Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Nghi lễ trong chu kỳ đời người của người tày huyện na hang, tỉnh tuyên quang tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (997.89 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HOA MAI

NGHI LỄ TRONG CHU KỲ ĐỜI NGƢỜI CỦA
NGƢỜI TÀY HUYỆN NA HANG,

TỈNH TUYÊN QUANG
Ngành: Nhân học

Mã số : 9 31 03 02

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC

Hà Nội - 2019


Luận án đƣợc hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI – VIỆN HÀN LÂM KHOA
HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Quang Hoan

Phản biện 1: PGS.TS. Khổng Diễn
Phản biện 2: PGS.TS. Lâm Bá Nam
Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Duy Thiệu

Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến sĩ tại
Học viện Khoa học xã hội, 477 Nguyễn Trãi – Thanh Xuân – Hà Nội



Vào hồi ....giờ....phút

ngày tháng

năm 2019

Có thể tìm hiểu luận án tại :
Thư viện Quốc gia
Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân tộc Tày là một dân tộc thiểu số đông dân nhất ở nước ta hiện nay chỉ sau người
Kinh, có một bản sắc văn hóa đặc thù, phong phú. Họ sống tập trung tại một số tỉnh như Cao
Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang.... Cho đến nay đã có nhiều công
trình về người Tày, các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước chủ yếu tập
trung nghiên cứu về người Tày ở các tỉnh miền núi biên giới, nơi mà người Tày có điều kiện
được giao lưu, tiếp xúc và trao đổi với nhiều nền văn hóa, kinh tế, chính trị, giáo dục khác
nhau. Trong khi đó, dân tộc Tày đang sinh sống ở tỉnh Tuyên Quang, đặc biệt là một bộ phận
người Tày ở huyện Nà Hang thì các dạng thức văn hóa, trong đó có nghi lễ trong chu kỳ đời
người thường chậm biến đổi hơn so với người Tày ở một số tỉnh khác. Người Tày ở huyện
Nà Hang hiện nay vẫn được coi là người Tày cổ, còn bảo tồn được nhiều yếu tố văn hóa
truyền thống, nhất là trong các nghi lễ chu kỳ đời người của họ. Việc nghiên cứu nghi lễ
trong chu kỳ đời người của người Tày ở Nà Hang, sẽ giúp chúng ta biết được những bảo lưu,
cũng như những biến đổi của nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày ở Nà Hang, qua
đó phát huy được những giá trị văn hóa tốt đẹp, phù hợp và hạn chế được những biểu hiện
tiêu cực, không phù hợp của nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày ở Nà Hang, để có
những giải pháp góp phần giúp người Tày ở Nà Hang phát triển kinh tế, giữ gìn và phát huy

bản sắc văn hoá của mình.
Kết quả đạt được của đề tài cũng có đóng góp cho việc cung cấp những luận cứ khoa học cho
việc thực hiện có hiệu quả chính sách dân tộc, chính sách phát triển văn hóa dân tộc của Đảng và
Nhà nước ta, phù hợp với tinh thần Nghị quyết Trung ương V (khóa VIII) và Nghị quyết Trung
ương IX (khóa XI), đồng thời góp phần thực hiện trực tiếp chương trình xây dựng nông thôn mới
ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay .
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích
Luận án đi sâu tìm hiều đời sống văn hóa của người Tày ở huyện Nà Hang, tỉnh Tuyên
Quang thông qua các nghi lễ trong chu kỳ đời người bao gồm nghi lễ sinh đẻ, hôn nhân và
tang ma. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận án đề xuất một số kiến nghị và giải pháp phục vụ
công tác bảo tồn, gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa của tộc người nhằm góp phần xây
dựng và phát triển kinh tế - xã hội của nhóm tộc người này trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
- Luận án tập trung làm sáng tỏ một số vấn đề liên quan tới nghi lễ trong chu kì đời
người (quan niệm và thực hành nghi lễ gồm sinh đẻ, hôn nhân, tang ma) của người Tày ở
huyện Nà Hang trong truyền thống;
- Làm rõ những biến đổi trong nghi lễ chu kì đời người của người Tày ở huyện Nà Hang
hiện nay và phân tích các nguyên nhân dẫn tới sự biến đổi đó;
- Từ các kết quả đạt được, luận án đề xuất một số kiến nghị, giải phápnhằm bảo tồn và
phát huy các giá trị phù hợp của tín ngưỡng của người Tày tại huyện Nà Hang trong tình
hình mới hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu

1


Đối tượng nghiên cứu của luận án là các nghi lễ chu kỳ đời người của người Tày huyện

Nà Hang, Tuyên Quang.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu sâu về nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày ở
huyện Nà Hang bao gồm: nghi lễ sinh đẻ, nghi lễ hôn nhân và nghi lễ tang ma của người Tày
ở huyện Nà Hang, tỉnh Tuyên Quang từ truyền thống đến biến đổi. Phạm vi truyền thống
được giới hạn là giai đoạn trước năm 1986; Giai đoạn biến đổi được xác định là từ đổi mới
năm 1986 đến nay và nhất là từ năm 1999 khi có thủy điện Nà Hang.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở phương pháp luận
Để thực hiện luận án này, tác giả dựa trên quan điểm của nghĩa duy vật lịch sử và duy
vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, văn hóa
dân tộc để luận giải các sự vật, hiện tượng trong nghi lễ chu kỳ đời người của người Tày
trong hệ thống và bối cảnh cụ thể, có sự tác động qua lại lẫn nhau và luôn luôn có sự vận
động biến đổi. Luận án sử dụng các cơ sở lý luận chuyên ngành, các lý thuyết tiếp cận phù
hợp để làm sáng tỏ các vấn đề trong văn hóa tộc người thông qua hệ thống các nghi lễ trong
chu kỳ đời người của người Tày ở huyện Nà Hang, dưới góc nhìn Dân tộc học/Nhân học.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Thu thập, tổng hợp và kế thừa các tài liệu sẵn có;
- Phương pháp điền dã Dân tộc học/ Nhân học;
- Phương pháp điều tra thực tiễn: Ở phương pháp này, NCS đã tiến hành các đợt điền dã từ
năm 2015 - 2018 tại Thị trấn Nà Hang; các xã: Sinh Long; Thượng Giáp; Côn Lôn; Hồng
Thái; Khau Tình.
Tại địa bàn, NCS tập trung phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm các đối tượng cụ thể như:
Cán bộ lãnh đạo thị trấn/ xã; cán bộ lãnh đạo thôn và tổ dân phố; người dân là dân tộc Tày ở
thị trấn và xã; thày mo.
- Phương pháp chuyên gia;
- Phương pháp so sánh.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình nghiên cứu tổng thể, toàn diện, có hệ thống và chuyên sâu dưới

góc độ chuyên ngành Nhân học về nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày ở huyện Nà
Hang, tỉnh Tuyên Quang. Trên cơ sở các tư liệu có được, luận án góp phần hiểu biết sâu sắc
hơn về những đặc trưng văn hoá của người Tày ở huyện Nà Hang, thông qua các nghi lễ
trong chu kỳ đời người. Luận án đã cho thấy được sự biến đổi nghi lễ trong chu kỳ đời người
của người Tày ở huyện Nà Hang, dưới tác động của quá trình Đổi mới hội nhập và giao thoa
văn hóa. Đồng thời qua hệ thống các nghi lễ trong chu kỳ đời người, luận án cung cấp cứ
liệu để người Tày và chính quyền địa phương thấy được các giá trị văn hóa cần được bảo tồn
và phát huy. Luận án đề xuất được một số giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy các giá trị tốt
đẹp, hạn chế những mặt bất lợi, không phù hợp của nghi lễ trong chu kỳ đời người của người
Tày huyện Nà Hang, Tuyên Quang hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận án

2


Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần hoàn thiện những vấn đề lý luận về các nghi lễ
trong chu kỳ đời người của người Tày ở Việt Nam, chỉ ra được những biểu hiện, các yếu tố
ảnh hưởng đến các nghi lễ này.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể là tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu và giảng
dạy về các nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày tại các cơ sở đào tạo hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận án cũng là tài liệu tham khảo cho lãnh đạo địa phương có
dân tộc Tày sinh sống, trước hết là cán bộ quản lý ngành văn hóa để phát huy các giá trị văn hóa
tốt đẹp của các nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày, hạn chế những biểu hiện tiêu cực
không phù hợp trong các nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày ở Nà Hang, Tuyên Quang
nói riêng và ở khu vực phía Bắc nói chung.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 5 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và khái quát về địa bàn nghiên

cứu; Chương 2: Nghi lễ sinh đẻ và nuôi dạy con; Chương 3: Nghi lễ hôn nhân của người
Tày; Chương 4: Nghi lễ tang ma của người Tày; Chương 5. Biến đổi của nghi lễ chu kỳ đời
người và một số nhận xét.
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT
VÀ KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1.Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Các nghiên cứu của học giả nước ngoài về người Tày
Đã từ lâu, sử sách Trung Quốc có đề cập tới các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Tày –
Thái, trong đó có tộc người Tày ở Việt Nam. Thời kỳ cận hiện đại, các học giả Trung Quốc tập
trung chủ yếu nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển của các tộc người, trong khi lại ít
quan tâm đến các khía cạnh văn hóa tộc người cũng như sự giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa các
tộc người. Từ đầu thế kỷ XX, một số học giả phương Tây đã bắt đầu quan tâm nghiên cứu về
các khía cạnh như lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa,… của các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ
Choang - Đồng ở Trung Quốc và nhóm Tày - Thái ở Việt Nam. Đáng chú ý là vào những
thập kỷ 60 - 70 của thế kỷ XX, các nhà Dân tộc học Xô Viết như IU. Bromlei, N.
Cheboksarov, M. Kriucov… đã tiến hành các nghiên cứu và công bố một số ấn phẩm, trong
đó có đề cập đến tộc người Tày .
1.1.2. Các nghiên cứu của tác giả trong nước về người Tày
Từ những năm 60 của thế kỷ XX, nhiều nhà dân tộc học Việt Nam đã quan tâm nghiên cứu
sâu về tộc người Tày từ những góc nhìn chuyên ngành khác nhau. Có thể phân chia các nghiên
cứu này theo các hướng chủ yếu như sau:
- Hướng nghiên cứu tổng hợp về người Tày: Các công trình nghiên cứu này đề cập khá toàn
diện về điều kiện địa lý tự nhiên, lịch sử tộc người, đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội của người
Tày của các tác giả Bế Viết Đẳng, Lã Văn Lô, Hà Văn Thư, Nguyễn Chí Huyên
- Nghiên cứu về ngôn ngữ của tộc người Tày: Có thể đưa ra một số công trình tiêu biểu nghiên
cứu về tiếng Tày - Nùng và mối quan hệ giữa tiếng Tày - Nùng và tiếng Việt của Nguyễn Hàm
Dương và Nguyễn Thiện Giáp, Nông Quốc Chấn, Ma Thế Dân, Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo,
Hoàng Chí, Triều Ân, Hoàng Quyết, Phương Bằng,…


3


- Nghiên cứu, sưu tầm, giới thiệu về văn hóa dân gian Tày, Nùng của Hoàng Quyết và
các cộng sự; Triều Ân, Phương Bằng, Lục Văn Pảo, Hoàng Văn Páo, Nguyễn Huy Hồng,
Nguyễn Thị Yên Vi Hồng,...
1.1.3. Những nghiên cứu về nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày
Khi nghiên cứu về nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày, một số tác giả đã quan
tâm đến nghi lễ tang ma của dân tộc này. Đó là các nghiên cứu của các tác giả Lã Văn Lô,
Đặng Nghiêm Vạn, Bế Viết Đẳng, Khổng Diễn, Phạm Quang Hoan, Nguyễn Quang Huy,
Nguyễn Anh Ngọc, Hà Văn Thư, Hoàng Quyết, Đỗ Thúy Bình, Hà Văn Viễn, Lương Văn
Bảo, Lâm Xuân Đình, Triệu Kim Văn, Bàn Tuấn Năng, Đàm Thị Uyên, Hoàng Thị Lan,
Hoàng Tuấn Nam, Nguyễn Thị Ngân, Hoàng Lương, Nguyễn Thị Yên, Vương Hùng, Nông
Vĩnh Tuân, La Công Ý, Nguyễn Ngọc Thanh, Ngô Thị Trang, Phạm Thị Hằng, Nguyễn Linh
Hương, Lục Mạnh Hùng, Hoàng Thị Hỏi, Hồ Sỹ Lập, Trần Đức Tùng, Nguyễn Mạnh
Tiến,… Từ phân tích những công trình nghiên cứu trên có thể rút ra một số nhận xét sau:
Có khá nhiều công trình nghiên cứu quan tâm đến văn hóa, trong đó có các nghi lễ vòng
đời của các dân tộc thiểu số phía Bắc, trong đó có dân tộc Tày. Những nghiên cứu này chủ
yếu của các tác giả Việt Nam, rất ít các công trình nghiên cứu nước ngoài. Nhiều nghiên cứu
tìm hiểu về đời sống kinh tế, văn hóa, điều kiện sống và sinh hoạt của dân tộc Tày. Một số
nghiên cứu lại tìm hiểu một khía cạnh của đời sống văn hóa của dân tộc Tày, một nghi lễ
trong vòng đời của người Tày. Rất ít nghiên cứu tìm hiểu đầy đủ các nghi lễ trong vòng đời
của dân tộc Tày.
Những nghiên cứu về người Tày ở Tuyên Quang còn rất khiêm tốn, đặc biệt chưa có nghiên
cứu nào tìm hiểu sâu từ góc độ khoa học nhân học về các nghi lễ vòng đời của dân tộc Tày tại
huyện Nà Hang, tỉnh Tuyên Quang. Đây là khoảng trống để luận án nghiên cứu.
1.2. Cơ sở lý thuyết của đề tài
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản
Trong khuân khổ luận án, NCS đã luận giải, làm rõ nội hàm một số khái niệm như: Nghi lễ;
Nghi lễ chu kỳ đời người; Nghi lễ trong chu kỳ đời người; Sinh đẻ; Nghi lễ sinh đẻ; Hôn nhân,

