Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo của học sinh lớp 11c1 trường THPT tĩnh gia 2 trong dạy học chương từ trường và cảm ứng điện từ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.87 MB, 43 trang )

MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài [3]
Như chúng ta đã biết, trong thời đại hiện nay việc giáo dục và đào tạo thế
hệ trẻ ở bậc THPT không những chỉ trang bị cho các em kiến thức lí thuyết trong
sách vở để phục vụ cho các kì thi, mà còn phải giáo dục các kĩ năng sống, kĩ
năng thực hành, học đi đôi với hành, các em học sinh phải biết vận dụng các
kiến thức lí thuyết học được trên lớp trong sách vở vào thực tiễn cuộc sống. Để
đạt được điều này, trong chương trình giáo dục hiện hành Bộ GD&ĐT đã đưa
vào các tiết học hoạt động ngoài giờ lên lớp, thực hành, ngoại khoá và cũng có
nhiều tác dụng hỗ trợ tích cực để các em học sinh được phát triển toàn diện cả
về kiến thức, kỹ năng, phẩm chất.
Tuy nhiên, các hoạt động trên (hoạt động ngoài giờ lên lớp) mà hiện nay
chúng ta đang tiến hành trong trường phổ thông chủ yếu được tổ chức dựa trên
các chủ đề đã được quy định trong chương trình với các hình thức còn chưa
phong phú và học sinh thường được chỉ định, phân công tham gia một cách bị
động. Giáo viên tổ chức hoạt động cho học sinh nhưng không rõ hoạt động đó sẽ
hướng tới hình thành những năng lực gì của các em. Điều đó không phù hợp với
một chương trình định hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh, cần
phải thay đổi. Vì vậy trong đề án xây dựng chương trình giáo dục phổ thông mới
của Bộ GD&ĐT sẽ được thực hiện từ năm 2020 có hai hoạt động giáo dục chính
là dạy học các môn và trải nghiệm sáng tạo. Trong Chương trình mới, các hoạt
động tập thể, hoạt động ngoài giờ dạy học trên lớp sẽ phong phú hơn cả về nội
dung, phương pháp và hình thức hoạt động, đặc biệt, mỗi hoạt động phải phù
hợp với mục tiêu phát triển những phẩm chất, năng lực nhất định của học sinh;
nghĩa là học sinh được học từ trải nghiệm.
Mặt khác, với đặc thù bộ môn Vật lý – một bộ môn khoa học thực nghiệm.
Đa số các định luật vật lý đều được thiết lập và kiểm tra bằng cách thu thập và
so sánh các số liệu thực nghiệm. Ngay cả những quy luật được xây dựng bằng
con đường lí thuyết thuần túy, cũng chỉ có nghĩa là một định luật vật lý thực sự
khi được thực nghiệm vật lý xác nhận. Vì vậy tiến hành thí nghiệm trong nghiên
cứu vật lý học là một việc quan trọng không thể thiếu được.


Sau thời gian tìm hiểu và nghiên cứu tác giả đã tìm ra cho mình một
hướng đi mới trong giảng dạy nhằm hướng tới chương trình giáo dục phổ thông
mới của Bộ GD&ĐT sẽ được thực hiện vào năm 2020. Vì vậy tác giả lựa chọn
đề tài nghiên cứu: “Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo của học sinh lớp
11C1 trường THPT Tĩnh gia 2 trong dạy học chương Từ trường và Cảm ứng
điện từ vật lý lớp 11 THPT”, với mục tiêu:
1


- Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo (HĐTNST) của học sinh lớp
11C1 với việc tự làm các mô hình, thí nghiệm trong chương “Từ trường và Cảm
ứng điện từ” sau khi các em đã được nghiên cứu lí thuyết trong sách giáo khoa.
Qua đó nhằm phát huy tính sáng tạo, kĩ năng thực hành thí nghiệm, kĩ năng làm
việc theo nhóm.
- Thông qua các sản phẩm mà các em trực tiếp làm ra với những bản báo
cáo, những video quay lại những hoạt động của nhóm thì đòi hỏi ở các em học
sinh những kiến thức ứng dụng công nghệ thông tin về soạn thảo văn bản, xây
dựng các Slide trong phần mềm Powerpoint, khai thác ứng dụng của mạng
internet về xây các video.
- Thông qua buổi tổ chức seminar Vật lý với chủ đề: “Các mô hình, thí
nghiệm tự làm trong chương Từ trường và Cảm ứng điện từ của lớp 11C1
trường THPT Tĩnh Gia 2”, nhằm tạo điều kiện để các em học sinh trong các
nhóm có cơ hội giao lưu học hỏi lẫn nhau và quan trọng hơn là các em được trực
tiếp giao lưu với các thầy cô trong tổ vật lý thông qua các câu hỏi phản biện,
nhận xét, đánh giá về sản phẩm của từng nhóm, để từ đó các em hoàn thiện sản
phẩm của nhóm mình.
II. Mục đích nghiên cứu [3], [4]
- Nâng cao chất lượng chất lượng giảng dạy bộ môn Vật lý nói chung,
chương học Từ trường và Cảm ứng điện nói riêng.
- Tạo chuyển biến đột phá mới trong công tác công tác giảng dạy với việc

tổ chức HĐTNST nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Phát huy tinh thần làm việc theo nhóm, kỹ năng thực hành thí nghiệm, kĩ năng
khai thác ứng dụng công nghệ thông tin ở các em học sinh và học qua trải
nghiệm giúp học sinh không những có được năng lực thực hiện mà còn có
những trải nghiệm về cảm xúc, ý chí và nhiều trạng thái tâm lý khác.
- Bước đầu làm quên với việc tổ chức HĐTNST theo định hướng của Bộ
GD&ĐT trong chương trình giáo dục phổ thông mới thực hiện vào năm 2020.
III. Đối tượng nghiên cứu
- Các mô hình và thí nghiệm trong chương Từ trường và Cảm ứng điện từ
vật lý lớp 11 THPT.
IV. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Nghiên cứu tài liệu
từ sách, báo, mạng internet về chương học Từ trường và Cảm ứng điện từ.
- Phương pháp thực nghiệm: Học sinh thiết kế chế tạo thiết bị, dụng cụ học
tập gồm các mô hình và các thí nghiệm trong chương Từ trường và Cảm ứng
điện từ.
2


- Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm sư phạm: tổ chức seminar Vật lý
(cho các nhóm thi với nhau).

