giúp trẻ nhận biết hình dạng,
1
cấu trúc, màu sắc của đồ vật bằng mắt một cách có mục đích. Khi tham gia qua các
hình thức hoạt động tạo hình trẻ tái tạo lại hình tượng các đồ vật, hình ảnh quen thuộc
mà trước đó chúng đã tri giác được. Góp phần đáng kể trong việc tổng hợp, so sánh,
khái quát hóa, phát huy tính tích cực và khả năng tư duy trực quan hình tượng. Qua đó
nhằm giúp trẻ hình thành ngôn ngữ và phát triển hoàn thiện dần cảm xúc, thẩm mỹ và
tính kiên trì, bền bỉ, khéo léo. Chính vì vậy đối với trẻ cái đẹp được cảm nhận qua hình
thức bên ngoài, tình cảm đó không phải là bẩm sinh, không có sẵn trong mỗi con
người. Từ khi lọt lòng mẹ, một em bé sẽ không có tình yêu cái đẹp nếu chúng ta không
tạo điều kiện để em bé đó được tiếp xúc với nhiều cái đẹp xung quanh, không làm cho
những điểm sinh động, phong phú của các sự vật hiện tượng lọt vào các giác quan của
trẻ để trẻ dễ chịu. Nếu chúng ta không biết khêu gợi ở trẻ em cảm xúc tốt lành về con
người thì sẽ không thể thúc đẩy trong các em những gì thân thiết, gần gũi khi tiếp xúc
với cái đẹp. Đây là một môn học được nghành học rất quan tâm và trở thành chuyên đề
cho những năm học sau.
Nghành giáo dục đào tạo rất quan tâm tới hoạt động tạo hình đã chỉ đạo cho
nghành học mầm non đi sâu vào chuyên đề này. Mở các cuộc thi giáo viên giỏi chuyên
đề tạo hình và các cuộc thi “Bé khéo tay” các cấp cho trẻ. Đặc biệt đã thực hiện trong
bộ môn này trong chương trình bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ.
Thế nên trong chương trình giáo dục mầm non tạo hình là một môn học rất quan
trọng góp phần phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ. Để trẻ có thể biết cách sử dụng
đường nét, sắp xếp bố cục tranh và phối hợp màu sắc để tạo nên những bức tranh đẹp
thì người giáo viên ngoài lòng yêu nghề mến trẻ cần phải có năng lực sư phạm, trình
độ chuyên môn và những biện pháp giảng dạy phù hợp.
Khi trẻ được vẽ sẽ góp phần hình thành cảm xúc thẩm mỹ ở trẻ đó là sự rung cảm
trước cái đẹp của nghệ thuật, của sáng tạo, là sự thỏa mãn, thích thú khi làm nên một
cái gì đó bởi đôi tay nhỏ bé của chính mình. Thông qua hoạt động vẽ bước đầu giúp trẻ
làm quen với các phương tiện và ngôn ngữ tạo hình: Giấy vẽ, sáp màu, đường nét,
hình dáng, màu sắc, bố cục… Từ đó phát triển khả năng quan sát, phát triển trí nhớ, trí
tưởng tượng, sự sáng tạo ở trẻ. Trẻ còn học được cách lập kế hoạch hoạt động như : Sẽ
vẽ gì? Dùng màu gì? Vẽ trong thời gian bao lâu? Nó góp phần đem lại hiệu quả công
việc cao hơn.
Ngoài ra khi hoạt động tập thể trẻ còn biết đánh giá sản phẩm tạo hình của bạn và
của mình. Được các bạn góp ý sẽ quen dần với việc khen chê của người người khác,
đồng thời kỹ năng xã hội được hình thành như: Chờ đến lượt, Chia nhau đồ dùng,
Cùng nhau bàn bạc… Cùng nhau tham gia tích cực hoạt động tạo hình bao nhiêu thì
trẻ càng tự tin trong việc sử dụng bút, giá vẽ, màu sắc và rất có lợi cho việc học tập.
2
Tất nhiên dạy vẽ ở bậc học mầm non không nhằm đào tạo cho trẻ thành các họa
sỹ mà chủ yếu thông qua đó nhằm khơi dậy và phát triển năng khiếu thẩm mỹ vốn có ở
trẻ, tiến tới hình thành thị hiếu thẩm mỹ cho trẻ, đồng thời góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện.
Là một giáo viên mầm non dạy trẻ lớp mẫu giáo lớn (5- 6) tuổi, tôi nhận thấy trẻ
rất thích học tạo hình đặc biệt trẻ rất thích thể hiện những tưởng tượng của mình về thế
giới xung quanh qua những bức tranh mà chính mình vẽ nên.
Chính sự say mê đó đã thôi thúc tôi tìm tới những biện pháp dạy sao cho phù hợp
và đạt hiệu quả cao. Đó cũng là lí do thúc đẩy tôi thực hiện đề tài: “ Một số hình thức
tổ chức hoạt động vẽ theo ý thích cho trẻ mẫu giáo lớn tại trường mầm non Đồng
Phú” với mong muốn giúp trẻ hứng thú hơn trong hoạt động vẽ theo ý thích nhằm góp
phần nâng cao chất lượng dạy- học ở trường mầm non.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua thời gian tìm hiểu tôi nhận thấy chưa có một đề tài nào nghiên cứu về vấn đề
này. Do vậy tôi muốn nghiên cứu đề tài nhằm tìm ra một số hình thức tổ chức hoạt
động vẽ theo ý thích cho trẻ mẫu giáo lớn để trẻ tích cực tham gia vào hoạt động vẽ ở
trường Mầm non, đây cũng là mảng đề tài cần được quan tâm nghiên cứu hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu:
- Tìm ra “Một số hình thức tổ chức thực hiện hoạt động vẽ theo ý thích” cho trẻ
mẫu giáo lớn tại trường Mầm non.
- Trẻ biết tạo ra các đường nét, hình dáng cơ bản, sắp xếp bố cục hợp lý, biết ứng
dụng luật xa gần trong bài vẽ để bức tranh có nội dung phong phú
- Trẻ biết sử dụng màu sắc hài hòa, sinh động…
- Nghiên cứu thực trạng của đề tài.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
Hình thức tổ chức thực hiện hoạt động vẽ theo ý thích cho trẻ mẫu giáo lớn ở
trường Mầm non. Nâng cao tính tích cực vẽ cho trẻ.
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hình thức tổ chức thực hiện hoạt động vẽ theo ý thích cho trẻ mẫu giáo lớn ở
trường Mầm non Đồng Phú. Nâng cao tính tích cực vẽ cho trẻ.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Nghiên cứu về việc tổ chức HĐTH cho trẻ 5- 6 tuổi ở trường Mầm non Đồng Phú
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng hệ thống lý thuyết liên quan đến hình thức tổ chức hoạt động vẽ theo
ý thích cho trẻ mẫu giáo lớn ở trường Mầm non Đồng Phú.
- Tìm hiểu khả năng vẽ theo ý thích của trẻ thông qua các giờ học vẽ.
3
- Đề xuất và thực nghiệm một số hình thức tổ chức thực hiện hoạt động vẽ theo ý
thích cho trẻ mẫu giáo lớn tại trường mầm non.
6. Nội dung nghiên cứu
- Cơ sở lý thuyết: Một số hình thức tổ chức họat động vẽ theo ý thích cho trẻ mẫu
giáo lớn tại trường Mầm non. Tìm hiểu khả năng vẽ theo ý thích của trẻ đối với hoạt
động tạo hình.
- Nghiên cứu thực trạng của đề tài, tìm hiểu thực trạng trong việc tổ chức HĐTH
của trẻ ở trường Mầm non.
