Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

TÍNH THANH KHOẢN TRONG hệ THỐNG NGÂN HÀNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.96 KB, 21 trang )

B. PHẦN NỘI DUNG
1. ĐỊNH NGHĨA VỀ TÍNH THANH KHOẢN TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG.

1.1. Định nghĩa.
Thanh khoản là khả năng chuyển đổi một loại tài sản thành tiền mặt với thời
gian và chi phí nhỏ nhất. Tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng được hiểu là
khả năng thanh toán các khoản nợ của ngân hàng. Hệ thống ngân hàng hoạt động
càng năng động và có hiệu quả càng có khả năng nâng cao tính thanh khoản của
mình.
1.2. Mức độ thanh khoản được xác định bởi:
- Chi phí tài chính để chuyển tài sản đó thành tiền mặt.
Tính thanh khoản, một khái niệm trong tài chính, chỉ mức độ mà một tài
sản bất kì có thể được mua hoặc bán trên thị trường mà không làm ảnh hưởng
đến giá thị trường của tài sản đó.
Ví dụ, chứng khoán hay các khoản nợ, khoản phải thu... có khả năng đổi
thành tiền mặt dễ dàng, thuận tiện cho việc thanh toán hay chi tiêu. Các cách gọi
thay thế cho tính thanh khoản là: tính lỏng, tính lưu động.
-Trong kế toán, tài sản lưu động được chia làm năm loại và được sắp xếp theo
tính thanh khoản từ cao đến thấp như sau: tiền mặt, đầu tư ngắn hạn, khoản
phải thu, ứng trước ngắn hạn, và hang tồn kho.
Như vậy, tiền mặt có tính thanh khoản cao nhất, luôn luôn dùng được trực
tiếp để thanh toán, lưu thông, tích trữ. Còn hàng tồn kho có tính thanh
khoản thấp nhất vì phải trải qua giai đoạn phân phối và tiêu thụ chuyển thành
khoản phải thu, rồi từ khoản phải thu sau một thời gian mới chuyển thành tiền
mặt.
-Tính thanh khoản (hay còn gọi là tính lỏng) hiểu là việc chứng khoán hay các
khoản nợ, khoản phải thu...có khả năng đổi thành tiền mặt dễ dàng, thuận tiện
cho việc thanh toán hay chi tiêu….
2.CÁC CẤP TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIÊT NAM.
    Từ khi có cải tổ năm 1990, hệ thống ngân hàng Việt nam trở thành một hệ 
thống với 2 cấp độ, cao nhất là ngân hàng Nhà nước Việt nam với tư cách là 




ngân hàng Trung Ương. 
     Các ngân hàng ở cấp độ đầu tiên, với tư cách là "các trung gian tài chính", là 
các "ngân hàng thương mại", được chia thành 4 loại như sau:
2.1. Các ngân hàng quốc doanh ("State Owned Commercial Banks"): 
    Các ngân hàng này là những đơn vị lớn nhất của hệ thống ngân hàng, bởi vì 
nó chiếm khoảng 75% toàn bộ tài sản của hệ thống ngân hàng trong nước. Đó là
các ngân hàng sau: 
                  ­ Ngân hàng Ngoại thương Việt nam (Vietcombank).
             ­ Ngân hàng Công thương Việt nam(ICBV)                                           
                  ­ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (VBARD 
   ­ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển (BIDV)                                        
2.2. Các ngân hàng cổ phần ("Joint Stock Commercial Banks"): 
        Các ngân hàng này thường có quy mô nhỏ, hiện nay có khoảng 50 ngân\hàng 
và 2/3 trong số đó đặt tại các thành phố, nhất là tại TP. HCM. Trong số các cổ 
đông của nhóm ngân hàng này, ta thấy có các doanh nghiệp hay các tổ chức 
nhà nước. 5 ngân hàng chính của nhóm này là: 
                 ­Ngân hàng Xuất Nhập khẩu (Eximbank), trụ sở ở TP HCM 
                 ­Ngân hàng Thương mại Cổ phần Hàng hải Việt nam, trụ sở tại Hải 
phòng 
                 ­Ngân hàng Thương mại cổ phần Châu á (ACB), trụ sở tại TP. HCM 
                ­Ngân hàng Công Thương Sài gòn (SBIT), trụ sở tại TP. HCM 
                ­Ngân hàng Thương mại Cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
(VPbank), trụ sở tại Hà Nội. 
2.3. Các ngân hàng liên doanh: 
    Đó là các ngân hàng liên doanh giữa một ngân hàng quốc doanh với một hoặc
nhiều đối tác nước ngoài. Các ngân hàng này chịu sự chi phối của quy định với 