Tập quán hôn nhân; Tang ma, Nghi lễ tang ma.
1.2.2. Các lý thuyết nghiên cứu
Trong luận án NCS đã sử dụng ba lý thuyết chính đó là: Lý thuyết về Nghi lễ chuyển
đổi, Lý thuyết về Biến đổi và tiếp biến văn hóa, Lý thuyết về Bản sắc văn hóa tộc người.
Những lý thuyết này đã được vận dụng một cách phù hợp trong các chương của luận án.
1.3. Khái quát về Tuyên Quang, về Nà Hang và ngƣời Tày ở Nà Hang, Tuyên Quang
1.3.1. Khái quát về Tuyên Quang, dân tộc Tày ở Tuyên Quang
Tuyên Quang nằm ở miền núi phía Bắc Việt Nam, vị trí địa lý từ 21°29' đến 22°42’ độ
vĩ Bắc, từ 104°50' đến 105°36' độ kinh Đông. Địa hình Tuyên Quang bị chia cắt lớn bởi hệ
thống sông ngòi dày đặc, núi đồi trùng điệp, thung lũng sâu
Về người Tày ở Tuyên Quang: Tày là tộc người cư trú lâu đời nhất ở Tuyên Quang.
Người Tày ở Tuyên Quang có dân số đứng thứ hai sau người Kinh. Theo Tổng điều tra Dân số và
Nhà ở năm 2009, tổng số người Tày ở Tuyên Quang là 185.464 người, chiếm 25,5% dân số toàn
tỉnh và 22,5% tổng số người Tày ở Việt Nam. Người Tày cư trú ở hầu khắp các huyện trong tỉnh
Tuyên Quang, trong đó, huyện Nà Hang và Sơn Dương có số lượng người Tày tương đối đông.
1.3.2. Khái quát về Nà Hang và dân tộc Tày ở Nà Hang

4


Nà Hang là huyện vùng cao phía Bắc của tỉnh Tuyên Quang có diện tích tự nhiên là
146.368 ha, trong đó có 7.257,42 ha đất nông nghiệp; 85.665,38 ha đất lâm nghiệp, còn lại là
núi đá, sông suối và các loại đất chuyên dụng khác. Địa hình của Nà Hang khá hiểm trở, bị
chia cắt bởi các dãy núi cao và sông, suối. Nà Hang là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc. Tính
đến năm 2010, dân số của huyện là 60.151 người sinh, sống tại 17 xã, thị trấn, trong đó dân
tộc Tày chiếm 55,18%, Dao 25,72%, Kinh 10,11%, Hmông 7,52%.
Tiểu kết Chƣơng 1
Cho đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu quan tâm đến văn hóa, trong đó có
các nghi lễ vòng đời của các dân tộc thiểu số phía Bắc nước ta, trong đó có dân tộc Tày.
Những nghiên cứu này chủ yếu của các tác giả Việt Nam, rất ít các công trình nghiên cứu

của các tác giả nước ngoài.
Nhiều nghiên cứu tìm hiểu về đời sống kinh tế, văn hóa, điều kiện sống và sinh hoạt, một
nghi lễ trong vòng đời của người Tày nói chung. Tuy nhiên lại không có nhiều công trình
nghiên cứu, tìm hiểu đầy đủ các nghi lễ trong vòng đời của dân tộc Tày. Những nghiên cứu
về người Tày ở Tuyên Quang, trong đó có huyện Nà Hang còn chưa nhiều, đặc biệt là các
nghiên cứu chuyên sâu từ góc độ nhân học về các nghi lễ vòng đời của người Tày ở huyện
Nà Hang, Tuyên Quang. Đây là khoảng trống để luận án đi sâu nghiên cứu.
Luận án đã xác định và làm rõ nội hàm một số khái niệm công cụ liên quan, cũng như đã lựa
chọn và vận dụng một số lý thuyết nghiên cứu: Lý thuyết về nghi lễ chuyển đổi; Lý thuyết biến về
đổi và tiếp biến văn hóa; Lý thuyết về Bản sắc văn hóa tộc người.
Trong bức tranh đa dạng về thành phần tộc người ở Tuyên Quang, người Tày ở Nà
Hang được hình thành từ những bộ phận khác nhau, cư trú tại các vùng cảnh quan thung
lũng, ven các con sông, suối. Họ sinh sống chủ yếu dựa vào trồng trọt ruộng nước, kết
hợp với chăn nuôi gia cầm, gia súc, làm các nghề thủ công, khai thác các nguồn lợi
trong rừng, dưới sông, suối. Ngoài ra, họ còn trồng một số cây công nghiệp, nuôi trồng
thủy sản ở vùng lòng hồ thủy điện Nà Hang.
Cho đến nay, người Tày ở Nà Hang vẫn luôn có ý thức bảo tồn các yếu tố văn hóa tộc người
trong cách bố trí làng bản, xây dựng nhà ở, chế biến món ăn, đồ uống, thực hành các lễ, hội, nghi
lễ, tín ngưỡng truyền thống... Tất cả những nét văn hóa đó đã và đang tạo nên sắc thái riêng của
cộng đồng người Tày và để phân biệt với các tộc người khác ở Tuyên Quang cũng như các tộc
người khác trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam thống nhất trong đa dạng.
Chƣơng 2
NGHI LỄ SINH ĐẺ VÀ NUÔI DẠY CON
2.1. Quan niệm của ngƣời Tày về con cái
2.1.1. Quan niệm của người Tày về con cái nói chung
Cũng giống như các dân tộc khác ở Việt Nam, người Tày nói chung, người Tày ở Nà
Hang nói riêng đánh giá cao ý nghĩa của con cái trong đời sống gia đình. Kết quả phỏng vấn
sâu cho thấy người Tày ở Nà Hang cho rằng, một trong những chức năng quan trọng nhất
của gia đình là sinh đẻ. Sinh đẻ để duy trì nòi giống.
Do đó, người Tày không chỉ quan niệm hôn nhân là phải có con, mà còn phải có đông

con, đông cháu. Trong quan niệm truyền thống của người Tày, tư tưởng có "con đàn cháu
đống" là vinh quang, đại phúc.
2.1.2. Quan niệm của người Tày về con trai
5


Đối với các gia đình người Tày ở Nà Hang, quan niệm về con trai trong gia đình có ý nghĩa
đặc biệt. Kết quả phỏng vấn sâu các gia đình người Tày ở Nà Hang cho thấy, có con trai không
chỉ để duy trì nòi giống mà còn để khẳng định vị trí ngang bằng của gia đình mình trong xã hội.
2.2. Cơ sở tín ngƣỡng của nghi lễ sinh đẻ
2.2.1. Tập quán chăm sóc phụ nữ trong thời kỳ mang thai
2.2.1.1. Đoán định về việc sinh con và chăm sóc bà mẹ mang thai.
Trong thời kỳ người phụ nữ mang thai, các gia đình người Tày ở Nà Hang thường quan
tâm đến việc đứa trẻ sinh ra là con trai hay con gái. Sở dĩ vấn đề này vẫn còn tồn tại vì trong
nhiều gia đình vẫn bị ảnh hưởng bởi tư tưởng sinh con trai, tư tưởng trọng nam trong đời
sống xã hội người Tày.
Cùng với việc xem xét người mẹ sinh con trai hay con gái thì các gia đình người Tày ở
Nà Hang cũng rất quan tâm đến sức khỏe của đứa trẻ ngay từ khi nó mới được hình thành
trong bụng mẹ. Người Tày cho rằng, đứa trẻ cần được chăm sóc ngay từ khi người phụ nữ
mang thai. Quan niệm này phù hợp với yêu cầu chăm sóc đứa trẻ và người mẹ theo khoa học
hiện đại.
2.2.1.2.Tập quán chăm sóc người phụ nữ mang thai.
Việc chăm sóc thai nhi cũng như người phụ nữ mang thai của người Tày được bắt đầu
trước hết từ chính người phụ nữ. Người phụ nữ Tày khi mang thai cũng phải kiêng cữ rất nhiều
trong ăn uống hay công việc hàng ngày. Trong thời gian có thai, người phụ nữ thường để ý xem
nhà ai đông con đông cháu, dễ sinh, dễ nuôi thì tìm đến nhà họ rút trộm dải rút ở cạp váy về
thắt vào bụng mình, cầu mong đến ngày đến tháng sinh nở thuận lợi, nuôi con nhẹ nhàng.
Trước khi sinh một thời gian ngắn, họ thường đến xin người nào dễ đẻ, con khỏe mạnh mập
mạp một cái áo, cái tã, mũ để lấy hơi cho con, mong con sau này ăn ngoan, chóng lớn.
2.2.1.3. Tập quán kiêng kỵ với người phụ nữ mang thai.

Khi người phụ nữ Tày mang thai, họ không chỉ phải chú ý đến việc ăn uống để đảm bảo
tốt cho thai nhi, mà còn phải cẩn thận khi làm các công việc trong sản xuất và sinh hoạt hàng
ngày. Khi mang thai người phụ nữ Tày tránh làm những công việc nặng nhọc như mang,
vác. Nếu có đám tang, thai phụ kiêng đến để tránh hơi lạnh ám vào người gây ảnh hưởng đến
sức khỏe của thai nhi.
2.2.2. Tập quán và nghi lễ sinh đẻ của người Tày
2.2.2.1.Nghi lễ cầu an cho bà mẹ và đứa trẻ.
Qua khảo sát thực tế cho thấy, ngoài sự chuẩn bị về mặt vật chất, gia đình và bản thân
người phụ nữ mang thai cũng có sự chuẩn bị chu đáo về tinh thần để phòng tránh rủi ro.
Thường trước khi đến tháng đẻ, gia đình sẽ chuẩn bị lễ troi tón bương (cúng đón tháng) để
cầu an cho mẹ và bé. Nghi lễ cầu an cho bà mẹ và đứa trẻ được thực hiện tại nhà riêng. Lễ
vật gồm có xôi, rượu, gà, hai bát nước màu vàng và màu xanh (bát nước vàng tượng trưng
cho con gái, bát nước xanh tượng trưng cho con trai), hai bông hoa một màu trắng và một
màu đỏ (bông màu trắng tượng trưng cho con trai, bông màu đỏ tượng trưng cho con gái). Ở
mỗi vùng khác nhau lại có sự khác biệt về lễ vật cúng.
Thầy cúng là người thực hiện nghi lễ cầu an cho bà mẹ và đứa trẻ. Thầy cúng lên then và
trình tổ tiên, bà Mụ cầu cho việc sinh nở được an toàn và ban cho con trai hoặc con gái.
2.2.2.2. Tập quán, nghi lễ cho người phụ nữ trước, trong và sau khi đẻ
Người Tày ở Nà Hang trước đây có phong tục chỉ nhờ người có kinh nghiệm đỡ đẻ đến
giúp. Người đỡ đẻ trực suốt ở gần bà đẻ cho tới khi đứa trẻ chào đời.
6