3


NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. Cơ sở lí luận
1.1. Những nét cơ bản đối với giáo dục phổ thông được nêu trong nghị quyết
hội nghị TW 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo
(NQ Số 29/TW) [3]

- Về quan điểm chỉ đạo: Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ
yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người
học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp
với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
- Về mục tiêu: Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể
chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng
khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin
học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển
khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời. Hoàn thành việc xây
dựng chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn sau năm 2015. Bảo đảm cho
học sinh có trình độ trung học cơ sở (hết lớp 9) có tri thức phổ thông nền tảng,
đáp ứng yêu cầu phân luồng mạnh sau trung học cơ sở; trung học phổ thông phải
tiếp cận nghề nghiệp và chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng.
Nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, thực hiện giáo dục bắt buộc 9 năm từ sau
năm 2020.
- Về mục tiêu, giải pháp: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học
theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến
thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ
máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để
người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển
từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt
động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin và truyền thông trong dạy và học.
1.2. Công bố dự thảo chương trình giáo dục phổ thông mới của Bộ GD&ĐT
[4]
Thứ 6 ngày 19 tháng 01 năm 2018 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã công bố dự
thảo chương trình giáo dục phổ thông mới gồm 20 môn học. Trong Chương
trình mới có 2 loại hoạt động giáo dục chính là: Dạy học các môn và trải nghiệm

sáng tạo.
4


Tổng chủ biên GS Nguyễn Minh Thuyết cho biết, so với hiện hành
chương trình các môn học có nhiều điểm mới, chú trọng việc hình thành và phát
triển năng lực cho người học, đặc biệt là năng lực áp dụng kiến thức, kỹ năng đã
học được vào giải quyết vấn đề của thực tiễn. Từ các năng lực đó, mỗi môn xác
định nội dung và yêu cầu cần đạt riêng. Chương trình các môn về cơ bản đã
giảm tải so với hiện hành. Kiến thức hàn lâm, lắt léo, chỉ phục vụ việc thi cử
được giảm bớt, tích hợp một số môn thành một môn học; thay đổi phương pháp
giảng dạy để học sinh được hoạt động nhiều hơn… cũng là cách giảm tải cho
chương trình.
1.3. Tìm hiểu về hoạt động trải nghiệm sáng tạo [4]
Hoạt động TNST là hoạt động giáo dục, trong đó, dưới sự hướng dẫn của
nhà giáo dục, từng cá nhân học sinh được tham gia trực tiếp vào các hoạt động
khác nhau của đời sống nhà trường cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể
của hoạt động, qua đó phát triển năng lực thực tiễn, phẩm chất nhân cách và phát
huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân mình.
Khái niệm này khẳng định vai trò định hướng, chỉ đạo, hướng dẫn của nhà
giáo dục; thầy cô giáo, cha mẹ học sinh, người phụ trách… Nhà giáo dục không
tổ chức, không phân công học sinh một cách trực tiếp mà chỉ hướng dẫn, hỗ trợ,
giám sát cho tập thể hoặc cá nhân học sinh tham gia trực tiếp hoặc ở vai trò tổ
chức hoạt động, giúp học sinh chủ động, tích cực trong các hoạt động; phạm vi
các chủ đề hay nội dung hoạt động và kết quả đầu ra là năng lực thực tiễn, phẩm
chất và năng lực sáng tạo đa dạng, khác nhau của các em.
Có thể kể ra một số hình thức HĐTNST: Hình thức có tính khám phá
(thực địa, thực tế, tham quan, cắm trại); hình thức có tính triển khai (dự án và
nghiên cứu khoa học, hội thảo, câu lạc bộ); hình thức có tính trình diễn (diễn
đàn, giao lưu, sân khấu hóa); hình thức có tính cống hiến, tuân thủ (thực hành

lao động việc nhà, việc trường, hoạt động xã hội – tình nguyện).
Như vậy, trong tên gọi mới chúng ta phải hiểu rằng “trải nghiệm” là
phương thức giáo dục và “sáng tạo” là mục tiêu giáo dục. HĐTNST còn có ưu
thế trong việc thúc đẩy hình thành ở người học các năng lực đặc thù sau: Năng
lực hoạt động và tổ chức hoạt động; Năng lực tổ chức và quản lý cuộc sống;
Năng lực tự nhận thức và tích cực hóa bản thân; Năng lực định hướng nghề
nghiệp; Năng lực khám phá và sáng tạo. HĐTNST giúp cho học sinh có nhiều
cơ hội trải nghiệm để vận dụng những kiến thức học được vào thực tiễn, từ đó
hình thành năng lực thực tiễn cũng như phát huy tiềm năng sáng tạo của bản
thân.

5


1.4. Đặc điểm chương học Từ trường và Cảm ứng điện từ vật lý lớp 11 THPT
[1], [2]
Trong chương trình Vật lý lớp 9 THCS các em học sinh đã được cung cấp
những kiến thức cơ bản về phần Từ trường và Cảm ứng điện từ trong chương II:
Điện từ học. Các em đã được học các kiến thức lí thuyết về từ tính của nam
châm; tương tác giữa hai nam châm; tác dụng từ của dòng điện; lực từ; khái
niệm từ trường; làm thí nhiệm về từ phổ; đường sức từ,… Có thể nói rằng, ở cấp
học THCS các em đã có một kiến thức nền tảng ban đầu về mảng chủ đề này.
Các em đã được thực hiện một số thí nghiệm như thí nghiệm Ơ-xtet; thí nghiệm
về từ phổ của nam châm thẳng; nam châm hình chữ U; thí nghiệm xác định
chiều của lực từ tác dụng lên dây dẫn có dòng điện; thí nghiệm về hiện tượng
cảm ứng điện từ. Vì vậy, khi học ở lớp 11 sách giáo khoa vật lý nâng cao ban
khoa học tự nhiên tiếp tục nâng tầm kiến thức ở mảng chủ đề này một cách hoàn
thiện hơn. Các em đã được khảo sát một cách định lượng về mặt toán học để tìm
ra những công thức tính toán các đại lượng vật lí như công thức xác định lực từ
tác dụng lên đoạn dây dẫn mang dòng điện đặt trong Từ trường; biểu thức suất

điện động cảm ứng; biểu thức lực Lo-ren-xơ,… Chính vì mảng kiến thức này
các em đã có được những hiểu biết ban đầu, nên ở lớp 11 giáo viên có thể có
nhiều phương án trong việc xây dựng bài giảng của mình. Giáo viên có thể
hướng dẫn các em tự nghiên cứu bài học để xây dựng kiến thức mới, hướng dẫn
các em tự làm các đồ dùng học tập theo ý tưởng sáng tạo của mình.
Có thể khảng định rằng, chương Từ trường và Cảm ứng điện từ là rất phù
hợp cho việc tổ chức HĐTNST của học sinh. Các em có thể tự làm lại được các
mô hình mà trong sách giáo khoa đã giới thiệu như mô hình đường sức từ của
nam châm thẳng; nam châm hình chữ U; mô hình đường sức từ của dòng điện
trong ống dây v.v…và các thí nghiệm như thí nghiệm về tương tác giữa hai dòng
điện; thí nghiệm về hiện tượng cảm ứng điện từ; thí nghiệm về hiện tượng tự
cảm. Việc tổ chức để các em tự mình làm được các mô hình, các thí nghiệm là
hết sức quan trọng trong việc hình thành tư duy trong nghiên cứu khoa học, các
em được thỏa sức sáng tạo với ý tưởng của mình, tự mình làm được các mô
hình, các thí nghiệm thì các em lại càng nắm vững kiến thức lí thuyết trong sách
giáo khoa. Học đi đôi với hành sẽ là động lực thôi thúc các em tìm tòi sáng tạo,
rèn luyện kĩ năng thực hành, kĩ năng vận dụng kiến thức trong sách vở vào thực
tiễn cuộc sống.
II. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Thực trạng của việc sử dụng các thiết bị thực hành thí nghiệm Vật lý ở
các Trường THPT hiện nay
6


