Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh trường Trung học phổ thông Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (867.95 KB, 74 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

======

HOÀNG THỊ LINH

GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH
TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG VĂN LÂM,
TỈNH HƢNG YÊN HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học

HÀ NỘI - 2019


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

======

HOÀNG THỊ LINH

GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH
TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG VĂN LÂM,
TỈNH HƢNG YÊN HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học


ThS. NGUYỄN THỊ THÙY LINH

HÀ NỘI - 2019


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện khóa luận, ngoài sự cố gắng của bản thân, em
đã nhận được sự giúp đỡ của thầy cô và bạn bè. Em xin bày tỏ lời cảm ơn
chân thành nhất tới ThS. Nguyễn Thị Thùy Linh – người cô đã tận tình chỉ
bảo, giúp đỡ để em hoàn thành khóa luận này.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô giáo trong Khoa Giáo dục
Chính trị cùng các thầy cô trong trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã giảng
dạy, chỉ bảo em trong suốt thời gian qua.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô và các em học sinh
trường THPT Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên đã giúp đỡ cho em trong quá trình
làm khóa luận.
Em cũng xin bày tỏ lời cảm ơn tới gia đình cũng như bạn bè đã góp ý,
ủng hộ em hoàn thành khóa luận này.
Trong quá trình nghiên cứu, với điều kiện hạn chế về thời gian cũng
như kiến thức của bản thân nên khóa luận khó tránh khỏi những thiếu sót. Em
kính mong sự góp ý, chỉ bảo của quý thầy cô cũng như các bạn sinh viên.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Ngƣời thực hiện

Hoàng Thị Linh


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của ThS.

Nguyễn Thị Thùy Linh.
Em xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng em và các số liệu trong khóa luận
là trung thực. Nếu sai em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Ngƣời thực hiện

Hoàng Thị Linh


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT

Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

1

Trung học phổ thông

THPT

2

Giáo dục Công dân

GDCD


3

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNH, HĐH

4

Câu lạc bộ

CLB

5

Trung học Phổ thông Quốc gia

THPTQG


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu .............................................. 3
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu .................................................... 3
6. Ý nghĩa của đề tài .......................................................................................... 4
7. Kết cấu của đề tài .......................................................................................... 4
Chương 1 Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP
LUẬT CHO HỌC SINH TRƯỜNG THPT VĂN LÂM, TỈNH HƯNG

YÊN – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ............................................................. 5
1.1. Một số khái niệm cơ bản ............................................................................ 5
1.1.1. Khái niệm ý thức ..................................................................................... 5
1.1.2. Khái niệm pháp luật ................................................................................ 7
1.1.3. Khái niệm ý thức pháp luật ..................................................................... 9
1.1.4. Giáo dục ý thức pháp luật ..................................................................... 12
1.1.5. Khái niệm Học sinh............................................................................... 14
1.2. Những nội dung giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh Trung học
phổ thông ......................................................................................................... 14
1.2.1. Giáo dục sự hiểu biết về tri thức pháp luật ........................................... 15
1.2.2. Giáo dục thái độ chấp hành pháp luật ................................................... 16
1.2.3. Giáo dục niềm tin vào chủ trương, đường lối của Đảng và việc
thực thi pháp luật của Nhà nước trong cuộc sống........................................... 17


1.3. Sự cần thiết phải giáo dục ý thức pháp luật và những nhân tố ảnh
hưởng đến công tác giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh trường THPT
Văn Lâm, Tỉnh Hưng Yên .............................................................................. 19
1.3.1. Sự cần thiết phải giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh trường
THPT Văn Lâm, Tỉnh Hưng Yên ................................................................... 19
1.3.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc giáo dục ý thức pháp luật cho
học sinh trường THPT..................................................................................... 24
Chương 2 THỰC TRẠNG GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT CỦA
HỌC SINH TRƯỜNG THPT VĂN LÂM, TỈNH HƯNG YÊN VÀ
NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG ....................................................... 28
2.1. Vài nét khái quát về trường THPT Văn Lâm, Tỉnh Hưng Yên ............... 28
2.1.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội Tỉnh Hưng Yên và
đặc điểm của trường ........................................................................................ 28
2.1.2. Đặc điểm học sinh Trường THPT Văn Lâm, Tỉnh Hưng Yên ............. 31
2.2. Thực trạng giáo dục ý thức pháp luật của học sinh Trường THPT

Văn Lâm, Tỉnh Hưng Yên .............................................................................. 33
2.2.1. Về giáo dục tri thức pháp luật ............................................................... 33
2.2.2. Về thái độ chấp hành pháp luật của học sinh Trường Văn Lâm,
Tỉnh Hưng Yên................................................................................................ 36
2.2.3. Về niềm tin của các em học sinh Trường Văn Lâm, Hưng Yên vào
chính sách của Đảng và việc thực thi pháp luật của nhà nước ....................... 39
2.3. Nguyên nhân của thực trạng trên ............................................................. 41
2.3.1. Nguyên nhân của những thành tựu đã đạt được ................................... 41
2.3.2. Nguyên nhân của những mặt hạn chế ................................................... 43
Chương 3 MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT
CHO HỌC SINH TRƯỜNG THPT VĂN LÂM, TỈNH HƯNG YÊN
HIỆN NAY ...................................................................................................... 47