ngân hàng nước ngoài ("Regulations Foreign Banks Branchs anh Joint­venture 
banks operating in Việt nam"). 
Có 4 ngân hàng liên doanh sau đây: 
                ­"Indovinabank" (IVB), trụ sở tại TP. HCM 
                ­"VID Public Bank", trụ sở ở Hà nội 
                ­First Vina Bank", trụ sở ở TP HCM 
                ­"VinaSiam Bank", trụ sở tại TP. HCM 
2.4. Các ngân hàng nước ngoài: (Foreign Banks") 
      Đó là các chi nhánh của ngân hàng nước ngoài. Có khoảng 20 ngân hàng đã
có giấy phép thực hiện các hoạt động ngân hàng tại Việt nam. 
      Lưu ý: chúng ta không được nhầm lẫn các chi nhánh này với khoảng 40 "văn
phòng đại diện" mà một số ngân hàng nước ngoài mở tại Việt nam: các văn 
phòng đại diện này không được phép thực hiện các hoạt động ngân hàng.

3. TỔNG QUÁT NGÂN HÀNG VIỆT NAM
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là một cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ tại
Việt Nam. Đây là cơ quan đảm trách việc phát hành tiền tệ, quản lý ti ền tệ và tham
mưu các chính sách liên quan đến tiền tệ cho Chính phủ Việt Nam như: phát hành
tiền tệ, chính sách tỷ giá, chính sách về lãi suất, quản lý dự trữ ngoại tệ, so ạn th ảo
các dự thảo luật về kinh doanh ngân hàng và các tổ chức tín dụng, xem xét vi ệc
thành lập các ngân hàng và tổ chức tín dụng, quản lý các ngân hàng th ương mại nhà
nước...
   3.1.Những thành tựu nổi bật
Trải qua hơn 60 năm xây dựng và phát tri ển, hệ th ống Ngân hàng Vi ệt Nam đã
đạt được những thành tựu rất quan trọng, góp phần tích cực vào sự nghi ệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc:
- Ngân hàng Nhà nước đã bám sát chủ trương, chính sách của Đảng, ch ỉ đ ạo,
điều hành của Chính phủ, chủ động, linh hoạt trong điều hành các gi ải pháp ti ền



tệ, ngân hàng phù hợp với điều kiện từng thời kỳ, góp phần ki ểm soát l ạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
- Khuôn khổ pháp lý về tiền tệ và hoạt động ngân hàng không ngừng đ ược hoàn
thiện, ngày càng phù hợp với điều kiện Việt Nam và ti ến gần đến thông l ệ, chu ẩn
mực quốc tế. Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước từng
bước được bổ sung, hoàn thiện; năng lực, trình độ đội ngũ cán b ộ ngân hàng ngày
càng được nâng cao.
- Hệ thống các tổ chức tín dụng phát tri ển cả về s ố l ượng, lo ại hình ho ạt đ ộng,
quy mô mạng lưới, phương thức quản trị điều hành; huy động v ốn và cho vay tăng
nhanh, sản phẩm, dịch vụ ngân hàng từng bước được đa dạng hoá, góp phần tích
cực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát tri ển nền kinh t ế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Cơ sở hạ tầng và công nghệ ngân hàng được chú tr ọng đầu tư và hi ện đ ại hoá,
tạo thay đổi căn bản trong phương thức giao dịch giữa ngân hàng với khách hàng và
trong quản lý, điều hành hoạt động ngân hàng. Thanh toán không dùng ti ền m ặt
phát triển mạnh, đặc biệt là thẻ ngân hàng.
- Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng đạt được nhi ều k ết qu ả quan tr ọng,
góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thúc đẩy quá trình ti ếp c ận v ới công
nghệ, dịch vụ ngân hàng hiện đại và các chuẩn mực quốc tế về ngân hàng.
-Sự kiện Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được bầu giữ chức Chủ tịch
Hội đồng Thống đốc IMF/WB nhiệm kỳ 2008-2009, Việt Nam tổ chức thành công
Hội nghị thường niên lần thứ 44 Ngân hàng phát triển châu Á, Hội nghị Thống đốc
NHTW ASEAN,... khẳng định vị thế ngày càng tăng của Việt Nam trong cộng đồng tài
chính quốc tế.
3.2. Hệ thống Ngân hàng Việt Nam sau 6 năm hội nhập


