Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.01 KB, 20 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU
Thi hành án dân sự là một nội dung cơ bản của tư pháp dân sự. Trong hoạt
động tư pháp, thi hành án dân sự có tác động trực tiếp đến hiệu quả của việc bảo về
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Khi có bản án dân sự của tòa án, không
ít người có nghĩa vụ thi hành án thường không tự nguyện, có tâm lý chây lỳ, trốn
tránh thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định, nên hay có hành vi tẩu tán, hủy
hoại tài sản nhằm làm mất đi điều kiện thi hành án. Để ngăn chặn các hành vi nêu
trên của người phải thi hành án, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ
sung năm 2014 đã quy định các biện pháp bảo đảm thi hành án để đáp ứng đòi hỏi
của thực tiễn công tác thi hành án dân sự trong đó có biện pháp tạm giữ tài sản,
giấy tờ đương sự. Nhằm làm rõ hơn về thủ tục cũng như về nội dung của biện pháp
này, em xin chọn đề tài “nêu nội dung cơ bản của thủ tục áp dụng biện pháp tạm
giữ tài sản, giấy tờ của đương sự”. Qua đó, phân tích nội dung, thủ tục của biện
pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ đương sự và đưa ra một số kiến nghị, giải pháp để bảo
đảm được quyền lợi của đương sự, cũng như cho việc thi hành án dân sự được
thuận lợi. Đề tài của em được chia thành 3 chương:
Chương 1: Khái quát về biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự
Chương 2: Thủ tục áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự.
Chương 3: Đánh giá và kiến nghị về biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của
đương sự.


B. NỘI DUNG
Chương 1: Khái quát về biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự
1.1 Khái niệm:
Trong quá trình tổ chức thi hành án dân sự, người được thi hành án có thể yêu
cầu cơ quan thi hành án dân sự áp dụng những biện pháp mang tính quyền lực nhà
nước, đặt tài sản của người phải thi hành án trong tình trạng bị hạn chế quyền sử
dụng, định đoạt nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, định đoạt tài sản để trốn thành việc
thi hành án. Nên để hiểu rõ hơn về biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ đương sự
trước hết ta cần tìm hiểu rõ một số khái niệm như sau:


Thứ nhất, thủ tục thi hành án dân sự. Thủ tục thi hành án dân sự là trình tự,
thủ tục thi hành bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu
tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự
trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính
của Toà án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên
phải thi hành án của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của Trọng tài
thương mại (sau đây gọi chung là bản án, quyết định).
Thứ hai, đương sự. Theo Điều 3 Luật thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ
sung 2014 quy định: “đương sự bao gồm người được thi hành án, người phải thi
hành án”. Người được thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng quyền,
lợi ích trong bản án, quyết định được thi hành. Người phải thi hành án là cá nhân,
cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành.
Thứ ba, biện pháp bảo đảm. Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự là biện
pháp pháp lí mang tính quyền lực nhà nước, do đó trong trường hợp cần thiết chỉ
cần có căn cứ cho rằng tài sản mà người phải thi hành án hoặc người thứ ba đang
quản lí, sử dụng thuộc sở hữu của người phải thi hành án là cơ quan thi hành án


dân sự có thể áp dụng biện pháp này. Sau khi đã áp dụng các biện pháp bảo đảm thi
hành án dân sự, nếu người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án và nếu có
căn cứ khẳng định tài sản đó thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án thì cơ
quan thi hành án có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự phù hợp.
Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự là biện pháp pháp lí đặt tài sản của
người phải thi hành án trong trình trạng bị hạn chế hoặc cấm sử dụng, định đoạt
nhằm ngăn chặn việc người phải thi hành án tẩu tán, định đoạt tài sản trốn tránh
việc thi hành án và đôn đốc họ tự nguyện thực hiện nghĩa vụ thi hành án của mình
do chấp hành viên áp dụng trước khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân
sự.1
Thứ tư, tạm giữ tài sản của đương sự. Tạm giữ tài sản của đương sự là biện
pháp đảm bảo thi hành án được tiến hành trên các động sản của người phải thi hành