3.1. Đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy môn Giáo dục công dân ...... 47
3.1.1. Về nội dung ........................................................................................... 47
3.1.2. Đổi mới phương pháp dạy học môn GDCD ......................................... 50
3.2. Cần phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong
quá trình học tập, tìm hiểu pháp luật và tăng cường xây dựng, hoàn thiện
tủ sách pháp luật trong nhà trường .................................................................. 54
3.2.1. Cần phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong
quá trình học tập, tìm hiểu pháp luật ............................................................... 54
3.2.2. Tăng cường xây dựng, hoàn thiện tủ sách pháp luật trong nhà
trường .............................................................................................................. 55
3.3. Phát huy vai trò của các chủ thể giáo dục ................................................ 56
3.3.1. Tỉnh Ủy,Ủy Ban nhân dân Tỉnh Hưng Yên cần khắc phục điều
kiện kinh tế - xã hội còn nhiều hạn chế ở Hưng Yên tạo điều kiện cơ sở
vật chất cho công tác giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh THPT trên
địa bàn tỉnh ...................................................................................................... 56
3.3.2. Tăng cường sự kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong

hoạt động giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh THPT Văn Lâm, Hưng
Yên .................................................................................................................. 58
PHẦN KẾT LUẬN ......................................................................................... 62
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 63


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nước ta đang ở trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong bối
cảnh thế giới có nhiều biến động, xu thế toàn cầu hóa, tác động đến tất cả các
quốc gia, đem lại cho chúng ta nhiều thuận lợi cũng như những thách thức về
mọi mặt của đời sống - xã hội. Đặc biệt, khi đất nước đang thực hiện đổi mới,
chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đã và đang đặt ra nhiều yêu cầu
cấp bách, trong đó, chú trọng vào công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật,
đồng thời, từng bước nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của
người dân.
Học sinh THPT là đối tượng nhiều chịu ảnh hưởng đối với sự biến
động của đất nước. Các em là lứa tuổi đang trưởng thành, rất dễ bị tác động
và chi phối bởi những yếu tố bên ngoài. Những nhu cầu muốn thể hiện bản
thân… khiến các em muốn tự mình đưa ra quyết định phù hợp với nhận thức
của bản thân, nhưng chính những trở ngại của sự phát triển tâm lý, thiếu kinh
nghiệm sống và đặc biệt là thiếu sự hiểu biết về pháp luật đã ảnh hưởng tới
hành vi của các em. Nên hơn bao giờ hết, các em cần sự quan tâm, giáo dục từ
phía gia đình và nhà trường để hoàn thiện nhân cách.
Trường THPT Văn Lâm là một trong những trường nằm trong tỉnh
Hưng Yên, rất quan tâm tới công tác đổi mới và phát triển giáo dục. Học sinh
trong nhà trường rất năng động, sáng tạo, tích cực tham gia các hoạt động
giáo dục của nhà trường.“Tuy nhiên, trước sự mở rộng hội nhập của đất nước
nói chung và của tỉnh Hưng Yên nói riêng đã tác động không nhỏ tới lối sống

và suy nghĩ của các bạn học sinh. Tình trạng vi phạm pháp luật, lối sống thực
dụng cực đoan, tự do, những hội nhóm bạo lực,…“đã xuất hiện ở một bộ phận

1


không nhỏ học sinh trong trường gây ra những hậu quả hết sức nghiêm
trọng.”Thực trạng này đã có ảnh hưởng không nhỏ tới việc hình thành và phát
triển nhân cách của học sinh. Đây là một bài toán đặt ra cho nhà trường cũng
như cho toàn xã hội giải pháp nhằm hình thành và nâng cao ý thức pháp luật
cho học sinh THPT. Do đó,“việc giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh
THPT là việc rất cần thiết, từ đó làm tiền đề hình thành ý thức pháp luật cho
cuộc sống sau này của các em, góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và
phát triển đất nước.”Chính vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài “Giáo dục ý thức
pháp luật cho học sinh trường THPT Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên hiện nay” làm
đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
“Vấn đề giáo dục ý thức pháp luật học sinh THPT là đề tài thu hút
nhiều người quan tâm nghiên cứu. Tiêu biểu trong số đó có một số công trình
đã được công bố dưới dạng: luận văn, luận án, báo chí…cụ thể”là:
- Giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh THPT ở tỉnh Yên Bái hiện nay,
Luận văn Thạc sĩ Triết học của Nguyễn Thị Quỳnh Nga, Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013.
- Giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh THPT tỉnh Phú Thọ trong tình hình
hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Triết học của Nguyễn Thị Thu Thủy, Trung tâm
Bồi dưỡng Giảng viên Lí luận chính trị, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008.
Nhìn chung, các đề tài trên đều cho thấy vai trò của pháp luật trong nền
kinh tế thị trường hiện nay, đặc biệt cho thấy vai trò của pháp luật đối với quá
trình hình thành và phát triển nhân cách của học sinh trung học phổ thông.
Các công trình nghiên cứu đã cho thấy được tính cấp thiết của đề tài, cho thấy

những biểu hiện của nó ở những khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, các đề tài
được nghiên cứu ở thời gian khá xa, sẽ có những điểm không còn phù hợp với
điều kiện của xã hội và đặc điểm học sinh hiện nay. Vì vậy, việc nghiên cứu