Khi người phụ nữ bắt đầu đau bụng, mẹ chồng hoặc chị chồng đun một nồi nước sôi để
ấm (không pha nước lã), chuẩn bị một que nứa dài 20cm vót phần cật thật sắc để cắt rốn cho
em bé, một sợi chỉ tơ vàng dài cỡ gang tay. Người Tày không cắt rốn trẻ bằng dao vì sợ sau
này đứa trẻ lớn lên cứng đầu cứng cổ, khó dạy bảo.
Nghi lễ sau khi đẻ:
- Nghi lễ cắt rốn cho đứa trẻ.
Sau khi ra đời, trẻ được cắt rốn bằng que nứa. Trong quan niệm dân gian của người Tày,

phần rốn là nơi trú ngụ linh hồn đứa bé, vì vậy việc cắt rốn và giữ gìn cuống rốn rất quan trọng,
ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng của đứa trẻ sau này. Rốn được cắt dài để tránh đứa trẻ mắc
bệnh đái dầm. Sau khi cắt rốn xong, trẻ được lau người bằng nước ấm và quấn giấy bản.
Trong văn hóa của người Tày, nhau thai có ý nghĩa rất quan trọng vì thếNgười Tày rất
kiêng kỵ việc vứt bỏ nhau thai. Các gia đình người Tày thường rất cẩn thận trong việc cất
giữ nhau thai.
- Nghi lễ thông báo về việc ra đời của đứa trẻ: Sau khi đứa trẻ được sinh ra, các gia đình
người Tày thực hiện nghi lễ thông báo việc ra đời của đứa trẻ với ý nghĩa thông báo cho
người khác biết nhà có người ở cữ, không cho người ngoài, người lạ vào nhà để tránh người
ngoài mang vía độc vào làm cho đứa trẻ quấy khóc, ốm đau.
- Nghi lễ chăm sóc bà mẹ và đứa trẻ sau sinh: Ngay sau khi sinh con xong, người mẹ
phải uống một bát nước thuốc sắc bằng rễ cây rau răm và ăn một bát cơm nóng với thịt gà
nấu gừng, nghệ, một bát canh rau ngót để bồi bổ cơ thể và tránh bệnh hậu sản. Bữa cơm đầu
tiên sau sinh chỉ được ăn cơm tẻ để tránh nặng người, những bữa cơm sau người mẹ dùng
cơm nếp để có nhiều sữa. Thịt gà cho sản phụ ăn phải là thịt gà mái còn non và chỉ dùng thịt
nạc, tránh ăn thịt gà mái già, gà trống thiến vì quan niệm sẽ bị đau lưng. Cơm canh của sản
phụ được nấu riêng và ăn lúc nóng.
2.2.2.3. Nghi lễ ra cữ, lễ cúng bà Mụ và lễ đặt tên cho đứa trẻ: Hết thời gian 40 ngày ở
cữ, vào ngày cuối cùng của ngày hết cữ được coi là ngày tốt nhất của cháu bé. Vào ngày này
gia đình thực hiện nghi lễ ra cữ cho đứa trẻ. Gia đình phải đón bà then về làm lễ và xông
nhà, xông bàn thờ với mục đích nhằm xua đuổi hết uế tạp ra ngoài, nhổ cây nêu vứt đi và
trình báo tổ tiên nhà mình có thêm 1 đứa cháu, để tổ tiên phù hộ, che chở cho cháu khỏe
mạnh, hay ăn mau lớn. Để làm lễ ra cữ, gia đình phải chuẩn bị 1 nồi nước đun lá bưởi, lá
mận, lá đào cho bà then làm các nghi lễ cần thiết. Gia đình cũng phải lấy vải thổ cẩm, vải
nhuộm đen về cắt khâu hoặc may và làm địu. Nếu người nhà không biết đan thì nhờ anh, chị
em, họ hàng thân thích đan hộ. Bắt đầu hết 40 ngày, mẹ đứa trẻ hoặc người nhà có thể dùng
địu này để địu đứa trẻ ra ngoài, đi chơi các nhà khác trong làng,bản.
- Lễ cúng bà Mụ và lễ đặt tên cho đứa trẻ: Đối với người Tày lễ cúng bà Mụ là một
nghi lễ hết sức quan trọng, nhà nào có người đẻ sau ở cữ cũng phải làm nghi lễ cúng. Đây
cũng là lễ tạ ơn Mẹ Hoa đã ban phát con cái cho gia đình và nâng đỡ để bà mẹ và đứa trẻ

được mẹ tròn con vuông và đồng thời là lễ đặt tên cho đứa trẻ. Do vậy, lễ cúng bà Mụ được
tổ chức rất linh đình với sự tham gia của nhiều người trong đại gia đình và bạn bè, hàng
xóm,… Người thực hiện lễ cúng bà Mụ là thầy cúng, thầy cúng đến nhà riêng để làm các
nghi lễ cúng bà Mụ. Việc chuẩn bị các lễ vật cúng bà Mụ khá cầu kì và cẩn thận.
2.2.2.4.Nghi lễ cho phụ nữ khó sinh: Trong trường hợp đẻ khó, nhau thai khó ra người Tày
xử lý như sau: Trước đây khi chưa có trạm xá, bệnh viện, người Tày hầu hết là tự đỡ đẻ cho mình mà
không cần bà đỡ. Khi sinh con đầu lòng hay trường hợp khó đẻ mới mời bà đỡ có kinh nghiệm đến
7


giúp hoặc mời các ông thầy mo cao tay đến làm bùa.
2.3. Chăm sóc và nuôi dạy trẻ
Ở người Tày, việc chuẩn bị quần áo trước cho con lại là điều không may mắn, nên sau
khi em bé ra đời bình an được ba ngày tuổi gia đình mới bắt đầu cắt may tã lót, quần áo.
Đứa trẻ được nuôi hoàn toàn bằng sữa mẹ trong những năm tháng đầu tiên của cuộc đời.
Người Tày không cai sữa sớm cho con mà cho bú tới khi trẻ được ba tuổi.
Lễ đầy tháng được làm cho cả bé trai và bé gái, nhưng lễ đầy năm thường chỉ tổ chức cho
bé trai. Giai đoạn trẻ từ 3 đến 12 tuổi là khoảng thời gian trẻ học hỏi và tự mình khám phá thế
giới. Trẻ em Tày 6 - 7 tuổi đã được bố mẹ dạy cho cách trông em, gánh nước, hái rau. Bé gái
9-10 tuổi biết theo mẹ đi cấy hay giúp bố chăn trâu. Trong quan niệm của người Tày, trẻ 12
tuổi là hết tuổi mụ, 14 tuổi được coi là người lớn. Thời kỳ những năm 1980 trở về trước, nhiều
gia đình lo dựng vợ gả chồng cho con cái từ khi con 13 -14 tuổi. Vì thế, việc dạy dỗ cách đối
nhân xử thế, cách làm ăn cho con cái trong thời kỳ này được coi trọng.
Tiểu kết chƣơng 2
Người Tày ở Nà Hang có những quan niệm về con cái vừa mang tính truyền thống của
người Việt Nam vừa có những nét riêng, đặc trưng riêng của dân tộc mình. Đó là, người Tày
cho rằng đã kết hôn, xây dựng gia đình thì phải sinh con đẻ cái. Việc người phụ nữ kết hôn không
có con được xem là một điều không bình thường, một điều bất hạnh. Điểm đáng chú ý là, các gia
đình người Tày đều mong muốn có đông con, cho rằng, đây là một điều hạnh phúc của gia đình,
giòng họ.

Trong quan niệm của người Tày về con cái có một ý nghĩa quan trọng đối với người phụ nữ.
Nó được coi là một điều kiện tiên quyết để người phụ nữ trở thành một thành viên chính thức của
gia đình, khẳng định được vị thế trong gia đình, dòng họ và cộng đồng. Người Tày quan niệm
rằng, các gia đình phải có con trai. Con trai là người để nối dõi tông đường, nối dài sự phát triển
của dòng họ. Chính vì vậy, trong cuộc sống của người Tày, đặc biệt là trong truyền thống đã tạo ra
một áp lực khá lớn đối với nhiều người phụ nữ không sinh được con trai.
Người Tày rất quan tâm đến các tập quán, nghi lễ trong quá trình mang thai và sinh đẻ
của người phụ nữ. Ngay từ khi người phụ nữ mang thai đã nhận được sự quan tâm đặc biệt
của gia đình đối với việc chăm sóc thai nhi cũng như đối với sức khỏe của bà mẹ.
Các gia đình người Tày trong quá trình sinh nở, chăm sóc và nuôi dạy con thực hiện
nhiều phong tục tập quán và nghi lễ, những nghi lễ ấy chứa đựng các giá trị văn hóa của
cộng đồng tộc người với mục đích để cho người mẹ sinh nở an toàn “mẹ tròn, con vuông”,
những đứa trẻ sinh ra và lớn lên được khỏe mạnh. Bên cạnh những nghi lễ thông thường bắt
buộc những đứa trẻ phải trải qua như lễ cúng mụ, lễ đặt tên,... còn có các nghi lễ đặc biệt đối
với phụ nữ mang thai có biểu hiện không khỏe mạnh, đứa trẻ sinh ra không khỏe mạnh và
cần đến sự phù hộ của một thế giới siêu nhiên, đó là mẹ Hoa - người mà người Tày quan
niệm là mẹ sinh sản, có vai trò quan trọng trong việc quyết định có con và những đứa con ấy
như thế nào. Vì thế, vai trò của những người thầy mo, thầy cúng, ông bà then được xem là
quan trọng.
Các nghi lễ sinh đẻ và nuôi dạy trẻ của người Tày hiện nay đã có những thay đổi nhất
định. Những phong tục, nghi lễ không phù hợp đã được thay đổi để thích ứng với cuộc sống
hiện tại.

8


Chƣơng 3
NGHI LỄ HÔN NHÂN CỦA NGƢỜI TÀY
3.1. Quan niệm của ngƣời Tày về hôn nhân
Trong quan niệm của người Tày, hôn nhân không chỉ là yếu tố để duy trì và phát triển

nòi giống, thể hiện tình cảm giữa nam và nữ mà còn phản ánh những giá trị đạo đức tộc
người. Việc lấy vợ, lấy chồng được người Tày coi là một dấu mốc quan trọng chứng tỏ
chàng trai, cô gái đã trưởng thành, có quyền tham gia các cuộc hội họp của làng bản, dòng
họ, có quyền đưa ra ý kiến cá nhân của mình. Một cuộc hôn nhân tốt đẹp, một đôi vợ chồng
hạnh phúc theo quan niệm của người Tày là phải đăng đối về gia đình, dòng họ, cả hai đều
khỏe mạnh, có trình độ tương xứng, trong cuộc sống hàng ngày làm gì cũng phải bàn bạc và
đoàn kết trong mọi việc.
3.1.1.Tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời của người Tày
- Tiêu chuẩn chọn vợ:
Tiêu chuẩn chọn vợ của người Tày ở Nà Hang là phải chọn người con gái khỏe mạnh,
chăm chỉ làm ăn, ăn nói nhẹ nhàng, tháo vát. Tiêu chuẩn này xuất phát từ thực tiễn môi
trường cư trú ở vùng đồi núi và hoạt động sản xuất của các gia đình. Bên cạnh tiêu chuẩn về
sức khỏe, chăm chỉ thì người con gái còn cần một số phẩm chất khác như: nói năng lễ phép,
biết ứng xử với bố mẹ chồng và họ hàng, làng bản. Một phẩm chất khác cần thiết của người vợ
tương lai là biết thêu dệt, may vá.
-Tiêu chuẩn chọn chồng: Về tiêu chuẩn lựa chọn người con rể, chọn chồng cũng được
các gia đình người Tày ở Nà Hang quan tâm, chú ý. Việc lựa chọn người rể xuất phát từ vai
trò của người đàn ông trong cuộc sống gia đình. Trong xã hội truyền thống của người Tày,
người chồng lý tưởng là người khỏe mạnh, cần cù, chịu khó làm ăn, biết thương vợ con, biết
đối xử tốt với họ hàng, bố mẹ, anh chị em nhà vợ. Gia đình người Tày theo chế độ phụ hệ,
nên vai trò của người đàn ông trong gia đình là rất lớn. Đàn ông là trụ cột của gia đình. Do
đó khi chọn kén con rể gia đình nhà gái cũng lựa chọn rất kỹ xem chàng trai nào có đức tính
tốt, hiền lành, chăm chỉ sẽ đồng ý cưới gả con gái cho họ. Đối với các cô gái thì chàng trai
đó cũng phải là người mà họ yêu thương và kính trọng thì mới có thể chung sống với nhau
hạnh phúc được.
- Tiêu chí về tuổi kết hôn: Trước đây, người Tày ở Nà Hang, cũng như người Tày nói chung
quan niệm mỗi người khi đến một độ tuổi nhất định sẽ phải lấy vợ, lấy chồng. Những người
không tuân theo quy luật đó của cuộc sống thường là những người "không bình thường".
Người Tày thực hiện chế độ hôn nhân một vợ một chồng, hôn nhân thủy chung. Có thể
nói, đây là một quan niệm thực sự nhân văn của người Tày. Đặc tính sống vị tha, chan hòa,

bình đẳng đã giúp các cặp vợ chồng yêu thương, cảm thông và chia sẻ cuộc sống với nhau
nhiều hơn. Hầu hết đàn ông người Tày cũng không gia trưởng, sống trách nhiệm, còn người
phụ nữ thì chăm chỉ, đảm đang, quán xuyến mọi việc gia đình.
Hình thức hôn nhân chủ đạo ở người Tày lâu nay vẫn là hôn nhân sắp đặt. Ngày nay,
hình thức hôn nhân này đã có nhiều biến đổi nhưng nếu xem xét kỹ thì về cơ bản vẫn tuân
thủ hình thức kết hôn trên mặc dù trai gái được tự do tìm hiểu.
3.2. Nguyên tắc kết hôn của ngƣời Tày
3.2.1.Nguyên tắc ngoại hôn dòng họ
Những người được gọi là máu mủ, họ hàng không được phép kết hôn. Trường hợp con
gái đi lấy chồng thì phải sau 5 đời các con cháu của họ mới được phép kết hôn. Để tránh vi
9