án, đặt những động sản này trong tình trạng bị hạn chế quyền sử dụng, định đoạt
nhằm ngăn chăn việc người phải thi hành án tẩu án, hủy hoại tài sản để trốn tránh
việc thi hành án.2 Ví dụ: xe ô tô con, hay bàn ghế gỗ,…
Thứ năm, tạm giữ giấy tờ của đương sự. Tạm giữ giấy tờ của đương sự là biện
pháp bảo đảm thi hành án dân sự được tiến hành trên các động sản phải đăng ký
quyền sở hữu, giấy tờ có giá hoặc bất động sản của người phải thi hành án, đặt
những động sản và bất động sản này trong tình trạng bị hạn chế quyền sử dụng,
định đoạt nhằm ngăn chăn việc người phải thi hành án tẩu án, hủy hoại tài sản để
trốn tránh việc thi hành án. Ví dụ: giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận quyền sở hữu trí tuệ,…
Tr 187, Giáo trình Luật thi hành án dân sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà
Nội, NXB Công án nhân dân, 2012.
1

Tr 190, Giáo trình Luật thi hành án dân sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà
Nội, NXB Công án nhân dân, 2012.
2


1.2 Đặc điểm biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự
Theo những nhà làm luật, biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự có 3 đặc
điểm như sau:
Thứ nhất, đối tượng bị áp dụng biện pháp đảm bảo là tài sản, tài khoản, giấy
tờ, đây là các đối tượng sẽ có khả năng được xử lý để thi hành án dân sự.
Thứ hai, vì mục đích của các biện pháp bảo đảm thi hành án là để ngăn chặn
hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án nên căn cứ khoản 1
điều 66 Luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi, bổ sung 2014 thì khi thực hiện biện
pháp đảm bảo thi hành án dân sự chấp hành viên không phải thông báo trước cho
đương sự.
Thứ ba, căn cứ thực hiện các biện pháp bảo đảm thông qua yêu cầu của đương

sự hoặc chấp hành viên tự mình ra quyết định áp dụng khi thấy cần thiết. Bởi đây
là quyền của người được thi hành án, việc yêu cầu này đảm bảo cho quyền lợi của
họ. Đồng thời là nhiệm vụ và nghĩa vụ của chấp hành viên khi thi hành án dân sự.
Nhưng trường hợp đương sự yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân
sự không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành
án dân sự hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường. Trường hợp chấp hành viên
tự mình áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự không đúng hoặc chấp
hành viên ra quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự vượt quá,
không đúng theo yêu cầu của đương sự mà gây ra thiệt hại thì chấp hành viên phải
chịu trách nhiệm trước pháp luật. Bởi việc ra quyết định dùng biện pháp bảo đảm
khi thấy có dấu hiệu tẩu tán, hủy hoại tài sản của người phải thi hành án cũng chỉ
căn cứ theo phán đoán của người yêu cầu hoặc chấp hành viên và có thể phán đoán


hay quyết định đó không đúng gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người bị áp dụng
biện pháp đảm bảo.3
Chương 2: Thủ tục áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự.
2.1 Đối tượng của biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự.
Theo điều 105 Bộ luật dân sự 2015 quy định về tài sản: “1. Tài sản là vật,
tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. 2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản.
Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong
tương lai.”
Theo đó, đối tượng của biện pháp tạm giữ tài sản phải đáp ứng thỏa mãn điều
kiện về tài sản của Bộ luật dân sự vì vậy nên ta có thể chia đối tượng của biện pháp
tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự ra làm 3 loại:
Thứ nhất, là những tài sản, giấy tờ được xác định một cách rõ ràng, cụ thể
trong bản án, quyết định là đối tượng của nghĩa vụ thi hành án, liên quan đến việc
thi hành án như nghĩa vụ trả lại tài sản, giấy tờ đó.
Thứ hai, là các tài sản, giấy tờ đã được bản án, quyết định được thi hành tuyên
kê biên để đảm bảo thi hành án.

Thứ ba, là các tài sản, giấy tờ đó có thể là các tài sản, giấy tờ không được
tuyên, không được xác định trong bản án, quyết định được thi hành nhưng có thể
kê biên, xử lý để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán.4
2.2 Chủ thể tiến hành

/>4 Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự, Phan Huy Hiếu - Luận văn Thạc Sĩ, năm
2012.
3


