VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG THÙY DƢƠNG
NGHI LỄ TRONG CHU KỲ ĐỜI NGƢỜI
CỦA NGƢỜI NÙNG CHÁO Ở HUYỆN VĂN QUAN,
TỈNH LẠNG SƠN HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIỄN SĨ NHÂN HỌC
Hà Nội, 2019
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG THÙY DƢƠNG
NGHI LỄ TRONG CHU KỲ ĐỜI NGƢỜI
CỦA NGƢỜI NÙNG CHÁO Ở HUYỆN VĂN QUAN,
TỈNH LẠNG SƠN HIỆN NAY
Ngành: Nhân học
Mã số: 9.31.03.02
LUẬN ÁN TIỄN SĨ NHÂN HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. NGUYỄN THỊ SONG HÀ
2. TS. TRỊNH THỊ THỦY
Hà Nội, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
số liệu điều tra, kết quả trong luận án là trung thực, chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ một công trình nào khác. Đối với những quan điểm mà luận án kế thừa của các
tác giả đi trước, đều được trích yếu ghi rõ xuất xứ và tên tác giả đã đưa ra luận điểm đó.
Hà Nội, tháng 03 năm 2019
Nghiên cứu sinh
Hoàng Thùy Dƣơng
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin cảm ơn Ban giám đốc Học viện Khoa học xã hội, Phòng Quản
lý đào tạo, Khoa Dân tộc học và Nhân học cùng các quý thầy cô của Học viện
Khoa học xã hội đã giúp đỡ, tạo điều kiện để tôi hoàn thành chương trình học
tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Nguyễn Thị
Song Hà và TS. Trịnh Thị Thủy đã hết lòng dìu dắt, tận tình chỉ bảo, hướng
dẫn để tôi có thể hoàn thành luận án này.
Tôi xin cảm ơn Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, nơi tôi công tác đã
tạo điều kiện thuận lợi để tôi học tập và nghiên cứu.
Xin cảm ơn UBND huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn và các cộng tác
viên, đồng bào người Nùng Cháo ở các xã trong huyện Văn Quan đã tạo điều
kiện giúp đỡ tôi trong suốt thời gian điền dã và nghiên cứu.
Cuối cùng, xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp và người tri kỷ đã
khích lệ, động viên tôi trong suốt quá trình học tập.
Hà Nội, ngày
tháng
năm 2019
Nghiên cứu sinh
Hoàng Thùy Dƣơng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ
THUYẾT, VÀ KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU ................................ 8
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến đề tài luận án ...... 8
1.2. Cơ sở lý thuyết ............................................................................................. 20
1.3. Khái quát về địa bàn nghiên cứu ................................................................. 25
Chƣơng 2: NGHI LỄ TRONG SINH ĐẺ VÀ NUÔI DẠY CON CÁI ............... 33
2.1. Quan niệm về sinh đẻ và nuôi dạy con cái .................................................. 34
2.2. Nghi lễ, tập quán chăm sóc phụ nữ và bảo vệ thai nhi ................................ 35
2.3. Nghi lễ, tập quán trong sinh đẻ .................................................................... 39
2.4. Nghi lễ, tập quán trong chăm sóc và nuôi dạy con cái ................................ 48
Chƣơng 3: NGHI LỄ HÔN NHÂN........................................................................ 62
3.1. Quan niệm về hôn nhân ............................................................................... 62
3.2. Tiêu chuẩn chọn vợ, chọn chồng và tuổi kết hôn ........................................ 65
3.3. Tập quán, Nghi lễ trong hôn nhân ............................................................... 68
Chƣơng 4: NGHI LỄ SINH NHẬT CHO NGƯỜI GIÀ VÀ NGHI LỄ
TANG MA ............................................................................................................... 87
4.1. Nghi lễ sinh nhật cho người già (kin khoăn) ............................................... 87
4.2. Nghi lễ, tập quán trong tang ma .................................................................. 92
4.3. Các hình thức nghi lễ tang ma .................................................................... 94
Chƣơng 5: CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TỘC NGƢỜI THÔNG QUA NGHI
LỄ VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN BIẾN ĐỔI NGHI LỄ CHU KỲ
ĐỜI NGƢỜI CỦA NGƢỜI NÙNG CHÁO ........................................................ 122
5.1. Các giá trị văn hóa tộc người ..................................................................... 122
5.2. Các yếu tố tác động đến biến đổi nghĩ lễ................................................... 128
5.3. Biến đổi trong nghi lễ chu kỳ đời người của người Nùng Cháo ............... 135
5.4. Những t ch cực và hạn chế của nghi lễ trong chu kỳ đời người của
người N ng Cháo ............................................................................................ 139
5.5. Nghi lễ trong chu kỳ đời người với xây dựng đời sống nông thôn mới .... 144
5.6. Xu hướng biến đổi nghi lễ chu kỳ đời người của người Nùng Cháo thời
gian tới............................................................................................................... 147
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 154
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ .................. 158
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 159
DANH MỤC CHŨ CÁI VIẾT TẮT
CT
Chỉ thị
ĐHQG
Đại học Quốc gia
GS.
Giáo sư
NCS
Nghiên cứu sinh
N.xb
Nhà xuất bản
PGS
Phó giáo sư
QĐ
Quyết định
Tr.
Trang
TS
Tiến sĩ
TTg
Thủ tướng
UBND
Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Số liệu phụ nữ dân tộc Nùng ở huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn sinh
đẻ ở trạm xá, bệnh viện và sinh đẻ ở nhà từ năm 2010 đến năm 2018: ........... 42
Bảng 3.1: Số liệu kết hôn lần đầu của người Nùng từ năm 2010 – 2018 ở
huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn: ..................................................................... 66
Bảng 4.1: So sánh lễ sinh nhật của người Nùng Cháo và lễ mừng thọ của
người Kinh ở huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn................................................ 91
Bảng 5.1: Hình thức tổ chức đám cưới gần nhất của người Nùng ở Lạng Sơn ...... 146
Bảng 5.2: Hình thức tổ chức đám ma gần nhất của người Nùng ở Lạng Sơn ........ 146
Bảng 5.3: Số liệu các hộ gia đình dân tộc Nùng ở huyện Văn Quan, tỉnh
Lạng Sơn tổ chức tang ma theo truyền thống và theo nếp sống văn hóa
mới từ năm 2010 đến năm 2018: .................................................................. 147
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Dân tộc N ng là thành viên trong đại gia đình 54 dân tộc anh em, cư trú lâu
đời trên đất nước Việt Nam. Với số dân là 968.800 người (theo kết quả Tổng điều
tra dân số và nhà ở năm 2009 của Tổng cục Thống kê , dân tộc N ng cư trú ở nhiều
tỉnh thành trong cả nước: Bắc Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên,
Hà Giang, Lào Cai, Đắk Lắk,… trong đó, ở Lạng Sơn số dân người Nùng là 314.295
người, chiếm 42.9% dân số toàn tỉnh, và 32.4% tổng số người Nùng ở Việt Nam [24;
tr.1 . Theo báo cáo về công tác dân tộc năm 2017 của huyện Ủy Văn Quan, tỉnh Lạng
sơn, dân số toàn huyện có khoảng 57.749 người với 13.545 hộ gia đình, trong đó dân
tộc N ng chiếm 64.66
dân số đông nhất huyện văn Quan 27; tr.1].