2


về vấn đề giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh THPT là việc làm cấp thiết,
đặc biệt là đối với học sinh trường THPT Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên hiện nay,
góp phần hình thành và nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh cũng như
người dân trong tỉnh, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực trạng về giáo dục ý thức pháp
luật cho học sinh THPT và nguyên nhân của thực trạng, từ đó đề xuất một số
biện pháp giáo dục góp phần nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh trường
THPT Văn Lâm, Tỉnh Hưng Yên hiện nay.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận có liên quan đến giáo dục ý thức
pháp luật và vai trò của việc giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh hiện nay.
- Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra trong việc giáo dục ý thức pháp
luật cho học sinh, đặc biệt là học sinh trường THPT Văn Lâm, Tỉnh Hưng
Yên.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản góp phần nâng cao ý thức pháp luật cho học
sinh trường THPT Văn Lâm, Tỉnh Hưng Yên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng giáo dục ý thức pháp luật của học sinh trường
THPT Văn Lâm, Tỉnh Hưng Yên, khóa học sinh từ K50 đến K52 (từ 2015 –
2018).
5. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận
-“Dựa trên những quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về những vấn đề có liên
quan đến đề tài.”

3


5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Trên cơ sở phương pháp biện chứng duy vật và các phương pháp như: Phân
tích, tổng hợp, điều tra, thống kê, khảo sát….
6. Ý nghĩa của đề tài
-“Đề tài làm rõ những khái niệm liên quan tới ý thức pháp luật, tầm quan
trọng của việc giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh THPT nói chung và học
sinh trường THPT Văn Lâm nói riêng.”
-“Dựa trên việc phân tích những thực trạng và nguyên nhân của đề tài, đưa ra
những giải pháp nhằm giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh THPT Văn
Lâm, Tỉnh Hưng Yên, góp phần vào quá trình hình thành nhân cách của học
sinh.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Khóa
luận gồm 3 chương và 9 tiết:
Chương 1: Ý thức pháp luật và giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh trường
THPT Văn Lâm, Tỉnh Hưng Yên – Một số vấn đề lý luận
Chương 2: Thực trạng giáo dục ý thức pháp luật của học sinh trường THPT
Văn Lâm, Tỉnh Hưng Yên và nguyên nhân của thực trạng
Chương 3: Một số biện pháp giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh trường
THPT Văn Lâm, Tỉnh Hưng Yên hiện nay

4



Chƣơng 1
Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO
HỌC SINH TRƢỜNG THPT VĂN LÂM, TỈNH HƢNG YÊN – MỘT SỐ
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm ý thức
“Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ
óc con người; là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”[4, tr.52]. Ý
thức là toàn bộ những quan niệm, quan điểm của con người về thế giới và mối
quan hệ của con người trong thế giới đó.“Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan. Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định. Song, sau khi ra
đời, ý thức có tính độc lập tương đối nên có sự tác động trở lại đối với vật
chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Ý thức đúng đắn dựa trên
quy luật khách quan của con người, có tác dụng tích cực, làm biến đổi hiện
thực, biến đổi hoàn cảnh khách quan theo nhu cầu của con người. Ngược lại,
ý thức sai lầm, trái quy luật khách quan của con người có tác dụng tiêu cực,
thậm chí phá hoại các điều kiện khách quan, hoàn cảnh khách quan, kéo lùi
lịch sử.”
“Ý thức là một hiện tượng tâm lý xã hội có kết cấu rất phức tạp, bao
gồm nhiều thành tố khác nhau có quan hệ với nhau. Có thể chia kết cấu của ý
thức theo hai chiều”[32, tr.74,75]
+ Theo chiều dọc: ý thức bao gồm các yếu tố như: tự ý thức, tiềm thức,
vô thức…
+ Theo chiều ngang: ý thức bao gồm các yếu tố như tri thức, tình cảm,
ý chí, niềm tin… trong đó, tri thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi.
“Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá
trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực, là sự tái tạo lại hình ảnh