Theo khoản 1 Điều 66 Luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi, bổ sung 2014
quy định: “Chấp hành viên có quyền tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của
đương sự áp dụng ngay biện pháp bảo đảm thi hành án nhằm ngăn chặn việc tẩu
tán, huỷ hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án. Khi áp dụng biện pháp bảo đảm
thi hành án, Chấp hành viên không phải thông báo trước cho đương sự”. Từ đó ta
thấy được nếu thấy có cơ sở về việc người phải thi hành án có dấu hiệu tẩu tán, hủy
hoại tài sản hay trốn tránh việc thi hành án thì Chấp hành viên có quyền áp dụng
biện pháp bảo đảm thi hành án đó.
Hoặc có thể nếu Chấp hành viên trong quá trình thi hành án không biết được
người phải chấp hành thi hành án có dấu hiệu tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh
việc thi hành án nhưng có người yêu cầu Chấp hành viên áp dụng biện pháp bảo
đảm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình. Trường hợp yêu
cầu áp dụng biện pháp bảo đảm không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng
biện pháp bảo đảm hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường.5
2.3 Thủ tục áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự:
Thủ tục của biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự có 3 bước như
sau: đầu tiên, xác định tài sản, giấy tờ cần tạm giữ (thường tài sản tạm giữ phải có
giá trị tương đương và đang do đương sự quản lý, sử dụng); tiếp đến, ban hành
quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ; cuối cùng, lập biên bản về việc tạm giữ tài sản,
giấy tờ.

Đầu tiên, xác định tài sản, giấy tờ cần tạm giữ. Theo quy định tại khoản 1
Điều 68 Luật Thi hành án dân sự 2008 sửa đổi, bổ sung 2014 thì Chấp hành viên
đang thực hiện nhiệm vụ thi hành án có quyền tạm giữ hoặc yêu cầu cơ quan, tổ
chức, cá nhân hỗ trợ để tạm giữ tài sản, giấy tờ mà đương sự đang quản lý, sử
5

Khoản 2 Điều 66 Luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi, bổ sung 2014


dụng. Có thể thấy, đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ không
chỉ là người phải thi hành án, mà cả người được thi hành án nếu họ đang quản lý,
sử dụng tài sản, giấy tờ của người phải thi hành án.
Các tài sản, giấy tờ tạm giữ là các tài sản, giấy tờ có liên quan đến việc thi
hành án như: giấy đăng ký xe môtô, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… hoặc
các tài sản có thể xử lý được để thi hành án. Khi áp dụng biện pháp này, Chấp hành
viên cần lưu ý nghiên cứu các tài sản không được kê biên theo qui định do pháp
luật quy định. Theo Điều 87 Luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi, bổ sung 2014
quy định về tài sản không được kê biên: “1. Tài sản bị cấm lưu thông theo quy
định của pháp luật; tài sản phục vụ quốc phòng, an ninh, lợi ích công cộng; tài sản do
ngân sách nhà nước cấp cho cơ quan, tổ chức.
2. Tài sản sau đây của người phải thi hành án là cá nhân:
a) Số lương thực đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người phải thi hành án và gia đình
trong thời gian chưa có thu nhập, thu hoạch mới;
b) Số thuốc cần dùng để phòng, chữa bệnh của người phải thi hành án và gia đình;
c) Vật dụng cần thiết của người tàn tật, vật dụng dùng để chăm sóc người ốm;
d) Đồ dùng thờ cúng thông thường theo tập quán ở địa phương;
đ) Công cụ lao động cần thiết, có giá trị không lớn được dùng làm phương tiện sinh
sống chủ yếu hoặc duy nhất của người phải thi hành án và gia đình;
e) Đồ dùng sinh hoạt cần thiết cho người phải thi hành án và gia đình.
3. Tài sản sau đây của người phải thi hành án là doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở

sản xuất, kinh doanh, dịch vụ:
a) Số thuốc phục vụ việc phòng, chữa bệnh cho người lao động; lương thực, thực
phẩm, dụng cụ và tài sản khác phục vụ bữa ăn cho người lao động;
b) Nhà trẻ, trường học, cơ sở y tế và thiết bị, phương tiện, tài sản khác thuộc các cơ
sở này, nếu không phải là tài sản để kinh doanh;