phạm quy tắc ngoại hôn dòng họ, khi con cái lớn lên, cha mẹ và họ hàng có trách nhiệm chỉ
bảo con cái biết ai có thể kết hôn được và ai không được phép lấy. Người Tày ở Nà Hang đã gắn
vấn đề kết hôn cận huyết thống với vấn đề tâm linh. Do vậy, nếu xảy ra hôn nhân giữa các thành
viên cùng dòng họ thì việc xử phạt áp dụng đối với những trường hợp này là rất nặng.
3.2.2. Nguyên tắc cư trú sau khi kết hôn
Người Tày ở Nà Hang, thường có hai hình thức cư trú sau kết hôn như: Hình thức cư trú
riêng (bên nhà chồng): Sau khi cưới, đôi vợ chồng trẻ không ở bên nhà chồng và cũng không ở
bên nhà vợ mà tách ra ở riêng; Hình thức cư trú hẳn bên nhà vợ (ở rể đời). Trường hợp này chỉ
xảy ra đối với trường hợp người con trai đến nhà vợ ở rể cả đời khi bên nhà vợ không có anh
em trai hoặc gia đình vợ muốn lấy rể đời để có thêm người làm ăn... Với trường hợp này, người
con rể và vợ mình sẽ sinh con và làm ăn sinh sống bên họ hàng nhà vợ, nghĩa là trở thành gia
đình thành viên của dòng họ của vợ, bất kể sống chung cùng bố mẹ vợ hay tách riêng.
3.3. Phong tục và các nghi lễ hôn nhân của ngƣời Tày
Tất cả các nghi lễ trong hôn nhân của người Tày như: Nghi lễ ở nhà gái trước khi cưới:
dạm hỏi, xin số, ăn hỏi; Nghi lễ trong đám cưới: trình lễ dẫn cưới ở nhà gái; xin dâu, rước
dâu, cúng trình gia tiên và lễ nhập cô dâu về nhà chồng; Nghi lễ sau đám cưới như: nghi lễ
lại mặt,... Nghi lễ hôn nhân của người Tày vẫn được thực hiện theo lối truyền thống, tức là

các nghi lễ hôn nhân của người Tày vẫn tuân thủ đầy đủ các thủ tục nghi lễ truyền thống.
Các thủ tục trong nghi lễ hôn nhân của người Tày được thực hiện theo một khuân mẫu nhất
định với các quy định cụ thể mà mọi người phải tuân thủ khi thực hiện. Các nghi lễ này được
thầy cúng thực hiện tại gia chủ trong nhiều giờ. Do vậy, thờ cúng tổ tiên thể hiện trong nghi
lễ hôn nhân chính là bản sắc riêng trong văn hóa của người Tày.
3.3.1. Các nghi lễ hôn nhân của người Tày
Đối với người Tày ở Nà Hang thì hôn nhân là một việc được xem là hệ trọng của đời người. Do
vậy, người Tày vô cùng chú trọng tới các nghi lễ hôn nhân.
3.3.2.1. Nghi lễ ở nhà gaí trước khi cưới
- Nghi lễ dạm ngõ, xem mặt, xin số
Theo phong tục truyền thống, người Tày có tục lệ dạm ngõ, xem mặt, xin số. Tục lệ này
cũng là tục lệ chung của người Tày ở Tuyên Quang. Việc đi dạm ngõ, xem mặt, xin số là
một việc làm bình thường của hai gia đình có quan hệ quen biết nhau từ trước. Việc gả con
là việc của hai gia đình tự thỏa thuận và đồng ý ngầm với nhau. Việc đi hỏi vợ cho con là
việc chủ động của gia đình có con trai.
Trong văn hóa của người Tày dạm ngõ, xem mặt và xin lá số thường được tiến hành vào
buổi tối. Bởi lẽ, đồng bào cho rằng lúc chưa biết ý kiến của cô gái và gia đình nhà cô gái như
thế nào nên lễ dạm ngõ thông thường sẽ tổ chức đi vào buổi tối để làng xóm không biết,
tránh việc bị mang tiếng cho cả cô gái và chàng trai sau này bởi số mệnh có vai trò quyết
định khá lớn. Nghi lễ này không có thời gian cố định mà có thể thực hiện quanh năm bất cứ
thời gian nào khi gia đình muốn, chỉ tránh vào những ngày xấu trong năm.
3.4.2.Lễ ăn hỏi, thách cưới của người Tày: Theo tập quán của người Tày, sau khi đối
chiếu ngày, tháng, năm sinh thấy hợp nhau và xây dựng quan hệ vợ chồng của hai đứa trẻ.
Nhà trai chủ động sang nhà gái để tiến hành lễ ăn hỏi và chính thức thiết lập quan hệ thông
gia (lệ thó mầu). Lễ ăn hỏi của người Tày ở Nà Hang thường chỉ có một người đại diện,
cũng có nhiều trường hợp lễ ăn hỏi tổ chức đi nhiều người gồm các thành phần như: cùng
vai với bố mẹ, anh chị, em, cháu, bạn bè. Lễ vật tối thiểu để tiến hành lễ ăn hỏi gồm có 2 con
10



gà trống thiến, 2 lít rượu, 2kg gạo tẻ, trầu cau, chè thuốc lá, thuốc lào, bánh kẹo. Sau lễ ăn
hỏi, gia đình nhà trai và nhà gái tiến hành lễ thách cưới. Nhà gái đưa ra ý kiến lấy bao nhiêu
đồ vật như lợn, gà, bánh trưng, bánh dày, rượu, gạo tẻ để tiến hành làm lễ cưới.
3.4.3. Tổ chức lễ cưới: Người Tày thường tổ chức lễ cưới từ tháng 8 đến hết tháng Chạp
(âm lịch) vì họ cho rằng, đây là thời điểm khí hậu mát mẻ, không oi bức đồng thời công việc
rảnh rỗi vì mùa màng đã thu hoạch xong mà ít khi tổ chức từ tháng 3 đến tháng 7. Trước khi
tiến hành lễ cưới, nhà trai phải chuẩn bị đầy đủ lễ vật trong thời gian từ 2 - 3 năm, có những
hộ khá thì chỉ chuẩn bị trong năm. Khi đã có đầy đủ lễ, nhà trai sẽ báo trước cho nhà gái
khoảng từ 15 ngày đến 1 tháng để chuẩn bị cho đám cưới. Trong thời gian này, nhà trai sẽ
phải nộp đầy đủ sính lễ như đã thỏa thuận từ trước cho nhà gái.
Các nghi lễ trước đám cưới được tổ chức sau lễ ăn hỏi của người Tày ở Nà Hang gồm
có: Lễ nhận thông gia, chú rể ra mắt họ hàng, những lễ vật và số lượng phải có trong ngày
cưới (gọi là bản kê khai). Việc chuẩn bị cho đám cưới của người Tày ở Nà Hang được chuẩn
bị chu đáo với sự góp sức của nhiều người trong gia đình, họ hàng.
3.4.4.Tổ chức ăn uống trong đám cưới : Đám cưới người Tày trong truyền thống cũng như ngày
nay vẫn duy trì được nhiều món ăn khá đặc biệt, phản ánh đời sống vật chất, tinh thần của cư dân bản
địa. Đây cũng là các món ăn truyền thống của người Tày như: canh củ đao, nộm hoa chuối rừng,
canh hoa chuối, canh gừng, măng cuốn, măng nhồi, đậu chao, lợn quay, khau nhục. Các món biểu
trưng cho âm dương ngũ hành và một phần không thể thiếu trong cỗ cưới của đồng bào người Tày là
rượu. Rượu là một nét văn hóa ẩm thực đặc sắc và gắn bó với cuộc sống của đồng bào từ lâu đời. Vì
vậy, người Tày nói đi ăn cưới là đi uống rượu (pây kin lẩu).
Tiểu kết chƣơng 3
Lễ cưới của người Tày thể hiện đậm nét bản sắc văn hóa tộc người, thể hiện rõ qua
những nghi lễ truyền thống. Trong hôn nhân có nhiều nghi lễ tổ chức với nhiều ý nghĩa đặc
biệt quan trọng chứa đựng quan niệm sống, lịch sử văn hóa của tộc người. Bên cạnh các yếu
tố tín ngưỡng, các nghi lễ trong hôn nhân còn thể hiện ý nghĩa giáo dục sâu sắc.
Hôn nhân của người Tày ở huyện Nà Hang, có nhiều nghi lễ được tiến hành cả hai bên
gia đình nam và nữ, mỗi nghi lễ thể hiện các giá trị văn hoa của người Tày. Qua các nghi lễ
hôn nhân, các mối quan hệ của từng thành viên trong gia đình, của cộng đồng được bộc lộ và
thể hiện, nó minh chứng cho một mối quan hệ cộng đồng, xã hội bền chặt và có trách nhiệm,

tương trợ lẫn nhau.
Hiện nay, nghi lễ trong hôn nhân của người Tày có những biến đổi phù hợp với sự phát
triển của cuộc sống hiện đại. Tuy nhiên, chính vì vậy mà nhiều đôi nam nữ không thể đến được
với nhau. Do vậy, hiện nay các nghi lễ cũng giản lược đi nhiều, việc thách cưới ở nhiều gia đình
chỉ mang tính thủ tục. Tuy nhiên, các nghi lễ trong hôn nhân của người Tày vẫn được giữ gìn và
bảo lưu những nét riêng mang đậm bản sắc văn hóa của người Tày. Đó chính là những nét đẹp
trong văn hóa tộc người cần được bảo tồn và phát huy trong cuộc sống hiện đại ngày nay.
Chƣơng 4
NGHI LỄ TANG MA CỦA NGƢỜI TÀY
4.1. Quan niệm về sự sống, cái chết và linh hồn
Dân tộc Tày ở Nà Hang quan niệm rằng con người sinh ra có linh hồn, thể xác và linh
hồn kết hợp, tồn tại gắn bó khi còn sống, khi chết linh hồn tách biệt rời khỏi thể xác, thể xác
hòa vào cát bụi về với đất mẹ, nhưng linh hồn vẫn còn tồn tại và chuyển sang thế giới khác
(thế giới vô hình) hay còn gọi là cõi ma, cõi âm phủ. Người Tày tin rằng thế giới có linh hồn,
11


khi chết linh hồn vẫn tồn tại. Linh hồn đó sẽ bay đi về ba nơi (hay còn gọi là 3 cõi): Nơi thứ
nhất, hồn lên thiên đàng; thứ hai, hồn về với tổ tông và nơi thú ba, hồn ở nhà với con cháu.
Theo quan niệm của người Tày hồn ở cao lắm, khi hồn về thiên đàng, trên những tầng “mây
trắng giăng giăng”; “mây xanh lớp lớp”, muốn đi lên tới đó phải đi qua nhiều tầng trời. Còn
một nơi hồn về là hồn về với tổ tông. Ở đây con đường hồn về cũng tựa như con đường mẹ
đi nương, đi củi ngày nào. Con đường đó qua đồng, qua ruộng, lên đèo, lên núi. Con đường
cũng có chỗ lấy cây làm lạt buộc, lấy cây thay đòn gánh.
Khi nói về không gian của vũ trụ, các cõi mà người chết đến thì trong suy nghĩ của người Tày
ở Nà Hang cho rằng: ở những nơi ấy đều có con người sinh sống, có chim muông, cây cối và các
hoạt động khác nhau và ở mỗi cõi đều có những mối quan hệ không giống nhau.
Cõi Trời (còn gọi là Mường Trời), nơi linh hồn đến cư trú theo cách tưởng tưởng của
người Tày gồm có nhiều tầng khác nhau, tầng cao nhất của vũ trụ là nơi ngự trị của vua
quan, thần phật, Ngọc Hoàng, Phật Bà quan âm, vua Hàng Khiển, Nam Tào, Bắc Đẩu, mẹ

Hoa và các tiên nữ. Thế giới này có một quyền lực tối cao, quyết định mọi vấn đề sinh từ và
số phận của con người. Dưới Mường Trời là Đẳm, đây là thế giới tổ tông các dòng họ của
người Tày sau khi đã chết đi.
4.2. Quan niệm hồn vía con ngƣời
Vốn là một tộc người có tín ngưỡng, niềm tin tin vào vạn vật hữu linh, người Tày cho
rằng, muôn vật, muôn loài đều do Pụt Luông sinh ra, đều có linh hồn ngự trị, do đó mà các
sinh vật, loài vật và con người sinh ra, lớn lên được khỏe mạnh hay ốm đau đều do thần linh
quyết định. Người Tày gọi hồn của con người khi còn đang sống là khoăn, khi chết là phi.
Hồn là thần thuộc dương, khi chết thì bay lên trời, phách thuộc âm, khi chết thì ở cùng với
thể xác. Theo quan niệm của người Tày, trong con người tồn tại 12 hồn, mỗi hồn đậu ở một
nơi trong cơ thể để bảo vệ các bộ phận đó. Người Tày cũng gọi hồn người là con hồn, con
đậu trên đỉnh đầu, con đậu ở trên trán, hai con đậu hai mắt, hai con đậu bả vai, hai con đậu
hai tay, hai con đậu hai chân, một con đậu ở cổ và một con đậu ở bụng. Khi 12 hồn ấy đậu
ngay ngắn, đúng vị trí đã định sẵn thì con người khỏe mạnh, nếu một trong số đó đậu không
ngay ngắn, hoặc có thể đang đi lang thang đâu đó thì con người bị ốm đau, mệt mỏi.
4.3. Các loại tang ma
Xuất phát từ quan niệm chết là biến thành ma, là vĩnh biệt mọi người để về thế giới bên
kia, nên người Tày ở huyện Nà Hang phân biệt khá rõ các loại chết khác nhau và tương ứng
với nó có các nghi lễ cụ thể, phù hợp, chủ yếu có 3 loại tang ma: tang ma dành cho người
chết bình thường hay còn gọi là chết lành; tang ma dành cho người chết xấu hay còn gọi là
chết bất đắc kỳ tử và tang ma dành cho thầy cúng.
4.4. Trình tự nghi lễ tang ma của ngƣời Tày
Người Tày có 2 kiểu làm ma là làm ma tươi và làm ma khô.
Lễ làm ma tươi là nghi lễ đưa người chết đi chôn, còn lễ làm ma khô là nghi lễ phá ngục đưa tiễn
người chết về sum họp với tổ tiên. Gia đình nào có điều kiện khả năng thì làm thủ tục mang đi chôn
cất trước, làm ma sau gọi là làm ma khô.
4.4.1.1. Nghi lễ trước khi chôn cất: Cầu vía cho người già ốm trước khi chết: Khi thấy
ông bà, bố mẹ già ốm nặng, người con trai cả trong gia đình cho gọi con cháu về tập trung, mời
trưởng họ đến bàn bạc, để chuẩn bị các thủ tục lo liệu cho người sắp chết, các gia đình sắm một
mâm cơm và mời thầy cúng tới làm vía. Khi mâm cơm được đặt lên, thầy cúng bắt đầu hát mời