Sau 6 năm Việt Nam là thành viên của WTO, nền kinh tế đã đạt được những
thành tựu bước đầu. Môi trường và thể chế hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt
Nam (NHVN) có những chuyển biến tích cực với những thành công đáng ghi nhận

về khung điều tiết; quản trị nội bộ; tổ chức bộ máy, chất lượng nguồn nhân lực và
sự phát triển của các dịch vụ ngân hàng hiện đại. Song đi sâu vào quá trình phát
triển này cho thấy những bất cập chưa có tiền lệ nảy sinh, hệ thống NHVN dễ bị
tổn thương trước các biến động của môi trường bên trong và bên ngoài. Kinh
nghiệm của một số nước cho thấy hội nhập WTO là động lực hỗ trợ cho sự phát
triển của nền kinh tế, của ngân hàng nếu biết tận dụng có hi ệu quả c ơ h ội và đi ều
chỉnh chính sách cho phù hợp với tiến trình hội nhập.
3.3. Hoạt động của hệ thống ngân hàng việt Nam sau 6 năm hội nhập
3.3.1. Những tác động tích cực
NHVN vẫn là một kênh đáp ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế, đóng góp không
nhỏ vào mức tăng GDP hàng năm. Khi tham gia sâu vào hội nhập, cạnh tranh đã
thực sự là động lực to lớn cho cải cách, đổi mới mạnh mẽ trong hoạt động ngân
hàng. Chính sự cạnh tranh này đã tác động đến quản tr ị nội b ộ và văn hóa r ủi ro
của ngân hàng theo hướng minh bạch hơn, tin cậy hơn, đặc biệt khi 4 ngân hàng
thương mại (NHTM) Nhà nước thực hiện cổ phần hóa, chuyển sang hoạt động theo
mô hình cổ phần (CP). Việc nâng cao năng lực tài chính, tăng v ốn chủ sở hữu, duy
trì hệ số an toàn vốn tối thiểu, đầu tư công nghệ, phát triển các dịch vụ ngân hàng
hiện đại, mở các chi nhánh ở nước ngoài... để phục vụ tốt hơn, hiệu quả hơn khách
hàng cả trong và ngoài nước đều được các NHTM quan tâm và thực hiện bằng
những biện pháp khác nhau.
Các NHTM CP cũng có sự bứt phá trong việc tăng năng lực tài chính thông qua
việc góp vốn của các cổ đông chiến lược trong, ngoài nước. Trước hội nhập, chỉ có
6 NHTM CP có nhà đầu tư chiến lược nước ngoài tham gia, nhưng sau 6 năm hội
nhập, đã có thêm 17 NHTM có nhà đầu tư nước ngoài góp vốn. Một số NHTM có số


vốn góp của nhà đầu tư chiến lược nước ngoài chiếm tới 20- 30% như
VietinBank,VCB, VIB...
Việc áp dụng các mô thức quản trị ngân hàng phù hợp với thông lệ quốc tế;
triển khai hệ thống kiểm tra, kiểm soát và kiểm toán nội bộ; sắp xếp l ại mô hình