c) Trang thiết bị, phương tiện, công cụ bảo đảm an toàn lao động, phòng, chống
cháy nổ, phòng, chống ô nhiễm môi trường.”
Trong trường hợp cần thiết, chấp hành viên có thể yêu cầu lực lượng cảnh sát
hoặc tổ chức, cá nhân khác hỗ trợ việc tạm giữ giấy tờ, tài sản của người phải thi
hành án. Như vậy, khi áp dụng biện pháp này, chấp hành viên không phải xác
minh, mà nghĩa vụ chứng minh thuộc về người phải thi hành án.
Tiếp đến, ban hành quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ.
Theo khoản 2 Điều 68 Luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi, bổ sung 2014
quy định: “Quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ phải xác định rõ loại tài sản, giấy
tờ bị tạm giữ. Chấp hành viên phải giao quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ cho
đương sự hoặc tổ chức, cá nhân đang quản lý, sử dụng.
Trường hợp cần tạm giữ ngay tài sản, giấy tờ mà chưa ban hành quyết định
tạm giữ tài sản, giấy tờ thì Chấp hành viên yêu cầu giao tài sản, giấy tờ và lập
biên bản về việc tạm giữ.
Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi lập biên bản, Chấp hành viên phải ban hành
quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ. Biên bản, quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ
phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.”
Theo đó, khi có quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ thì Chấp hành viên phải
xác định rõ loại tài sản là gì hay giấy tờ bị tạm giữ là gì. Như xe ô tô, xe máy hay
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,… Và đồng thời khi xác định rõ loại tài sản,
giấy tờ bị tạm giữ Chấp hành viên phải gửi quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ đó
cho đương sự, tổ chức hoặc cá nhân đang quản lý sử dụng.
Vì biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ là biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự

nên sẽ có trường hợp khẩn cấp mà Chấp hành viên chưa ban hành được quyết định
tạm giữ tài sản, giấy tờ thì Chấp viên yêu cầu đương sự, tổ chức hoặc cá nhân đang


quản lý sử dụng giao tài sản, giấy tờ đó và được lập biên bản về việc tạm giữ này.
Nhưng trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi lập biên bản, Chấp hành viên phải ban hành
quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ. Biên bản, quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ
phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.
Cuối cùng, lập biên bản về việc tạm giữ tài sản, giấy tờ
Khi tạm giữ tài sản, giấy tờ phải lập biên bản có chữ ký của Chấp hành viên
và người đang quản lý, sử dụng tài sản, giấy tờ.6 Biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ
của đương sự là biện pháp bảo đảm nên Chấp hành viên không cần phải thông báo
cho đương sự biết. Vì vậy ở thực tế sẽ xảy ra nhiều trường hợp đương sự không ký
làm khó cơ quan chức năng dẫn đến sự khó khăn trong việc thi hành án dân sự.
Nên ở những trường hợp người đang quản lý, sử dụng tài sản, giấy tờ không ký thì
phải có chữ ký của người làm chứng và biên bản tạm giữ tài sản, giấy tờ phải được
giao cho người quản lý, sử dụng tài sản, giấy tờ.
Tại nghị định 62/2015/NĐ-CP thay thế nghị định 58/2009/NĐ-CP quy định về
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự ở Điều 18
quy định rằng: “1. Trong trường hợp cần thiết, Chấp hành viên yêu cầu lực lượng
công an hoặc tổ chức, cá nhân khác hỗ trợ việc tạm giữ tài sản, giấy tờ để thi hành
án.
2. Biên bản tạm giữ tài sản, giấy tờ phải ghi rõ tên người bị tạm giữ tài sản,
giấy tờ; loại tài sản, giấy tờ bị tạm giữ; số lượng, khối lượng, kích thước và các
đặc điểm khác của tài sản, giấy tờ bị tạm giữ.
Tài sản tạm giữ là tiền mặt thì phải ghi rõ số lượng tờ, mệnh giá các loại tiền,
nếu là ngoại tệ thì phải ghi là tiền nước nào và trong trường hợp cần thiết còn
phải ghi cả số sê ri trên tiền.
6


Khoản 3 Điều 68 Luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi, bổ sung 2014