12


vía các cụ về ăn cơm, các thần linh, ngọc hoàng và các con hồn phù hộ cho người ốm nhanh
chóng khỏi bệnh.
4.4.1.2. Nghi lễ chuẩn bị cho người chết và mời thầy cúng: Ở Nà Hang, khi trong nhà có
người qua đời, con cháu không được khóc ngay, bởi người Tày quan niệm nếu khóc sẽ làm
cho hồn bay phách tán không về với tổ tiên được. Người con trai trưởng nắn tay chân và thi
thể người chết cho thẳng, vuốt mắt, cắt tóc, sửa râu cho cha hoặc vấn lại tóc cho mẹ. Con cái
trong gia đình đun nước bưởi lau cho thi thể người chết với ý nghĩa để cho thi thể cũng như
linh hồn người chết được mát mẻ. Con cháu lấy dây vải trắng buộc hai đầu gối và hai ngón
chân cái của người chết lại, mặc quần áo, đi giầy vải (tự khâu) đặt lên miệng người chết một
đồng bạc. Khi bỏ đồng bạc vào miệng người chết thì người con trai phải ghé nói với người
chết rằng: Đây là tiền của con cháu cho bố mẹ về trời, dọc đường đi nếu có ai hỏi thì không
được trả lời, nếu không đồng tiền sẽ rơi mất.
Để thực hiện tốt công việc của mình, người Tày có quy định bắt buộc đối với thầy cúng là
trước khi ra khỏi nhà thầy phải niệm chú, niêm phong cấm cửa ma ác, thắp hương trình báo tổ
tiên, tổ nghề để cử âm binh đi theo giúp việc, tự tay thầy phải thắp một ngọn đèn dầu, ngọn đèn
này phải cháy leo lét trong suốt thời gian thầy đi hành lễ và trở về nhà. Khi ra khỏi nhà phải tự tay
thầy đóng cửa, đợi thầy ra khỏi cổng người nhà mới được mở cửa đi lại bình thường.
Người đi đón thầy Tào phải gánh các đạo cụ đi trước, trên đường đi thầy phải vừa niệm
chú, vừa bấm các đốt ngón tay vừa có ý nghĩa yểm bùa bản thân, vừa thu phục các hồn ma
lang thang trên đường đi.
Thầy cúng niệm chú ban chữ phúc cho con cháu rồi thu hồn người chết vào nhà, đồng thời
cắm cờ, giống như tờ phan có đủ màu sắc ở cổng hoặc ở cửa ra vào để báo tang. Sau đó thầy cúng
đi thẳng đến chỗ đặt thi thể người chết, vén màn và chào người chết rồi đến vị trí chuẩn bị lập đàn,
thầy yểm phép chữ Đại, trước khi ngồi thầy yểm 4 góc chiếu mỗi góc chữa Hỏa và giữa chiếu chữ
Nhật để các loại ma quỷ không thể đến quấy nhiễu khi thầy đang hành lễ.
4.4.1.3.Chuẩn bị về vật chất cho nghi lễ tang ma: Trước đây, khi trong nhà có người ốm

lâu ngày biết không thể qua khỏi là con cháu đã phải chuẩn bị quan tài. Quan tài được đóng
bằng sáu tấm gỗ ghép lại, dùng củ nâu nấu chín và cơm nếp giã nhỏ tạo thành một thứ bột
dẻo bịt các góc quan tài lại. Người Tày ở đây kiêng đóng đinh vào quan tài. Ngày nay, quan
tài chủ yếu lại đi mua. Bên cạnh đó, người nhà phải chuẩn bị mọi thực phẩm như gà, lợn,
rượu, gạo nếp, gạo tẻ, các loại bánh... giấy tiền vàng, cây kim tiền, chăn, chiếu... cắt bằng
giấy màu với các loại hoa văn. Nếu là đám ma tươi kết hợp với làm ma khô thì gia đình còn
phải chuẩn bị nhà táng cho người mất. Sau khi giải quyết các thủ tục trước khi nhập quan,
mổ lợn gà xếp lễ cúng cơm.
4.4.1.4. Lễ tắm rửa cho người chết: Tắm rửa cho người chết là nghi thức không thể thiếu
đối với người qua đời. Bởi trước khi sang thế giới bên kia, thân thể con người cần phải sạch sẽ,
gột rửa mọi bụi trần để không còn lưu luyến thế giới thực, yên tâm lên đường sang thế giới khác.
Ở Nà Hang, gia đình có người chết đun sẵn một nồi nước gồm lá bưởi, lá chanh và lá thanh
táo, một cục sắt hoặc đá nung đỏ, đưa ra cửa để thầy làm thủ tục giải uế trừ hung khí, để mở
đường cho thầy và binh mã vào nhà.
4.4.1.5. Lễ phát tang: Thầy cúng làm lễ sẽ phát tang cho con cháu trong nhà. Trước khi
phát tang các con cháu trong nhà mặc tang phục, theo đó, nữ mặc áo tang dài lộn trái bằng
vải trắng, đầu đội khăn (khăn tang được khâu từ một miếng vải trắng dài khoảng 1,5m gấp
lại tạo thành chiếc mũ ở giữa, hai bên là hai dải khăn, một bên ngắn, một bên dài, chiếc mũ
13


đó được khâu bảy mũi hoặc chín mũi tùy người chết là nam hay nữ), đi chân đất. Áo may dài
tới ngang đầu gối, áo không có cúc, hai vạt được giữ bằng dây thắt lưng vải trắng, gấu áo và
tay áo để xổ. Nam giới mặc áo tang ngắn có đai vải, hông bên phải đeo một con dao nhọn,
đầu đội dế quấn khăn trắng, quần trắng, tay chống gậy. Quần áo đều phải mặc lộn mặt trái ra
ngoài, áo của con trai, con rể là áo ngắn, không có cúc, hai thân, thắt lưng bằng vải trắng.
4.4.1.6. Lễ khâm liệm: Thầy cúng sẽ xem ngày tháng năm sinh và ngày, giờ mất của
người chết để chọn giờ lành làm lễ khâm liệm. Trong lúc làm lễ khâm liệm, con cháu có tuổi
kỵ với tuổi của người chết phải tránh mặt. Con cháu cũng không được khóc để tránh trường
hợp nước mắt rơi xuống thi thể hay rơi vào trong quan tài khiến hồn vía đi theo người chết.

Để làm lễ nhập quan, thầy Tào phải thực hiện nghi lễ triệu linh nhập quan trước. Chiêng
trống nổi lên, thầy Tào làm phép yển vào áo quan (báo tinh gỗ), vừa cầm lệnh bài, miệng
ngậm nước thánh (rượu), một tay cầm lá bưởi vẩy vẩy trên không trung và vẽ tên tuổi, quê
quán của người chết rồi phun nước thánh ấy vào áo quan. Tiếp theo là nghi thức trải tro.
Bên trên quan tài đặt một bát cơm úp, một quả trứng luộc cắm chiếc đũa đã được vót tạo
thành tua rua. Nắp quan tài được đậy và chốt bằng đinh tre hoặc gỗ. Tùy từng dòng họ mà
quan tài được đặt khác nhau, có họ đặt theo hướng bàn thờ, có họ lại đặt theo hướng nóc nhà.
Nhưng dù đặt theo hướng nào thì vị trí quan tài cũng được đặt tại gian giữa nhà. Trên phía
đầu quan tài là bàn thờ, trên đó có ảnh, bát hương, hoa quả. Người đến thăm, viếng sẽ thắp
hương ở bàn thờ này.
Trước khi làm lễ đưa ma, con cháu trong gia đình chuẩn bị một mâm cơm mời người chết.
Đây được coi là bữa cơm ở nhà cuối cùng của người chết. Sau khi thầy Mo làm lễ mời cơm
cuối xong, thầy Bồ Thủy sẽ làm lễ tiễn đưa các vị thần canh cửa tại bàn thờ ngoài đầu hồi
nhà. Thầy cúng khấn bài tiễn đưa các vị thần canh cửa đi rồi đốt toàn bộ sóc vàng.
Sau đó thầy vào nhà, làm lễ dâng nhà cho người chết. Thầy cúng khấn xong, con cháu
mang nhà táng ra cổng đốt. Tiếp đó, thầy cúng mời các vị sư phụ, quan âm binh đi theo mình
để tiễn vong lên đường.
4.5. Lễ chôn cất ngƣời chết.
4.5.1. Lễ đưa ma: Đến giờ đưa người chết đi chôn, thầy Bồ Thủy cầm cờ, tiếp sau là thầy
Mo, thầy phụ, trống kèn đi đầu, phía sau là người con trai trưởng đội bài vị, một người cháu
trong dòng họ cầm bó đuốc cháy rồi đến một người hàng xóm (không có họ hàng với người
mất) một tay xách hai con gà con còn sống, một tay cầm vàng mã, quan tài được khiêng theo
sau và sau quan tài là các con gái, con dâu, cháu...
Trước khi ra khỏi cổng nhà, những người khiêng quan tài quay quan tài để đầu quan tài
đi trước. Khi ra khỏi cổng, người hàng xóm sẽ vừa đi vừa rải tiền vàng cho đến tận chỗ chôn.
Đoàn đưa ma đi ra khỏi cổng nhà một đoạn thì các con dâu (không có bầu) đi ra phía trước
quan tài, ngồi xổm làm cầu để quan tài đi qua. Con dâu phải làm cầu ba lần như vậy.
4.5.2.Chọn đất chôn: Trước đây khi đi chọn đất chôn, người Tày phải mang theo một
quả trứng gà luộc và một que tre nhỏ như chiếc đũa. Khi tìm được đất chôn, muốn xem đất
đó tốt hay không, người ta sẽ khấn thổ công ở đó rồi đặt quả trứng lên que tre, nếu quả trứng

đứng yên trên que tre thì là nơi đất tốt, còn không thì phải chọn đất khác. Nhưng ngày nay
việc chôn cất người chết đã được quy tập lại nên không còn tục xem đất này nữa.
4.5.3.Lễ chôn cất: Khi quan tài được khiêng ra chỗ chôn, thầy Tào sẽ quay mặt về phía
nhà làm lễ thu hồn của các con cháu, anh em họ hàng, hàng xóm đưa ma. Sau đó, con trai
trưởng sẽ cầm bó đuốc hơ xung quanh huyệt với ý xua đuổi hồn những người đào huyệt ra
14


khỏi huyệt mộ, rồi trải chiếu mới xuống, sau đó lại cầm đuốc hơ qua hơ lại để đuổi hồn
người làm chiêu, mua chiếu ra khỏi huyệt. Cuối cùng mới cho quan tài xuống. Khi đặt quan
tài xuống dưới huyệt người con trai lại cầm đuốc hơ qua hơ lại trên quan tài để xua đuổi hồn
người sống ra khỏi huyệt mộ. Trong lúc đó, thầy Tào và thầy Mo vẫn tiếp tục cúng. Thầy làm
phép thu hồn người sống xong, con cháu mỗi người bốc một nắm đất, quay lưng vào huyệt rồi
ném xuống huyệt. Sự quay lưng của con cháu có hai ý nghĩa: thứ nhất, với ý từ nay giữa cha, mẹ
và các con các cháu sẽ đường ai nấy đi, cách biệt từ đây; thứ hai để tránh cho nước mắt của các
con cháu rơi xuống huyệt mộ. Nếu để nước mắt rơi vào huyệt thì hồn vía người sống sẽ đi theo
người chết ở dưới huyệt mộ này.
Lấp đất xong, người ta sẽ đặt một nhà mồ lên trên mộ. Bên trong nhà mồ thả hai con gà,
đặt bát hương, gạo, rượu. Ba ngày sau, con trai trưởng sẽ ra mở cửa nhà mồ cho hai con gà
ra. Hai con gà này là gà của con cháu dâng cho người chết nuôi. Do đó, gà được thả ra đi đâu
thì đi, nêu đi vào nhà nào thì nhà đó được nuôi. Nhưng tuyệt nhiên người ta kiêng không bắt
hai con gà này về nuôi. Nếu bắt gà tức là đã trộm gà của người chết, sẽ khiến người chết nổi
giận, làm cho ốm đau thậm chí có thể đi theo người chết.
Tiến hành công việc chôn cất xong, thầy làm lễ thu hồn người sống một lần nữa rồi quay về
nhà. Con trai trưởng sẽ cầm một nén hương tại nhà mồ mang về cắm lên bàn thờ tại nhà. Về nhà,
thầy làm lễ mời cơm các vị thần rồi tiễn đưa các vị thần về. Đám tang đến đây kết thúc.
4.6. Các nghi lễ sau khi chôn cất ngƣời chết
4.6.1.Lễ phá ngục: Người Tày ở Nà Hang nói riêng, cũng như người tày Tuyên Quang
quan niệm rằng, khi con người chết đi, linh hồn thường bị giam cầm dưới địa ngục. Cho nên,
thầy Tào phải làm lễ này để phá ngục giải oan cho linh hồn người chết, để người chết về với tổ tiên. Tuy