Người Nùng có lịch sử cư trú lâu đời ở Lạng Sơn, với nhiều nhóm khác nhau
như N ng Inh, N ng Cháo, N ng Phàn Slình, N ng An, N ng L i... nhóm N ng
Cháo cư trú chủ yếu ở các huyện Văn Quan, Văn Lãng, Tràng Định tỉnh Lạng
Sơn ; huyện Na Rì tỉnh Bắc Kạn ; huyện V Nhai tỉnh Thái Nguyên . Trong quá
trình phát triển của mình, người N ng nói chung và người N ng Cháo nói riêng đã
hình thành và tích lũy cho mình phong tục tập quán, các nghi lễ trong gia đình, cộng
đồng mang đậm n t đặc trưng văn hóa tộc người, thể hiện nhân sinh quan, vũ trụ
quan, thế giới quan của người Nùng trong việc nhận thức thế giới và quan hệ cộng
đồng. Nghi lễ trong chu kỳ đời người là những hoạt động văn hóa mang t nh tâm
linh, tư tưởng, niềm tin, t n ngưỡng của một tộc người. Thông qua các nghi lễ, đặc
trưng văn hóa tộc người được tái hiện r n t, làm nên những sự khác biệt giữa tộc
người này với tộc người khác, giữa nhóm địa phương này với nhóm địa phương
khác. Nghiên cứu nghi lễ trong chu kỳ đời người ch nh là giá trị văn hóa tinh thần
cốt l i của một dân tộc, từ đó tìm ra những luận điểm quan trọng trong việc bảo tồn,
phát huy những giá trị văn hóa truyền thống trong thời đại ngày nay.
Trong bối cảnh đổi mới, hội nhập và toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh m như
hiện nay, đã có nhiều tác động đến quá trình biến đổi văn hóa của các tộc người
thiểu số, trong đó có nghi lễ trong chu kỳ đời người nói chung, nghi lễ trong chu kỳ
đời người của người N ng Cháo nói riêng. Sự tác động của các yếu tố khách quan
và chủ quan khiến cho văn hóa của người N ng Cháo phải th ch ứng, h a nhập với
1
điều kiện mới, song cũng đặt ra nhiều vấn đề trong việc bảo tồn và phát huy những
đặc trưng văn hóa riêng biệt của tộc người và vấn đề đánh mất bản sắc.
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII và Nghị quyết trung ương 9 khóa XI về
xây dựng và phát triển bền vững đất nước có đề ra nội dung xây dựng, bảo tồn và
phát triển văn hóa dân tộc tại các địa phương, góp phần thúc đẩy sự nghiệp đổi mới
đất nước, làm cho đời sống văn hóa của đồng bào được nâng lên. Do đó, việc
nghiên cứu văn hóa, đặc trưng văn hóa của người N ng Cháo nói riêng trong quá
trình giao lưu, tiếp biến văn hóa và tác động của cơ chế thị trường hiện nay nhằm
khuyến kh ch, động viên đồng bào N ng Cháo bảo tồn giá trị văn hóa, tự hào về văn
hóa của mình, giúp ch nh quyền địa phương có các lý thuyết cơ bản để làm cơ sở l
luận cho phân t ch luận án, nhằm đảo bảo nội dung tiếp cận đúng hướng.
Bên cạnh đó, NCS là người con của dân tộc N ng Cháo, đang công tác tại cơ
quan quản lý nhà nước về lĩnh vực dân tộc, văn hóa dân tộc nên việc nghiên cứu và
tìm hiểu về nghi lễ trong chu kỳ đời người của người N ng Cháo là rất cần thiết.
Ch nh vì vậy, tác giả chọn đề tài Nghi lễ chu kỳ đời người của người Nùng Cháo ở
huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn hiện nay làm đề tài nghiên cứu cho luận án tiến sĩ
ngành Nhân học của mình.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu:
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
+ Luận án tìm hiểu đầy đủ và sâu sắc về văn hóa của người N ng Cháo hiện
nay thông qua nghi lễ trong chu kỳ đời người.
+ Luận án bước đầu làm r những yếu tố biến đổi trong chu kỳ đời người,
tìm ra các giá trị văn hóa của người N ng Cháo thông qua nghi lễ.
Đề xuất quan điểm, giải pháp cho việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa của người N ng Cháo trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
đất nước hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Luận án tập trung vào tổng quan tài liệu để tìm ra điểm tiếp cận mới cho
luận án, đồng thời xác định các khái niệm then chốt, những luận cứ khoa học nhằm
nhận thức r các giá trị văn hóa của người N ng Cháo để có hướng bảo tồn, phát
huy, kế thừa những mặt t ch cực cho việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, giúp
2
cơ quan quản lý nhà nước có những giải pháp, định hướng ph hợp trong công tác
quản lý và ban hành ch nh sách.
+ Luận án tập trung làm sáng tỏ các nghi lễ, tập quán trong chu kỳ đời người
của người N ng Cháo hiện nay bao gồm nghi lễ trong sinh đẻ và nuôi dạy con cái, hôn
nhân, sinh nhật, tang ma. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận án chỉ ra đặc trưng văn
hóa, các giá trị của nghi lễ trong chu kỳ đời người trong đời sống tộc người.
+ Luận án bước đầu dự báo xu hướng biến đổi của nghi lễ trong thời gian tới, từ đó
đề xuất một số kiến nghị và giải pháp giúp ch nh quyền địa phương thực hiện công tác bảo
tồn và phát huy các giá trị tích cực của nghi lễ, giảm bớt những yếu tố không còn phù hợp
trong việc xây dựng nếp sống văn hóa mới, xây dựng nông thôn mới của người N ng nói
chung và người Nùng Cháo ở huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn nói riêng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là người N ng Cháo ở huyện Văn Quan,
tỉnh Lạng Sơn, 1 trong các nhóm địa phương của dân tộc N ng ở Việt Nam, trong
đó chủ yếu tập trung nghiên cứu các nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Nùng
Cháo, bao gồm nghi lễ trong sinh đẻ và nuôi dạy con, hôn nhân, sinh nhật và tang
ma, đây là những nghi lễ quan trọng chứa đựng nhiều giá trị văn hóa đặc trưng,
mang đậm quan niệm về nhân sinh quan, thế giới quan tộc người.
Phạm vi nghiên cứu
- Địa bàn nghiên cứu của luận án là huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn. Huyện Văn
Quan là nơi tập trung người N ng sinh sống, trong đó người N ng Cháo chiếm tỉ lệ
khá đông so với các huyện khác, đồng thời lại sống xen k với một số dân tộc khác
như: Tày, Kinh, Hoa. Đề tài lựa chọn các điểm nghiên cứu như: xã Xuân Mai, xã Tân
Đoàn, xã Văn An, xã Khánh Khê, Chợ Bãi, khu phố Đức Tâm thị trấn Văn Quan.Việc
lựa chọn này giúp luận án tìm hiểu được văn hóa của người N ng Cháo và quá trình
giao thoa văn hóa với các tộc người sống bên cạnh. Ngoài ra luận án c n nghiên cứu
một số địa bàn khác như huyện Cao Lộc, huyện Tràng Định,…
- Thời gian nghiên cứu mà luận án tập trung từ năm 1986 đến nay, trong đó tập
trung nghiên cứu nghi lễ trong chu kỳ đời người của người N ng Cháo đã và đang
được thực hành tại cộng đồng hiện nay. Trong luận án có nghiên cứu so sánh, thời
gian được lựa chọn từ trước và sau đổi mới 1986 .