Tài sản tạm giữ là kim khí quý, đá quý phải niêm phong trước mặt người bị
tạm giữ tài sản hoặc thân nhân của họ. Trường hợp người bị tạm giữ tài sản, giấy
tờ hoặc thân nhân của họ không đồng ý chứng kiến việc niêm phong thì phải có
mặt của người làm chứng. Trên niêm phong phải ghi rõ loại tài sản, số lượng, khối
lượng và các đặc điểm khác của tài sản đã niêm phong, có chữ ký của Chấp hành
viên, người bị tạm giữ hoặc thân nhân của họ hoặc người làm chứng. Việc niêm
phong phải ghi vào biên bản tạm giữ tài sản.
Tài sản, giấy tờ tạm giữ được bảo quản theo quy định tại Điều 58 Luật Thi
hành án dân sự.
3. Khi trả lại tài sản, giấy tờ tạm giữ, Chấp hành viên yêu cầu người đến
nhận xuất trình các giấy tờ chứng minh là người bị tạm giữ tài sản, giấy tờ hoặc là
người được người đó ủy quyền.
Chấp hành viên yêu cầu người đến nhận kiểm tra về số lượng, khối lượng,
kích thước và các đặc điểm khác của tài sản, giấy tờ bị tạm giữ dưới sự chứng kiến
của thủ kho cơ quan thi hành án dân sự hoặc người được giao bảo quản.
Việc trả lại tài sản, giấy tờ phải lập thành biên bản.
4. Trường hợp trả lại tài sản, giấy tờ tạm giữ mà đương sự không nhận thì cơ
quan thi hành án dân sự xử lý theo quy định tại Khoản 2, 3 và 4 Điều 126 Luật Thi
hành án dân sự.”
Theo đó tại khoản 2 Điều này quy định về cách lập biên bản của Chấp hành
viên như sau: biên bản tạm giữ tài sản, giấy tờ phải ghi rõ tên người bị tạm giữ tài
sản, giấy tờ; loại tài sản, giấy tờ bị tạm giữ; số lượng, khối lượng, kích thước và
các đặc điểm khác của tài sản, giấy tờ bị tạm giữ. Đối với Tài sản tạm giữ là tiền
mặt thì phải ghi rõ số lượng tờ, mệnh giá các loại tiền, nếu là ngoại tệ thì phải ghi
là tiền nước nào và trong trường hợp cần thiết còn phải ghi cả số sê ri trên tiền. Đối



với tài sản tạm giữ là kim khí quý, đá quý phải niêm phong trước mặt người bị tạm
giữ tài sản hoặc thân nhân của họ.
Với việc tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự thì đồng nghĩa với đó cơ quan
thi hành án, Chấp hành viên phải đáp ứng theo điều 58 Luật thi hành án dân sự
2008 sửa đổi, bổ sung 2014: “1. Việc bảo quản tài sản thi hành án được thực hiện
bằng một trong các hình thức sau đây:
a) Giao cho người phải thi hành án, người thân thích của người phải thi hành
án theo quy định tại khoản 2 Điều 40 của Luật này hoặc người đang sử dụng, bảo
quản;
b) Cá nhân, tổ chức có điều kiện bảo quản;
c) Bảo quản tại kho của cơ quan thi hành án dân sự.
2. Tài sản là kim khí quý, đá quý, tiền hoặc giấy tờ có giá được bảo quản tại
Kho bạc nhà nước.
3. Việc giao bảo quản tài sản phải được lập biên bản ghi rõ loại tài sản, tình
trạng tài sản, giờ, ngày, tháng, năm giao; họ, tên Chấp hành viên, đương sự,
người được giao bảo quản, người làm chứng, nếu có; quyền, nghĩa vụ của người
được giao bảo quản tài sản và có chữ ký của các bên. Trường hợp có người từ
chối ký thì phải ghi vào biên bản và nêu rõ lý do.
Người được giao bảo quản tài sản quy định tại điểm b khoản 1 Điều này được trả
thù lao và được thanh toán chi phí bảo quản tài sản. Thù lao và chi phí bảo quản
tài sản do người phải thi hành án chịu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
4. Biên bản giao bảo quản tài sản được giao cho đương sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan, người được giao bảo quản tài sản hoặc người đang sử
dụng, bảo quản tài sản và lưu hồ sơ thi hành án.
5. Người được giao bảo quản tài sản vi phạm quy định của pháp luật trong
việc bảo quản tài sản thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành


chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải
bồi thường theo quy định của pháp luật.”

Khi bản án được thi hành thì việc trả lại tài sản, giấy tờ tạm giữ, Chấp hành
viên yêu cầu người đến nhận xuất trình các giấy tờ chứng minh là người bị tạm giữ
tài sản, giấy tờ hoặc là người được người đó ủy quyền. Chấp hành viên yêu cầu
người đến nhận kiểm tra về số lượng, khối lượng, kích thước và các đặc điểm khác
của tài sản, giấy tờ bị tạm giữ dưới sự chứng kiến của thủ kho cơ quan thi hành án
dân sự hoặc người được giao bảo quản. Việc trả lại tài sản, giấy tờ phải lập thành
biên bản.7 Nhưng cũng những trường hợp trả lại tài sản, giấy tờ tạm giữ mà đương
sự không nhận thì cơ quan thi hành án dân sự xử lý theo quy định tại Khoản 2, 3 và
4 Điều 126 Luật Thi hành án dân sự 2008 sửa đổi, bổ sung 2014. Theo đó tại
Khoản 2,3,4 Điều 126 quy định: “2. Sau khi có quyết định trả lại tiền, tài sản tạm
giữ, Chấp hành viên thông báo cho đương sự thời gian, địa điểm nhận lại tiền, tài
sản.
Hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được thông báo mà đương sự không đến
nhận tiền thì Chấp hành viên gửi số tiền đó theo hình thức tiết kiệm không kỳ hạn
và thông báo cho đương sự.
Hết thời hạn 03 tháng, kể từ ngày được thông báo nhưng đương sự không đến
nhận tài sản mà không có lý do chính đáng thì Chấp hành viên xử lý tài sản theo
quy định tại các điều 98, 99 và 101 của Luật này và gửi số tiền thu được theo hình
thức tiết kiệm không kỳ hạn, đồng thời thông báo cho đương sự.
Hết thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật mà
đương sự vẫn không đến nhận số tiền đã được gửi tiết kiệm mà không có lý do
chính đáng thì cơ quan thi hành án dân sự làm thủ tục sung quỹ nhà nước.