Phần lớn ở các trường THPT hiện nay trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa nói
chung, các trường trên địa bàn huyện Tĩnh Gia nói riêng, thì việc sử dụng các
thiết bị thực hành thí nghiệm trong giảng dạy nói chung và bộ môn Vật lý nói
riêng còn là vấn đề hết sức hạn chế, do nhiều nguyên nhân khác nhau, đó là:
- Cơ sở vật chất, trang thiết bị cho một bài thực hành nói chung, bài tập
thực hành thí nghiệm Vật lý nói riêng còn nhiều bất cập như thiếu trang thiết bị;

trang thiết bị cũ kĩ đã hư hỏng không kịp thời sửa chữa và mua bổ sung; một số
trang thiết bị, dụng cụ thí nghiệm thì mua về lại không sử dụng để lâu ngày nên
hư hỏng hoặc vẫn còn để nguyên trên giá năm này qua năm khác; nhiều trường
chưa có phòng học bộ môn.
- Chưa có đội ngũ giáo viên, kỹ thuật viên chuyên trách đào tạo một cách
bài bản, có trình độ chuyên môn thật sự về lĩnh vực này. Mỗi khi cần sử dụng
các thiết bị thực hành thí nghiệm thì giáo viên bộ môn lại phải đăng kí mượn
thiết bị thí nghiệm, rồi sau đó tự làm thử trước khi lên lớp mà lẽ ra công việc này
phải có nhân viên thiết bị thí nghiệm chuẩn bị sẵn. Công việc này đòi hỏi giáo
viên bộ môn phải mất rất nhiều thời gian, nên gây cho họ tâm lý “ngại” chuẩn
bị và giảng dạy bằng thiết bị thí nghiệm. Chính vì vậy, phần lớn các thầy cô
chọn phương án dạy “chay” đối với các bài giảng có sử dụng đồ dùng dạy học.
Việc ghi chép của nhân viên phòng thí nghiệm chỉ là hình thức nhằm đối phó với
những đợt kiểm tra, thanh tra của các cấp quản lí.
- Do đồng lương của giáo viên còn thấp so với nhiều ngành nghề khác,
nên đời sống của phần lớn giáo viên còn gặp nhiều khó khăn. Việc đầu tư một
cách tâm huyết cho một bài giảng là chưa có, chỉ khi nào có đợt thi đua thao
giảng dự giờ như thi giáo viên giỏi cấp trường; cấp tỉnh thì các thầy cô mới đầu
tư vào bài giảng của mình một cách công phu như sử dụng công nghệ thông tin;
sử dụng thiết bị thí nghiệm trong giảng dạy. Còn phần lớn là dạy “chay”, thời
gian chuẩn bị thí nghiệm được thay bằng việc chuẩn bị các chuyên đề dạy thêm
để tăng thu nhập.
Từ những nguyên nhân trên mà đối với các bài thực hành thí nghiệm thì
giáo viên chỉ dạy phần lí thuyết trên lớp, còn phần thực hành thì bỏ qua hoặc
thay vào đó là tiết bài tập, ôn tập. Học sinh không được trang bị kiến thức cơ
bản về thực hành thí nghiệm như: không biết lắp đặt dụng cụ; không biết xử lý
số liệu; tính các loại sai số; không biết viết báo cáo cho một bài thực hành. Khi
làm các bài tập tự luận cũng như bài tập trắc nghiệm khách quan chỉ làm được
những bài tập áp dụng các công thức đơn giản, còn khi gặp các bài toán khó thì
không làm được là vì chưa hiểu được bản chất của vấn đề.


7


2.2. Thực trạng của việc tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo ở các trường
THPT hiện nay
Đối với phần đa các giáo viên ở các trường THPT hiện nay thì khái niệm
về HĐTNST đang còn rất “xa vời”. Điều này cũng là một lẽ tất yếu vì cho đến
năm 2020 thì Bộ giáo dục và Đào tạo mới chính thức đưa hoạt động này vào học
chính khóa. Chỉ với những giáo viên tâm huyết với nghề luôn nêu cao tinh thần
tự học và nghiên cứu mới thực sự quan tâm. Khi xây dựng kế hoạch cho một
HĐTNST thì đòi hỏi mất rất nhiều thời gian và công sức của thầy cô, từ việc
chia nhóm, giao nhiệm vụ cho từng nhóm và hướng dẫn các em hoàn thành công
việc của mình.
Như chúng ta đã biết, một thực tế hiện tại ở các trường THPT với cách
thi, kiểm tra đánh giá của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì các thầy cô không còn thời
gian cho việc tổ chức các hoạt động khác, mà chủ yếu là ôn thi lí thuyết với các
dạng bài tập này, bài tập kia cho các em để đối phó với các kì thi. Các em học
sinh thì lịch học gần như không còn thời gian trống, hết học chính khóa rồi đến
học bồi dưỡng, ôn luyện đội tuyển học sinh giỏi, ca 2, ca 3, ca 4 ở nhà riêng của
giáo viên. Các thầy cô đã biến các em học sinh thành một “cái máy” luyện thi
(luyện thi trắc nghiệm). Các em không còn thời gian cho các hoạt động khác như
hoạt động ngoại khóa, hoạt động câu lạc bộ,… để phát triển toàn diện cả về kiến
thức lẫn việc hình thành các kĩ năng.
2.3. Thực trạng ở trường THPT Tĩnh Gia 2
Tổ Vật lý – Công nghệ ở trường THPT Tĩnh Gia 2 gồm 08 giáo viên,
trong đó 07 giáo viên giảng dạy môn Vật lý; 01 giáo viên giảng dạy môn Công
nghệ. Nhà trường chưa có giáo viên chuyên trách cho mảng thiết bị thí nghiệm
(hợp đồng một nhân viên không đúng chuyên ngành). Khi giảng dạy chương Từ
trường và Cảm ứng điện từ thì một số thầy cô cũng có sử dụng các thiết bị thí