3
Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
Phương pháp luận
Với nền tảng l luận là các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc định
hướng, chỉ đạo về các vấn đề dân tộc, tôn giáo, t n ngưỡng để nhìn nhận các nghi lễ
trong sự tác động qua lại lẫn nhau trong đó đặt vấn đề nghi lễ, văn hóa trong các bối
cảnh cụ thể như: sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường và các thể chế
ch nh trị. Trong mỗi nghi lễ đều có cách thức tiến hành riêng, thể hiện văn hóa ứng
xử của tộc người với môi trường, gia đình, cộng đồng. Các yếu tố vật chất như: đồ
lễ, đối tượng tham gia trong buổi lễ, cách thức thực hành nghi lễ đều có liên quan
chặt ch đến quan niệm, về nhân sinh quan, thế giới quan, t n ngưỡng và các phong
tục tập quán của người Nùng Cháo, về ý nghĩa của buổi lễ đó. Đây ch nh là mối
quan hệ biện chứng không tách rời trong nghi lễ.
Dựa trên l luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, khi nghiên cứu các nghi lễ trong chu
kỳ đời người của người N ng Cháo, tác giả luận án đặt nghi lễ trong môt khoảng
không gian và thời gian nhất định, không xem x t nghi lễ như một thành tố bất biến
mà luôn đặt nó trong sự vận động biến đổi. Do đó, khi nhìn nhận các thành tố văn
hóa thông qua nghi lễ trong chu kỳ đời người, s có những nghi lễ, giá trị văn hóa bị
mất đi do không c n ph hợp với đời sống tộc người, có những nghi lễ, giá trị văn
hóa được nảy nở, hình thành hoặc tiếp nhận, cải biến theo các tộc người khác do các
yếu tổ khách quan và chủ quan tác động.
C ng với đó, để hoàn thiện luận án này, NCS c n sử dụng một số lý thuyết cơ bản của
ngành Dân tộc học/ Nhân học để nghiên cứu nghi lễ trong chu kì đời người như một
lát cắt dọc xuyên suốt đời sống văn hóa tinh thần của tộc người. Luận án hướng tới
tiếp cận lấy chủ thể văn hóa tộc người là yếu tố trọng tâm, làm sáng tỏ các giá trị văn
hóa tộc người nhằm duy trì, bảo tồn và phát huy văn hóa tộc người.
Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu của
ngành Dân tộc học/Nhân học và một số phương pháp nghiên cứu liên ngành. Cụ thể
như sau:
- hương pháp th ng k thu th p tài liệu th c p: bao gồm các tài liệu là sách báo,
tạp chí, các công trình đã công bố, các báo cáo kết quả của các đề tài cấp nhà nước,
4
cấp bộ, các dự án, chương trình, các nghị quyết, chỉ thị, báo cáo của Trung ương và
địa phương về các vấn đề văn hóa dân tộc có liên quan đến đề tài luận án.
- hương pháp đi n d d n tộc h c: Đây là phương pháp nghiên cứu quan trọng chủ
yếu được NCS sử dụng để thu thập thông tin, lấy tư liệu hoàn thành luận án.
Phương pháp này được NCS sử dụng thông qua các kĩ năng quan trọng như phỏng
vấn sâu, thảo luận nhóm, quan sát, quan sát tham dự, ghi chép kết hợp công cụ bổ
trợ như ghi âm, chụp ảnh, quay phim. Để hoàn thành luận án, NCS đã tiến hành
nhiều đợt điền dã dân tộc học tại các điểm nghiên cứu từ năm 2014 khi NCS làm
luận văn thạc sĩ) và từ năm 2016-2019. Cụ thể NCS đã đi điền dã hơn 10 chuyến,
mỗi chuyến có thời gian từ 5 đến 10 ngày. Các điểm mà NCS chọn để khảo sát,
phỏng vấn lấy tư liệu là các xã: Xuân Mai, Tân Đoàn, Văn An, Khánh Khê, Chợ
Bãi, Điềm He, khu phố Đức Tâm. Các kĩ năng được thực hiện là:
+ Quan sát: NCS đã quan sát rất kĩ về cảnh quan, môi trường cư trú làng bản, sinh
hoạt của người N ng Cháo khi đến địa bàn nghiên cứu để thu thập thông tin ban
đầu về đối tượng và địa bàn nghiên cứu, để định lượng ch nh xác hơn cho các vấn
đề cần tìm hiểu.
+ Phỏng vấn sâu: NCS đã thực hiện khoảng 40 cuộc phỏng vấn sâu các đối tượng
phù hợp cho đúng hướng nghiên cứu của đề tài theo lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp,
trình độ học vấn, t n ngưỡng, những người già, người có uy tín, những người tham
gia thực hiện nghi lễ, thầy Tào, bà Then và những người làm công tác văn hóa tại
địa phương, các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa hiện nay. NCS đã phỏng vấn
sâu các đối tượng nghiên cứu để tìm hiểu các quan niệm, phong tục tập quán, nghi
lễ được thực hành, để qua đó thấy được văn hóa của họ.
+ Thảo luận nhóm: để lấy được nguồn thông tin chính xác, đa chiều, có sự kiểm
chứng của nhiều người khác nhau, NCS đã tiếp cận ý kiến nhiều chiều của nhiều
chủ thể văn hóa bằng việc tổ chức thảo luận nhóm, trong đó tiến hành từ 5 đến 8
người/ 1 cuộc. Thảo luận nhóm với các nhóm khác nhau như: nhóm người già có uy
tín am hiểu tập quán, nghi lễ, nhóm thanh niên nam, nhóm thanh niên nữ, nhóm làm
công tác quản lý nhà nước cấp huyện, xã, ...
+ Quan sát tham dự: trong quá trình nghiên cứu, NCS có dịp được quan sát tham dự
các nghi lễ có liên quan đến nghi lễ chu kì đời người. Cụ thể trực tiếp quan sát tham
dự và tham gia 2 đám tang, 3 lễ sinh nhật, 2 đám cưới, 1 lễ cúng mụ.
5
Phương pháp chuyên gia: trong quá trình nghiên cứu tại địa phương, NCS đã có
nhiều cuộc trao đổi, xin ý kiến và phỏng vấn những người làm công tác văn hóa dân
tộc giàu kinh nghiệm về đề tài nghiên cứu. Những ý kiến này đã gợi mở cho NCS
nhiều vấn đề mới trong lĩnh vực văn hóa tinh thần của người N ng Cháo, trong đó
có nghi lễ trong chu kỳ đời người.
Phương pháp phân t ch, tổng hợp và so sánh: trên cơ sở các số liệu thu thập được
tại địa phương thông qua các báo cáo, thống kê hàng năm của huyện Văn Quan,
NCS đã tổng hợp và phân t ch những tư liệu này để đưa ra những đánh giá định t nh
về các nghi lễ sinh đẻ, hôn nhân và tang ma. So sánh và đối chiếu những nguồn tư
liệu này với kết quả điền dã dân tộc học tại địa phương để tìm ra những điểm tương
đồng và bất cập trong việc thực hành các nghi lễ.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án có một số đóng góp ch nh như sau:
- Xây dựng hệ thống tư liệu về nghi lễ trong chu kì đời người của người Nùng
Cháo ở huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn hiện nay, trong đó chú ý làm rõ bức
tranh văn hóa của người Nùng Cháo từ khi Đảng và Nhà nước ta thực hiện đổi
mới đất nước đến nay.