7

Khoản 2 Điều 18 Nghị định 62/2015/NĐ-CP


3. Đối với tài sản không bán được hoặc bị hư hỏng không còn giá trị sử dụng
thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định tiêu huỷ và tổ chức

tiêu huỷ tài sản theo quy định tại Điều 125 của Luật này.
Đối với giấy tờ liên quan đến tài sản, nhân thân của đương sự thì hết thời hạn
01 năm, kể từ ngày thông báo nếu đương sự không đến nhận, Chấp hành viên làm
thủ tục chuyển giao cho cơ quan đã ban hành giấy tờ đó xử lý theo quy định.
4. Trường hợp tài sản trả lại là tiền Việt Nam, ngoại tệ bị hư hỏng không còn sử
dụng được do lỗi của các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án dân sự
trong quá trình bảo quản và đương sự từ chối nhận thì cơ quan thi hành án dân sự
đề nghị Ngân hàng nhà nước đổi tiền mới có giá trị tương đương để trả cho đương
sự.
Đối với tài sản là tiền Việt Nam, ngoại tệ bị hư hỏng không còn sử dụng được
không do lỗi của các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án dân sự mà
đương sự từ chối nhận thì cơ quan thi hành án dân sự giao cho Ngân hàng nhà
nước xử lý theo quy định của pháp luật.”
Từ đó ta có thể thấy, trình tự thủ tục về biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ
đương sự nhanh chóng về thời gian, đơn giản về thủ tục tạo thuận lợi cho chấp
hành viên có thể kịp thời ngăn chặn hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản, đảm bảo cho
cơ quan thi hành án áp dụng các biện pháp cưỡng chế để thi hành án nếu người
phải thi hành án không tự nguyện thi hành án.
Chương 3: Đánh giá và kiến nghị về biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của
đương sự.
3.1 Đánh giá biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự
Theo số liệu thống kê kết quả thi hành áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án
từ 01/10/2014 đến 30/9/2015 trên toàn quốc cho thấy: số việc áp dụng biện pháp
phong tỏa tài khoản là 760 việc, áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ là 94


việc, áp dụng biện pháp tạm dừng đăng ký, chuyển dịch tài sản là 2521 việc; có
đơn vị chưa ra quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm nào như Bến Tre, Quảng
Bình, Cao Bằng, Bắc Kạn..., hoặc có đơn vị áp dụng rất ít (dưới 05 việc) như Hải
Dương, Trà Vinh, Hưng Yên, Hà Tĩnh...8. Từ đó ta có thể đánh giá như sau:

Thứ nhất, Luật Thi hành án dân sự 2008 đã bổ sung kịp thời quyền hạn cho
các chấp hành viên trong việc tạm giữ giấy tờ, tài sản để đảm bảo thi hành án dân
sự mà từ trước đến nay pháp luật còn đang thiếu sót. Từ đó, Chấp hành viên ngày
càng có vai trò quan trọng trong thi hành án dân sự.
Thứ hai là, trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ
được quy định trong Luật Thi hành án dân sự 2008 sửa đổi, bổ sung 2014 khá tinh
gọn, nhanh chóng về thời gian, đơn giản về thủ tục tạo thuận lợi cho Chấp hành
viên có thể kịp thời ngăn chặn hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản.
Chấp hành viên có thể áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giầy tờ ở bất kỳ giai
đoạn nào trong quá trình thi hành án , ngay cả trong trường hợp chưa xác định
được chủ sở hữu của tài sản, khi áp dụng biện pháp bảo đảm chấp hành viên không
cần phải thông báo trước cho đương sự, tránh được việc đương sự có hành vi tẩu
tán, hủy hoại tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.
Thứ ba là, người yêu cầu chấp hành viên áp dụng biện pháp bảo đảm phải
chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình. Trường hợp yêu cầu áp
dụng biện pháp bảo đảm không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện
pháp bảo đảm hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường 9. Pháp luật nước ta hiện
nay đề cao tính tự nguyện, tự giác khi chấp hành việc thi hành án. Việc điều luật
/>9 Khoản 2 Điều 66 Luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi, bổ sung 2014
8