nghiệm có sẵn trên phòng thí nghiệm như: kim nam châm thử, nam châm vĩnh
cửu, thí nghiệm về hiện tượng cảm ứng điện từ, thí nghiệm về hiện tượng tự
cảm,… Tuy nhiên, việc hướng dẫn, tổ chức cho các em học sinh tự làm các mô
hình, đồ dùng học tập, các thiết bị thực hành thí nghiệm là chưa có. Trong các
tiết học có sử dụng các thiết bị thí nghiệm thì phần lớn là giáo viên biểu diễn thí
nghiệm, còn học sinh quan sát rồi sau đó trả lời các câu hỏi của giáo viên. Các
em học sinh không được tự mình thực hành thí nghiệm. Vì vậy, việc lĩnh hội
kiến thức là hết sức bị động, không phát huy được khả năng sáng tạo của học
sinh.
Mặt khác, đối với các thầy cô thì khái niệm HĐTNST là một khái niệm
còn hết sức xa lạ. Các thầy cô chỉ mới tổ chức các hoạt động ngoại khóa; các
8


hoạt động hướng nghiệp, v.v… Các hoạt động này gọi chung là hoạt động ngoài
giờ lên lớp, chúng chủ yếu được tổ chức dựa trên các chủ đề đã được quy định
trong chương trình với các hình thức còn chưa phong phú và học sinh thường
được chỉ định, phân công tham gia một cách bị động. Giáo viên tổ chức hoạt
động cho học sinh nhưng không rõ hoạt động đó sẽ hướng tới hình thành những
năng lực gì của các em. Điều đó không phù hợp với một chương trình định
hướng phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh.
Trong chương học này thì phần lớn các thầy cô chọn phương án dạy
“chay” cho xong bài.
III. Giải pháp thực hiện
3.1. Hoàn thành các tiết dạy chương Từ trường và Cảm ứng điện từ
Giáo viên giảng dạy hoàn thành các tiết dạy thuộc phân phối chương trình
chương Từ trường và cảm ứng điện từ. Trong quá trình giảng dạy giáo viên cần
thiết kế bài dạy theo các kĩ thuật dạy học tích cực, cần chuẩn bị các thiết bị đồ
dùng dạy học sẵn có trên phòng thí nghiệm, cũng như các thiết bị tự làm sao cho
việc truyền thụ và lĩnh hội kiến thức của học sinh đạt kết quả cao nhất. Đối với

những tiết học có sử dụng các thiết bị đồ dùng dạy học thì giáo viên cần phải
chuẩn bị một cách chu đáo và tốt nhất đối với những tiết học này là thực hiện
trên phòng học bộ môn. Giáo viên cần tổ chức cho các em tự làm được các thí
nghiệm trong sách giáo khoa với các thiết bị sẵn có trên phòng thí nghiệm. Như
vậy mới hình thành ở các em các kĩ năng thực hành, lắp đặt thí nghiệm, làm việc
theo nhóm, tạo hứng thú trong quá trình học tập và nghiên cứu bài học.
Để tự làm được các mô hình và các thí nghiệm trong chương Từ trường
và Cảm ứng điện từ thì trước hết các em học sinh phải hiểu một cách sâu sắc các
kiến thức lí thuyết qua mỗi bài giảng của giáo viên. Từ việc các em hiểu thì các
em mới tự mình làm ra được các sản sản phẩm theo ý tưởng của mình.
3.2. Lập kế hoạch đối với lớp 11C1
Khi bắt đầu giảng dạy chương “Từ trường” giáo viên thông báo trước cho
các học sinh về dự định của mình để các em có được tâm lí tốt nhất, sẵn sàng
nhận nhiệm vụ được giao. Lớp 11C1 khóa 2016 - 2019 là một lớp mũi nhọn của
nhà trường học theo theo chương trình nâng cao ban khoa học tự nhiên. Vì vậy,
phần lớn các em đều tham gia trong các đội tuyển thi học sinh giỏi cấp tỉnh các
môn Toán, Vật lý, Hóa học, Sinh học. Để không ảnh hưởng đến việc ôn luyện
thi học sinh giỏi cấp tỉnh thì sau khi các em thi học sinh giỏi cấp tỉnh xong, giáo
viên lên kế hoạch cụ thể cho lớp.
a) Chia nhóm

9


Yêu cầu: đồng đều về trình độ kiến thức, tạo điều kiện để các em ở gần
nhà nhau cùng một nhóm (cùng xã hoặc các xã gần nhau), thuận lợi cho các em
trong quá trình làm việc. Cụ thể việc chia nhóm như sau:
Nhóm 1
1. Lương Việt Quang
2. Lê Q. H. Anh

3. Đỗ Quỳnh Anh
4. Đỗ Khánh Linh
5. Nguyễn Duy Nam
6. Lường Hữu Phong
7. Đỗ Thanh Tư
8. Lê Ngọc Trang
9. Lê Trọng N. Minh
10. Lê Thị Nga
11. Bùi Trung Hiếu

Nhóm 2

Nhóm 3

Nhóm 4

1. Nguyễn Minh Mạnh 1. Lương Thế Phong
2. Lê Văn Minh
2. Lường H.M. Phương

1. Lê Văn Cường
2. Trương Trung

3. Lê Minh Hoàng
4. Lê Vĩnh Dương
5. Lê Đình Thắng
6. Lê T. T. LinhA
7. Lê Huyền Trang
8. Phan Thanh Nga


Kiệt
3. Lê Thu Trang
4. Phạm Thanh Hải
5. Lê Thị Thiên
6. Lê Đình Minh
7. Lê Ngọc Long
8. Lê Thị Thùy

9. Lê Phương Thảo
10. Nguyễn Thị Yến
11. Nguyễn Thị Thúy

3. Lê Khánh Linh
4. Nguyễn T. T. Linh
5. Lê Anh Sơn
6. Lê Thảo Ngọc
7. Lê Thành Vinh
8. Lê Văn Thiên
9. Phùng Thị Thùy
10. Lê Thị Mai

LinhB
9. Lường Lê Huyền
10. Lê Thị H. Hương
11. Lê Vũ Bảo Trung

b) Phân công nhiệm vụ cho từng nhóm
Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, các nhóm tự làm các thiết bị, các mô
hình và các thí nghiệm trong chương từ trường và Cảm ứng điện từ sau khi được
học xong lí thuyết trên lớp. Các nhóm hoàn toàn tự làm theo ý tưởng riêng của

nhóm mình với điều kiện đảm bảo tích chính xác khoa học. Cụ thể nhiệm vụ
được phân công như sau:
ST
T
1

2

3

Nhóm 1

Nhóm 2

Nhóm 3

Làm 02 kim nam
châm
Làm thí nghiệm
về sự tương tác
giữa hai dòng
điện thẳng song
song.

Làm 02 kim
nam châm
Mô hình đường
sức từ của nam
châm thẳng.


Làm 02 kim
nam châm
Mô hình đường
sức từ của nam
châm hình chữ
U.