5


của đối tượng được nhận thức dưới nhiều loại ngôn ngữ khác nhau. Tri thức
là phương thức tồn tại của ý thức, là điều kiện để ý thức phát triển. Tri thức có
nhiều lĩnh vực khác nhau: tri thức về tự nhiên, về xã hội, về con người,… và
có nhiều cấp độ khác nhau: tri thức cảm tính và tri thức lý tính, tri thức kinh
nghiệm và tri thức khoa học,…”
“Để cải tạo tự nhiên và xã hội, con người phải có hiểu biết về thế giới,
nói cách khác, chúng ta phải có tri thức về sự vật. Do đó, mọi hiện tượng ý
thức đều có nội dung tri thức ở mức độ nhất định. Tri thức là phương thức mà
theo đó ý thức tồn tại và theo đó, một cái gì đó nảy sinh ra đối với ý thức. Quá
trình hình thành và phát triển của ý thức cũng là quá trình con người tìm
kiếm, tích lũy tri thức về thế giới xung quanh.”Nó không chỉ góp phần nâng
cao chất lượng cuộc sống mà còn giúp con người có đầu óc tư duy sáng tạo,
tầm nhìn sâu rộng. Con người càng hiểu biết về sự vật thì ý thức về sự vật
càng sâu sắc.
Tuy nhiên, sự tác động của thế giới bên ngoài đến con người không chỉ
đem lại hiểu biết về thế giới mà còn đem lại cho con người tình cảm về thế
giới.
Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ của con người trong các
quan hệ với thế giới xung quanh và đối với bản thân mình.“Tình cảm là một
hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ sự khái quát
những cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự tác động của thế giới khách
quan. Tình cảm biểu hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, là yếu tố phát huy sức mạnh, là động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức và
thực tiễn của con người…”
“Ý chí là sự biểu hiện sức mạnh của bản thân mỗi người nhằm vượt qua
những trở ngại trong quá trình thực hiện mục đích.”Ý chí là sự thống nhất hữu
cơ giữa tri thức và tình cảm, có vai trò điều khiển, thúc đẩy con người vượt


6


qua những khó khăn, thử thách để hoạt động có hiệu quả…
“Tất cả các yếu tố cấu thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với
nhau, song, tri thức là yếu tố quan trọng nhất, là phương thức tồn tại của ý
thức, đồng thời là nhân tố định hướng sự phát triển cũng như mức độ biểu
hiện của các yếu tố khác…”
1.1.2. Khái niệm pháp luật
“Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng lịch sử cơ bản nhất của đời
sống chính trị - xã hội, là hai phạm trù lịch sử có mối quan hệ gắn bó hữu cơ
với nhau. Nhà nước sẽ không thể tồn tại nếu không có pháp luật và ngược lại.
“Nguyên nhân ra đời của Nhà nước cũng chính là nguyên nhân ra đời pháp
luật.” Nhà nước ban hành pháp luật nhằm củng cố chế độ tư hữu và quy định
đặc quyền cho giai cấp thống trị. Pháp luật là hệ thống các quy phạm do nhà
nước ban hành, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị. Nó khác với các quy
phạm xã hội khác, nó thể hiện ý chí của tất cả mọi người.”
“Pháp luật ra đời cùng với Nhà nước, là công cụ sắc bén mang tính giai
cấp để thực hiện quyền lực nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, duy
trì địa vị và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Nhà nước ban hành ra pháp
luật và bảo đảm cho pháp luật được thực hiện.”
Thứ nhất, Ở Trung Hoa cổ đại, tư tưởng về pháp luật thường gắn với
đạo đức, luân lý, đề cao tư tưởng “Đức trị”, coi đạo đức là cái chi phối các
quan hệ xã hội, chi phối sự vận hành nhà nước và pháp luật. Khổng Tử nói:
“Xử kiện thì ta cũng xử được như người, nhưng phải làm sao đừng có kiện
tụng, há không phải hơn sao?” [16, tr.44,45]. Nghĩa là, cần phải giáo hóa
người dân để làm sao học sống với nhau một cách tốt đẹp, không để xảy ra
kiện tụng là chủ yếu, và pháp luật tuy có nhưng không cần phải dùng đến.
Pháp luật được ban hành và thực hiện để duy trì, bảo vệ đức hiếu trung, để

bảo vệ tôn ti trật tự xã hội.

7


Tuy nhiên, bên cạnh sự khác nhau căn bản, tư tưởng về pháp luật của
triết học phương Tây và triết học phương Đông có điểm tương đồng về
nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước pháp quyền“không loại trừ
đạo đức, thiếu đạo đức, xã hội sẽ hỗn loạn. Trong tư tưởng Pháp trị, Hàn Phi
Tử cho rằng: ý muốn cá nhân của vị quân vương là cội nguồn của tình trạng
vô pháp luật. Luật pháp đối với quý tộc cũng như đối với kẻ hèn mọn, đều
phải như nhau.”
Thứ hai, trong triết học phương Tây, có một số triết gia đã đưa ra
những quan điểm về pháp luật, như là:
Với Max Weber (1864 – 1920) một trong những người sáng lập ngành
Xã hội học và quản trị công đương đại, pháp luật “tồn tại nếu nó được bảo
đảm bởi khả năng cưỡng chế để buộc chủ thể bị điều chỉnh phải tuân thủ
hoặc nếu vi phạm sẽ bị xử lý và được áp dụng bởi đội ngũ những người có
chức trách chuyên làm nhiệm vụ này”. [1, tr.19]
Theo Karl Marx (1818 – 1883) người sáng lập Chủ nghĩa Xã hội Khoa
học cùng Friedrich Engels, pháp luật của xã hội tư sản chẳng qua chỉ là “ý chí
của các ông được nâng lên thành luật áp dụng chung cho tất cả mọi người –
thứ ý chí mà nội dung chủ yếu của nó do điều kiện sinh hoạt vật chất của giai
cấp các ông quyết định”. [1, tr.19]
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “pháp luật là quy tắc, hành vi của công
dân do nhà nước quy định, ban hành, buộc phải tuân theo không được trái
phạm”.[27, tr. 1023]
Có thể thấy, với mỗi giai đoạn, mỗi thời đại, mỗi giai cấp, xã hội khác
nhau đều có những định nghĩa, những quan điểm khác nhau về pháp luật.
Một cách chung nhất, chúng ta có thể định nghĩa khái quát: “Pháp luật

là hệ thống những quy tắc xử sự (hệ thống những quy phạm) do nhà nước đặt
ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị

8


nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát triển phù hợp với lợi ích của giai
cấp mình”.[34, tr.92]
1.1.3. Khái niệm ý thức pháp luật
“Theo quan điểm triết học Mác – Lênin, ý thức pháp luật là một trong
những hình thái ý thức xã hội trong xã hội có giai cấp, là một trong những vấn
đề cơ bản, đa dạng, phức tạp của đời sống pháp luật. Nó tồn tại khách quan
cùng với các hình thái ý thức xã hội khác, như: đạo đức, chính trị, tôn giáo,
nghệ thuật, khoa học…”
Ý thức pháp luật tồn tại phổ biến trong ý thức của mỗi cá nhân và của
toàn xã hội. Bản chất của nó là phản ánh đời sống cá nhân của toàn xã hội. Ý
thức pháp luật của con người có được thông qua quá trình lao động, sáng tạo
và hình thành ngôn ngữ.“Nó xuất hiện muộn hơn các hình thái ý thức xã hội
khác, là nhân tố quyết định trong đời sống pháp lý, ý thức pháp luật thể hiện
hai mặt chủ quan: đó là sự hiểu biết pháp luật và thái độ, tình cảm đối với
pháp luật của cá nhân.”
“Hiểu theo nghĩa hẹp, nghĩa thông thường, ý thức pháp luật là ý thức
chấp hành những quy định pháp luật của con người. Vì thế, khi đánh giá ý
thức pháp luật của tập thể hay cá nhân nào đó, người ta thường so sánh giữa
giữa hành vi chấp hành pháp luật của những đối tượng đó với yêu cầu của
những quy định trong văn bản pháp luật để đánh giá ý thức pháp luật của họ
là cao hay thấp, là tốt hay kém.”
Đã có rất nhiều quan điểm về ý thức pháp luật được đưa ra xem xét nó
dưới nhiều góc độ khác. Tuy nhiên, khi nghiên cứu ý thức pháp luật, không
nên nhìn nhận phiến diện, “một chiều”, mà phải đặt nó trong mối quan hệ

phức tạp của đời sống – xã hội. Có thể hiểu: “Ý thức pháp luật là một hình
thái ý thức xã hội. Nó là toàn bộ các quan điểm, quan niệm của con người và
thái độ của họ đối với pháp luật xuất phát từ các quan hệ kinh tế, đặc biệt là

9


quan hệ sản xuất trong một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử. Mặt
khác, nó còn chịu sự tác động của các hình thái ý thức xã hội khác, trước hết
là ý thức chính trị, ý thức đạo đức, ý thức thẩm mĩ, cả ý thức tôn giáo và kế
thừa ý thức pháp luật truyền thống trong lịch sử.”[3; tr.10].
Theo từ điển Bách khoa Toàn thư Việt Nam: “Ý thức pháp luật là tổng
hợp những quan điểm, tư tưởng, học thuyết thể hiện thái độ của con người,
các nhóm xã hội, giai cấp… đối với pháp luật, pháp chế cũng như quan điểm
của họ về sự hợp pháp hay hay không hợp pháp trong những hành vi của cá
nhân, tổ chức, xã hội; ý thức pháp luật có nội dung chủ yếu: 1. Sự hiểu biết về
pháp luật 2. Thái độ đối với pháp luật 3. Khả năng thực hiện, áp dụng pháp
luật.”
“Trên cơ sở nghiên cứu các quan điểm trên, có thể định nghĩa ý thức
pháp luật như sau: Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội phản ánh
một cách trực tiếp đời sống pháp luật, bao gồm những học thuyết, quan điểm,
tư tưởng, tình cảm của con người đối với pháp luật, thể hiện sự hiểu biết về
pháp luật, thái độ, sự đánh giá của họ về tính công bằng hay không công
bằng, đúng đắn hay không đúng đắn của pháp luật hiện hành, pháp luật trong
quá khứ và pháp luật cần phải có, về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể pháp
luật, về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong cách xử sự của con người,
trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội…”
* Kết cấu ý thức pháp luật
“Tri thức pháp luật là toàn bộ những hiểu biết của con người về pháp
luật, là kết quả của quá trình nhận thức pháp luật, là sự tái tạo hình ảnh của

các đối tượng được nhận thức bằng các dạng ngôn ngữ khác nhau. Tri thức
pháp luật là phương thức tồn tại, là điều kiện để ý thức pháp luật phát triển.
Thông qua giáo dục ý thức pháp luật, người được giáo dục sẽ được trang bị
những tri thức cơ bản về pháp luật, như là: giá trị của pháp luật, vai trò của