quy định như thế này sẽ đề cao trách nhiệm của người yêu cầu áp dụng biện pháp
tạm giữ tài sản, giấy tờ thi hành án trước pháp luật, theo hướng nếu yêu cầu của họ
không đúng dẫn đến thiệt hại cho quyền lợi của người bị áp dụng biện pháp bảo
đảm hoặc cho người thứ ba thì họ phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Thứ tư, mặc dù Luật Thi hành án dân sự trao quyền cho Chấp hành viên được
áp dụng các biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ thi hành án tại bất cứ thời điểm nào
của quá trình thi hành án, nhằm ngăn chặn hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản của
người phải thi hành án. Tuy nhiên, nếu không có được sự phối hợp của các cơ quan

nhất là lực lượng tại chỗ như công an xã, trưởng thôn…, thì Chấp hành viên hoàn
rất khó thực hiện được nhiệm vụ này trong thực tết. Nên ở khi sửa đổi, bổ sung
Luật Thi hành án dân sự năm 2014 đã quy định rõ hơn trách nhiệm của cơ quan, tổ
chức và bổ sung trách nhiệm của cá nhân hữu quan trong việc thực hiện quyết định
tạm giữ tài sản, giấy tờ. Theo đó, cơ quan, tổ chức cá nhân hữu quan có trách
nhiệm phối hợp, hỗ trợ, thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên trong việc tạm giữ
tài sản, giấy tờ.10 Quy định này đã nhấn mạnh trách nhiệm phối hợp của cơ quan, tổ
chức và cá nhân có liên quan chứ không phải chỉ là việc tham gia hỗ trợ, từ đó làm
cho việc công tác thi hành án dân sự có hiệu quả hơn.
Thứ năm là, thực tiễn áp dụng Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Luật sửa
đổi, bổ sung 2014 đã quy định rõ hơn việc tạm giữ tài sản, giấy tờ phải bằng hình
thức quyết định bằng cách phải xác định rõ loại tài sản, giấy tờ bị tạm giữ. Quy
định này nhằm khắc phục tình trạng không rõ ràng của Luật Thi hành án dân sự
2008 không quy định Chấp hành viên phải ban hành quyết định mà chỉ yêu cầu lập
biên bản tạm giữ tài sản, giấy tờ. Việc khẳng định hình thức áp dụng biện pháp bảo
đảm thi hành án bằng quyết định sẽ tạo cơ sở pháp lý vững chắc hơn cho Chấp
hành viên thực hiện nhiệm vụ này. Trong trường hợp Chấp hành viên chưa kịp ra
10

Khoản 1 Điều 68 Luật thi hành án dân sư 2008 sửa đổi, bổ sung 2014


quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ, để có thể thực hiện biện pháp bảo đảm tạm giữ
tài sản, giấy tờ, Luật sửa đổi, bổ sung đã quy định cách thức thực hiện tạm giữ tài
sản, giấy tờ trong trường hợp chưa ban hành quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ.
Trường hợp cần tạm giữ ngay tài sản, giấy tờ mà chưa ban hành quyết định tạm giữ
tài sản, giấy tờ thì Chấp hành viên yêu cầu giao tài sản, giấy tờ và lập biên bản về
việc tạm giữ. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi lập biên bản, Chấp hành viên phải
ban hành quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ. Biên bản, quyết định tạm giữ tài sản
phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.11