- Luận án làm rõ sự biến đổi và những nguyên nhân, xu hướng biến đổi trong nghi lễ
chu kì đời người của người Nùng Cháo ở huyên Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn, đặt trong
bối cảnh đổi mới, phát triển kinh tế xã hội, giao lưu và hội nhập văn hóa toàn cầu.
- Luận án bước đầu làm rõ các giá trị văn hóa của tộc người thông qua nghi lễ trong
chu kỳ đời người để từ đó tìm hiểu, lựa chọn các giá trị văn hóa cần được bảo tồn,
phát huy, đặc biệt là các giá trị văn hóa t ch cực, góp phần phát triền đời sống của
người Nùng Cháo nói riêng, của người Nùng nói chung.
- Kết quả nghiên cứu của luận án bước đầu góp phần xây dựng những cơ sở khoa
học để giúp cho các nhà quản lý hoạch định ch nh sách, đưa ra những kiến nghị và
giải pháp về chính sách đặc biệt là ch nh sách văn hóa ph hợp với thực tiễn của địa
phương..
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận
Nghiên cứu nghi lễ trong chu kì đời người của người Nùng Cháo tại huyện Văn Quan,
tỉnh Lạng Sơn góp phần bổ sung các luận điểm khoa học, bổ sung nguồn tư liệu mới về
6
nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Nùng Cháo trong quá trình biến đổi và thực hiện
các chính sách, cụ thể là ch nh sách văn hóa, chính sách dân tộc tại địa phương.
Ý nghĩa thực tiễn
Trong xã hội hiện đại, với sự phát triển về kinh tế, đời sống của người Nùng Cháo
được nâng lên và cải thiện hơn, sự tiếp cận với thế giới thông qua các phương tiện
truyền thông là một nguyên nhân căn bản dẫn tới sự du nhập các yếu tố văn hóa mới
theo cả hai chiều tích cực và tiêu cực. Điều này dẫn tới hệ quả là sự biến đổi văn
hóa tộc người, ảnh hưởng lẫn nhau của các dân tộc, làm mờ đi những giá trị văn hóa
truyền thống. Vì vậy, việc nghiên cứu nghi lễ trong chu kì đời người của người
Nùng Cháo tại điểm nghiên cứu góp phần làm rõ những đặc trưng văn hóa của
người Nùng Cháo thông qua nghi lễ, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống,
giáo dục thế hệ trẻ trong việc thực hành những lối sống đạo đức lành mạnh, nhận
thức được rõ vai trò của mình (là các chủ thể văn hóa trong sự giao lưu văn hóa với
các tộc người khác. Từ đó biết phân biệt, tôn trọng và chấp nhận sự khác biệt trong văn
hóa, tăng cường sự đoàn kết giao lưu văn hóa giữa các dân tộc trong cùng một địa bàn
cư trú. Bên cạnh đó, luận án cung cấp luận cứ khoa học nhằm cụ thể hóa các chính sách
văn hóa, ch nh sách bảo tồn các giá trị văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số, chính
sách kế hoạch hóa gia đình, Luật Hôn nhân gia đình và đánh giá thực hiện chỉ thị số
05/CT-TTg của Thủ tướng chính phủ về việc đẩy mạnh thực hiện nếp sống văn minh
trong việc cưới, việc tang và xây dựng đời sống văn hóa cơ sở tại địa phương.
Kết cấu của luận án
Luận án được chia thành 5 chương nội dung ngoài phần mở đầu và kết luận, tài
liệu tham khảo và phụ lục , bao gồm:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và khái quát về địa bàn
nghiên cứu
Chương 2: Nghi lễ sinh đẻ và nuôi dạy con cái
Chương 3: Nghi lễ hôn nhân
Chương 4: Nghi lễ sinh nhật cho người già và nghi lễ tang ma
Chương 5: Các giá trị văn hóa tộc người thông qua nghi lễ và các yếu tố tác động
đến biến đổi nghi lễ chu kì đời người của người Nùng Cháo.
7
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT,
VÀ KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
Tổng quan tình hình nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Nghiên cứu của các học giả nước ngoài
Nghiên cứu về người N ng, tác giả Beth Nicolson, một học giả của Viện Ngôn ngữ
m a hè M đã có một công trình nghiên cứu về ngôn ngữ của người N ng ở Việt
Nam. Trong đó, đáng chú ý là bài viết
i ng
ng ở tỉnh ạng Sơn đăng trên Kỷ
yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ nhất, năm 1998.
ng cho rằng: từ
N ng có thể vốn là tên của một thị tộc d ng họ của người nói ngôn ngữ Tai đã
nổi dậy chống lại phong kiến Trung Quốc và đã thất bại. Các thành viên d ng họ
N ng hoặc đã đổi họ, hoặc đã chạy sang Việt Nam do sợ bị đàn áp. Tên gọi này đã
bị từ bỏ ở Trung Quốc nhưng ở Việt Nam nó lại được tất cả những người Tai đã
chạy từ Trung Quốc sang sử dụng. Nhóm ở lại Trung Quốc lấy tên là Choang. Một
số nhóm N ng di cư từ Trung Quốc sang Việt Nam khoảng 300 năm nay 112;
tr.206 . Về kh a cạnh này, tác giả Beth Nicolson đồng tình với quan điểm của tác
giả Lã Văn Lô và Đặng Niêm Vạn về nguồn gốc của người N ng ở Việt Nam có
liên quan đến người Choang ở Trung Quốc. Tác giả đã dựa trên những chứng cứ
ngôn ngữ, phân bố địa lý, văn hóa, lịch sử và các quan sát khác để đưa ra kết luận
rằng tiếng N ng ở Lạng Sơn chia thành 4 nhóm, có tiêu ch phân loại r ràng về mặt
ngôn ngữ. Khi nghiên cứu về nhóm N ng Cháo, tác giả đã đưa ra hệ thống dữ liệu
và giải th ch về tên gọi N ng Cháo thông qua cách tiếp cận về ngôn ngữ học. Tiếng
Cháo có thể được coi là thổ ngữ địa phương của tiếng N ng ở Lạng Sơn. Nó được
d ng ở mọi nơi không có ranh giới địa lý hành ch nh: từ Đông bắc Việt Nam đến
khu vực biên giới ở Trung Quốc mà người ta vẫn gọi là Choang. Trong thực tế,
tiếng N ng Cháo bắt nguồn từ thành phố Long Châu của Trung Quốc, rất gần biên
giới Việt Nam. Tiếng N ng Cháo cơ bản là giống tiếng Choang ở Long Châu, chỉ
có một khác biệt là quá trình đơn giản hóa các phụ âm. Bản thân người N ng Cháo
tự nhận rằng ngôn ngữ của họ và tiếng Choang ở Long Châu là thống nhất và quan
hệ giao lưu giữa họ thông qua biên giới vẫn tiếp tục phát triển. Tiếng N ng Cháo rất
gần với thổ ngữ được coi là chuẩn mực của ngôn ngữ Tày 112; tr.212 . Có thể nói,
8
đây là một công trình nghiên cứu về người N ng có nhiều đóng góp về mặt ngôn
ngữ học, góp phần giúp người đọc có thêm thông tin trong việc tìm hiểu và xác định
thành phần dân tộc, bởi vì ngôn ngữ là một trong những tiêu ch xác định thành
phần dân tộc. Tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc th của ngành
Dân tộc học, Nhân học là điền dã dân tộc học tại địa bàn nghiên cứu, cụ thể là tại
tỉnh Lạng Sơn. Bài viết này cũng giúp cho chúng tôi có thêm thông tin về nguồn
gốc lịch sử và tên gọi tộc danh N ng Cháo, phục vụ cho đề tài luận án này.