nhiên, không phải trong: đám ma cho ngươi chết ở vùng nào cũng có lễ phá ngục. Có nơi như Chiêm
Hóa, Sơn Dương,... lễ phá ngục chỉ có trong làm ma kết hợp với làm ma khô. Còn ở Hàm Yên, trong
làm ma phải có lễ phá ngục chuộc vong cho linh hồn người chết.
Lễ vật bao gồm một mâm có một con gà, một con vịt, một thủ lợn, một bát cơm, một bát
canh, một mâm gạo, một giỏ bánh giầy, năm chén rượu, một cây nến. Giỏ bánh giầy để giữa, phía
trên giỏ bánh là nến, hai mâm hai bên, năm chén rượu bày thành hàng ngang phía trên mâm gạo.
Trên hai mâm lễ và giỏ bánh dầy đều cắm một cây hương. Ở mâm gạo còn kẹp thêm một lá bùa
màu hồng gấp lại và một chiếc vòng bạc. Mâm lễ được đặt phía ngoài nhà.
Thầy cúng cùng các đệ tử ngồi phía dưới cúng khấn. Thầy cúng dựng bốn thanh tre nhỏ
bằng ngón tay theo hình vuông, dùng một tấm vải màn trắng giăng xung quanh, hai đầu tấm
vải được buộc nút vào nhau (tượng trưng cho nhà ngục). Phía bên trong có đặt một lá bùa
hình chữ nhật và một ông tre cắm hương, một chiếc đĩa. Ngay phía bên ngoài của tâm vải,
chỗ buộc nút có cắm một con dao chuôi khoằm, lưỡi dao hướng lên trời. Xung quanh cắm
hương và những dải giây trắng nhỏ bằng hai ngón tay, dài 30cm có ghi những câu bùa chú.
cắm một lá cờ được cắt từ cái dải giấy màu xanh, hồng vàng có viết những câu bùa chú.
Thầy Tào sẽ cầm sách khấn và để đệ tử giúp mình đốt hết những dải giấy trắng nhỏ cắm
xung quanh nhà ngục.
4.6.2.Lễ tắm chữa bệnh: Người Tày ở Nà Hang cũng quan niệm có quan niệm chung
của người Tày là để cho vong hồn có thể trở về được với tổ tiên, trước hết cần phải gịải trừ
mọi bệnh tật và phải được tắm rửa sạch sẽ, giải trừ mọi bụi trần, mọi tội lỗi ở trên trần gian.
Vì thế, sau khi thầy làm lễ phá ngục xong, thầy Mo tiếp tục khấn, thầy Bồ thủy cũng làm
phép dùng một cành lá thanh thảo nhúng vào bát nước rồi vẩy tứ phía. Thầy vừa đi vừa
15


khấn, sau đó lấy một lá bùa đưa cho con trai trưởng người chết. Sau đó, người nhà nhóm bếp
đun dầu sôi. Dầu được đựng trên một chiếc vung tượng trưng cho vạc dầu. Thầy làm phép
xong thì ngậm một ngụm nước, tay cầm cờ, theo sau là bài vị người chết do con trai trưởng
cầm. Thầy dẫn vong đi xung quanh bếp dầu ba vòng theo chiều kim đồng hồ rồi phun nước
vào dầu đang sôi tạo thành một ngọn lửa lớn, rồi thầy bước qua lửa, theo sau là bài vị. Làm

như vậy ba lần. Đến lần thứ ba tức lần cuối cùng thì sau khi bước qua lửa, người con trai
ném tờ giấy mà thầy đưa cho lúc trước vào vạc dầu. Sau đó thầy thu cờ, đốt toàn bộ tiền
vàng tại các bàn cúng xung quanh ngục để kết thúc lễ tắm chữa bệnh cho người chết.
4.6.3.Lễ tắm rửa cho vong: Theo quan niệm của người Tày ở Nà Hang và Chiêm Hóa,
người chết muốn sum họp với tổ tiên cần phải được tắm rửa sạch sẽ, gột rửa hết bụi trần.
Chính vì vậy, trong lễ làm ma luôn phải có lễ tắm cho vong hồn người chết. Lễ này được
tiến hành tiếp theo lễ tắm chữa bệnh.
4.6.4. Lễ “chiêu hạ minh quân": Lễ "chiêu hạ minh quân" là lễ để ban xin các vị thần
ban nghề nghiệp, chức vụ cho người chết ở thế giới bên kia. Lễ này diễn ra ở trước cổng nhà.
Để làm lễ này, con cháu phải chuẩn bị hai đoạn gỗ dài khoảng một mét tượng trưng cho chiếc
chầy, một chiếc ghế gỗ băng dài để chân ngửa lên trời tượng trưng cho chiếc cối (trước đây là
chiếc cối thật bằng gỗ, nhưng nay không có thì có thể thay bằng ghế gỗ). Lễ vật gồm có một mâm
gạo cắm hương, một mâm thủ lợn có cắm hương, mỗi mâm có hai chén rượu. Đây là phần việc
của thầy Bồ thủy. Thầy một tay cầm cờ, một tay cầm nén hương ra đến chỗ treo "Minh Kinh" ghi
chức vụ, nghề nghiệp và tên của người chết.
4.6.5. Lễ dâng cơm: Lễ dâng cơm được tiến hành vào những bữa cơm hằng ngày cho
người chết kể từ khi người đó qua đời. Đến bữa cơm các con cháu đều phải ngồi chầu xung
quanh quan tài khóc thương cha, mẹ.
Lễ cúng cơm đầu tiên cho người chết sau khi được tắm rửa sạch sẽ chính là lễ cúng cơm
của con gái đã đi lấy chồng và cháu ngoại. Mâm cơm có cơm, rượu, thịt gà, thịt lợn. Mâm
cơm được hai người, con gái và một người phụ nữ trong họ hàng khiêng bằng đòn. Khi vào đến
gần cửa chính, con dâu sẽ ra đón mâm cơm. Con dâu cúi xuống chạm tay vào mâm rồi cùng con
gái, cháu gái đưa mâm cơm vào trong nhà dâng lên người chết. Vào trong nhà, con gái sẽ bỏ mâm
cơm ra đặt trước quan tài, thắp hương cúi lạy mời cha, mẹ dùng bữa cơm đầu tiên kể từ khi cha,
mẹ qua đời. Trong lúc này, phường kèn trống tiếp tục làm việc đánh trống, thổi kèn, thầy Mo đọc
bài khấn với đại ý: Đây là mâm cơm của con gái đi lấy chồng xa về dâng lên mời cha, mẹ ăn.
Trong suốt thời gian thầy Mo làm lễ, các con cháu ngồi hai bên quan tài khóc thương bố mẹ.
4.6.6. Lễ tế “Hua nhàng”: Đây là lễ cúng tế của làng xóm, con cháu, anh em họ hàng
bên nội bên ngoại đối với người chết. Hua nhàng cũng phải theo thứ tự nhất định như sau:
Hua nhàng là lễ anh em hàng xóm trong thôn. Lễ này do trưởng thôn dẫn đầu với ý nghĩa

là dù con người sống hay chết cũng cần có anh em láng giềng, lễ cúng này là lễ mở đường
cho các hua nhàng tiếp sau. Kha po - Kha me là lễ của anh em nội, ngoại của người mất.
Bưởng lăng là lễ của các em cậu, em dì, các cháu bên đằng vợ của người chết.
Tiểu kết chƣơng 4
Người Tày ở Nà Hang có quan niệm rằng, con người có hai phần; thể xác và linh hồn.
Khi một người chết đi không có nghĩa là cuộc sống đã kết thúc. Linh hồn của người chết sẽ
về ba nơi: về thiên đàng, về với tổ tiên và về với con cháu. Điểm đáng chú ý là thế giới mà
người chết trở về (đối với những người sống tốt đẹp) là một thế giới tuyệt vời, một thế giới
hạnh phúc và vĩnh cửu. Quan niệm này của người Tày do ảnh hưởng của tôn giáo (Đạo giáo,
16


Nho giáo, Phật giáo) và các tín ngưỡng dân gian. Quan niệm này cũng giống như quan niệm
của Thiên chúa giáo, Tin lành. Vì vậy, cuộc sống trần gian của con người là cuộc sống ngắn
ngủi, cuộc sống lâu dài là cuộc sống sau khi chết. Khi chết tức là lúc con người về với tổ
tiên, về với cuộc sống nơi thiên đường.
Do ảnh hưởng của Đạo giáo, Nho giáo, Phật giáo và các tín ngưỡng dân gian, nên các
nghi lễ trong tang ma của người Tày rất phức tạp. Sự thực hiện các nghi lễ này đòi hỏi các
gia đình có người chết và họ hàng phải chuẩn bị công phu, trang trọng và nghiêm túc, cũng
như khá tốn kém về vật chất.
Việc thực hiện nghi lễ tang ma, cũng giống như nghi lễ hôn nhân là dịp để cộng đồng
dòng họ và cộng đồng làng bản hiểu nhau nhiều hơn, đồng cảm với nhau hơn, qua đó củng
cố tinh thần cố kết của anh em trong gia đình, dòng họ và cộng đồng làng bản.
Ngày nay, do tác động của sự biến đổi xã hội, của hội nhập quốc tế, nghi lễ tang ma của
người Tày ở Nà Hang đã có những biến đổi nhất định. Song trên thực tế, sự biến đổi này
chưa nhiều, nhiều nghi lễ vẫn còn được bảo lưu, trong đó có những nghi lễ không thật phù
hợp với bối cảnh hiện nay.
Chƣơng 5
BIẾN ĐỔI CỦA NGHI LỄ CHU KỲ ĐỜI NGƢỜI VÀ MỘT SỐ NHẬN XÉT
5.1. Những biến đổi của nghi lễ chu kỳ đời ngƣời của ngƣời Tày

Như đã trình bày ở trên, những nghi lễ chu kỳ đời người của người Tày ở Nà Hang vẫn
đang diễn ra và được tiếp nối từ thế hệ này qua thế hệ khác.
- Biến đổi về nghi lễ sinh đẻ:
Hầu hết các phong tục, tập quán trong nghi lễ sinh đẻ của người Tày ở Nà Hang đều được duy trì
và giữ gìn khá tốt. Các phong tục, tập quán, nghi lễ liên quan đến việc sinh đẻ của người Tày ở Nà
Hang rất ít hoặc không thay đổi.
Trong thời kỳ thai nghén, người phụ nữ Tày ở Nà Hang vẫn phải kiêng kỵ khá ngặt nghèo,
thai phụ tránh không được làm các việc nặng nhọc nhằm đảm bảo an toàn cho thai nhi và người
mẹ. Ngoài ra, khi có thai người phụ nữ vẫn rất chú ý mỗi lúc ngồi hoặc khi ngủ để không ảnh
hưởng đến thai nhi; không hái quả của cây bói; không đến đám tang vì sợ nhiễm khí lạnh; không
bước qua cối giã gạo, máng lợn vì sợ sảy thai.
Khi trong gia đình có người mang thai, cả thai phụ và người chồng đều chú ý tránh làm
một số việc: sát sinh gia súc, gia cầm; tránh làm điều ác, điều xấu vì sẽ để lại hậu quả xấu
cho con cái sau này.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy một số nghi lễ sau sinh như: lễ cúng bà mụ, lễ đặt tên, lễ đầy
tháng, lễ một tuổi, lễ nhận con nuôi vẫn được người Tày ở Nà Hang, vẫn được tiếp tục thực hiện.
Tuy nhiên, việc thực hiện những nghi lễ này cũng có những thay đổi nhất định để phù hợp với
hoàn cảnh cụ thể của các gia đình. Việc tổ chức những nghi lễ này với mục đích chính là tập hợp
anh em, họ hàng trong dòng họ sum họp, đây cũng là dịp để củng cố tính cộng đồng trong dòng
họ của người Tày.
Việc bảo lưu và giữ gìn các nghi lễ liên quan đến sinh đẻ của người Tày ở Nà Hang vẫn
còn đậm nét. Tuy vậy, xét ở khía cạnh nào đó, một số biến đổi này xuất phát từ sự thay đổi
về cơ sở tín ngưỡng liên quan đến sự sinh đẻ của người Tày ở Nà Hang hiện nay.
Một sự biến đổi rõ nét là thay đổi trong nhận thức của người Tày về con cái và về con
trai. Kết quả điều tra khảo sát của đề tài cho thấy, có đến 64,6% số người được hỏi cho là có
thay đổi nhiều và rất nhiều trong quan niệm về con cái và con trai.
17