10


pháp luật, các chuẩn mực pháp luật trong từng lĩnh vực khác nhau cả đời sống
xã hội,…”Tri thức pháp luật là nền móng để xây dựng tình cảm pháp luật, từ
đó mở rộng và làm sâu sắc thêm tri thức đã được nhận thức, giúp người học
hiểu sâu sắc hơn về pháp luật, biết cách đánh giá đúng đắn các hành vi pháp
luật.“Tri thức pháp luật là những tri thức lý luận về pháp luật bao gồm: các
quan điểm, quan niệm, học thuyết về nguồn gốc, bản chất, vai trò, chức năng
của pháp luật, các hình thức pháp luật, cơ chế điều chỉnh pháp luật,… góp
phần định hướng lòng tin của con người, các tác dụng điều khiển, kiềm chế
các hành vi pháp luật của mỗi cá nhân trên cơ sở các chuẩn mực pháp lý đã
được nhận thức.”
“Tri thức pháp luật phản ánh một cách sâu sắc đời sống pháp luật trên
lập trường của một giai cấp nhất định. Nó được phản ánh một cách gián tiếp
thông qua các khái niệm, phạm trù, quan điểm, tư tưởng,… Tri thức pháp luật
là sự phản ánh có tính hệ thống về các vấn đề pháp luật, các hiện tượng pháp
luật. Nội dụng của nó chủ yếu đề cập đến vai trò, chức năng, bản chất giai cấp
của pháp luật, mối quan hệ của pháp luật với dân chủ, bình đẳng, công bằng,
tự do của công dân…”
“Ở nước ta, tri thức pháp luật được cụ thể hóa trong Hiến pháp, các
ngành luật và các văn bản dưới luật . Để đảm bảo phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, trước hết pháp luật phải thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân
dân,”đồng thời, pháp luật cũng là công cụ hữu hiệu tạo điều kiện cho nhân
dân tham gia vào quá trình xây dựng pháp luật, giám sát quá trình thực thi

pháp luật của các cơ quan nhà nước, các tổ cức chính trị - xã hội.
“Tình cảm pháp luật thể hiện thái độ của con người đối với pháp luật.
Nó góp phần điều chỉnh mọi hoạt động, hành vi pháp luật của con người. Tình
cảm pháp luật cùng với tri thức pháp luật hình thành nên niềm tin pháp luật,
cụ thể hóa ý chí thành hành động. Nếu có tình cảm tích cực thì sẽ là động lực

11


phát huy sức mạnh của cá nhân, của cộng đồng, ngược lại,”nếu con người có
tình cảm tiêu cực đối với pháp luật thì nó sẽ là mầm mống của những hành vi
tiêu cực, gây ảnh hưởng xấu đối với xã hội…
“Tình cảm pháp luật được hình thành một cách tự phát thông qua tâm
trạng, cảm xúc, thái độ của con người đối với pháp luật, với các hiện tượng
pháp luật, các vấn đề pháp luật… Nó thể hiện trực giác cảm tính của con
người dưới tác động của nhu cầu, lợi ích của cá nhân, nhóm hay cộng đồng xã
hội… Là một bộ phận của ý thức xã hội, gắn với truyền thống, tập quán, thói
quen của con người, vì vậy, việc xây dựng ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa
cần một quá trình lâu dài…”
“Ý chí pháp luật được coi là mặt năng động của ý thức pháp luật, ở đó,
con người tự ý thức được mỗi hành động của mình, tự đấu tranh với bản thân
và ngoại cảnh để thực hiện đến cùng mục đích đã lựa chọn. Có thể coi ý chí
pháp luật là quyền lực của con người đối với bản thân mình; nó điều khiển,
điều chỉnh hành vi của cá nhân để hoạt động hướng tới mục đích một cách tự
giác; nó cho phép con người tự kiềm chế, tự làm chủ bản thân và hành động
theo quan điểm và niềm tin của mình. Giá trị chân chính mà ý chí hướng tới là
nội dung, ý nghĩa của mục đích mà ý chí hướng tới. Có thể nói, ý chí pháp
luật là sự tự giác chấp hành pháp luật của mỗi cá nhân dựa trên mục đích
hướng tới của họ…”
1.1.4. Giáo dục ý thức pháp luật

“Giáo dục ý thức pháp luật là hoạt động nhằm hình thành tri thức, tình
cảm, và thói quen xử sự phù hợp với quy định của pháp luật, nó là cách thức
chuyển tải tri thức của nhân loại, của một nhà nước, một giai cấp, nó thể hiện
ý chí của nhà nước, của người thực hiện pháp luật…”Giáo dục ý thức pháp
luật là sợi dây kết nối gia đình, nhà trường với các cơ quan nhà nước, các tổ
chức chính trị - xã hội. Nó có thể được hiểu theo hai cách:

12


“Theo nghĩa hẹp, giáo dục ý thức pháp luật là giới thiệu tinh thần văn
bản pháp luật cho người có nhu cầu, nói cách khác, giáo dục ý thức pháp luật
là việc tuyên truyền pháp luật tới các đối tượng với mục đích nâng cao tri
thức, tình cảm, niềm tin pháp luật cho đối tượng, từ đó, góp phần nâng cao ý
thức pháp luật, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật.”
“Theo nghĩa rộng, giáo dục ý thức pháp luật là một bước của hoạt động
tổ chức thực hiện pháp luật, là hoạt động định hướng có tổ chức, có mục đích
dưới các hình thức: giáo dục, thuyết phục, nêu gương,… nhằm hình thành ở
đối tượng tri thức pháp luật, tình cảm pháp luật và niềm tin pháp luật, từ đó,
có thái độ và hành vi xử sự đúng đắn, phù hợp với yêu cầu của hệ thống pháp
luật hiện hành. Giáo dục ý thức pháp luật là hoạt động có tổ chức, có mục
đích của chủ thể giáo dục nhằm cung cấp tri thức pháp luật, bồi dưỡng tình
cảm pháp luật và định hướng hành vi hợp pháp cho đối tượng được giáo dục,
góp phần hình thành ở họ ý thức, tình cảm pháp luật đúng đắn, có thói quen tự
giác tuân thủ pháp luật và tham gia tích cực vào các hoạt động giáo dục pháp
luật.”
Từ đó, có thể rút ra định nghĩa khái quát: Giáo dục ý thức pháp luật là
quá trình hoạt động thường xuyên, liên tục và lâu dài của chủ thể lên đối
tượng, là cầu nối để chuyển tải pháp luật vào cuộc sống. Trong công tác quản
lý nhà nước, giáo dục ý thức pháp luật được hiểu là một công việc có tầm

quan trọng và thường xuyên của cơ quan nhà nước, các cấp, các ngành. [1,
tr.25]
Với điều kiện nước ta hiện nay,“giáo dục ý thức pháp luật là việc làm
quan trọng, có ý nghĩa đặc biệt trong việc tăng cường giáo dục pháp chế xã
hội chủ nghĩa. Bởi vì, giáo dục ý thức pháp luật nhằm hình thành ý thức tôn
trọng, tuân thủ pháp luật cho mọi công dân, phát huy vai trò và hiệu lực pháp
luật của nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong công cuộc xây dựng và

13


bảo vệ Tổ quốc.”Với thực trạng ý thức pháp luật của học sinh trung học phổ
thông còn thấp ở nước ta hiện nay đặt ra cho chúng ta nhiệm vụ cấp bách là
phải nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục ý thức pháp luật cho
nhân dân, từ đó góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân
cũng như góp phần xây dựng và phát triển xã hội xã hội chủ nghĩa.
1.1.5. Khái niệm Học sinh
“Theo Từ điển Bách khoa Toàn thư mở (Wikipedia), học sinh là những
thiếu niên hoặc thiếu nhi trong độ tuổi đi học (6-18 tuổi), đang học tại các
trường Tiểu học, Trung học cơ sở hoặc Trung học phổ thông.
Học sinh Trung học phổ thông là thuật ngữ để chỉ nhóm học sinh ở độ
tuổi thanh niên (từ 15, 16 tuổi đến 17, 18 tuổi). Theo tâm lý học lứa tuổi, tuổi
thanh niên là giai đoạn phát triển bắt đầu từ lúc dậy thì và kết thúc khi bước
vào tuổi mới lớn.”
Học sinh là đối tượng cần có sự giáo dục kết hợp giữa gia đình, nhà
trường và xã hội. Đây là đối tượng“rất dễ bị tác động bởi các hiện tượng xã
hội. Hiện nay, giáo dục học sinh đang là vấn đề nóng gây tranh cãi trong dư
luận. Xã hội ngày càng phát triển, học sinh”được tiếp cận với khối lượng lớn
thông tin, bao gồm cả tích cực và tiêu cực. Do đặc thù tâm lý lứa tuổi, chưa
hoàn thiện về nhân cách nên dễ bị tác động bởi nhiều yếu tố tố tiêu cực của xã

hội, bởi vậy, cần thiết phải có sự theo dõi sát sao, định hướng, giáo dục, quan
tâm đúng mức “từ gia đình, nhà trường và xã hội. Đặc biệt, trong công tác
giáo dục pháp luật nói chung và giáo dục ý thức pháp luật nói riêng, cần phải
có sự thấu hiểu sâu sắc lứa tuổi, từ đó, có phương thức giáo dục phù hợp và
khéo léo để đạt được hiệu quả giáo dục tốt nhất, góp phần tích cực trong quá
trình phát trình và hình thành nhân cách của học sinh.”
1.2. Những nội dung giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh Trung học
phổ thông