Năm 2007, tác giả James A.Anderson, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, giảng viên Khoa Lịch
sử trường Đại học Bắc Carolina, Hoa Kỳ đã viết cuốn sách The Rebel Den of
Nung Tri Cao . Cuốn sách là công trình nghiên cứu về nhân vật lịch sử N ng Tr
Cao, được chỉnh lý và biên tập tại Hội đồng nhà xuất bản Singapo, năm 2007. Sách
dày 280 trang, khổ 18 cm x 22 cm bằng tiếng Anh, tên của cuốn sách dịch ra tiếng
Việt là "Sào huyệt nổi d y của
ng rí Cao, òng trung nghĩa và bản sắc d n tộc
d c v ng bi n giới Việt - Trung". Sách gồm 8 chương: Chương I:
ng vua vĩ đại
N ng Tr Cao, vai tr của một người nổi dậy trong việc hình thành bản sắc khu vực
dọc v ng biên giới Việt - Trung. Chương II: Sự kế thừa của chế độ cống nạp đế chế
Trung Hoa ở ph a Nam, cân bằng sự hài hoà về lễ nghi với sự ổn định v ng biên
giới. Chương III: Các v dụ về khu tự trị theo thoả thuận. Các mối quan hệ Việt Trung trước thời kỳ XI. Chương IV: Giành được t nh hợp pháp trong thời kỳ lao
đao của đế chế. Các cộng đồng nói tiếng Tày bản địa dọc biên giới Việt - Trung.
Chương V: Nỗi ám ảnh của thế lực ph a Nam. Cuộc nổi dậy của N ng Tr Cao,
phản đối triều đình và kế thừa Nam Việt. Chương VI: Lôi k o các bè phái bất
trung . Vận động các liên minh v ng biên giới trong thời gian trước chiến tranh
biên giới Việt - Trung 1075. Chương VII: Niềm tự hào to lớn: Những lễ kỷ niệm
dọc biên giới Việt - Trung về N ng Tr Cao; Chương VIII: Kết luận 113; tr.1]. Có
thể nói, đây là một công trình nghiên cứu công phu, có giá trị tham khảo về mặt lịch
sử, khơi dậy l ng tự hào về một nhân vật lịch sử, một t trưởng người dân tộc Nùng
tại tỉnh Cao Bằng.
1.1.2. Nghiên cứu của các tác giả trong nước
Nghi lễ là một bộ phận quan trọng của văn hóa tinh thần và đời sống tộc
người, là môi trường sản sinh, tích hợp, bảo tồn và trao truyền nhiều giá trị văn hóa
dân tộc. Con người ngay từ khi sinh ra, lớn lên, trưởng thành và chết đi đều có
9
những hoạt động nghi lễ trong gia đình và cộng đồng, được thực hiện từ đời này
sang đời khác, tạo nên những thói quen và quy ước trong cộng đồng. Nghi lễ biểu
hiện mọi khía cạnh của đời sống vật chất và tinh thần của con người, vì vậy nhiều
nhà nghiên cứu đã lựa chọn nghiên cứu về nghi lễ chu kì đời người để làm sáng rõ
văn hóa tộc người.
Từ trước đến nay, các học giả Việt Nam đã công bố rất nhiều sông trình nghiên cứu
về nghi lễ chu kì đời người (hay còn gọi là nghi lễ v ng đời) của nhiều dân tộc khác
nhau, trong đó có dân tộc Nùng. Ở phần tổng quan nghiên cứu của các tác giả trong
nước, NCS tổng hợp theo ba nội dung lớn: nghiên cứu về người Nùng; nghiên cứu
về người Nùng tỉnh Lạng Sơn; nghiên cứu về nghi lễ chu kỳ đời người của các dân
tộc ở Việt Nam.
1.1.2.1. Nghiên c u v người Nùng
Trong quá trình tổng quan tài liệu đã công bố về người N ng, chúng tôi tạm chia
thành các nhóm vấn đề nghiên cứu 03 nhóm . Các nhóm vấn đề này được các tác
giả nghiên cứu ở nhiều địa phương khác nhau trên cả nước, nhằm tái hiện những n t
văn hóa đặc trưng của người N ng. Các nhà nghiên cứu thường chọn một trong hai
cách tiếp cận: cách tiếp cận thứ nhất là viết riêng về dân tộc N ng; cách tiếp cận thứ
hai là viết chung về cả hai dân tộc Tày và N ng. Theo tác giả Hoàng Nam thống kê,
có 309 công trình nghiên cứu về cả hai dân tộc Tày - N ng, trong đó viết riêng về
dân tộc Tày là 125 công trình, N ng là 36 công trình, viết gộp cả hai dân tộc Tày N ng là 148 công trình. Nhìn từ góc độ tác giả các công trình nghiên cứu cho thấy,
đa số các tác giả là người đi học sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh đều
viết riêng về dân tộc N ng hoặc Tày; c n phần nhiều tác giả là người nghiên cứu
hoặc tham gia công tác thực tế tại các địa phương lại thường viết gộp hai dân tộc
Tày – N ng làm một [93; tr. 195-196].
h m 1: Nhóm công trình nghiên c u khái quát v người Nùng ở Việt Nam:
Ở Việt Nam, có rất nhiều các học giả đã có những công trình nghiên cứu chuyên sâu về
người N ng. Trong đó đáng chú ý là công trình Sơ lược giới thiệu các nhóm dân tộc Tày
–Nùng- Thái ở Việt Nam
1968 của tác giả Lã Văn Lô và Đặng Nghiêm Vạn. Ở cuốn
sách này, hai tác giả đã cho người đọc hiểu rõ về dân tộc N ng thông qua các đặc điểm về
kinh tế, văn hóa, xã hội, trong đó có các phong tục tập quán [24; tr.5]. Qua công trình,
10
người đọc có thể thấy được sự tương đồng và khác biệt trong đời sống văn hóa của dân tộc
Tày và Nùng.
Năm 1978, Viện Dân tộc học đã cho xuất bản cuốn sách "Các dân tộc ít người ở
Việt Nam - các tỉnh mi n núi phía Bắc". Cuốn sách này đã khái quát miêu tả các tộc
người sinh sống ở miền núi phía Bắc dưới nhiều góc độ: kinh tế, chính trị, văn hóa,
ngôn ngữ, trong đó đời sống văn hóa và các nghi lễ của người Nùng được miêu tả
song cơ bản đó là những tư liệu truyền thống có trước những năm 1970. Do giới
hạn về nội dung nên tộc người Nùng và vấn đề nghi lễ mới chỉ được đề cập rất ít
[24; tr.6].