theo khối, tách bạch khối quản lý rủi ro theo ba vòng ki ểm soát, coi tr ọng đ ầy đ ủ
các loại rủi ro trong ngân hàng, cấu trúc lại các công ty con, cùng v ới vi ệc đưa ra
một số tiêu chí bước đầu phục vụ cảnh báo sớm rủi ro kinh doanh ngân hàng...là
những kết quả đáng ghi nhận. Nó không chỉ là sự đòi hỏi khách quan của mỗi
NHTM hướng đến sự phát triển ổn định, mà còn là đòi hỏi của nền kinh tế, của
khách hàng.
Để quản lý, giám sát hoạt động của hệ thống NHVN thì các văn bản luật, c ơ ch ế,
chính sách của các Bộ/Ngành trong thời gian qua hầu như đã phủ kín các ho ạt đ ộng
chính của ngân hàng, tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động. Chính đi ều này đã
góp phần to lớn vào việc duy trì sự phát tri ển của nền kinh tế, của doanh nghi ệp
(DN), cải thiện đời sống của dân cư, góp phần đưa Việt Nam ra khỏi danh sách
nước có thu nhập thấp vào năm 2009.
3.3.2. Một số tác động tiêu cực
-Một là, gia tăng rủi ro hệ thống
Đó là chất lượng tăng trưởng không cao, năng suất và hiệu quả đầu tư thấp, sức
cạnh tranh của nền kinh tế yếu, kết cấu hạ tầng trở thành đi ểm ngẽn của nền kinh
tế. Lạm phát lên xuống thất thườngiv, sau năm 2007, tăng trưởng kinh tế giảm
xuống dưới mức tiềm năng, năm 2012 là 5,03%. Trong bối cảnh kinh tế suy giảm,
các chính sách kinh tế - tài chính – ngân hàng được đi ều chỉnh theo h ướng ki ểm
soát được lạm phát, nhưng lại ảnh hưởng đến hoạt động của các tổ chức tài chính.
Tính chủ động và tiên liệu trong đầu tư, kinh doanh thấp. Điều này đã tác động lớn


đến sự ổn định của hệ thống, làm cho rủi ro và mức độ tổn thương của hệ th ống
ngân hàng ở một số khía cạnh.
-Hai là, rủi ro do suy giảm niềm tin
Năm 2012 đến nay, NHNN đã 8 lần điều chỉnh giảm trần lãi suất huy động,
nhưng lúc này, công cụ lãi suất hầu như tác động chưa nhiều đến đầu tư. DN thi ếu
vốn cũng chưa muốn vay ngân hàng, ngân hàng “nhìn” DN đôi khi cũng thi ếu thi ện
cảm. Hậu quả là DN vay vốn không trả được nợ đúng hạn lại “bất hợp tác” trong

việc thực hiện nghĩa vụ nợ. Ngân hàng cũng không dám tin vào DN, nên cho vay
buộc phải có bảo đảm bằng tài sản. Đây là những lỗ hổng lớn do suy giảm niềm tin
gây ra.
Tóm lại: Sau 6 năm hệ thống NHVN hội nhập, một mặt chỉ ra những thành tựu
và những hạn chế, nhưng mặt khác quan trọng hơn là giúp mỗi ngân hàng nhận
thức rõ những cái mất bên cạnh cái được mang tính ngắn hạn, để có động cơ quyết
liệt hơn trong việc tái cơ cấu, nâng cao chất lượng quản trị DN, nhằm thích ứng với
quá trình hội nhập, tạo nền tảng góp phần đẩy nhanh việc áp dụng các thông lệ tốt
nhất trong quản lý hoạt động ngân hàng.
Việt Nam, như các quốc gia Châu Á khác, đang ở trong giai đoạn tăng
trưởng chậm. Ngoại trừ ngành sản xuất và nông nghiệp, các ngành khác
đang bị ảnh hưởng tiêu cực bởi tốc độ tăng trưởng chậm và ngành ngân
hàng không phải là một ngoại lệ. Với tăng trưởng tín dụng thấp và tỉ lệ nợ
xấu cao, rõ ràng các ngân hàng Việt Nam đang phải gồng mình hoạt động
trong một môi trường đầy khó khăn thách thức
3.4. Giải pháp
-Một là, nâng cao năng lực thể chế, rà soát các cơ chế chính sách theo hướng th ị
trường, tạo môi trường cho hệ thống ngân hàng và DN hoạt động