Nhóm 4

Gh
i
chú

Làm 02 kim
nam châm
Mô hình quy tắc
bàn tay trái xác
định lực từ tác
dụng lên đoạn
dây dẫn mang
dòng đặt trong
từ trường.
Làm thí nghiệm Làm
thí Làm thí nghiệm Mô hình quy tắc
từ phổ của dòng nghiệm từ phổ từ phổ của ống bàn tay trái xác
điện thẳng
của dòng điện dây.
định chiều của
tròn
lực Lo- ren –xơ

tác dụng lên
10


4

5

Mô hình quy tắc
nắm tay phải xác
định chiều đường
sức từ của dòng
điện thẳng

Mô hình quy
tắc nắm tay
phải: xác định
chiều đường
sức từ của
dòng điện tròn

Mô hình quy tắc
bàn tay phải xác
định các cực của
suất điện động
cảm
cảm ứng
trong một đoạn
dây dẫn chuyển
động trong từ

trường.

Làm
thí
nghiệm về hiện
tượng cảm ứng
điện từ với
vòng dây tròn.

điện tích chuyển
động trong từ
trường.
Mô hình quy tắc Làm thí nghiệm
nắm tay phải: 1: về hiện tượng
xác định chiều tự cảm.
đường sức từ
của dòng điện
bên trong ống
dây.
Làm thí nghiệm Làm thí nghiệm
về hiện tượng 2: về hiện tượng
cảm ứng điện từ tự cảm.
với ống dây
tròn.

c) Thời gian thực hiện
- Tuần 30 (26/3 - 31/3): cho lớp lên phòng thí nghiệm tìm hiểu về các thí
nghiệm và các mô hình tự làm của giáo viên và học sinh trước đó, để các em
hiểu rằng thầy cô và các anh chị trước mình làm được thì mình cũng sẽ làm
được. Điều đó sẽ tạo động lực để các em tự tin đưa ra những ý tưởng sáng tạo

của mình.
- Tuần 31, 32, 33 (2/4 - 21/4): các nhóm tiến hành thực hiện nhiệm vụ
được giao.
- Tuần 34 (23/4 - 28/4): báo cáo sơ bộ sản phẩm với giáo viên hướng dẫn
tại phòng thí nghiệm và nghe giáo viên hướng dẫn góp ý.
- Tuần 35, 36 (30/4 - 12/5): các nhóm hoàn thiện sản phẩm.
- Tuần 37 (14/5 - 19/5): các nhóm nghiệm thu sản phẩm với giáo viên
hướng dẫn tại phòng thí nghiệm.
- Tuần 38 (21/5 – 24/5): các nhóm viết báo cáo (file word), xây dựng các
video và các Slide (Powerpoint) để tổ chức seminar.
- Ngày 25 tháng 05 năm 2018 tổ chức seminar.
3.3. Xây dựng kế hoạch cho buổi seminar
- Giáo viên thực hiện đề tài nghiên cứu họp bàn với tổ chuyên môn về kế
hoạch tổ chức của mình. Qua đó ghi nhận những ý kiến đóng góp của các thành
viên trong tổ chuyên môn để hoàn thiện đề tài nghiên cứu đạt kết quả cao nhất.
- Tổ chức buổi seminar Vật lý với chủ đề: “Các mô hình, thí nghiệm tự
làm trong chương Từ trường và Cảm ứng điện từ của lớp 11C1 trường THPT
Tĩnh Gia 2” với hình thức cho các nhóm thi với nhau qua hai vòng thi:

11


+) Vòng 1: Các nhóm trình bày báo cáo lí thuyết về các sản phẩm của
nhóm mình (trình chiếu các Slide soạn thảo bằng phần mềm Powerpoint). Mỗi
nhóm sẽ cử một đại diện lên trình bày.
+) Vòng 2: Mỗi nhóm sẽ thực hiện các công việc sau: trình chiếu video về
quá trình làm việc của nhóm; trưng bày các sản phẩm của nhóm (đại diện nhóm
sẽ giới thiệu về sản phẩm của nhóm mình) và cuối cùng là trả lời các câu hỏi
phản biện của ban giám khảo.
- Cơ cấu giải thưởng: 01 giải nhất; 01 giải nhì và 02 giải ba.

- Thành phần ban giám khảo là các thầy cô trong tổ Vật lý (gồm 04 thầy
cô giáo).
- Thành phần khách mời gồm: Ban giám hiệu nhà trường, các tổ trưởng,
các nhóm trưởng chuyên môn; Ban thường trực hội phụ huynh học sinh và đại
diện học sinh ở các khối lớp (mỗi lớp từ 02 đến 05 em).
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường
4.1. Đối với hoạt động giáo dục
Lần đầu tiên trong nhà trường THPT Tĩnh Gia 2 tổ chức buổi seminar
khoa học Vật lý với chủ đề: “Các mô hình, thí nghiệm tự làm trong chương Từ
trường và Cảm ứng điện từ của lớp 11C1 trường THPT Tĩnh Gia 2”, mà nhân
vật chính là các em học sinh lớp 11C1 với các sản phẩm do chính các em làm ra.
Hoạt động này không có gì to lớn đối với các nhà khoa học, các em sinh viên
của các trường đại học, nhưng đối với các em học sinh ở một trường THPT cấp
huyện thì hoạt động này không phải dễ dàng thực hiện được. Để có được một
HĐTNST thành công thì lớp 11C1 đã phải trải qua rất nhiều vật vả và khó khăn
về mọi mặt. Các em là những học sinh của một lớp mũi nhọn của nhà trường
phải tập trung của kì thi học sinh giỏi cấp tỉnh ở các bộ môn Toán học; Vật lý;
Hóa học và Sinh học. Mặt khác lịch học chính khóa, học bồi dưỡng, học thêm
dày đặc, các em không có thời gian để cho các hoạt động khác, đặc biệt là
HĐTNST. Vì vậy, sau khi tham dự kì thi học sinh giỏi cấp tỉnh xong, các em
tranh thủ thực hiện nhiệm vụ của mình vào các ngày chủ nhật. Các nhóm làm
việc rất nghiên túc, khoa học. Các thành viên trong nhóm đưa ra những ý tưởng
của mình, mọi người cùng thảo luận để đi đến kết luận và sau khi thống nhất sẽ
bắt tay vào làm sản phẩm. Sau một vài lần thất bại, các em không nản chí. Dưới
sự hướng dẫn và động viên của thầy giáo, mọi thành viên trong nhóm lại lấy lại
tinh thần và động lực để hoàn nhiệm vụ được giao. Cuối cùng, sau bao nhiêu vất
vả các nhóm đã hoàn thành công việc và tổ chức buổi seminar Vật lý thành
công.
12



Hình 1: Giáo viên đang hướng dẫn các nhóm hoàn thiện các sản phẩm

Lần đầu tiên các em được trải nghiệm với những kiến thức thức lí thuyết
trong sách vở áp dụng vào thực tế cuộc sống, mọi thành viên trong nhóm thỏa
sức sáng tạo với những ý tưởng của mình. Các nhóm đã làm ra những mô hình
hết sức trực quan và sinh động như mô hình về đường sức từ của nam châm
thẳng; nam châm hình chữ U; mô hình quy tắc nắm tay phải xác định chiều
đường sức từ của dòng điện thẳng; dòng điện chạy trong ống dây,… và những
thiết bị đồ dùng học tập như chế tạo thành công kim nam châm (la bàn); thí
nghiệm về từ phổ của dòng điện tròn; thí nghiệm về hiện tượng cảm ứng điện từ
và thí ngiệm về hiện tượng tự cảm. Tuy các thí ngiệm các em làm ra với độ
chính xác chưa cao, đang còn nhiều hạn chế cần khắc phục, nhưng với các em
như vậy là đã quá thành công rồi.