Năm 1984, nhóm tác giả Hà Văn Thư và Lã Văn Lô đã cho xuất bản cuốn sách với
tiêu đề: "Văn h a ày- Nùng". Trong nội dung của cuốn sách, các giá trị văn hóa
của người Tày, người N ng đã được các tác giả mô tả khá đầy đủ trên nhiều phương
diện, trong đó có nghi lễ gia đình. Năm 1992, tác giả Hoàng Nam - là người rất am
hiểu về văn hóa của người N ng đã cho xuất bản cuốn sách "Dân tộc Nùng ở Việt
Nam". Có thể nói, đây là cuốn sách đầu tiên đề cập riêng về văn hóa của người
Nùng, có giá trị văn hóa và thực tiễn giúp chúng ta có hiểu biết đầy đủ hơn về tộc
người này. Nội dung cuốn sách được tác giả nêu những nét tổng quan về dân tộc
Nùng; các hoạt động kinh tế (trồng trọt, chăn nuôi, các ngành nghề thủ công, chợ
phiên… ; đời sống vật chất (bản, nhà ở, quần áo, trang sức, thức ăn, nhạc cụ,
phương tiện vận tải); sinh hoạt tinh thần (tiếng nói, t n ngưỡng, các lễ hội, văn học
dân gian, tri thức dân gian, tr chơi dân gian ; Tập quán xã hội (tổ chức xã hội cổ
truyền, tổ chức gia đình, tục lệ cưới xin, sinh đẻ nuôi dạy trẻ, lễ sinh nhật, ma chay).
Chính vì vậy khi đánh giá về công trình này, đã có người cho rằng nó đã "phác họa
một bức tranh toàn cảnh về kinh tế - xã hội của một dân tộc, là sự ghi nhận một
trình độ văn hóa, một truyền thống kinh tế; là cơ sở để gợi mở một n t suy nghĩ về
khả năng tiếp tục phát huy truyền thống đó trong xây dựng một phong cách làm ăn
cho tương lai mang t nh kế thừa bản sắc dân tộc". Tuy nhiên, công trình mới chủ
yếu nêu một cách khái quát về văn hóa của người Nùng ở Việt Nam nói chung mà
chưa có nghiên cứu chuyên sâu theo từng vùng, trong truyền thống và biến đổi. Đây
là tài liệu khoa học rất có giá trị, nó gợi mở nhiều ý tưởng nghiên cứu mới và
chuyên sâu cho người đọc [24; tr.6-7]. Năm 2004, tác giả Hoàng Nam tiếp tục "ra
mắt" bạn đọc cuốn sách "Văn h a các d n tộc vùng Đông Bắc Việt Nam". Cuốn
11
sách này đã đề cập đến văn hóa của các tộc người chủ thể ở khu vực đông bắc như:
Tày, N ng, Dao,…trên nhiều lĩnh vực như: đặc điểm tự nhiên, kinh tế, nhà ở, gia
đình, tôn giáo, t n ngưỡng, phong tục tập quán, nghi lễ của người Nùng. Song đây là
giáo trình phục vụ giảng dạy đại học tại Đại học Văn hóa Hà Nội nên các nội dung
viết về người Nùng chỉ mang tính khái quát, giới thiệu [24;tr.7].
Năm 1992, các tác giả Bế Viết Đẳng, Khổng Diễn, Đặng Nghiêm Vạn, Nguyễn Văn
Huy, Phạm Quang Hoan đã xuất bản cuốn sách "Các dân tộc Tày Nùng ở Việt
Nam". Cuốn sách được trình bày bằng phương pháp miêu tả về các lĩnh vực truyền
thống trên nhiều phương diện, gồm những vấn đề chung của người Tày - Nùng, của
từng dân tộc Tày hay Nùng, những biểu hiện cụ thể, sinh động ở các địa phương và
các nhóm. Trong đó, ở chương 5 của cuốn sách, từ trang 173 - 226, hai tác giả
Phạm Quang Hoan và Nguyễn Ngọc Thanh đã có những nghiên cứu về gia đình và
hôn nhân của người Tày, Nùng với nhiều thông tin có ý nghĩa khoa học về nghi lễ
chu kì đời người như: gia đình và quan hệ gia đình, lễ nghi đám cưới, tục lệ trong
sinh đẻ, nghi lễ đám tang,… ở nhiều địa bàn khác nhau, giúp người đọc hiểu và so
sánh được những n t tương đồng và khác biệt trong nghi lễ của hai tộc người Tày,
Nùng ở nhiều vùng khác nhau.
Năm 2010, Nhà xuất bản Thông tấn đã xuất bản cuốn " gười Nùng ở Việt Nam",
tập hợp nhiều bức ảnh quý về người Nùng ở nhiều địa phương trong cả nước. Sách
gồm 163 trang giới thiệu bức tranh toàn cảnh nhiều màu sắc về đời sống của đồng
bào dân tộc Nùng từ nguồn gốc dân tộc đến điều kiện sinh sống, nhà ở, trang phục,
lễ hội.
Năm 2014, cuốn sách "Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc)" đã được
Viện Dân tộc học tái bản. Các phần viết về dân tộc Nùng (trang 279-303), giới thiệu
khái quát về lịch sử tộc người dân tộc Nùng, tìm hiểu toàn diện về văn hóa vật chất và
văn hóa tinh thần, kinh tế, xã hội, tôn giáo, t n ngưỡng, hôn nhân, gia đình,… của dân
tộc Nùng, trong đó các nội dung đã có cập nhật thực trạng biến đổi hiện nay.
Nhóm 2: Nhóm các công trình nghiên c u v văn h a v t ch t của người
ng như:
trang phục, nhà cửa, ăn u ng, ngh truy n th ng, phương tiện đi lại, kinh t nông
nghiệp, kĩ thu t canh tác, kinh nghiệm dân gian.
Năm 2011, tác giả Nguyễn Thị Thúy xuất bản cuốn sách "Ngh thủ công truy n
th ng của người Nùng ở Việt Nam". Cuốn sách gồm 3 chương, giới thiệu về những
12
đặc điểm tự nhiên và xã hội của người Nùng ở Việt Nam, nghề thủ công truyền
thống của người Nùng và việc bảo tồn và phát huy chúng trong cuộc sống hiện đại.
Tác giả có sự liên hệ, lồng ghép trong việc nghiên cứu nghi lễ của người Nùng với
nhiều khía cạnh trong văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần. Từ trang 66 – 74, tác giả
viết về nghi lễ gia đình với tập quán sinh đẻ, nuôi dạy trẻ, cưới xin, tang ma,…Tuy
nhiên, những nghiên cứu này chưa mang t nh chuyên sâu.
Năm 2014, tác giả Dương Sách và Dương Thị Đào đã công bố cuốn sách Văn h a
rượu của đồng bào Tày - Nùng do Nhà xuất bản Văn hóa thông tin xuất bản. Cuốn
sách giới thiệu những quan niệm, những tri thức dân gian về rượu, các mẩu chuyện
dân gian, phong cách uống rượu của người Tày N ng… qua đó thấy được đời sống
văn hóa của người Tày, Nùng nói riêng và cộng đồng dân tộc Việt Nam nói chung.