7. Giả thuyết khoa học
Trong quá trình tạo hứng thú cho trẻ mẫu giáo lớn tích cực tham gia hoạt động vẽ
theo ý thích ở trường Mầm non giáo viên cần có các hình thức nhằm kích thích trí
tưởng tượng sáng tạo của trẻ. Nên áp dụng một số biện pháp tác động như: Tổ chức
cho trẻ các bài tập, trò chơi “tưởng tượng có định hướng” nhằm giúp trẻ hình thành
thói quen độc lập trong việc tìm kiếm ý tưởng, tạo ra những biểu tượng, những cách
biểu đạt linh hoạt, độc đáo. Tổ chức quá trình tri giác với dụng cụ trực quan đa dạng
về chủng loại và hình thức. Tạo hứng thú, phát triển ở trẻ những xúc cảm, tình cảm
thẩm mỹ có thể nâng cao mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ để hoạt động vẽ theo ý
thích đạt hiệu quả cao hơn.
8. Các phương pháp nghiên cứu
8.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Thu thập các loại sách, báo, tạp chí, tài liệu có liên quan đến đề tài.
- Phân tích, tổng hợp những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài
nghiên cứu.
8.2. Quan sát tự nhiên
Quan sát HĐTH của cô và trẻ từ đó nhận xét, phân tích thực trạng của nghiên
cứu. Quan sát trẻ về tốc độ vẽ, độ tập trung, sự bình luận, sự biểu hiện cảm xúc trong
quá trình vẽ.
8.3. Phương pháp điều tra
- Điều tra gián tiếp: Điều tra bằng phiếu câu hỏi, đưa ra hệ thống câu hỏi xoay
quanh HĐTH và cách tổ chức tiết HĐTH ra sao tại trường Mầm non đối tượng MGL.
Hệ thống câu hỏi đưa ra cho giáo viên đánh dấu vào những phần mình đã thực hiện
được và ý kiến đề xuất các hình thức biện pháp nhằm nâng cao HĐTH.
- Điều tra trực tiếp: gặp gỡ trực tiếp các cô giáo, trò chuyện tìm hiểu về những
tâm tư của họ về vấn đề, những khó khăn đang mắc phải…
8.4. Phương pháp nghiên cứu hoạt động tạo hình của trẻ
Thu thập sản phẩm tạo hình của trẻ, xem xét, phân tích quá trình hoạt động vẽ
của trẻ
4
8.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
- Đây là phương pháp dùng để kiểm nghiệm những phương pháp đã thiết kế trong
việc xây dựng đề tài.
- Thực nghiệm gồm 3 bước: Chọn 2 lớp MGL, sĩ số 62 trẻ.
a. Thực nghiệm khảo sát: Quan sát tiết học và thu thập kết quả sản phẩm tạo hình
của trẻ, đánh giá kết quả tạo hình của trẻ.
b. Tiến hành thực nghiệm tác động: dựa vào nguyên nhân điều tra được, tôi tiến
hành tác động để thay đổi một số thiếu sót.
c. Thực nghiệm kiểm chứng: Tiến hành kiểm chứng bằng cách so sánh kết quả
thực hiện của hai lần thực nghiệm.
Tôi sẽ đưa ra các tiêu chuẩn và phân loại kết quả các sản phẩm của trẻ, chủ yếu
dựa vào kiến thức và hiểu biết của mình để đánh giá kỹ năng vẽ của trẻ, ý thức, thái độ
và sự hứng thú của trẻ.
8.6. Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học
Thống kê và tính % nhằm sử dụng số liệu thu thập được và đưa ra kết quả nghiên
cứu
9. Cấu trúc của khóa luận
Khóa luận gồm có 54 trang, gồm 3 phần: Mở đầu; Kết luận; Phần nội dung được
chia làm ba chương sau:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về đặc điểm tâm sinhh lý và hoạt động vẽ của trẻ Mẫu
giáo lớn ở trường Mầm non.
- Chương 2: Thực trạng vẽ theo ý thích của trẻ. Những thuận lợi và khó khăn.
- Chương 3: Một số hình thức tổ chức hoạt động vẽ theo ý thích đạt hiệu quả tốt
đối với trẻ mẫu giáo lớn ở trường mầm non.
Phần cuối khóa luận có một danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục
5
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẶC ĐIỂM TÂM SINH LÝ VÀ HOẠT
ĐỘNG VẼ CỦA TRẺ MẪU GIÁO LỚN Ở TRƯỜNG MẦM NON
1. Cơ sở lý luận
Hoạt động tạo hình đóng một vai trò quan trọng trong chương trình giáo dục trẻ ở
trường Mầm non. Với mục đích chung của giáo dục Mầm non thì hoạt động tạo hình là
một bộ phận của văn hóa tinh thần, nó gắn liền với kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo và thể
hiện nghệ thuật. Thông qua hoạt động tạo hình đem đến cho trẻ ấn tượng về cái đẹp và
những cảm xúc chân thật, những phẩm chất tốt đẹp của nhân cách con người. Nó là
một trong những hoạt động hấp dẫn nhất đối với trẻ MG, tạo hình giúp trẻ tìm hiểu,
khám phá và tái hiện lại một cách sinh động những gì chúng nhìn thấy trong thế giới
xung quanh, những gì làm trẻ rung động mạnh mẽ và gây cho chúng xúc cảm, tình
cảm tích cực. HĐTH là một hoạt động có đầy đủ điều kiện để đảm bảo sự tác động
toàn bộ lên mọi mặt phát triển của trẻ em về đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ, thể chất và hình
thành các kỹ năng ban đầu của con người như một thành viên trong xã hội biết tích
cực, sáng tạo. HĐTH phát triển ở trẻ kỹ năng quan sát, trí tưởng tượng, sáng tạo, khả
năng phối hợp giữa mắt và tay, hoàn thiện một số kỹ năng cơ bản (vẽ, nặn, xé, cắt
dán).
Chính vì thế là một GVMN tương lai tôi luôn mong muốn được mở rộng kiến
thức của bản thân, đồng thời góp phần nhỏ bé của mình vào việc nâng cao chất lượng
giáo dục trẻ. Hình thành và phát triển toàn diện cho trẻ những chức năng tâm lý, cơ sở
ban đầu của nhân cách, năng lực làm người và một số kỹ năng cơ bản để trẻ chuẩn bị
bước vào trường phổ thông.
GVMN ngày càng đòi hỏi chất lượng dạy và học nhằm đáp ứng kịp thời sự thay
đổi của đất nước. Nhu cầu của phụ huynh cũng đặt hi vọng vào thầy cô. Hơn nữa đối
với trẻ MGL trong việc hoạt động “tạo hình” cũng là một vấn đề cần thiết nhằm phát
triển kiến thức và kỹ năng thể hiện nghệ thuật.
Hiểu được tầm quan trọng đó, tôi luôn tìm tòi những giải pháp, phương pháp tốt
nhất để giúp trẻ yêu thích nghệ thuật và hứng thú tham gia các hoạt động trong lĩnh
vực này.
2. Cơ sở thực tiễn
Hoạt động tạo hình trong chương trình mẫu giáo nhằm cho trẻ được tiếp xúc,
làm quen với nghệ thuật tạo hình ở mức độ sơ đẳng, đơn giản, gần gũi và quen thuộc
với cuộc sống hàng ngày mà trẻ được tiếp xúc. Từ đó trẻ thấy được vẻ đẹp của cảnh
vật xung quanh, có thái độ tích cực với những đối tượng xung quanh. Kết quả của hoạt
động tạo hình nói chung và hoạt động vẽ nói riêng phụ thuộc vào kiến thức, kinh
nghiệm mà trẻ tích lũy được trong các hoạt động khác nhau. Việc tham gia vào các
6
hoạt động trẻ tạo nguồn cảm hứng nảy sinh nhiều ý tưởng sáng tạo nhằm phát triển
toàn diện về trí tuệ, đạo đức, lao động đặc biệt về giáo dục thẩm mỹ.