-Hai là, đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc hệ thống NHVN.
Hiện nay, để lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng trước hết và cần thi ết phải
giải quyết triệt để nợ xấu. Xử lý nợ xấu phải trở thành một chương trình hành
động Quốc gia, phải có sự vào cuộc của hệ thống chính trị, sự chỉ đạo sát sao của
NHNN, sự tham gia của chính các NHTM.
-Ba là, nâng cao văn hóa quản trị rủi ro và năng lực giám sát ngân hàng. Năng lực
quản trị ngân hàng là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại trong kinh
doanh của ngân hàng.
Như vậy, sau 6 năm tham gia vào “sân chơi toàn cầu” với “luật chơi” kh ắt
khe hơn và nhiều đối thủ mạnh hơn, bên cạnh những cơ hội, thì hệ thống

NHVN cũng phải đối mặt với bất ổn kinh tế trong, ngoài nước tác động. Vì
vậy đổi mới mạnh mẽ hệ thống ngân hàng phải được coi là yêu cầu cấp
bách hướng tới sự phát triển bền vững
4. TÍNH THANH KHOẢN TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM
4.1. Tình hình thanh khoản trong ngân hàng
Như chúng ta đã biết, thanh khoản là khả năng chuyển đổi một loại tài sản thành tiền
mặt với thời gian và chi phí nhỏ nhất. Tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng được
hiểu là khả năng thanh toán các khoản nợ của ngân hàng. Hệ thống ngân hàng hoạt
động càng năng động và có hiệu quả càng có khả năng nâng cao tính thanh khoản của
mình.
Đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam thời gian qua là khoảng thời gian khó khăn
nhất trong nhiều năm qua. Do những điểm nghẽn trong nền kinh tế vẫn chưa thông. Thị
trường tiền tệ và thị trường chứng khoán vẫn còn bất ổn.Nhưng với những nỗ ực
thường xuyên và liên tục thì đến hết năm 2013, cả hệ thống ngân hàng đã bước đầu
vượt qua thời kỳ khó khăn. Tình hình hoạt động của cả hệ thống đã có những biểu hiện
an toàn và hiệu quả hơn, các ngân hàng đã bắt đầu có lãi trở lại, ngay cả những ngân
hàng nhỏ. Nhờ đó rủi ro của hệ thóng giảm bớt. Như vậy có thể nói rằng tình hình thanh


khoản của hệ thống ngân hàng đã được cải thiện đáng kể, khả năng thanh toán của hệ
thống đã dồi dào hơn. Tuy nhiên vẫn chưa ổn định và còn thấp.
4.2. Nguyên nhân
Để hiểu rõ hơn về tình hình thanh khoản của hệ thông ngân hàng hiện nay. Chúng ta
cùng tìm hiểu sâu hơn về tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng qua các khía cạnh
mặt tốt- mặt xấu, ưu điểm nhược điểm.
4.2.1. Về ưu điểm:
4.2.1.1. Thứ nhất, quá trình tái cơ cấu ngân hàng đã đạt được những kết quả ban đầu
đáng khích lệ
Được đánh giá là ngành nỗ lực nhất trong "bộ ba" tái cơ cấu nền kinh tế (ngân hàng doanh nghiệp Nhà nước - đầu tư công) ngành ngân hàng đã khá chủ động triển khai tái
cơ cấu hệ thống ngân hàng theo đúng mục tiêu đã được Chính phủ cũng như NHNN xác