Đối với quan niệm về đông con cháu: đa số (55,7%) người Tày được khảo sát cho rằng,

quan niệm này đã thay đổi. Thực tế cho thấy, trong nhiều gia đình người Tày ở Nà Hang
hiện nay, người ta cho rằng không nhất thiết phải có con đàn cháu đống như ngày xưa. Các
gia đình chỉ nên có từ 1-3 con theo quy định của nhà Nước.
Đối với việc chăm sóc đứa trẻ sau sinh cũng có sự biến đổi. Trước đây, đứa trẻ được chăm sóc
theo kinh nghiệm dân gian, thì ngày nay đứa trẻ ngoài việc được chăm sóc theo cách truyền thống,
còn được chăm sóc theo phương pháp khoa học.
Nghiên cứu cho thấy, xu hướng duy trì, thực hành nghi lễ và tập quán liên quan đến việc
sinh đẻ của người Tày ở Nà Hang diễn ra mạnh mẽ hơn xu hướng biến đổi. Có một số
nguyên nhân như sau:
Xu hướng bảo tồn và thực hành nghi lễ, tập quán trong sinh đẻ của người Tày ở Nà Hang
hiện nay diễn ra mạnh mẽ hơn một phần là do những quan niệm, những suy nghĩ, những thói
quen trong sinh đẻ đã ăn sâu vào đời sống của người Tày. Mặt khác, các tập tục trong nghi lễ
sinh đẻ của người Tày ở Nà Hang còn bắt nguồn từ cơ sở tín ngưỡng, mang tính tâm linh,
nên chúng có sức sống khá bền bỉ. Điều kiện sống và sự tiếp cận với những dich vụ chăm
sóc y tế còn nhiều hạn chế. Đây chính là điều kiện thuận lợi cho các tập tục, nghi lễ truyền
thống có mảnh đất để tồn tại và vẫn được thực hành.
5.4.1. Những biến đổi về hôn nhân và nghi lễ trong hôn nhân:
Kết quả khảo sát thực tiễn về biến đổi của hôn nhân và nghi lễ trong hôn nhân của người
Tày ở Nà Hang sự biến đổi về hôn nhân và nghi lễ trong hôn nhân của người Tày ở Nà Hang
thể hiện ở các khía cạnh sau:
Trong hôn nhân của người Tày ở Nà Hang hiện nay, khía cạnh được bảo lưu, giữ gìn rõ
ràng nhất, ít biến đổi nhất là quan niệm về tầm quan trọng của hôn nhân. Trước đây và hiện
nay, đối với người Tày ở Nà Hang, hôn nhân vẫn là việc hệ trọng trong cuộc đời con người,
trong đó, hôn nhân một vợ một chồng, đề cao sự thủy chung trong hôn nhân vẫn được người
Tày ở đây coi trọng.
Bên cạnh đó, những tiêu chuẩn để lựa chọn cô dâu và chú rể theo truyền thống vẫn được
các gia đình người Tày ở Nà Hang coi trọng. Người Tày ở Nà Hang cho biết, những tiêu
chuẩn này đảm bảo cho các gia đình hạnh phúc, bền vững và là cơ sở để làm nên sự ổn định
trong dòng họ và trong cộng đồng làng bản.
Một số nghi lễ trước đám cưới vẫn còn được duy trì khá tốt. Có 60% số người được

hỏi cho rằng, nghi lễ trước đám cưới vẫn phải theo phong tục truyền thống, ít thay đổi
Nghi lễ trong đám cưới cũng ít thay đổi, trong đó, lễ cưới chính thức (kinh lẩu luông)
cũng được đánh giá là ít thay đổi, cả về lễ vật bắt buộc, thời gian bàn giao lễ vật. Trang phục
của cô dâu trong ngày cưới hầu như không thay đổi, vẫn là bộ quần áo đen, quấn khăn truyền
thống. Họ vẫn giữ nguyên quan niệm cô dâu trong ngày cưới quan trọng nhất là việc quấn
khăn, người quấn khăn,… với một ước mong và niềm tin về một người phụ nữ trong một gia
đình mới giống như người được chọn để quấn khăn (khoẻ mạnh, đảm đang, gia đình hạnh
phúc, con cái vẹn toàn và biết đối nhân xử thế).
5.4.2. Những biến đổi của nghi lễ tang ma:
Kết quả khảo sát sự biến đổi của nghi lễ trong tang ma của người Tày ở Nà Hang hiện
nay cho thấy:
Quan niệm về sự sống và cái chết của người Tày được cho là ít thay đổi. Có đến 60,9%
cho rằng, quan niệm của người Tày về sự sống và cái chết ít thay đổi và không thay đổi, ¼
18


khác khẳng định có thay đổi nhiều. Cả trước đây và hiện nay, người Tày cho rằng, con người
có thể xác và linh hồn.
Các nghi lễ trước khi chôn cất như: lễ báo hiếu, lễ đón thầy cúng, lễ cúng cơm, lễ tiễn
hồn, lễ chọn huyệt, lễ xuất hành… được người Tày ở Nà Hang giữ gìn và thực hành khá tốt.
Đa số người được hỏi cho rằng, các lễ này không thay đổi và ít thay đổi.
Một tập quán đẹp của người Tày ở Nà Hang nói riêng và của người Tày nói chung là tập
quán giúp đỡ, tương trợ nhau trong tang ma. Tập quán này được đánh giá là vẫn duy trì tốt
hiện nay.
Bên cạnh đó, những quan niệm và nghi lễ trong tang ma có một số thay đổi đáng kể.
Hiện nay, các gia đình người Tày đã có điều kiện mua quan tài đóng sẵn thay cho vào rừng
tìm cây gỗ lớn để đóng quan tài; thời gian diễn ra lễ tang cũng đã được rút ngắn từ ba đến
bốn ngày xuống còn hai ngày một đêm. Sự biến đổi này không chỉ làm giảm sự tốn kém về
vật chất cho con cháu và tránh được những sự lãng phí không cần thiết, mà con giúp cho
việc đảm bảo vệ sinh môi trường khi sớm đưa người chết đi chôn.

5.2. Những mặt tích cực và hạn chế của nghi lễ trong sinh đẻ và nuôi dạy con
- Tích cực:
Đối với người Tày ở Nà Hang, những nghi lễ, tập tục, quan niệm truyền thống liên quan đến
việc sinh đẻ và nuôi dạy con cái dựa trên những kinh nghiệm dân gian vẫn còn được bảo lưu và
tiếp nối khá mạnh mẽ từ thế hệ này qua thế hệ khác. Đây là một trong những cơ sở cho việc hình
thành bản sắc văn hóa của người Tày ở Nà Hang nói riêng và người Tày trên cả nước nói chung.
Trong quá trình mang thai của người phụ nữ Tày ở Nà Hang, có nhiều tập tục, nghi lễ và
kiêng kỵ được thực hiện thể hiện những kinh nghiệm dân gian, những quan sát về tự nhiên,
xã hội liên quan đến quá trình sinh nở của người phụ nữ. Nó cũng thể hiện thế giới quan và
quan niệm của người Tày về mối quan hệ giữa con người – con người, con người – tự nhiên,
con người – xã hội và con người trong dòng chảy của gia đình, dòng tộc.
Trong quan niệm về con cái, người Tày cho rằng, sinh con đẻ cái vừa là trách nhiệm vừa là
nghĩa vụ của các gia đình nhằm duy trì nòi giống, tạo nên sự vinh quang, đại phúc và sức mạnh
của mỗi dòng tộc. Đông con, đông cháu, nhất là đông con trai là niềm hạnh phúc, tự hào của
mỗi gia đình, dòng họ. Đây là quan niệm phù hợp với tộc người mà sinh kế dựa vào nông
nghiệp là chủ yếu và hình thức canh tác chính là hoạt động trồng trọt, cần nhiều sức lao động.
Người Tày ở Nà Hang có nhiều tập quán, nghi lễ liên quan đến sự chăm sóc phụ nữ
trong quá trình mang thai với mong muốn thời kỳ mang thai được xuôn xẻ, an toàn và mọi
điều tốt lành. Đó là sự quan tâm, chăm sóc về chế độ dinh dưỡng đối với người phụ nữ khi
mang thai để đảm bảo sức khỏe của người mẹ và thai nhi phát triển tốt.
Niềm tin vào Mẹ Hoa cùng những nghi lễ cầu an cho phụ nữ mang thai đã tạo ra tâm lý
yên tâm và có một niềm tin vào những điều tốt đẹp trong thai kỳ cho chính người phụ nữ đó
và cho cả các thành viên khác trong gia đình. Yếu tố tâm lý này đã giúp cho người phụ nữ
mang thai có tâm trạng và năng lượng sống tích cực.
Nghi lễ cắt rốn, bảo quản cuống rốn, nhau thai của người Tày ở một góc độ tâm lý phản
ánh khát vọng, mong muốn của các gia đình người Tày về sức khỏe của đứa trẻ, về sự phát
triển và tương lai tốt đẹp của đứa trẻ. Tập quán chăm sóc bà mẹ sau khi sinh như chế độ ăn
uống, ở cữ là tập quán tốt nhằm đảm bảo sức khỏe cho người mẹ, từ đó có điều kiện chăm
sóc tốt đứa trẻ.


19


Các nghi lễ ra cữ, cúng bà mụ, đặt tên, lễ đầy tháng, đầy năm cho đứa trẻ đã phản ánh
mong muốn của các gia đình về những điều tốt đẹp cho đứa trẻ. Qua đó tạo nên sự gắn kết
giữa các thành viên trong cộng đồng dòng họ.
Mặt tích cực của việc nuôi dạy đứa trẻ như cho trẻ bú bằng sữa mẹ trong 3 năm đầu cũng có
tác dụng tốt đối với sức khỏe của đứa trẻ. Vì sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng tốt nhất đối với trẻ.
- Hạn chế: Các nghi lễ và tập quán sinh đẻ, nuôi dạy con cái của người Tày ở Nà Hang,
cũng còn có những hạn chế nhất định. Đó là:
Quan niệm phải có đông con, nhiều cháu chỉ phù hợp với giai đoạn con người thưa thớt, đất
đai còn hoang hóa nhiều, cần tới sức người để chinh phục tự nhiên. Hiện nay, khi dân số ngày
càng phát triển, đất đai bỏ hoang ngày càng thu hẹp và chịu sự quản lý của Nhà nước, tài nguyên
thiên nhiên ngày càng cạn kiệt, việc sinh nhiều con vừa ảnh hưởng đến kinh tế của các hộ gia
đình, vừa là gánh nặng đối với sự phát triển của đất nước.
Việc đoán định giới tính thai nhi thông qua giấc mơ của người phụ nữ mang thai mặc dù
dựa trên kinh nghiệm dân gian nhưng thiếu cơ sở khoa học. Với quan niệm sinh con trai để
nối dõi tông đường, đi liền với nó là quan niệm trọng nam, khinh nữ thì việc đoán định thai
nhi là trai hay gái là một trong những nguyên nhân tác động đến sự ứng xử của gia đình với
người phụ nữ mang thai trong thai kỳ.
Mặc dù niềm tin vào Mẹ Hoa giúp người mẹ có sự an tâm nhất định trong tâm lý trong suốt thời
kỳ mang thai, nhưng do quá tin vào sự mầu nhiệm của một đấng siêu nhiên bảo trợ việc sinh nở đã
làm bản thân người phụ nữ mang thai và các thành viên của gia đình bị động, giảm sự tự tin vào khả
năng làm chủ của mình đối với việc sinh đẻ.
Quan niệm của người Tày về việc cắt rốn, bảo quản cuống rốn, nhau thai thể hiện mong
muốn về một tương lai tốt đẹp cho đứa trẻ. Tuy nhiên, nếu chỉ với niềm tin mà không có sự
đầu tư để phát triển năng lực cho trẻ em sẽ làm giảm đi cơ hội nâng cao chất lượng cuộc
sống của thế hệ tương lai.
5.3. Những mặt tích cực và hạn chế của hôn nhân và nghi lễ trong hôn nhân
Cũng như việc sinh đẻ và nghi lễ trong sinh đẻ, hôn nhân và nghi lễ trong hôn nhân cũng

có một số điểm tích cực và hạn chế như sau:
- Tích cực: Cũng giống như quan niệm chung của nhiều dân tộc ở Việt Nam về vấn đề
kết hôn và gia đình, đối với người Tày ở Nà Hang, hôn nhân là việc hệ trọng của cuộc đời, là
phương cách để duy trì nòi giống, trong đó, vợ chồng, gia đình là chỗ dựa quan trọng của
con người trong cuộc sống. Quan niệm này không chỉ phù hợp trong quá khứ, ở hiện tại và
còn là mong muốn hướng đến của nhiều dân tộc, quốc gia trên thế giới. Một khía cạnh thể
hiện sự tiến bộ trong hôn nhân ở người Tày là họ xem xét rất cẩn trọng quan hệ huyết thống
của đôi trai gái trước khi thiết lập quan hệ hôn nhân, nếu có quan hệ họ hàng, đôi trai gái đó
chỉ được phép kết hôn khi đã được ít nhất là 5 đời. Đây là quan niệm đúng đắn, khoa học của
người Tày ở Nà Hang, tránh nguy cơ cận huyết trong nội bộ dòng tộc và tộc người, ảnh
hưởng xấu đến nòi giống.
Hôn nhân của người Tày là hôn nhân chung thủy, một vợ, một chồng là quan niệm không chỉ
phù hợp với quy định của pháp luật, mà còn mang tính nhân văn sâu sắc. Nó là một cơ sở quan
trọng để xây dựng hạnh phúc gia đình.
Một biểu hiện tích cực nữa về nghi lễ trong hôn nhân của người Tày là tính cộng đồng
cao. Nó được thể hiện ở sự ủng hộ về vật chất và tinh thần của các thành viên trong dòng họ,
cộng đồng bản làng đối với gia đình.
20