Đối với trẻ MGL hoạt động tạo hình còn có ý nghĩa không nhỏ trong việc chuẩn
bị điều kiện thuận lợi cho trẻ bước vào tiểu học. HĐTH có ý nghĩa, vai trò rất to lớn,
ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện nhân cách trẻ 5- 6 tuổi. Bởi khi tạo ra sản phẩm
tạo hình trẻ tham gia một cách tích cực, kết hợp giữa tính tích cực của trí tuệ và thể
lực. Đó là sự vận dụng kỹ năng, kỹ xảo sử dụng các dụng cụ và phương tiện tạo hình
với trí nhớ, trí tưởng tượng sáng tạo để tạo nên sản phẩm thông qua lao động. Thực
hiện tốt HĐTH trong trường Mầm non sẽ góp phần nâng cao giáo dục trẻ một cách
toàn diện.
Đặc điểm chung của trẻ mầm non là rất thích vẽ và đây là nhu cầu nên trẻ rất say
sưa nhưng phần lớn sản phẩm của trẻ có khi thiếu cũng có khi thừa các chi tiết nhỏ
hoặc tỷ lệ bố cục tranh dễ bị sai lệch. Chính vì sự say mê của trẻ nên trẻ không quan
tâm lắm đến tư thế thực hiện hoạt động, cách cầm bút… Muốn tạo cho trẻ có niềm say
mê hứng thú khám phá, quan sát tìm tòi sáng tạo sau đó tự mình muốn thể hiện được
sản phẩm. Trước hết giáo viên phải xây dựng một môi trường phong phú, hấp dẫn để
kích thích hứng thú trẻ lần sau đến lớp những hình ảnh chủ đích đập vào mắt trẻ để trẻ
muốn lên quan sát, sờ lên bức tranh, tự trò chuyện về cảnh vật trong tranh qua đó phát
huy được tính sáng tạo cũng như ngôn ngữ đồng thời giáo dục được tính thẩm mỹ cho
trẻ.
3. Đặc điểm tâm sinh lý
3.1. Hoạt động học tập của trẻ mẫu giáo lớn
Trẻ mẫu giáo lớn học tập vẫn là “học mà chơi, chơi mà học”. Học theo nghĩa là
chơi nhưng vẫn theo một trình tự hành động gần giống như học. Nội dung học vừa nhẹ
nhàng, vừa hấp dẫn trẻ tạo cho trẻ một tâm lý thoải mái, không bị gò bó, khó chịu. Các
trình tự học tập diễn ra giống với tiết học nhưng không nghiêm ngặt, căng thẳng như
tiết học. Nhưng tiết học vẫn đủ các bước lên lớp như: tổ chức lớp, tiến hành tiết dạy
(vào bài, nêu câu hỏi đặt vấn đề, giảng giải khái niệm), kết thúc tiết dạy bằng cách cho
trẻ nhắc lại những khái niệm đã được học.
Những chức năng tâm lý trong tiết học giống như tiết học ở lớp một, học sinh
phải chú ý nghe giáo viên hướng dẫn bài, nghe giáo viên giảng giải, phải sử dụng các
hình thức nhớ, các thao tác tư duy diễn ra theo yêu cầu của tiết học.
Quan hệ bạn bè trong khi “học mà chơi” cũng được thiết lập gần như quan hệ bạn
bè ở lớp một, quan hệ giữa giáo viên và trẻ cũng tương tự như giáo viên và học sinh ở
lớp một giáo viên có thể đứng giảng bài nhưng cũng có thể ngồi cùng trẻ để giải thích,
phân tích cho trẻ hiểu.
7
Trẻ tập làm quen với các tiết học để lĩnh hội những tri thức đơn giản, gần gũi đối
với trẻ, nhưng là tiền đề để trẻ vào lớp 1. Trẻ dần dần nhận thức được nhiệm vụ học
tập, bổn phận, trách nhiệm của học sinh phải làm gì cho giáo viên vui lòng, bạn bè yêu
mến.
3.2. Sự phát triển chú ý và ghi nhớ của trẻ mẫu giáo
Bồi dưỡng sự tập trung chú ý và làm tăng trí nhớ cho trẻ vào tập trung chú ý và
ghi nhớ là một trong những điều kiện tiên quyết cho sự thành công của trẻ sau này. Vì
thế cần có những phương pháp thích hợp để bồi dưỡng sự tập trung chú ý và làm tăng
trí nhớ cho trẻ ngay từ khi còn nhỏ.
Chú ý của trẻ vẫn là chú ý không chủ định, cuối tuổi mẫu giáo chú ý có chủ định
của trẻ tiến bộ hẳn, bên cạnh đó trí nhớ có một bước biến đổi về chất, trí nhớ có chủ
định xuất hiện và phát triển mạnh.
Trẻ có khả năng chú ý có chủ định từ 37- 51 phút, đối tượng chú ý hấp dẫn, nhiều
thay đổi, kích thích được sự tò mò, ham hiểu biết của trẻ.
Trẻ có thể phân phối được chú ý vào 2- 3 đối tượng cùng một lúc, tuy nhiên thời
gian phân phối chú ý chưa bền vững, dễ dao động.
Di chuyển chú ý của trẻ nhanh, nếu sự hướng dẫn di chuyển tốt. Sự phân tán chú
ý ở trẻ còn mạnh, nhều khi trẻ không tự chủ được do năng lực bản năng chi phối. Do
vậy cần thay đổi đồ chơi, trò chơi hấp dẫn hơn.
Ở giai đoạn này ý nghĩa của âm thanh làm cho trẻ đã chú ý nhiều. Từ âm thanh
bên ngoài trẻ biết chú ý tập trung vào sự suy nghĩ, cảm xúc bên trong óc trẻ. Cần luyện
tập các phẩm chất chú ý cho trẻ qua các trò chơi và các tiết học.
3.3. Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo lớn
Dạy học ngôn ngữ tập trung vào việc tạo dựng khả năng giao tiếp trong các tình
huống khác nhau và với các mục đích khác nhau. Trẻ phải được đặt trong những tình
huống giao tiếp cụ thể và sử dụng ngôn ngữ phù hợp với tình huống đó.
Phát triển ngôn ngữ là phát triển ở trẻ cả 4 kỹ năng ( nghe, nói đọc, viết). Ở
trường Mầm non đặc biệt chú ý đến kỹ năng nghe hiểu và nói, đồng thời cho trẻ làm
quen với tranh ảnh, sách (mở sách, xem tranh). Đối với trẻ mẫu giáo không dạy trẻ các
kỹ năng đọc và viết thật sự, mà dạy trẻ những kỹ năng cơ bản như: xem tranh, mô tả
tranh, kể chuyện theo tranh, biết cách ngồi đúng, biết cách cầm bút tô, đồ.
Khả năng ngôn ngữ của trẻ liên quan chặt chẽ với sự phát triển trí tuệ và trải
nghiệm của trẻ, vốn từ của trẻ phong phú, hiểu được một số từ khái quát, …Tuy nhiên
khả năng ngôn ngữ của từng cá nhân trẻ ở độ tuổi này vẫn còn có sự khác biệt lớn về
mức độ phong phú của từ, về cách diễn đạt mạch lạc, nói đúng ngữ pháp và thể hiện
lời nói đúng với hoàn cảnh giao tiếp, vì vậy giáo viên cần cung cấp vốn từ và tích cực
hóa vốn từ cho trẻ.