định. Đến nay, NHNN đã tiếp nhận phương án tái cơ cấu của 24/25 NHTM: phê duyệt
phương án tái cơ cấu của 12/25 ngân hàng, tiếp nhận và thẩm định 13/13 phương án
tái cơ cấu của các TCTD phi ngân hàng
Không chỉ về vốn mà nhân sự trong ngành ngân hàng cũng có sự xáo trộn lớn. Sự
thay đổi nhân sự diễn ra ở mọi cấp, từ cấp thấp, cấp trung cho đến cấp cao. Song nếu
nhìn từ góc độ tích cực thì đây là động thái cần thiết để sàng lọc lại đội ngũ nhân sự
ngành ngân hàng vốn được tuyển dụng quá nhiều tại thời điểm “ra ngõ gặp ngân hàng”
cách đây 6-7 năm. Hơn nữa, môi trường kinh doanh càng khó khăn thì những yêu cầu,
đòi hỏi đối với đội ngũ nhân sự sẽ càng cao hơn, không chỉ về trình độ chuyên môn
nghiệp vụ mà cả về kỹ năng và đạo đức nghề nghiệp, và chỉ qua sàng lọc, ngành ngân
hàng sẽ có được đội ngũ lao động tinh hơn để có thể phát triển một cách bền vững.
Một tín hiệu đáng mừng là tốc độ mở rộng mạng lưới đã và sẽ còn tiếp tục tăng
lên trong thời gian tới sau khi kế hoạch mở rộng mạng lưới của các ngân hàng chính
thức được “cởi trói”, đồng thời sẽ có sự quản lý chặt chẽ hơn. Điều này không chỉ giúp


năng động hóa thị trường lao động ngành ngân hàng mà còn giúp tránh được tình trạng
phát triển cục bộ tại một số địa bàn lớn.
Như vậy có thể nói rằng hoạt động của hệ thông ngân hàng ngày càng tốt hơn, tạo
được niềm tin cho người dân, tác động tịch cực tới nguồn vốn huy động đầu vào.
4.2.1.2. Thứ hai, hiệu quả kinh doanh ngân hàng đã được cải thiện đáng kể
Thời gian qua, dù lãi suất huy động liên tục giảm mạnh và không phải lúc nào cũng
“kịch trần” nhưng người dân vẫn tiếp tục gửi tiền vào các tổ chức tín dụng với kỳ hạn dài
bởi đây vẫn là kênh đầu tư an toàn và hiệu quả nhất so với các kênh đầu tư khác hiện
nay. Tính đến cuối tháng 12/2013, tiền gửi VND của dân cư vẫn tăng 15,61% gần bằng
mức tăng trưởng 16% năm 2012, trong đó ngoại tệ tăng 13,7%, VND tăng khá cao
15,93% so với năm 2012.

Giai đoạn 2011-2012, ngành ngân hàng lao đao vì hậu quả của tình trạng tăng
trưởng quá nóng với các điều kiện tín dụng được nới lỏng quá mức trước đó. Hàng loạt

các giải pháp đã được đưa ra để hạ nhiệt tín dụng, nhưng cũng bởi thế tổng lợi nhuận
toàn ngành ngân hàng năm 2012 đã sụt giảm gần 50% so với năm 2011. Sang năm 2013,
các giải pháp tín dụng tiếp tục được điều hành linh hoạt hơn theo hướng “tái tạo”


đường cong lãi suất, mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn hoạt động của TCTD, phù hợp
với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ, đồng thời tiếp tục thực hiện các giải pháp
nhằm tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm hỗ trợ tăng trưởng
kinh tế ở mức hợp lý. Nhờ đó, đến ngày 27/12/2013, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống
đạt trên 11%, gần sát mục tiêu 12%. Điều này thể hiện nỗ lực rất lớn của ngành ngân
hàng bởi nếu nhìn vào tốc độ tăng tín dụng các tháng năm 2013 thì có thể thấy rằng, tín
dụng mới chỉ bắt đầu tăng trưởng dương từ quý II. Cơ cấu tín dụng đã từng bước hợp lý,
hiệu quả và an toàn hơn, đã tập trung được vốn vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất
là tín dụng đối với các lĩnh vực ưu tiên. Nhờ đó, tăng trưởng kinh tế vẫn ở mức hợp lý và
các ngân hàng đã bắt đầu có lãi trở lại, ngay cả những ngân hàng nhỏ.