13


Hình 2: Các nhóm đang báo cáo và thực hiện các thí nghiệm

HĐTNST với việc tự làm ra các mô hình, thí nghiệm trong chương Từ
trường và Cảm ứng điện từ đã tạo điều kiện cho các em có cơ hội được làm việc
cùng nhau. Làm việc trong cùng một nhóm giúp các em có trách nhiệm hơn với
công việc mà bản thân mình được phân công, các em có cơ hội học hỏi lẫn nhau,
trao đổi những hiểu biết, những kinh nghiệm cho nhau để cùng nhau tiến bộ.
Trong hoạt động nhóm, giúp các em đoàn kết hơn, gần gửi nhau hơn như trong
một gia đình thu nhỏ, mọi người cùng giúp đỡ nhau trong công việc một cách vô
tư chân thành, tất cả vì sự tiến bộ chung và sự thành công của nhóm. Từ chỗ các
em chỉ biết học vẹt lí thuyết trong sách vở, ghi nhớ một cách máy móc các công

thức, các định nghĩa, các định luật,… Nhìn giáo viên biểu diễn các thí nghiệm
một cách thụ động, không được tự tay làm thí nghiệm đến chỗ các em là những
chủ nhân của những sản phẩm do chính lao động sáng tạo khoa học của mình
làm ra. Qua HĐTNST này các em học sinh thật sự đã trở thành các nhà khoa học
“nhỏ” trước hội đồng khoa học trường gồm các thầy cô trong ban giám hiệu nhà
trường, các thầy cô tổ trưởng, nhóm trưởng chuyên môn, trước các bạn học sinh
cùng lớp.
HĐTNST giúp các em vui vẻ, có một tinh thần làm việc hăng say quên đi
mệt mỏi sau những giờ học căng thẳng trên lớp, trút đi được những áp lực về
học tập, lấy lại những cảm giác thăng bằng trong cuộc sống. Qua HĐTNST các
em thật sự có những giây phút thư giãn hết sức bổ ích, được cười nói nô đùa
trong một bầu không khí đầm ấm thân thiện. Với bản thân các em học sinh lớp
11C1, qua HĐTNST với các mô hình, thí nghiệm tự làm trong chương Từ
trường và Cảm ứng điện từ, nó không đơn thuần là một buổi seminar khoa học
bổ ích mà còn là một sự trải nghiệm đầy thú vị khi được thả mình chìm đắm
trong trong một chân trời tri thức khoa học và có lẽ rằng trong mỗi các em học
sinh đây sẽ là một kỉ niệm ngọt ngào trong quãng đời học sinh dưới mái trường
THPT tĩnh gia 2.
4.2. Đối với bản thân
14


Với đề tài nghiên cứu “Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo của học
sinh lớp 11C1 trường THPT Tĩnh gia 2 trong dạy học phần Từ trường và Cảm
ứng điện từ vật lý lớp 11 THPT” với mục tiêu cơ bản là hướng dẫn các em học
sinh lớp 11C1 tự làm các mô hình và các thiết bị thí nghiệm trong chương Từ
trường và Cảm ứng điện từ, phục vụ cho việc dạy và học đạt được kết quả tốt
nhất. Bản thân tác giả cảm thấy đã hoàn thành một công việc ngoài sự mong đợi.
Thấy các em làm ra các sản phẩm, viết các báo cáo trình bày báo cáo trước thầy
cô, bạn bè, trả lời phản biện các câu hỏi của ban giám khảo, tôi đã hết sức cảm

động vì thấy được thành quả lao động của các em, các em xứng đáng nhận được
những lời ngợi khen. Các em học sinh thật sự rất sáng tạo, rất nhanh nhạy với
những ứng dụng của công nghệ thông tin. Trong những buổi đầu, việc soạn thảo
báo cáo một văn bản các em còn hết bỡ ngỡ. Vây mà chỉ sau một vài lần nhận
xét, góp ý của thầy giáo hướng dẫn các em đã hoàn thành bản báo cáo một cách
xuất sắc. Việc xây dựng các Slide trong phần mềm Powerpoint ban đầu đang còn
hết sức xa lạ với các em vì các em chưa hề được học qua. Chỉ sau một thời gian
ngắn trong một hai tuần, các em đã xây dựng được một bản báo cáo hoàn chỉnh
với các Slide trình chiếu có các hiệu ứng hết sức phong phú và đa dạng. Nhìn
các em trình bày báo cáo trước hội đồng khoa học nhà trường, trả lời các câu hỏi
phản biện của ban giám khảo một cách bình tĩnh, tự tin tôi thật sự thấy ở các em
một sự trưởng thành trong suy nghĩ, trong giao tiếp và trong từng hành động của
mình. Không những các em học sinh được trải nghiệm sáng tạo với niềm đam
mê và sự sáng tạo của mình mà bản tôi là giáo viên hướng dẫn các em cũng đã
có một sự trải nghiệm rất tuyệt vời. Tôi cảm thấy mình đã hoàn thành một đề tài
nghiên cứu hết sức bổ ích và đem lại hiệu quả giáo dục cao. Qua việc tổ chức
thành công HĐTNST đối với các em học sinh lớp 11C1, sẽ là động lực tiếp thêm
sức mạnh giúp tôi tiếp tục với niềm đam mê nghiên cứu khoa học của mình để
tìm ra những phương pháp giảng dạy đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động
dạy và học.
4.3. Đối với đồng nghiệp
Khi thực hiện đề tài nghiên cứu, tác giả nhận được sự ủng hộ nhiệt tình cả
về vật chất lẫn tinh thần từ phía ban giám hiệu nhà trường, từ phía các thầy cô
trong tổ chuyên môn Vật lý – Công nghệ. Trong buổi seminar Vật lý các thầy cô
đến từ ban giám hiệu nhà trường đã có những ý kiến chỉ đạo, những lời động
viên chân thành đối với giáo viên hướng dẫn và các em học sinh, giúp các em
học sinh tự tin hơn trước khi bước vào buổi seminar.