- Hạn chế: Đối với người Tày ở Nà Hang, quan niệm đôi trai gái lấy nhau có được ở với
nhau hay không là do "duyên số”, do mệnh trời đã định đã làm giảm đi tính chủ động, cản trở tình
yêu đích thực của đôi bạn trẻ trước ngưỡng cửa của cuộc sống gia đình. Định kiến về “ma gà” và
không kết hôn với những thành viên trong gia đình, dòng họ được cho là có “ma gà” là những
quan niệm không đúng đắn và thiếu cơ sở khoa học.
Mặc dù đã có sự giảm bớt nhưng sự phức tạp trong nghi lễ và tốn kém về lễ vật trong
quá trình tiến tới hôn nhân đã tạo ra áp lực đối với nhiều gia đình người Tày có hoàn cảnh
kinh tế khó khăn ở Nà Hang hiện nay. Trong hôn nhân truyền thống còn mang tính “mua
bán” đã làm giảm đi ý nghĩa đích thực, tốt đẹp và tính lãng mạn của hôn nhân.
5.4. Những mặt tích cực và hạn chế của nghi lễ trong tang ma

- Tích cực: Tang ma và nghi lễ tang ma của người Tày ở Nà Hang thể hiện quan niệm và vũ trụ
quan của họ. Đối với người Tày, chết không phải là hết mà là “về” một nơi sung sướng, nơi mà linh
hồn con người trường tồn vĩnh cửu. Tuy nhiên, người Tày ở Nà Hang cũng quan niệm, khi sống ở
trần gian, vì cuộc sống mưu sinh mà con người đã làm nhiều điều tổn hại đến chúng sinh và vạn
vật xung quanh. Do vậy, khi chết, trước khi được về với thế giới trường tồn vĩnh cửu, linh hồn
cũng phải trải qua một nơi gọi là địa ngục để xét tội. Nếu người nào thực sự làm nhiều tội ác thì
linh hồn sẽ bị trừng trị. Đây là một trong những quan niệm góp phần răn dạy những người đang
sống hướng đến những điều thiện, làm nhiều điều tốt khi còn sống để khi chết sớm được hưởng
cuộc sống sung sướng.
-Hạn chế: Mặc dù các nghi lễ tang ma của người Tày ở Nà Hang thể hiện thế giới quan và vũ
trụ quan độc đáo, tuy nhiên, quá trình tổ chức đám tang của người Tày ở Nà Hang gồm nhiều nghi
lễ với sự chuẩn bị và cách thức thực hiện rất cầu kỳ, rườm rà. Điều này gây ra những tốn kém về
vật chất và nhân lực cho gia đình có tang chủ. Nó cũng không phù hợp với yêu cầu của nếp sống
văn minh, xây dựng các bản làng văn hóa theo quy định của Đảng và Nhà nước hiện nay.
Quan niệm và nghi lễ của người Tày đối với những người chết ngoài nhà (do tai nạn như
cây đổ, tai nạn xe cộ...), sợ hồn người chết đó không được thanh thản sẽ trở về quấy rối hoặc
rủ rê người sống cùng chết theo hay để lại cái dớp cho gia đình là quan niệm thiếu cơ sở
khoa học.
5.5. Một vài kiến nghị
Từ kết quả nghiên cứu, đề tài xin đề xuất một số kiến nghị sau:
5.5.1.Đối với cấp ủy Đảng và chính quyền huyện Nà Hang
Nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày ở Nà Hang, tỉnh tuyên Quang là những
hành động có tính khuôn mẫu trong khoảng thời gian sống của người Tày (một đời người)
gồm nghi lễ sinh đẻ, hôn nhân, tang ma được thực hiện theo một trật tự nhất định. Nghi lễ
này là một thành tố cơ bản tạo nên bản sắc văn hóa của người Tày ở Nà Hang nói riêng và
của người Tày ở Việt Nam nói chung.
Bên cạnh đó cấp ủy Đảng và chính quyền của huyện Nà Hang cũng cần tuyên truyền,
giúp đỡ để các gia đình, dòng họ người Tày khắc phục những mặt hạn chế, không phù hợp
của nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày với những yêu cầu xây dựng văn hóa trong
bối cảnh hiện nay, nhất là khía cạnh tâm linh của nghi lễ sinh đẻ, chăm sóc trẻ, hôn nhân và

tang ma.
5.5.2.Đối với cấp ủy Đảng và chính quyền các xã của huyện Nà Hang
Cấp ủy Đảng và chính quyền các xã là cấp cơ sở, cấp gần các gia đình người Tày nhất, là
cấp hiểu và nắm vững về nghi lễ trong chu kỳ vòng đời của người Tày ở địa phương nhiều
21


nhất. Do vậy, cấp ủy Đảng và chính quyền các xã có vai trò to lớn trong việc bảo lưu, giữ
gìn, phát huy các giá trị tích cực, hợp lý và hạn chế những biểu hiện tiêu cực, không phù hợp
của nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày ở Nà Hang.
5.5.3.Đối với cộng đồng dòng họ của người Tày ở Nà Hang
Cộng đồng dòng họ của Tày ở Nà Hang luôn luôn có vai trò quan trọng, không thể thiếu
được đối với các gia đình người Tày. Cộng đồng dòng họ cũng là chỗ dựa vững chắc cho các
gia đình người Tày trong thực hiện các việc lớn trong sản xuất, trong làm nhà, cưới xin, tang
ma, dựng nhà và là chỗ dựa lớn về mặt tinh thần cho các gia đình người Tày.
5.6. Một số giải pháp
Để phát huy các giá trị tốt đẹp và khắc phục những biểu hiện tiêu cực của các nghi lễ
trong chu kỳ đời người của người Tày ở Nà Hang, tỉnh Tuyên Quang đề tài luận án đề xuất
một số giải pháp sau:
- Tăng cường hoạt động truyền thông nhằm nâng cao nhận thức của người Tày đối với các nghi lễ
trong chu kỳ đời người của người Tày ở Nà Hang, tỉnh Tuyên Quang.
- Cấp ủy và chính quyền huyện Nà Hang, Tuyên Quang và các xã trong huyện cần tao điều kiện
tốt hơn nữa để các gia đình người Tày được tiếp cận các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe, giáo dục,
văn hóa ở địa phương.
- Phát huy vai trò cộng đồng trong việc thực hiện các nghi lễ trong chu kỳ đời người của
người Tày ở Nà Hang.
Tiểu kết chƣơng 5
Trong quan niệm về con cái, người Tày cho rằng, sinh con là trách nhiệm của mỗi thành
viên làm cho dòng tộc mình thêm đông, thêm mạnh. Con cháu là niềm hạnh phúc của gia
đình, dòng họ. Tập quán chăm sóc người phụ nữ mang thai của người Tày ở Nà Hang cũng

có nhiều điểm tích cực. Đó là sự quan tâm, chăm sóc về chế độ dinh dưỡng đối với người
phụ nữ để đảm bảo cho thai nhi phát triển tốt. Các nghi lễ ra cữ, cúng bà mụ, đặt tên, lễ đầy
tháng, đầy năm cho đứa trẻ đã phản ánh mong muốn của các gia đình về những điều tốt đẹp
cho đứa trẻ. Qua đó tạo nên sự gắn kết giữa các thành viên trong cộng đồng dòng họ.
Quan niệm sinh con trai để nối dõi tông đường, cùng với nó là quan niệm trọng nam
khinh nữ là mặt hạn chế trong quan niệm về con cái của người Tày. Việc thực hiện một số
kiêng kỵ của người phụ nữ mang thai là không có cơ sở khoa học, mang tín mê tín.
Quan niệm của người Tày về hôn nhân là việc hệ trọng của cuộc đời, là việc để duy trì
nòi giống. Đây là quan niệm đúng đắn, nó phù hợp với quan niệm chung của các dân tộc ở
Việt Nam về vấn đề kết hôn và gia đình. Một khía cạnh tích cực nữa của hôn nhân ở người
Tày là các gia đình rất cẩn trọng để không bị kết hôn cùng huyết thống, cận huyết thống.
Mặt hạn chế của nghi lễ này thể hiện ở chỗ, việc quan niệm đôi trai gái lấy nhau có được
ở với nhau hay không là do "duyên số”, là do mệnh trời đã định đã làm giảm đi tính chủ
động, cản trở tình yêu đích thực của đôi bạn trẻ. Sự phức tạp và nghi lễ và tốn kém về lễ vật
của người Tày ở Nà Hang từ lúc dạm hỏi cho đến khi tiến hành xong lễ cưới đã tạo nên áp
lực đối với nhiều gia đình người Tày ở Nà Hang hiện nay.
Quan niệm khi con người chết chưa phải là đã hết mà chết chỉ là “về” – về một nơi tốt
hơn, con người trường tồn vĩnh cửu. Quan niệm này làm cho con người có niềm tin trong
cuộc sống hiện tại. Qua việc tổ chức tang ma và thực hiện các nghi lễ trong tang ma của
người Tày đã phản ánh sự hiếu thảo, báo hiếu của con cháu, của người sống với người chết,
sự biết ơn với công sinh thành, dưỡng dục của con cháu với người đã khuất.
22


Mặt hạn chế của nghi lễ này là quá trình tổ chức đám tang của người Tày ở Nà Hang
gồm nhiều nghi lễ với sự chuẩn bị và cách thức thực hiện rất cầu kỳ, rườm rà. Điều này gay
ra những tốn kém về vật chất và nhân lực cho gia đình có người chết.
Luận án đã chỉ ra một số biến đổi, cũng như bảo lưu của các nghi lễ trong sinh đẻ, hôn
nhân và tang ma của người Tày ở Nà Hang hiện nay, chỉ ra các nguyên nhân của sự biến đổi
trong nghi lễ chu kỳ đời người của người Tày ở Nà Hang.

Từ kết quả nghiên cứu, luận án đã đưa ra một số kiến nghị và giải pháp với cấp ủy và
chính quyền địa phương, dòng họ và các gia đình người Tày, nhằm phát huy những mặt tích
cực và khắc phục những hạn chế những của nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày ở
Nà Hang hiện nay.
KẾT LUẬN
1. Là một dân tộc thiểu số đông dân nhất ở nước ta hiện nay, dân tộc Tày có một bản sắc
văn hóa đặc thù, phong phú. Việc tìm hiểu đặc điểm và sự biến đổi văn hóa tộc người, trong
đó có nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày, đặc biệt là việc bảo tồn và phát huy
những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp là một việc làm cần thiết trong tiến trình xây dựng
một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
2. Luận án đã xác định và làm rõ các khái niệm công cụ để nghiên cứu. Đó là các khái
niệm nghi lễ trong chu kỳ đời người, nghi lễ trong sinh đẻ, nghi lễ trong hôn nhân và nghi lễ
trong tang ma.
Nghi lễ trong chu kỳ đời người là những hành động có tính khuôn mẫu của khoảng thời
gian sống của con người gồm nghi lễ sinh đẻ, hôn nhân, tang ma được thực hiện theo một
trật tự nhất định. Nghi lễ trong sinh đẻ là những hành động có tính khuôn mẫu của việc sinh
con được thực hiện theo một trật tự nhất định. Nghi lễ trong hôn nhân là những hành động có
tính khuôn mẫu của mối quan hệ hệ gắn bó được thừa nhận về mặt xã hội giữa một người
đàn ông và một người đàn bà nhằm duy trì nòi giống một cách hợp pháp và được diễn ra
theo một trật tự nhất định. Nghi lễ trong tang ma là những hành động có tính khuôn mẫu của
những người sống đối với người đã chết được thực hiện theo một trật tự nhất định.
3. Về nghi lễ trong sinh đẻ, người Tày ở Nà Hang có những quan niệm về con cái vừa
mang tính truyền thống của người Việt Nam, vừa có những nét đặc trưng riêng của dân tộc
mình. Đó là, người Tày cho rằng đã kết hôn, xây dựng gia đình thì phải sinh con đẻ cái.
Điểm đáng chú ý là, các gia đình người Tày đều mong muốn có đông con, nhiều cháu. Các
gia đình người Tày rất quan tâm đến các nghi lễ sinh đẻ của người phụ nữ. Họ chuẩn bị một
cách chu đáo, cẩn thận và có ý thức cao suốt quá trình từ khi người phụ nữ bắt đầu mang thai
đến lúc sinh con. Nghi lễ trong sinh đẻ của người Tày mang tính tâm linh với mục đích để
cho người mẹ sinh nở an toàn “Mẹ tròn, con vuông”.
4. Về nghi lễ trong hôn nhân, các gia đình người Tày ở Nà Hang quan niệm về hôn nhân là

một vấn đề hệ trọng trong cuộc đời của con người, cũng như đối với việc tồn tại và phát triển của
xã hội. Vì vậy, các nghi lễ liên quan đến vấn đề hôn nhân rất được coi trọng, được người Tày thực
hiện cẩn trọng, trang nghiêm, chu đáo. Các nghi lễ này mang tính cộng đồng cao, mang đậm đặc
trưng văn hóa của dân tộc Tày. Hiện nay, người Tày ở Nà Hang vẫn gìn giữ được nhiều giá trị
truyền thống tốt đẹp của hôn nhân. Bên cạnh đó, một số nghi lễ không còn phù hợp với xã hội
hiện đại đã có những thay đổi nhất định. Đó là quan niệm “Bố mẹ đặt đâu con người đấy” đã có

23


×