8
3.4. Sự phát triển nhận thức của trẻ mẫu giáo lớn
Tất cả các kỹ năng xã hội đều là những hành vi được học. Trẻ mẫu giáo sẽ học
các kỹ năng xã hội thông qua quan sát cha mẹ và những người xung quanh giao tiếp.
Trẻ ở độ tuổi này có vốn từ vựng tăng lên mỗi ngày, vì vậy việc nói chuyện với cha
mẹ và bạn bè là rất quan trọng. Trẻ trong độ tuổi này thường có những phát triển vượt
bậc về mọi mặt, những kỹ năng trẻ học được trong thời điểm này sẽ đi theo trẻ suốt
đời.
Phát triển các kiến thức và kỹ năng cơ bản liên quan đến thế giới xung quanh để
giúp trẻ hòa nhập và từng bước có những hoạt động độc lập trong môi trường gần gũi.
Ví dụ như phát triển các kiến thức và kỹ năng cơ bản về tự nhiên ( nước, động thực
vật…), phát triển các kiến thức và kỹ năng cơ bản về xã hội (mối quan hệ của trẻ với
những người gần gũi, phương tiện giao thông, các nghề cơ bản…), phát triển các kiến
thức và kỹ năng cơ bản về thẩm mỹ (âm nhạc, tạo hình). Người lớn cần hiểu được
vùng phát triển gần nhất của trẻ mẫu giáo lớn là gì, đặc biệt là trong lĩnh vực nhận
thức, để có thể đưa ra các biện pháp giáo dục có hiệu quả, chuẩn bị tốt cho trẻ bước
vào lớp 1.
3.5. Sự phát triển hoạt động cảm nhận của trẻ mẫu giáo lớn
Tri giác của trẻ bắt đầu chuyển từ ngoài vào trong, khi tiếp xúc với sự vật hiện
tượng mới nhưng đã biết kiềm chế lại sự tò mò của mình.
Ví dụ như khi nhìn thấy ổ điện thì không thò tay vào vì biết rất nguy hiểm, sau đó
biết khảo sát, mô tả chi tiết đối tượng. Khi tiếp xúc với đồ vật, trẻ cầm lên tay, nhìn
ngắm, sờ mó và chú ý đến đặc điểm nổi bật của đồ vật đó.
Trẻ đã biết tri giác không gian rõ ràng, nhận ra các hướng phức tạp như góc bên
phải, góc dưới bên trái, biết định hướng không gian mà không cần dựa vào vị trí của
bản thân.
Trẻ tri giác thời gian khá hoàn chỉnh, có thể nhận ra các buổi trong ngày cũng
như các ngày trong tuần.
3.6. Sự phát triển tưởng tượng của trẻ mẫu giáo lớn
Một trí tưởng tượng phong phú giúp trẻ thông minh hơn để thỏa sức sáng tạo.
Tưởng tượng được hình thành thông qua những hình dung về sự vật, sự việc, con
người… Tất cả những chất liệu này được gom góp từ những năm đầu đời của trẻ về
vạn vật xung quanh. Bằng mọi hoạt động thường nhật, các hình ảnh được ghi nhận, lặp
lại và trở thành biểu tượng được lưu trữ trong trí não của trẻ. Một lúc nào đó trẻ sẽ vận
dụng những biểu tượng này để xâu chuỗi thành một sự kiện của trí tưởng tượng. và đó
là cách để hình thành nên một đứa trẻ có trí tưởng tượng phong phú.
So với người lớn, trẻ nhỏ giàu trí tưởng tượng hơn. Khi chúng ta đọc cho trẻ nghe
một câu chuyện nào đó phù hợp với lứa tuổi, khơi gợi sự tò mò, kích thích sự khám
9
phá, mang tính phiêu lưu, huyền bí hoặc cổ tích… trẻ sẽ hết sức lắng nghe và bắt đầu
tưởng tượng trong đầu mình về những nhân vật và vùng đất mà câu chuyện đề cập
đến.
3.7. Sự phát triển xúc cảm, tình cảm và ý chí của trẻ mẫu giáo lớn
Các loại tình cảm bậc cao của trẻ phát triển ngày càng rõ nét hơn. Tình cảm đạo
đức ngày càng được phát triển do lĩnh hội được các chuẩn mực hành vi, quy tắc ứng
xử. Trẻ bối rối, cảm thấy có lỗi khi hành vi phạm sai lầm. Trẻ biết đòi người lớn đánh
giá đúng mức hành vi đúng, sai, tốt, xấu của mình.
Tình cảm trí tuệ cũng phát triển theo hướng tìm hiểu các nguyên nhân, cội nguồn
các hiện tượng tự nhiên và xã hội, cuộc sống xung quanh trẻ.
Tình cảm thẩm mỹ tổng hợp nhiều xúc cảm cùng loại khi rung cảm trước vẻ đẹp
của thiên nhiên, con người, cỏ cây, hoa lá… tình cảm thẩm mỹ xuất hiện ở trẻ.
Nhìn chung xúc cảm và tình cảm của trẻ phong phú nhưng có những đặc điểm
sau đây:
Dễ dao động, dễ thay đổi, dễ khóc, dễ cười.
Xúc cảm chi phối mạnh vào các hoạt động tâm lý, vì vậy hiện thực đối với trẻ
bao giờ cũng mang màu sắc cảm xúc mạnh mẽ, thích cái gì thì đòi bằng được cái đó,
không thích thì vứt đi…
Ý chí:
Tính mục đích phát triển từ tuổi lên hai khi trẻ đã làm chủ được một số hành vi
của mình. Từng bước một, trẻ 6 tuổi có thể điều khiển được quá trình ghi nhớ và nhớ
lại một tài liệu nào đó do người lớn giao cho, ghi nhớ một bài thơ ngắn trẻ thích.
Do hiểu được nhiều hành vi ngôn ngữ và biết sử dụng những hành vi ngôn ngữ,
trẻ có thể bước đầu vận dụng để lập kế hoạch hành động và chỉ đạo hành động, trẻ
thường nói to khi hành động.
Việc phát triển, bộc lộ ý chí của trẻ mẫu giáo lớn phụ thuộc vào các nhiệm vụ mà
người lớn giao cho trẻ (nhiệm vụ phải vừa sức với trẻ).
Để giáo dục ý chí cho trẻ cần phải giáo dục động cơ cho trẻ. Thường ở lứa tuổi
này mục đích và động cơ trùng nhau chưa tách ra được.
4. Hoạt động vẽ theo ý thích
4.1. Khái niệm hoạt động vẽ theo ý thích
Vẽ theo ý thích là vẽ những gì mà trẻ thích, không theo một đề tài cho trước. Trẻ
được quyền lựa chọn nội dung đề tài mà mình thích. Vẽ theo ý thích nhằm rèn luyện
trí nhớ, trí tưởng tượng sáng tạo.
Vẽ theo ý thích một hoạt động tạo hình được nhiều trẻ yêu thích, trẻ có điều kiện
thể hiện những ấn tượng của mình về thế giới xung quanh ở mọi lúc, mọi nơi mà
không phải chờ đến khi có điều kiện mới thực hiện được. Cụ thể như khi đang chơi ở
10
sân trẻ muốn thể hiện một ấn tượng nào, trẻ chỉ việc dùng viên phấn, cục gạch, cái que
để vẽ là trẻ có thể thực hiện được ý thích của mình.
Theo từ điển tiếng Việt thì: “ Vẽ là dùng bút mà tả hình dạng các vật cho được
như thực bằng đường nét hoặc màu sắc”. [47, 1807]
Theo từ điển mở Wiktionary: “ Vẽ là tạo hoặc gợi ra hình ảnh sự vật trên mặt
phẳng bằng các đường nét, màu sắc”.