Trong văn hóa truyền thống của các dân tộc ở Việt nam, trong đó có người Nùng,
rượu là một sản vật không thể thiếu trong các nghi lễ quan trọng của họ.
h m 3: Nhóm các công trình nghiên c u v văn h a tinh thần của người
ng như:
nghi lễ chu kì đời người (sinh đẻ, cưới xin, tang ma...), lễ hội, tín ngưỡng, trò chơi d n
gian, phong tục t p quán, kiêng kị, thờ cúng,…của người Nùng. Các tác giả thường đi
sâu tìm hiểu và phân t ch đời sống tinh thần, thế giới quan của người Nùng, lý giải
những ứng xử của họ trong mối quan hệ cộng đồng, trong ứng xử với thiên nhiên và
môi trường, trong việc so sánh với tộc người Tày - tộc người gần gũi và sống xen cài
với người Nùng, cố gắng tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt của những nghi lễ
của hai tộc người này. Chính vì thế, việc nghiên cứu chuyên sâu về nghi lễ của người
N ng, đặc biệt là nhóm Nùng Cháo tại một địa bàn cụ thể là rất ít, nếu có cũng chưa
đầy đủ. Một số công trình đã được xuất bản như:
Năm 1994, tác giả Đỗ Thúy Bình đã xuất bản cuốn sách “Hôn nhân và gia đình các
dân tộc Tày, Nùng và Thái ở Việt Nam”, nội dung cuốn sách đã đi sâu phân t ch
"những nghi lễ thuộc chu kỳ đời sống gia đình các dân tộc Tày, N ng, Thái đồng
thời đi đến kết luận về những biến đổi trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội và
văn hóa cả nước nói chung và ở các dân tộc được nghiên cứu nói riêng đã dẫn đến
những thay đổi trong nếp sống gia đình theo thời gian. Tất cả những nhân tố này ở
mức độ nhất định được phản ánh trong nghi lễ gia đình, khi những cái mới đang
cùng tồn tại với những cái cũ, cái truyền thống"[11; tr.257] [24; tr.7]. Song do viết ở
cả 3 tộc người nên những miêu tả sâu về nghi lễ của người N ng, đặc biệt là những
13
phân tích, lí giải các nguyên nhân, hiện tượng và tâm lý tộc người chưa được đề cập
một cách sâu sắc. Tuy nhiên, đây là cuốn chuyên khảo đầu tiên đi sâu về hôn nhân
và gia đình ở ba dân tộc Tày, Nùng, Thái.
Năm 2003, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc đã xuất bản cuốn sách “Phong tục t p quán
của người Nùng Dín ở Tùng Lâu” của tác giả Vàng Thung Chúng. Cuốn sách này đã
mô tả về các phong tục của nhóm người Nùng Dín tại một địa phương cụ thể, vì thế nó
chưa thể hiện được bao quát các giá trị văn hóa của người Nùng Dín trong truyền thống
và biến đổi, cũng như so sánh với các nhóm Nùng khác tại địa phương. Năm 2015, tác
giả Vàng Thung Chúng tiếp tục viết cuốn sách Những nghi th c trong tang lễ cổ
truy n người Nùng Dín Lào Cai . Cuốn sách là công trình nghiên cứu có hệ thống
các nghi thức tang ma cổ truyền tộc người Nùng Dín ở tỉnh Lào Cai, những biến đổi
trong nghi thức tang ma, đánh giá các giá trị văn hóa của nghi thức trên hai bình diện
tích cực và tiêu cực để bảo tồn, phát huy và cải tạo những yếu tố lạc hậu trong tang ma
cổ truyền của người Nùng Dín, góp phần xây dựng nếp sống văn minh trong tang ma,
trên cơ sở giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa tộc người.
Năm 2006, Cuốn sách "Lễ c p sắc Pụt Nùng" do hai tác giả Nguyễn Thị Yên,
Nguyễn Thiên Tứ sưu tầm, biên dịch, đã được Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc công
bố với người đọc. Với 297 trang, tác giả đã giới thiệu nghi lễ Pụt - một hình thức
sinh hoạt t n ngưỡng của người Nùng đã được mô tả khá rõ nét, cho người đọc thấy
được "Pụt là một hình thức diễn xướng dân gian mang đậm tính nguyên hợp của
người Nùng ở miền núi phía bắc Việt Nam. Đây cũng là một hình thức sinh hoạt tín
ngưỡng văn hóa có mối quan hệ khá gần gũi với các hình thức cúng bái khác của
người Tày, N ng như Tào, Mo, Then"[107;tr.9].
Năm 2009, cuốn sách
ín ngưỡng dân gian Tày – Nùng của tác giả Nguyễn Thị Yên
đã được Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản. Cuốn sách chủ yếu khảo sát về tín
ngưỡng của hai tộc người Tày - Nùng ở 4 tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn và Thái
Nguyên. Sách gồm hai phần: phần thứ nhất nghiên cứu tổng quan về người Tày, Nùng
và t n ngưỡng dân gian của người Tày, Nùng; các hình thức văn hóa t n ngưỡng của
người Tày, Nùng; sự hình thành và biến đổi các hình thức văn hóa t n ngưỡng Tày,
Nùng; hiện trạng đời sống sinh hoạt và vai trò của các hình thức văn hóa t n ngưỡng
trong đời sống của người Tày, Nùng. Phần thứ hai giới thiệu một số nghi lễ tiêu biểu
như: lễ cấp sắc Pụt Nùng, then Tày, lễ đầy tháng, mừng thọ của Pụt Tày, Then Tày,...
14
Cuốn sách với 719 trang đã cung cấp nhiều thông tin có giá trị để người đọc có thể hình
dung so sánh về t n ngưỡng dân gian của hai tộc người này trong mối quan hệ tương
đồng, giao thoa văn hóa, cũng như n t khác biệt trong nghi lễ.
Năm 2007, Nhà xuất bản Lao động đã xuất bản cuốn sách Lễ vun hoa của người
Nùng An Cao Bằng của tác giả Triệu Thị Mai. Cuốn sách đề cập đến một số nghi
lễ cho trẻ nhỏ như lễ An Va (lễ trồng hoa); lễ khai bươn (lễ đầy tháng cho trẻ
nhỏ); lễ Liềng can (lễ giải hạn cho những đứa trẻ ốm); lễ vun hoa (lễ cúng giải
hạn cho những đứa trẻ rơi vào mệnh con quan) [56; tr.7-9 . Năm 2009, tác giả Triệu
Thị Mai đã tiếp tục ra mắt người đọc cuốn sách Văn h a truy n th ng của người
Nùng Khen Lài ở Cao Bằng . Cuốn sách gồm 493 trang, trong đó từ trang 13-94,
tác giả bước đầu đã khái quát được văn hóa truyền thống và một số nghi lễ v ng đời
của người Nùng Khen Lài ở Cao Bằng. Năm 2011, tác giả Triệu Thị Mai xuất bản
cuốn sách Tang lễ của người Nùng Giang ở Cao Bằng . Cuốn sách này đã giới
thiệu một số hình thức và tiến trình của một đám tang của người Nùng Giang ở Cao
Bằng bao gồm nhiều nghi thức như: khâm liệm; đón thầy Tào; nhập quan; nghi thức
và nghi lễ; trình tự lễ hành tang; một số lễ cúng trong vòng tang; một số loại hình
nghệ thuật; cuối cùng là một bài xướng ca trong tang lễ.
Tác giả Nguyễn Thị Ngân và Trần Th y Dương năm 2008 đã xuất bản cuốn sách “Hôn
nh n và gia đình của dân tộc Nùng” trên cơ sở chỉnh sửa đề tài cấp Bộ năm 2007. Cuốn
sách đã cung cấp những tư liệu thực tiễn giúp người đọc nhận diện đầy đủ hơn về mọi
mặt đời sống xã hội của người Nùng thông qua các phong tục tập quán trong hôn nhân
và gia đình của các nhóm người N ng địa phương ở Việt Nam [24;tr.8].
Năm 2013, tác giả Nguyễn Thị Ngân đã viết cuốn sách Tang ma của người Nùng
Phàn Slình ở tỉnh Thái Nguyên”, Nhà xuất bản Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn, gồm 311 trang. Sách giới thiệu về người Nùng Phàn Slình ở tỉnh Thái Nguyên
và những quan niệm liên quan đến tang ma, tìm hiểu về tang ma truyền thống và sự
biến đổi trong tang ma, làm r được giá trị của tang ma trong việc xây dựng đời
sống mới.