15



Hình 3: Thầy cô trong ban giám khảo đang đặt ra những câu hỏi đối với các nhóm

Với vai trò là các vị giám khảo, các thầy cô trong tổ Vật lý – Công nghệ
đã trực tiếp được nghe các em học sinh báo cáo, trực tiếp tận mắt chứng kiến các
sản phẩm do chính các em làm ra; quan sát các em biểu diễn các thí nghiệm; trả
lời các câu hỏi phản biện, các thầy cô đánh giá rất cao về sự sáng tạo về ác sản
phẩm mà các em tự làm. Ví dụ với sản phẩm về kim nam châm của nhóm 4, cô
giáo Bùi Thị Xuân – một thành viên trong ban giám khảo đã đánh giá rất cao sản
phẩm này. Các em làm các kim nam châm không những chính xác về mặt khoa
học mà còn có tính thẩm mĩ rất cao. Cô giáo Bùi Thị Xuân đã đề nghị nhóm 4
cần làm ra nhiều kim nam châm để làm đồ dùng dạy học cho nhà trường. Cùng
với nhiều thầy cô khác nữa, các thầy cô đã rất phấn khởi về sự thành công của
buổi seminar Vật lý và đề nghị nhân rộng ra trong phạm vi toàn trường đối với
các khối lớp khác nhau.
4.4. Đối với nhà trường
Các em học sinh lớp 11C1 đã tổ chức một buổi seminar Vật lý hết sức
thành công. Ban giám hiệu nhà trường đánh giá cao HĐTNST của các em. Các
em học sinh đã tự làm ra các mô hình, các thiết bị, các thí nghiệm phục vụ trực
tiếp cho giảng dạy bộ môn Vật lý được tốt hơn. Các em đã làm ra các đồ dùng
dạy học bổ sung vào phòng thí nghiệm Vật lý của nhà trường giúp ích cho các
thầy cô trong công tác giảng dạy. Ban giám hiệu nhà trường đề nghị các thầy cô
trong tổ chuyên môn cần phát huy hơn nữa và nhân rộng đề tài nghiên cứu đến
tất cả các lớp trong toàn trường vào các năm học tiếp theo.

16


Hình 4: Ban giám hiệu nhà trường trao thưởng và phát biểu ý kiến nhận xét


KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I. Kết luận
Đề tài nghiên cứu đã giải quyết được các vấn đề sau:
- Tổ chức thành công HĐTNST của các em học sinh lớp 11C1 với việc tự
làm các mô hình, thiết bị thí nghiệm trong chương “Từ trường và Cảm ứng điện
từ”.
- Qua buổi seminar Vật lý với chủ đề “Các mô hình, thí nghiệm tự làm
trong chương Từ trường và Cảm ứng điện từ của lớp 11C1 trường THPT Tĩnh
Gia 2”, các em học sinh được giao lưu, học hỏi lẫn nhau và nhận được những
17


lời nhận xét, đánh giá từ các thầy cô trong tổ Vật lý – Công nghệ giúp các em
hoàn thiện về sản phẩm của nhóm mình.
- Qua HĐTNST các em học sinh học hỏi được nhiều điều bổ ích và hoàn
thiện hơn những kĩ năng của mình trong cuộc sống, giúp các em trưởng thành
hơn trong suy nghỉ, trong hành động và trong ứng xử của mình.
II. Kiến nghị
a) Với Bộ Giáo dục và Đào tạo
Trong công bố dự thảo chương trình mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ
được thực hiện vào năm 2020 thì HĐTNST được đưa vào học chính khóa. Vì
vậy, ngay từ bây giờ Bộ Giáo dục và Đào tạo nên có những kế hoạch cụ thể về
việc bồi dưỡng cho giáo viên những kiến thức cơ bản về HĐTNST, để các thầy
cô giáo được làm quên dần với môn học mới này. Bộ Giáo dục và Đào tạo cần
mở những lớp tập huấn cho cán bộ cốt cán, cán bộ quản lí nhà trường để các
thầy cô có điều kiện giao lưu học hỏi lẫn nhau về môn học mới này.
Bên cạnh đó Bộ cũng nên biên soạn một tài liệu chính thống về môn học
HĐTNST để giáo viên các cấp học có được tài liệu tham khảo bổ ích, giáo viên
nghiên cứu dần trước khi đưa vào giảng dạy chính thức.
b) Đối với SGD&ĐT Thanh Hóa

Cung cấp cho giáo viên những tài liệu, công văn hướng dẫn về HĐTNST,
định hướng dần cho các nhà trường THPT tiếp cận với môn học mới này. Tổ
chức các lớp tập huấn tìm hiểu về môn học HĐTNST với sự giảng dạy của các
nhà nghiên cứu đầu ngành về giáo dục.
Bên cạnh các cuộc thi mà hiện nay Sở đang tổ chức như cuộc thi sáng tạo
KHKT; vận dụng kiến thức liên môn giải quyết các tình huống thực tiễn,… thì
nên tổ chức thêm các cuộc thi khác nhằm hướng tới bộ môn học HĐTNST như
thi làm đồ dùng dạy học dành cho các em học sinh THCS và THPT, tạo ra sân
chơi vừa tầm kiến thức với các em để số đông các em học sinh đều có thể tham
gia được, các em có cơ hội giao lưu học hỏi lẫn nhau, cùng nhau tiến bộ.
c) Đối với nhà trường
Ban giám hiệu nhà trường, các thầy cô giáo trong hội đồng nhà trường cần
quan tâm và tìm hiểu về HĐTNST – một môn học mới sẽ được Bộ Giáo dục và
Đào tạo chính thức đưa vào giảng dạy vào năm 2020. Các thầy cô giáo nên dành
một quỹ thời gian tìm hiểu về vấn đề này và áp dụng vào thực tế giảng dạy của
bản thân qua các chủ đề dạy học khác nhau.
Ban giám hiệu nhà trường nên quan tâm, động viên cả về vật chất lẫn tinh
thần để các giáo viên có điều kiện tốt nhất tổ chức nhiều hơn nữa các HĐTNST
18


trong các nhà trường THPT giúp học sinh phát triển một cách toàn diện về mọi
mặt, phát triển năng lực thực tiễn, phẩm chất nhân cách và phát huy tiềm năng
sáng tạo của cá nhân mình.
d) Đối với các em học sinh
Phải nghiêm túc trong quá trình học tập, phải có tinh thần cầu tiến bộ, học
hỏi, kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng ứng xử.
Thực hiện “học đi đôi với hành”, phải biết vận dụng các kiến thức lí
thuyết trên lớp vào thực tiễn cuộc sống hằng ngày. Phải có kỹ năng, kỹ xảo khi
thực hiện một bài tập thực hành như phải biết chọn dụng cụ thí nghiệm, lắp đặt

thí nghiệm, đo lường, tính toán, viết báo cáo, kỹ năng làm bài tập tự luận, bài tập
trắc nghiệm khách quan.
Mạnh dạn đưa ra những ý tưởng sáng tạo của mình trong quá trình học
tập. Tích cực tham gia vào các hoạt động tập thể, hoạt động nhóm, hoạt động xã
hội.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
CƠ QUAN

Vũ Tiến Ca

Thanh hóa, ngày 15 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN do
chính bản thân mình viết, không sao
chép nội dung của người khác.
Người viết SKKN

Bùi Sỹ Khiêm

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Sách giáo khoa Vật Lý 11 nâng cao, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016.
[2]. Sách giáo khoa Vật Lý 9, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017.
[3]. Nghị quyết hội nghị TW 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục
và Đào tạo (NQ Số 29/TW).
[4]. Thông tin từ mạng Internet.