Theo tác giả Nguyễn Quốc Toản: “ Hoạt động vẽ là hoạt động tạo ra sản phẩm
trên mặt phẳng bằng nhiều chất liệu khác nhau”. [36, 127] Đối với trẻ mẫu giáo, ở
hoạt động này trẻ phải quan sát đối tượng, nhận xét thông qua ước lượng bằng mắt về
hình dáng, tỉ lệ… và diễn tả lại trên nền giấy bằng cảm nhận riêng của mình.
Khi bàn về hoạt động vẽ của Mầm non tác giả Nguyễn Ánh Tuyết đã cho rằng:
“Vẽ là hoạt động mà ở đó tập những cảm nhận mà trẻ có về cơ thể mình và về thế giới
xung quanh được phỏng chiếu vào đường nét, hình dạng do nó tạo ra”.
Khi nghiên cứu về hoạt động tạo hình tác giả Lê Thanh Thủy cho rằng: “Hoạt
động vẽ là dùng đường nét, hình mảng, màu sắc tạo bố cục thể hiện trên mặt phẳng
hai chiều”.
Tóm lại, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những quan điểm khác nhau về hoạt động
vẽ nhưng nhìn chung đều có những điểm giống nhau đó là hoạt động tạo ra sản phẩm
trên mặt phẳng bằng đường nét và màu sắc. Đây cũng là nội dung mà tôi chọn lọc để
nghiên cứu hoạt động vẽ theo ý thích.
4.2. Đặc điểm hoạt động vẽ theo ý thích của trẻ mẫu giáo lớn
Sản phẩm sáng tạo của trẻ MG không nhằm mục đích tạo nên những sản phẩm
nhằm phục vụ xã hội, cải tạo xã hội mà nhằm biến đổi và phát triển chính bản thân của
trẻ.
- Tính duy kỉ
- Dễ dàng lựa chọn đối tượng miêu tả
- Thể hiện thái độ của mình một cách rõ ràng bằng cách tô màu
- Các ý định miêu tả thường nảy sinh một cách tình cờ
- Khi vẽ xong các chi tiết hầu như trẻ không quay trở lại quan tâm tới chúng nữa
và không biết sửa sang, tô vẽ lại
- Hoạt động vẽ theo ý thích là một trong những hoạt động làm cho trẻ thấy thích,
lý thú và say mê.
4.3. Một số đặc điểm trong tranh vẽ của trẻ
Hoạt động vẽ có sức hấp dẫn đặc biệt đối với trẻ mẫu giáo. Thông qua tranh vẽ,
trẻ mô tả những hiểu biết của mình về thế giới xung quanh. Vì thế tranh vẽ của trẻ đã
lôi cuốn được sự nghiên cứu của rất nhiều nhà khoa học như N.P.Xaculina,
T.X.Comarôva , G.G.Grigorieva, đưa ra những đặc điểm nổi bật trong tranh vẽ của trẻ
mẫu giáo như sau:
11
- Tính duy kỷ: Trong quá trình vẽ trẻ quan tâm đến “ việc vẽ cái gì”, chứ không
phải vẽ như thế nào? Tính duy kỷ làm cho trẻ tiến đến hoạt động vẽ một cách dễ dàng.
Trẻ sẵn sàng vẽ bất cứ cái gì mà không cảm thấy sợ hãi hay khó khăn. Đối tượng trẻ
vẽ thường là cái gì mà trẻ thích, trẻ muốn chứ không phải là cái dễ vẽ. Mối quan tâm
của trẻ trong hoạt động này là trẻ cố gắng truyền đạt giúp người xem hiểu được những
suy nghĩ, thái độ, tình cảm mà trẻ miêu tả chứ không phải là sự đánh giá về thẩm mỹ,
do đó trẻ mẫu giáo đặc biệt là trẻ mẫu giáo bé và mẫu giáo nhỡ thương hài lòng với
các hình vẽ sơ đồ đơn giản. Sự hạn chế và khả năng biểu cảm bằng ngôn ngữ tạo hình
thường được trẻ bù đắp tích cực bằng lời nói, cử chỉ, điệu bộ. Trẻ càng biết nhiều về
thế giới xung quanh, nội dung vẽ của trẻ càng phong phú, đa dạng và sinh động. Tuy
nhiên càng về cuối tuổi mẫu giáo, ở trẻ có sự thay đổi, trẻ dần có sự thận trọng hơn bởi
chúng ý thức được khả năng của mình.
- Tính không chủ định:
Trong hoạt động vẽ chưa có khả năng suy tính sắp xếp công việc một cách chi
tiết, các ý định miêu tả thường nảy sinh một cách tình cờ. Đôi khi để thực hiện ý định
miêu tả trẻ cũng hình dung ra kế hoạch chung song các kế hoạch này thường nhanh
chóng bị thay đổi bởi các yếu tố ngẫu nhiên trong quá trình quan sát, trí nhớ, xúc cảm
hay tưởng tượng. Chú ý vào việc nội dung thể hiện các “ý tưởng”, trẻ thường miêu tả
rất say sưa. Nhưng mỗi khi vẽ xong các chi tiết, trẻ hầu như không quan tâm đến
chúng nữa, không quay trở lại sửa sang hay tô vẽ lại.
Tranh vẽ của trẻ giống như một câu chuyện đồ họa. “Câu chuyện” ấy thường bắt
đầu từ một chi tiết bất kì nào đó, sau đó thêm thắt dần các chi tiết mới. Đôi khi trẻ liên
kết vào một bức tranh vài hành động, vài sự việc xảy ra cùng với một nhân vật (nhân
vật đó được vẽ nhiều lần, ở nhiều vị trí khác nhau trong bức tranh).
- Tính chân thật, hồn nhiên:
Tính chân thật, hồn nhiên, đầy cảm xúc trong tranh vẽ của trẻ được thể hiện rõ
nét qua hình thức và cách thức mô tả, đôi khi trong tranh vẽ tồn tại những cái phi lý
đối với người lớn nhưng rất hợp lý trong cái nhìn của trẻ. Phân tích những tranh vẽ của
trẻ em đuợc hình thành bằng con đường tự phát, người ta thấy trẻ thể hiện trong đó
phần nhiều cái trẻ biết, trẻ cảm nhận, trẻ nghĩ chứ không hẳn là cái trẻ nhìn thấy. Bên
cạnh đó, cùng với việc vẽ ra những hình ảnh nhìn thấy, trẻ còn vẽ ra những cái nó biết
được khi hành động với đối tượng . Mặt khác, khi vẽ dù trẻ đã cố gắng vẽ cẩn thận
nhưng vẫn mang đến cho chúng ta cảm nhận được sự vụng về thật dễ thương qua nét
vẽ của trẻ. Bởi vậy tranh vẽ của trẻ có vẻ ngây thơ hồn nhiên đối với người lớn.
Đối với trẻ mẫu giáo bé, tranh vẽ chỉ là sự lặp lại hiện thực. Trẻ thường cho rằng
những gì vẽ trong tranh đều giống như thật, đều là hiện thực chứ không phải là sự thể
hiện hiện thực. Dần dần trẻ mới hiểu được rằng chỉ có một số thuộc tính của sự vật
12
mới thể hiện trên tranh và không thể hiện hành động với các vật vẽ trong tranh như với
vật thật được.
- Tính xúc cảm:
Tất cả các sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh, những gì gần gũi, quen
thuộc gây cho trẻ xúc cảm đều là những đề tài được trẻ thể hiện trong tranh vẽ của
mình. Vì thế tranh vẽ của trẻ vừa gần với hiện thực vừa mang tính chủ quan cảm xúc
rõ nét.