Ngoài các công trình sách, đã có rất nhiều bài viết đăng trên tạp chí viết về các nghi
lễ, tập quán của người Nùng, chẳng hạn như: Bài viết “T p quán trong sinh đẻ và
nuôi dạy con cái của dân tộc Nùng” (qua khảo sát tại xã Bản Mế, huyện Si Ma Cai,
tỉnh Lào Cai) của tác giả Vi Văn An đăng trên Kỷ yếu Hội nghị Thông báo dân tộc học
15
2005. Tác giả đã nêu ra được quan niệm về sinh đẻ và tập quán liên quan trong thời kỳ
mang thai và khi đẻ con của người Nùng, sự quan tâm chăm sóc con cái của họ theo
từng giai đoạn của cuộc đời trong môi trường gia đình và môi trường xã hội. Bài viết
“Một s tri th c dân gian của người
ng” tác giả Nguyễn Hữu Phương 2007 , đăng
trên Kỷ yếu Hội nghị Thông báo Văn hóa dân gian 2006 của Viện nghiên cứu Văn hóa;
Báo cáo tập sự của Hoàng Thị Lê Thảo nghiên cứu về “Tri th c địa phương của người
Nùng trong việc chăm s c s c khỏe bà mẹ và trẻ em ở x Đại An, huyện Văn Quan,
tỉnh Lạng Sơn” 2010 cũng đã có những phân tích sâu sắc về phong tục, tập quán
trong sinh đẻ và nuôi dạy trẻ nhỏ của người Nùng [24; tr.9,10]. Luận văn “T p quán
cưới xin của người Nùng Dín, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai , khóa luận tốt
nghiệp của Hoàng Thị Vượng đăng trên Tạp chí Dân tộc học, Luận văn tìm hiểu về
quan niệm hôn nhân, quy tắc hôn nhân, các tục lệ cưới xin của người Nùng Dín huyện
Mường Khương, tỉnh Lào Cai. Khóa luận tốt nghiệp năm 1995 của Hoàng Mai về “Thực
trạng văn h a gia đình người
ng x Văn An - Văn Quan - Lạng Sơn” tìm hiểu về thực
trạng văn hóa gia đình của người Nùng tại địa bàn nghiên cứu, đồng thời đưa ra một số ý
kiến về xây dựng gia đình văn hóa.
Bên cạnh đó cũng đã có một số bài viết có đề cập đến sự giao thoa, tiếp biến văn hóa
của dân tộc Nùng với một số dân tộc khác trong bối cảnh đổi mới và hội nhập. Chẳng
hạn như: bài viết
gười Tày Cao Bằng và những biểu hiện giao lưu hội nh p văn h a
Kinh - Tày - Nùng ở Cao Bằng của tác giả Nguyễn Thị Yên đăng trên Thông báo Văn
hóa dân gian (2004).
1.1.2.2. Nghiên c u v người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn
Người Nùng ở Lạng Sơn với nhiều nhóm địa phương khác nhau, đã và đang là đối
tượng nghiên cứu của nhiều học giả và các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước như đã
trình bày ở trên. Nhưng nghiên cứu chuyên sâu về nghi lễ của nhóm Nùng Cháo ở
Lạng Sơn thì rất ít. Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành văn hóa học của Lê Thị Hường
(2008) với đề tài "Hôn nhân của người Nùng Cháo ở xã Bảo Lâm, huyện Cao Lộc,
tỉnh Lạng Sơn" nghiên cứu về đám cưới của người Nùng Cháo tại địa phương. Luận
văn đã tìm hiểu và miêu tả được những nghi lễ trong hôn nhân của người Nùng
Cháo, bước đầu có những nghiên cứu điểm về người Nùng Cháo tại một địa bàn cụ
thể [24; tr.9]. Tác giả Hoàng Thị Lê Thảo đã có nghiên cứu về Tri th c địa phương
của người Nùng ở x Đại An, huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn”; và “Những bi n đổi
16
trong việc chăm s c s c khỏe bà mẹ và trẻ em người Nùng ở x Đại An, huyện Văn
Quan, tỉnh Lạng Sơn” (luận văn thạc sĩ Dân tộc học). Thông qua 2 nghiên cứu này,
tác giả Hoàng Thị Lê Thảo nêu được những biến đổi trong việc chăm sóc sức khỏe
bà mẹ và trẻ em của người Nùng tại địa bàn nghiên cứu trong thời kỳ công nghiệp
hóa - hiện đại hóa, quá trình biến đổi được đặt trong tương quan với những hoạt
động chăm sóc sức khỏe trong truyền thống và những tri thức địa phương tộc người
trong các hoạt động phát triển sinh kế và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Bên cạnh
đó, Hoàng Thị Lê Thảo đã tìm hiểu được những yếu tố tác động đến sự biến đổi,
bước đầu đưa ra nhận xét, những vấn đề đặt ra đối với sự biến đổi đó [24; tr.9]. Lê
Minh Anh với luận án Tiến sĩ nhân học về “Quan hệ dòng h của người Nùng Phàn
Slình nghiên c u ở Huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn” (2014) đã miêu tả khá tốt khi
nói về mối quan hệ dòng họ của người Nùng trong việc tương trợ lẫn nhau về kinh
tế, trong hoạt động sinh đẻ và nuôi dạy con cái để từ đó làm r đặc tính tâm lý cố
kết cộng đồng của người Nùng [23;tr.8].
Năm 2013, tác giả Nông Ngọc Bắc đã sưu tầm và biên soạn cuốn sách "Bài ca trong
Tang lễ của người Nùng Cháo" nhằm giới thiệu với bạn đọc 24 bài ca trong tang lễ của
người N ng Cháo được tác giả sưu tầm tại huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, là nơi có
đồng bào Nùng Cháo sinh sống. Các bài ca gắn với các thủ tục: đón thầy về làm lễ báo
tang, đi lấy nước về rửa cho thi thể, nhập quan, mời vong ăn, đón khách - bạn bè - con
cháu - thông gia, con trai làm lễ thắp đèn, chuộc hồn về trước bàn thờ, xuất tang…
1.1.2.3. Các nghiên cứu về nghi lễ chu kỳ đời người của các dân tộc ở Việt Nam
Nghiên cứu nghi lễ trong chu kỳ đời người của các dân tộc là một vấn đề nghiên
cứu không mới nhưng luôn có sự cuốn hút các học giả, các nhà nghiên cứu. Đây là
lĩnh vực văn hóa tinh thần của mỗi dân tộc, chứa đựng nhiều giá trị văn hóa phi vật
thể mang t nh cốt l i, là mảnh đất màu mỡ cho các nhà nghiên cứu đi sâu tìm hiểu
về phong tục tập quán và bản sắc văn hóa tộc người. Tuy nhiên đây cũng là vấn đề
nghiên cứu tương đối khó khăn, đ i hỏi người nghiên cứu phải thật sự dành thời
gian và tâm huyết. Các nhà dân tộc học ở Việt Nam coi những nghi lễ trong chu kỳ
đời người của các dân tộc là đối tượng nghiên cứu từ nhiều năm nay. Thông qua
tổng quan các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này s giúp chúng tôi có phương
pháp nghiên cứu mới và tìm ra hướng đi mới cho luận án. Một số công trình đã
được xuất bản cụ thể như sau:
17