Thứ sáu, theo quy định tại Khoản 3 Điều 68 Luật Thi hành án dân sự năm
2008 thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tạm giữ tài sản, giấy tờ, Chấp hành
viên ra một trong hai quyết định quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành
án nếu xác định được tài sản, giấy tờ tạm giữ thuộc sở hữu của người phải thi hành
án; quyết định trả lại tài sản, giấy tờ tạm giữ cho đương sự trong trường hợp đương
sự chứng minh tài sản, giấy tờ tạm giữ không thuộc quyền sở hữu của người phải
thi hành án hoặc người phải thi hành án đã thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán theo
quyết định thi hành án. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy nhiều trường hợp cơ quan thi
hành án dân sự không đáp ứng được thời hạn trên, do khi tạm giữ tài sản thì mới
chỉ giả định tài sản là của người phải thi hành án, chưa đủ căn cứ đẻ xác định tài
sản là của người phải thi hành án. Vì vậy, Luật sửa đổi, bổ sung 2014 đã thay đổi
quy định về xử lý quyết định tạm giữ theo hướng chuyển đổi thời hạn 15 ngày
thành 10 ngày; thay đổi cách tính thời hạn thành kể từ ngày ra quyết định, Chấp
hành viên phải áp dụng biện pháp cưỡng chế hoặc chấm dứt việc tạm giữ. Như
theo quy định trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày có căn cứ xác định tài sản, giấy tờ
tạm giữ thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án, Chấp hành viên
phải ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định tại Chương IV của
11

Khoản 2 Điều 68 Luật thi hành án 2008 sửa đổi, bổ sung 2014


Luật này; trường hợp có căn cứ xác định tài sản, giấy tờ tạm giữ không thuộc
quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án hoặc thuộc quyền sở hữu, sử
dụng của người phải thi hành án nhưng đã thực hiện xong nghĩa vụ của mình thì
Chấp hành viên phải ra quyết định trả lại tài sản, giấy tờ cho người có quyền sở
hữu, sử dụng.12
3.2 Kiến nghị biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ
Thứ nhất, pháp luật mới chỉ đặt ra trách nhiệm bồi thường của người yêu cầu
áp dụng chứ chưa đặt ra trách nhiệm bồi thường của Chấp hành viên. Mặt khác, tuy

có đặt ra trách nhiệm bồi thường của người yêu cầu áp dụng nhưng pháp luật cũng
không quy định rõ hình thức và cách thức bồi thường. Nếu có thiệt hại thực tế xảy
ra do yêu cầu áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ không đúng thì rất khó để
xác định được giá trị bồi thường. Vì vậy luật thi hành án dân sự cần bổ sung những
quy phạm pháp luật mang tính rõ ràng, thiết thực hơn nữa như bổ sung quy định về
chấp hành viên phải bồi thường nếu xác định sai.
Thứ hai, cần nâng mức hình phạt nếu người bị áp dụng thi hành án dân sự có
hành vi như tẩu tán tài sản. Vì khi pháp luật “đánh” vào tài chính của đương sự thì
khi đó mới đủ sức răng đe họ.
Thứ ba, cần nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp
của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự.
Thứ tư, thực hiện tốt việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về thi
hành án dân sự, tạo ra những cuộc thi viết về luật thi hành án dân sự nói riêng và
pháp luật dân sự nói chung không chỉ trong cơ quan ban ngành mà còn trong nhà
trường hay trong đời sống người dân.

12

Khoản 5 Điều 68 Luật thi hành án 2008 sửa đổi, bổ sung 2014


Thứ năm, cần quy định rõ hơn về việc các cơ quan hỗ trợ với Chấp hành viên
như thế nào khi có hiện tượng tẩu tán tài sản, hủy hoại tài sản, không chấp hành thi
hành án để từ đó công tác thi hành án dân sự được hiệu quả hơn.


C. KẾT LUẬN
Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự có vai trò quan trọng trong việc thi
hành án dân sự nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh nghĩa vụ
thi hành án, đảm bảo hiệu lực thi hành của các bản án, bảo vệ quyền lợi cho người

được thi hành án.
Dưới góc nhìn của sinh viên ngành luật năm thứ ba về vấn đề còn nhiều khá
bàn luận này thì khó có thể tránh được thiếu sót. Chính vì vậy, em rất mong được
nhận sự đánh giá và góp ý của quý thầy cô sau khi đọc qua bài tiểu luận này. Em
xin chân thành cảm ơn!


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014.
2. Nghị định 58/2009/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của luật thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự.
3. Nghị định 62/2015/NĐ-CP quy định Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Thi hành án dân sự.
4. Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự, Phan Huy Hiếu - Luận văn Thạc Sĩ,
năm 2012.
5. Giáo trình Luật thi hành án dân sự Việt Nam , Trường Đại học Luật Hà Nội,
NXB Công án nhân dân, 2012
6. Và một số trang web: chuyentuvanluat.com, thabacninh.com,



×