Trẻ thể hiện cảm xúc yêu ghét của mình đối với các hình ảnh trong tranh vẽ qua
việc tô màu. Thông thường khi trẻ vẽ những đối tượng mà trẻ yêu thích, trẻ thường
dùng màu sắc sặc sỡ và vẽ cẩn thận, còn khi trẻ vẽ các đối tượng mà trẻ ghét, khó chịu
và sợ hãi thì trẻ dùng màu tối và vẽ không cẩn thận vì trẻ nghĩ những nhân vật đó
không xứng đáng được vẽ cẩn thận. Ngoài ra bố cục và độ lớn của hình ảnh trong
tranh thể hiện thái độ của trẻ, các đối tượng quan trọng đối với trẻ thường được vẽ to
hơn các đối tượng khác.
Phần lớn sự tri giác của trẻ về đối tượng xung quanh thật đơn giản và tươi vui,
điều này được thể hiện qua những hình ảnh được mô tả rất rực rỡ. Mặc dù các hình
ảnh trong tranh vẽ của trẻ còn khá sơ lược dưới con mắt của trẻ rất sống động và “như
thật”.
4.5. Ý nghĩa của hoạt động tạo hình nói chung và hoạt động vẽ nói riêng đối
với sự phát triển toàn diện của trẻ
Hoạt động tạo hình là một hoạt động sáng tạo nghệ thuật trong đó con người
không chỉ nhận thức cái đẹp của thế giới xung quanh mà còn cải tạo nó theo quy luật
của cái đẹp.
Hoạt động tạo hình là một trong những hoạt động thú vị nhất đối với trẻ lứa tuổi
Mầm non. Nó giúp trẻ tìm hiểu, khám phá và thể hiện một cách sinh động những gì
chúng nhìn thấy trong thế giới xung quanh, những gì làm trẻ rung động và gây cho trẻ
những xúc cảm, tình cảm đích thực.
Hoạt động tạo hình là một phương tiện quan trọng giúp trẻ phát triển toàn diện.
Các giờ vẽ, nặn… có ảnh hưởng đến việc giáo dục trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ, thể lực
và hình thành các phẩm chất, kỹ năng lao động giản đơn đối với trẻ mẫu giáo.
- Ý nghĩa của hoạt động tạo hình đối với giáo dục trí tuệ, ngôn ngữ:
Trong quá trình hoạt động tạo hình trẻ có nhiều cơ hội để tìm hiểu, khám phá các
sự vật, hiện tượng, biết quan sát, phân tích, so sánh, đánh giá vật này với vật khác.
Ngoài ra, trẻ còn tìm hiểu bản chất của các vật liệu tạo hình và sự liên quan giữa kết
quả thu được và vật liệu tạo hình.
Hoạt động tạo hình là môi trường thuận lợi hình thành ở trẻ các phẩm chất trí tuệ
như tính tự giác, tính ham hiểu biết, tính tích cực nhận thức và óc sáng tạo.
13
Hoạt động tạo hình còn giúp trẻ phát triển ngôn ngữ. Trong quá trình nhận biết
các đối tượng, so sánh và nhận xét sản phẩm tạo hình sẽ giúp trẻ phát triển vốn từ, lời
nói, hình tượng - truyền cảm và ngôn ngữ mạch lạc hơn.
- Ý nghĩa của hoạt động tạo hình đối với giáo dục đạo đức:
Thông qua các giờ tạo hình các đức tính tốt được hình thành như tính tích cực
chủ động thực hiện nhiệm vụ được giao, kiên nhẫn từ đầu đến cuối, biết lắng nghe ý
kiến của cô và các bạn.
Ngoài những biểu tượng, kinh nghiệm mà trẻ thu nhận được từ thế giới xung
quanh qua hoạt động tạo hình, trẻ còn biểu lộ những tình cảm, xúc cảm thái độ đối với
những gì mà trẻ thể hiện. Tham gia vào hoạt động tạo hình trẻ có điều kiện tiếp thu
chuẩn mực thẩm mỹ- đạo đức trong xã hội. Trải nghiệm các xúc cảm tình cảm, học hỏi
các kỹ năng xã hội qua các hành vi văn hóa xã hội qua các hình tượng, các sự kiện
được miêu tả.
Hoạt động tạo hình của trẻ có nguồn gốc xã hội và thể hiện sự định hướng xã hội
cho sự phát triển nhân cách của trẻ em. Hoạt động tạo hình là một phương tiện giao
tiếp, trẻ luôn mong muốn được người khác tiếp nhận và cảm nhận, hiểu được những
điều mà trẻ muốn gửi gắm trong sản phẩm. Đồng thời trẻ luôn chờ đợi ở người khác sự
động viên, khuyến khích, khen ngợi và rất thích thú nhận được sự đồng cảm từ người
khác. Hoạt động tạo hình còn giúp trẻ phản ánh những sự vật, hiện tượng có trong
thiên nhiên, những gì làm trẻ rung động, suy nghĩ và có tình cảm yêu ghét đối với
chúng. Khi tham gia vào hoạt động tạo hình trẻ còn trải nghiệm những xúc cảm- tình
cảm khi có mong muốn sẽ tạo ra sản phẩm thật đẹp cho người khác. Chính những điều
đó là điều kiện hình thành ở trẻ ý thức cộng đồng, luôn quan tâm, nghĩ đến người khác
trong giao tiếp xã hội.
- Ý nghĩa của hoạt động tạo hình đối với việc giáo dục thẩm mỹ:
Hoạt động tạo hình tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển cảm giác,
tri giác thẩm mỹ. Ở trường Mầm non hoạt động tạo hình chiếm khá nhiều thời lượng
và được thực hiện thông qua các loại hình như vẽ, xé dán, nặn, chắp ghép.
Giáo viên tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc, nhận ra các đặc điểm thẩm mỹ độc đáo,
hấp dẫn của các đối tượng. Khi quan sát các sự vật, hiện tượng của cuộc sống xung
quanh, trẻ em thường hồi hộp xúc động. Sự tri giác một màu sắc rực rỡ hay một phong
cách tuyệt diệu làm trẻ xúc động, vui mừng.
4.6. Vai trò của hoạt động vẽ đối với việc phát triển giáo dục và phát triển toàn
diện cho trẻ
Từ ngay những năm đầu tiên của cuộc sống, trẻ đã bị lôi cuốn một cách vô thức
vào tất cả những gì trong sáng và hấp dẫn, chúng thích thú với những đồ chơi và màu
14
sắc rực rỡ, những âm thanh và nhịp điệu rộn rã vui tươi. Tất cả những cái đó gây cho
trẻ cảm giác vui sướng.
Từ “đẹp” sớm đi vào cuộc sống của trẻ, tình yêu, cái đẹp trong thiên nhiên, trong
cuộc sống và trong nghệ thuật, thực chất đó là hình được khêu gợi bởi những xúc cảm
về cái đẹp. Quá trình tri giác cho hoạt động vẽ tạo điều kiện cho trẻ trực tiếp tiếp xúc
với cái đẹp, nghĩa là trẻ phải tập trung quan sát, tập nhận biết, cảm nhận các đặc điểm
thẩm mỹ của đối tượng (hình dáng, màu sắc, kích thước, cấu trúc, tỷ lệ, vị trí, không
gian…)
Trong quá trình này trẻ nắm bắt đầy đủ, chính xác các đặc điểm, các vẻ bên ngoài
của đối tượng và xuất hiện cảm xúc về cái đẹp trong hình dáng, màu sắc, nhịp điệu…
Đó chính là cảm xúc thẩm mỹ.