14


1.2.1. Giáo dục sự hiểu biết về tri thức pháp luật
Hiểu biết về pháp luật là những tri thức, những dữ kiện, những thông
tin mà con người nói chung và học sinh nói riêng tích lũy được qua quá lĩnh
hội tri thức thông qua các kênh thông tin như: Các bộ luật, các nghị định của
chính phủ,các văn bản dưới luật…quá trình học tập, quan sát, trải nghiệm…
Đây là điều kiện rất quan trọng góp phần điều chỉnh hành vi pháp luật của con
người. Nếu những hiểu biết về pháp luật là đúng đắn thì sẽ góp phần hình
thành nên những văn hóa pháp lý cho các em theo những chuẩn mực đạo đức
xã hội. Ngược lại, nếu chúng ta có những nhận thức sai lầm, lệch lạc về pháp
luật thì không những sẽ có những hành vi ứng xử đi ngược lại pháp luật cho
phép.
“Đối với đời sống xã hội, pháp luật giữ một vai trò hết sức quan trọng.
Nó là một phương tiện không thể thiếu bảo đảm cho sự tồn tại và khả năng
tiệm cận với nền đạo đức xã hội. Pháp luật vừa là công cụ quản lý Nhà nước
hữu hiệu vừa tạo môi trường thuận lợi cho sự hoàn thiện nhân cách con người
Việt Nam mới.”
“Để giáo dục ý thức pháp luật có hiệu quả, trước hết, chúng ta phải
trang bị cho học sinh có kiến thức vững vàng về pháp luật; làm cho cac em

biết được hành vi nào là đúng, hành vi nào là sai; việc gì làm được làm, việc
gì không được làm và việc gì là phải làm; hành vi nào là hợp pháp và không
hợp pháp…. Từ đó làm tiền đề để hình thành ý thức pháp luật cho học sinh.”
“Với sự phát triển của xã hội như hiện nay, việc trang bị, tích lũy, tìm
hiểu những kiến thức về pháp luật cho học sinh Trung học phổ thông là thực
sự cần thiết. Chúng giúp cho các em thấy được vai trò, tầm quan trọng của
pháp luật, của trật tự an toàn xã hội; thấy được trách nhiệm của mình trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngoài ra, việc tự trau dồi kiến thức về
pháp luật cũng thể hiện ý thức, tinh thần của con người mới xã hội chủ

15


nghĩa…”
1.2.2. Giáo dục thái độ chấp hành pháp luật
Cùng với những hiểu biết về pháp luật thì thái độ thực hiện hành vi
pháp luật cũng là một trong những tiêu chí đánh giá ý thức pháp luật của học
sinh Trung học phổ thông nói riêng.
“Theo Đại Từ điển Tiếng Việt: Thái độ là mặt biểu hiện bên ngoài của
ý nghĩ, tình cảm đối với ai hay việc gì thông qua nét mặt, cử chỉ, lời nói, hành
động. Thái độ là ý thức, cách nhìn nhận, đánh giá và hành động theo một
hướng nào đó trước một sự việc.”
Theo Tâm lý học: “Thái độ là những phản ứng tức thì, tiếp nhận dễ
dàng hay khó khăn, đồng tình hay chống đối như đã có sẵn những cơ cấu tâm
lý tạo ra định hướng cho việc ứng phó.”[26, tr.47]
Theo Từ điển Tiếng Việt (do Gs.Hoàng Phê chủ biên): “Thái độ là
cách nhìn nhận, hành động của cá nhân theo một hướng nào đó trước một
vấn đề, một tình huống cần giải quyết. Đó là tổng thể những biểu hiện ra bên
ngoài của ý chí, tình cảm của cá nhân đối với con người hay một sự việc nào
đó.”[20, tr. 1428]

Trên cơ sở tìm hiểu các khái niệm khác nhau về thái độ, có thể hiểu:
Thái độ là trạng thái tâm lý của chủ thể, thể hiện sự sẵn sàng, tích cực hoạt
động của chủ thể với đói tượng thông qua hành vi, của chỉ, nét mặt và lời nói
trong những tình huống cụ thể.
“Biểu hiện của thái độ là những phát biểu hay những đánh giá có giá trị
về sự vật, sự việc, hiện tượng, con người. Thái độ phản ánh con người cảm
thấy như thế nào về mọi điều xảy ra trong cuộc sống. Trong việc giáo dục ý
thức pháp luật cho học sinh, thái độ quan trọng vì nó ảnh hưởng đến hành vi
thực hiện hành vi pháp luật của các em theo hình sau:”

16


Nhận thức về pháp luật

Niềm tin

Cảm xúc

Thái độ

Hành vi chủ ý

Hành vi
Mô hình Thái độ và Hành vi
Nguồn: McShane S. L và Von Glinow M. A (2003), Organizational Behavior
Nguồn: Ths. Tạ Thị Hồng Hạnh (Quantri.vn biên tập và hệ thống hóa)
Thái độ có vai trò quan trọng, quyết định hành vi pháp luật của con
người nói chung và của học sinh THPT nói riêng. Ngược lại, thông qua việc
thực hiện hành vi pháp luật của các em cũng phản ánh thái độ của các em đối

với những tri thức pháp luật.
1.2.3. Giáo dục niềm tin vào chủ trương, đường lối của Đảng và việc thực
thi pháp luật của Nhà nước trong cuộc sống
Niềm tin là sản phẩm xã hội, nó phản ánh hiện thực khách quan. Nhờ
đó, con người có thêm sức mạnh to lớn để cải tạo tự nhiên, biến đổi xã hội vì
lợi ích của mình. Niềm tin trên cơ sở đó có vai trò làm động lực cho sự tiến
bộ xã hội.

17


×