19


DANH MỤC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH VÀ CÁC CẤP CAO
HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Bùi Sỹ Khiêm
Chức vụ và đơn vị công tác: Phó hiệu trưởng, trường THPT Tĩnh Gia 2.
20


Cấp đánh giá
xếp loại
TT

Tên đề tài SKKN

(Ngành GD
cấp huyện/tỉnh;
Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,
hoặc C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

1.


Tổ chức buổi học ngoại khoá về
Ngành GD cấp
“Dòng điện trong chất khí” Lớp
tỉnh
11 THPT.

C

2006- 2007

2.

Sử dụng phương pháp toạ độ và
các định luật bảo toàn để giải các Ngành GD cấp
bài toán chuyển động parabol
tỉnh
của chất điểm lớp 10 THPT.

C

2007-2008

3.

Tổ chức buổi học ngoại khoá
Ngành GD cấp
“Tình yêu Vật lý và Thiên văn
tỉnh
học” lớp 12 THPT.


B

2010-2011

4.

Sử dụng phương pháp tọa độ và
phương pháp năng lượng để giải
Ngành GD cấp
bài toán tìm độ cao cực đại của
tỉnh
vật ném xiên lớp 10 nâng cao
THPT.

C

2011-2012

5.

Tổ chức buổi học ngoại khóa Vật
Ngành GD cấp
lý “Sóng điện từ và việc bảo vệ
tỉnh
môi trường” lớp 12 THPT.

C

2012-2013


6.

Sử dụng phép tính vi phân trong
việc khảo sát sự thay đổi nhỏ chu Ngành GD cấp
kì trong dao động điều hòa của
tỉnh
con lắc đơn.

B

2013-2014

7.

Tổ chức hoạt động dạy học một
số kiến thức phần "Quang hình Ngành GD cấp
học” Vật lí 11 nâng cao bằng
tỉnh
phương pháp thực nghiệm.

C

2014-2015

8.

Một số kinh nghiệm giảng dạy
Ngành GD cấp
chủ đề: “Sai số và cách tính sai
tỉnh

số” Vật lý lớp 12 THPT.

B

2015-2016

21


9.

Phương pháp khảo sát các mạch
điện một chiều RC, RL trong
Ngành GD cấp
việc bồi dưỡng học sinh giỏi vật
tỉnh
lý lớp 11 trường THPT Tĩnh Gia
2.

B

2016-2017

PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
BÁO CÁO KẾT QUẢ THỰC HÀNH CỦA NHÓM 1
A. CÁC THÍ NGHIỆM VÀ MÔ HÌNH YÊU CẦU
1. Kim nam châm.
2. Thí nghiệm về sự tương tác giữa hai dòng điện thẳng song song.
22



3. Thí nghiệm Từ phổ của dòng điện thẳng.
4. Mô hình Quy tắc bàn tay phải xác định chiều dòng điện.
5. Mô hình Quy tắc bàn tay phải xác định chiều của đường sức của dòng điện
thẳng.
B. KẾT QUẢ THỰC HÀNH
I. Làm kim nam châm
1. Dụng cụ
- Một lưỡi lam mạ crom
- Nam châm vĩnh cửu có từ trường lớn
- Nước lạnh
- Bếp
- Hộp đựng kim nam châm
- Các sụng cụ cơ bản như kéo, kìm kẹp ,…
2. Cách làm
- Tách lưỡi lam ra thành hai mảnh, dung kéo cắt từng mảnh thành các
hình thoi bằng nhau
- Nung lưỡi lam trên bếp khoảng 15’
- Lấy phần lưỡi lam được nung ra, bỏ ngay vào nước lạnh, sau đó để gần
một nam châm vĩnh cửu
3. Thành công
- Nam châm làm ra có từ tính khá lớn, chỉ hướng bắc nam tương tự như la
bàn khi để trên giá đỡ
4. Nhược điểm
- Nam châm có kích thước hơi nhỏ, phần hộp đựng chưa được đẹp mắt
II. Thí nghiệm về sự tương tác giữa hai dòng điện thẳng song song
1. Dụng cụ
- Một bảng điện có giá đỡ
- Dây đồng 2 mm

- Dây đồng 0.1 mm
- Nguồn acquy 6v
2. Cách làm
- Thí nghiệm hai dòng điện cùng chiều
- Bố trí mach điện như hình 1. Nối thanh đồng bên trái với cực dương,
bên phải với cực âm của acquy. Khi đó hai sợi dây đồng đặt song song
xem như hai dòng điện.

23


Hình 1: Thí nghiệm về tương tác của hai dòng điện thẳng song song cùng chiều.

- Hai dòng điện ngược chiều
Thí nghiệm được bố trí như hình vẽ 2. Nối thanh ngoài cùng bên trái với
cực dương, bên phải với cực âm. Lúc này hai sợi dây đồng tương đương với hai
dòng điện ngược chiều.

24


Hình 2: Thí nghiệm về tương tác của hai dòng điện thẳng song song ngược chiều.

1. Thành công
Xảy ra sự tương tác giữa hai dòng điện.
2. Nhược điểm
- Tuy có xảy ra hiện tượng nhưng không được rõ, quan sát kỹ mới nhận
ra được.
- Mạch mắc không có điện trở nên có thể gây hiện tượng đoản mạch.
III. Thí nghiệm từ phổ của dòng điện thẳng

1. Dụng cụ
- Dây đồng 2mm (khoảng 50 cm)
- Giá đỡ bằng kim loại
- Miếng bìa alu
- Nguồn acquy 6v
- Mạt sắt
2. Cách làm
- Đục một lỗ nhỏ ở tấm bìa, cho thanh đồng đã chuẩn bị vào
- Rắc đều mạt sắt lên tấm bia. Nối hệ thống với nguồn điện. Sau đó gõ
nhẹ để mạt sắt dịch chuyển dễ hơn. Quan sát ht
3. Thành công
Có xuất hiện ht các mạt sắt sắp thành những vòng tròn đồng tâm xung
quanh đoạn dây dẫn.
4. Nhược điểm
Hiện tượng xảy chưa thật sự rõ nét như hình ảnh mô tả trong sách
giáo khoa.
IV. Mô hình quy tắc nắm tay phải xác định chiều đường sức từ của dòng
điện thẳng
1. Dụng cụ
25


×