Từ những cảm xúc này dần dần hình thành ở trẻ tình cảm thẩm mỹ, quá trình thể
hiện cảm xúc thẩm mỹ của trẻ ngày càng trở nên sâu sắc và trí tưởng tượng mang tính
nghệ thuật của trẻ ngày càng trở nên phong phú hơn.
Do đặc điểm phát triển tâm lý của trẻ mẫu giáo mà ở lứa tuổi này được coi là thời
kỳ “hoàng kim” của giáo dục thẩm mỹ. Vì vậy vai trò của hoạt động tạo hình đối với
việc giáo dục thẩm mỹ cho trẻ Mầm non là vô cùng quan trọng. Xúc cảm qua hoạt
động vẽ sẽ trở thành những tài sản riêng của những tài năng cho tương lai.
Bước sang tuổi thứ 6 trẻ cần được cung cấp biểu tượng và tạo hứng thú cho trẻ.
Mở rộng hiểu biết về những vẻ đẹp của các sự vật, hiện tượng xung quanh qua màu
sắc, hình dáng, đường nét, bố cục, tỉ lệ, không gian… Nhằm tạo cho trẻ có nhiều biểu
tượng đa dạng, phong phú về thế giới xung quanh.
Hoạt động tạo hình càng được tổ chức phong phú bao nhiêu đứa trẻ sẽ có cơ hội
giao lưu, tiếp xúc với thế giới xung quanh bấy nhiêu. Nhờ đó trẻ sẽ tích lũy thêm cho
mình vốn hiểu biết phong phú hơn, củng cố những hiểu biết về thế giới xung quanh.
Tất cả những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo mà trẻ lĩnh hội được trẻ vận dụng trên sản
phẩm của mình theo trí tưởng tượng sáng tạo.
4.7. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển hoạt động vẽ của trẻ em
Sự hình thành và phát triển thể chất, trí tuệ ở trẻ em có những cái chung mang
tính quy luật. Sự phát triển mọi mặt ở trẻ em rất hài hòa, do vậy sự hình thành, phát
triển ngôn ngữ tạo hình của trẻ em cũng có những nét chung cho tất cả biểu hiện ở:
- Hoạt động vẽ của trẻ em rất sớm, rất tự nhiên
Thấy trẻ em cầm cái que, viên phấn, bút chì vạch ngang dọc, vòng vèo trên nền
nhà, mặt bàn, trên giấy,… ta nói trẻ đang vẽ? Nói vậy e rằng hơi sớm, vẽ là “từ” của
người lớn, còn trẻ cầm chì ngược cũng không hay sao gọi là vẽ được. Đó là sự luôn tay
của cảm nhận về đường nét và màu sắc.
15
Khi trẻ cầm phấn, que vạch lung tung, nhưng rất may là hoạt động đó tạo ra nét
rõ ràng, loằng ngoằng, có thể là màu trắng, đỏ,… làm cho trẻ thấy lạ, thấy thích vì có
kết quả. Càng thích thú trẻ càng hoạt động tích cực! Cho nên ta thấy trẻ chăm chú miệt
mài kéo ngang, kéo dọc, liên hồi chẳng ra hình thù gì. Như vậy, hoạt động vẽ là một
trong những hoạt động làm cho trẻ vui thích là hoạt động tự thân, có bản năng hay do
nhu cầu cho sự phát triển.
- Trẻ em rất thích vẽ
Khi nào thì trẻ thích vẽ? Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã cho thấy loài
người vẽ và khắc rất sớm, trước khi có tiếng nói, có chữ viết. Vì vẽ, khắc là hoạt động
và là nhu cầu sống còn, là phương tiện không thể thiếu được để con người “nói” với
nhau “bảo” nhau, “chỉ” cho nhau những gì cần thiết trong cuộc sống.
Chữ của người xưa cũng bắt đầu từ hình vẽ, đấy là chữ tượng hình. Vẽ là một
hoạt động không thể thiếu được trong sinh hoạt của trẻ. Rồi trẻ lớn dần, thấy ở xung
quanh cái gì cũng lạ, cũng hấp dẫn muốn nói mà chưa đủ từ (bập bẹ, bí ba bí bô là vì
thế), và vẽ là cái mà trẻ “làm” được trẻ vẽ để nói thay lời. Lúc này trẻ không vẽ như
lúc ban đầu, đơn giản chỉ là hoạt động tự thân nữa, mà vẽ ở đây là có sự kết hợp giữa
tác động bên ngoài với nội tại.
Nhận thức của trẻ ngày càng phong phú về thế giới xung quanh, đối với trẻ vẽ
không chỉ là hoạt động thích thú, mà còn là phương tiện để diễn đạt (thay lời nói), là
phương tiện để biểu lộ nhận thức của mình về thế giới xung quanh. Hình vẽ của trẻ
ngày phức tạp, nhiều chi tiết, càng gần với những gì chúng thấy ở xung quanh, chứng
tỏ trẻ em nhận thức ngày càng phong phú hơn. Hình vẽ đã đem lại cho trẻ niềm vui, và
từ đó trẻ thích vẽ hơn. Trẻ rất tự tin vào hình vẽ của mình: “cháu vẽ đấy”, “cháu vẽ
con mèo”, “cháu vẽ có đẹp không nào”,…Đó là những câu nói của trẻ sau khi hoàn
thành “tác phẩm”. Ở những câu nói ngây thơ ấy, ta thấy chứa đựng niềm tin, niềm tự
hào và niềm vui của trẻ.
4.8. Đặc điểm ngôn ngữ tạo hình trong tranh vẽ của trẻ
- Đường nét:
Đường nét, hình dạng là những dấu hiệu đầu tiên của hình vẽ giúp trẻ nhận ra và
hiểu được mối liên hệ giữa sự vật thật và hình ảnh biểu đạt sự vật đó.
Lúc đầu do khả năng thao tác để tạo ra những đường nét còn hạn chế nên hình vẽ
của trẻ còn mang tính sơ đồ, lắp ráp từ hình học. Do sự phát triển nhanh về cơ bắp, thể
lực và khéo léo của vận động, trẻ MGL đã có khả năng tạo nên các đường nét với tính
chất khác nhau khá phức tạp. Với trình độ phát triển của năng lực nhận thức thẩm mỹ
và kỹ năng vận động trẻ ở lứa tuổi này có thể cảm nhận được tính nguyên thể của các
hình ảnh đối tượng miêu tả và biết dùng đường nét liền mạch, mềm mại, uyển chuyển
để truyền đạt hình dáng trọn vẹn của mọi sự vật trong cấu trúc hợp lý, đồng thời thể
16
hiện tư thế vận động, hành động phù hợp với nội dung sáng tạo. Đặc biệt trẻ 5- 6 tuổi
đã có vốn kinh nghiệm phong phú cho nên các biểu tượng hình thành khá đầy đủ về
hình dáng, cấu trúc và đặc điểm riêng biệt, khá linh hoạt trong việc biến đổi, phù hợp
tính chất của đường và hình thể để thể hiện sự độc đáo rất riêng của mỗi hình tượng sự
vật cụ thể. Hình tượng của trẻ đến gần với hiện thực, mất dần tính chủ quan.
- Màu sắc:
Trong tranh vẽ của trẻ em hình vẽ là dấu hiệu hàng đầu để tạo nên hình ảnh sự
vật nhưng màu sắc mới là yếu tố mang lại thẩm mỹ cho hình ảnh và gây tác động thẩm
mỹ đến trẻ cũng như người xem tranh. Màu sắc chính là phương tiện thể hiện sự sáng
tạo của trẻ trong HĐTH.
Trẻ mẫu giáo bé thường sử dụng màu sắc theo ý thích và theo cảm xúc, trẻ có khả
năng phân biệt và sử dụng được nhiều màu. Những màu có chung một góc thường
được trẻ quy lại thành một màu đại diện. Sang độ tuổi MGL trẻ sử dụng đồng thời hai
cách vẽ màu: “màu bắt chước” và “màu không bắt chước”. Trẻ có thể thuộc lòng các
màu quy định theo bảng chuẩn màu như đất thì màu nâu, bầu trời thì màu xanh dương,
cỏ thì màu xanh lá..., trẻ có thể sử dụng màu tự do nhưng tình trạng vẽ màu kiểu tự do,
ngẫu nhiên không liên hệ với nội dung ý đồ miêu tả vẫn còn phổ biến. Tuy nhiên một
số trẻ đã có vốn hiểu biết phong phú về màu sắc, đã có khả năng độc lập quan sát để
thấy được vẻ linh hoạt trong sự thay đổi màu sắc của các sự vật hiện tượng trong hiện
thực và làm quen quá trình tri giác với một số cách phối hợp màu sắc. Tính tích cực
quan sát, nhận thức chính là điều kiện giúp trẻ biết sử dụng màu sắc một cách sinh
động để thể hiện một cách sáng tạo nội dung tranh vẽ, qua đó mà biểu lộ suy nghĩ, tình
cảm và ước mơ của mình. Vì thế giáo viên cần kích thích hứng thú về vẻ đẹp của sự
vật hiện tượng thông qua màu sắc, điều đó sẽ làm cho màu sắc và sự phối hợp màu
trong bài vẽ của trẻ sẽ rất truyền cảm.
- Bố cục:
Ngoài đường nét, hình dạng, màu sắc, trẻ mẫu giáo còn sử dụng một phương tiện
truyền cảm khác là sự sắp xếp các vị trí hình ảnh trong không gian tranh vẽ hay còn
gọi là xây dựng bố cục. Bố cục là một phương thức tổ chức nghệ thuật của một tác
phẩm nghệ thuật.
Ngoài khả năng tạo nhịp điệu trẻ MGL đã biết tạo nên bố cục tranh với thế cân
bằng qua cách sắp xếp đối xứng. Để tạo mối liên hệ chặt chẽ giữa nội dung với hình
thức của tranh, nhiều trẻ biết dùng cách sắp xếp thể hiện sự vận động, hành động và
các mối quan hệ giữa các sự vật, nhân vật để tạo ra một không gian có chiều sâu với
nhiều tầng cảnh. Tính nhịp điệu trong bố cục tranh vẽ của trẻ 5- 6 tuổi thể hiện ở nhiều
vẻ: bằng sự sắp xếp lặp đi lặp lại của các hình cùng loại, bằng sự phân biệt thể hiện
17
quan hệ chính- phụ… Tuy nhiên tranh vẽ thường mang tính liệt kê, trẻ trải đều các
hình vẽ trên mặt giấy, ít có trước, sau, xa, gần và ít tuân theo tỉ lệ trong thực tế.
Hiệu quả của việc sử dụng các phương tiện tạo hình trong tranh vẽ của trẻ phụ
thuộc rất nhiều vào khả năng tri giác hình tượng, sự lựa chọn góc độ nhìn và khả năng
cảm nhận vẻ đẹp, đa dạng của thế giới xung quanh đồng thời phụ thuộc vào khả năng
tưởng tượng sáng tạo biến đổi hình tượng mà mức độ phong phú sâu sắc của xúc cảm,
tình cảm thẩm mỹ của trẻ.
5. Các thể loại vẽ trong chương trình Giáo dục Mầm non
5.1. Vẽ theo mẫu
Vẽ theo mẫu hay còn gọi là vẽ hình họa. Vẽ theo mẫu giữ vị trí quan trọng trong
nghệ thuật tạo hình nói chung và hội họa nói riêng, nó là môn học cơ bản của hội họa.
Vẽ theo mẫu là miêu tả đối tượng một cách có khoa học, chính xác về đặc điểm
cấu trúc, hình dáng, màu sắc của đồ vật, con người bằng đường nét đậm nhạt, màu sắc
và cảm xúc của người vẽ trên mặt phẳng của giấy vẽ, tạo cho người xem một cảm giác
như thật. Để thực hiện được những yêu cầu cơ bản của vẽ theo mẫu cần nắm được
những khái niệm về các phương tiện diễn tả như: đường nét- hình- mảng- khối- bố
cục.
Các bài mẫu dành cho trẻ là các bài phối hợp các kỹ năng đã học ở lớp dưới. Ở
thể loại này giáo viên cần nắm vững yêu cầu của từng bài để chuẩn bị mẫu và giới
thiệu rõ ràng, hướng dẫn trẻ quan sát cụ thể. Tiết vẽ theo mẫu phải có mẫu, mẫu do
giáo viên vẽ hoặc dùng vật thật để trẻ quan sát từ đầu đến cuối tiết học, trẻ vẽ theo
mẫu và nhận xét theo mẫu.
5.2. Vẽ theo đề tài
Tranh vẽ theo đề tài là sự tổng hòa các yếu tố tạo hình, đó là sự phối hợp giữa
đường nét, hình mảng, đậm nhạt, màu sắc và cảm xúc của người vẽ. Nó không chỉ nh
ằm mục đích rèn luyện kĩ năng mà là một quá trình sáng tạo. Nội dung được bộc lộ
qua hình thức thể hiện. Tranh vẽ theo đề tài nhằm tái tạo hình ảnh, cảnh sinh hoạt hay
những vấn đề trong cuộc sống. Đối với mẫu giáo, các đề tài thường đơn giản, gần gũi
với đời sống, sinh hoạt của trẻ như ngôi nhà, đàn gà, giao thông…
Điều cần thiết cho vẽ theo đề tài là trẻ nêu càng nhiều sự vật, hiện tượng sống
động, phong phú về hình dạng, màu sắc, đường nét bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu.
Không nên bắt trẻ phải phản ánh lại những hình ảnh gợi ý đơn giản của tiết mẫu mà để
trẻ phản ánh vào trong bài vẽ tất cả những gì trẻ thu nhận được ở xung quanh.
5.3. Vẽ tự do
Tranh vẽ tự do là tranh vẽ theo ý thích không theo một đề tài cho trước. Người vẽ
được quyền lựa chọn nội dung đề tài mà mình thích. Vẽ tự do nhằm rèn luyện trí nhớ,
trí tưởng tượng, sáng tạo.
18
Giáo viên có thể cho trẻ suy nghĩ và nêu ý tưởng của mình ra trước lớp nhưng
trong quá trình thực hiện giáo viên cần đến với từng trẻ để tìm hiểu xem trẻ định vẽ gì,
vẽ như thế nào… Gợi mở cho trẻ sự sáng tạo cũng có thể hướng dẫn nội dung cụ thể
cho trẻ nào còn lung túng, chưa chọn được đề tài. Hoạt động của giáo viên với cá nhân
trẻ sẽ giúp cho mọi trẻ tự tin với hoạt động vẽ của mình.
Như vậy hoạt động vẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển toàn diện của trẻ. Vì vậy,
tổ chức hướng dẫn sao cho phù hợp, hấp dẫn để duy trì hứng thú cho trẻ, để trẻ vừa thể
hiện được cảm xúc thẩm mỹ của mình vừa phát triển khả năng sáng tạo và các năng
lực, kỹ năng cơ bản, vừa thưởng thức đánh giá được sản phẩm của mình và của bạn
còn phụ thuộc rất nhiều vào sự nhiệt tình, sáng tạo của giáo viên Mầm non.
19