Không chỉ có vậy, hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng đã có những biểu hiện an
toàn và hiệu quả hơn. Tính đến cuối tháng 31/10/2013, tỷ lệ dư nợ tín dụng trên huy
động vốn thị trường giảm xuống còn 86,19% so với 98% cuối năm 2012 và trên 100%
những năm trước; tỷ lệ an toàn vốn (CAR) có giảm nhẹ, nhưng vẫn ở mức khá cao với
13,64%, cao hơn nhiều so với quy định tối thiểu 9% mà NHNN đang áp dụng; thanh
khoản đang được cải thiện và khá dồi dào so với giai đoạn trước; vốn điều lệ tăng 6,02%;


vốn chủ sở hữu tăng 6,33% và ngày càng tiệm cận tới quy mô vốn điều lệ; tổng tài sản Có
tăng 6,66% so với cuối năm 2012.
4.2.1.3. Thứ ba, xử lý nợ xấu đã đạt được những thành công bước đầu đáng khích lệ
Tăng nợ xấu lại với tốc độ chóng mặt không chỉ ăn mòn lợi nhuận của các ngân hàng
mà còn là nguyên nhân căn bản gây nghẽn tín dụng trong suốt thời gian qua. Chưa bao
giờ vấn đề nợ xấu lại nhận được nhiều sự quan tâm của nhiều giai tầng trong xã hội đến

như vậy. Đây không chỉ là vấn đề được bàn thảo trong các diễn đàn khoa học mà cả ở
các cuộc họp cấp Chính phủ và thậm chí là trên cả chương trình giải trí truyền hình. Tuy
chưa thực sự khả quan nhưng theo báo cáo, tỷ lệ nợ xấu tính đến tháng 11/2013 là
4,55% - tiếp tục giảm so với tháng 10 là 4,73%. Tốc độ gia tăng nợ xấu bình quân sau 3
quý cũng giảm đáng kể (2,2%/tháng so với mức 3,91% của năm 2012). Việc xử lý nợ qua
Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) cũng đã có những tiến
triển nhất định. tính đến ngày 24/12, VAMC đã mua được gần 32.000 tỷ đồng dư nợ gốc
của gần 30 TCTD. Dự kiến, năm 2014 VAMC sẽ mua khoảng 100-150 nghìn tỷ đồng. Hiện
nay rất nhiều nhà đầu tư không chỉ trong nước mà quốc tế cũng quan tâm muốn mua lại
các khoản nợ này. Nhờ nỗ lực của Chính phủ, NHNN cũng như sự quyết liệt của từng
TCTD trong việc xử lý nợ xấu, nên tỷ lệ nợ xấu đã giảm mạnh từ mức 8,86% tổng dư nợ
cuối năm 2012 xuống còn 4,55% đến tháng 11/2013. Hiện tại đã có 15 ngân hàng công
bố báo cáo tài chinh 6 tháng đầu năm,trong số cá ngân hàng đã niêm yết thì tỉ lệ nợ xấu
của SHB đang dẫn đầu: 9%, Navibank: 6,1%, Techcombank: 5,28%, các ngân hàng còn lại
đều có nợ xấu dưới 3% như ACB : 2,99%, Sacombank: 2,55% ,Vietinbank: 2,1%,
Vietcombank: 2,81%, Eximbank: 1,49% và MB : 2,44%.


Nguồn: Internet
Ba nguyên nhân cơ bản trên đã góp phần làm cho tình hình thanh khoản của hệ
thóng ngân hàng được cải thiện đáng kể. Không những không lo ngại về tình hình thanh
khoản của hệ thống ngân hàng mà nhìn nhận tổng thể thì rủi ro thanh khoản của cả hệ
thống ngân hàng không có bất ổn. Tuy nhiên,như chúng ta đã biết thanh khoản trong hệ
thống ngân hàng luôn căng thẳng, thị trường liên ngân hàng ách tắc, một số tổ chức tín
dụng rơi vào tình trạng mất thanh khoản liên tục (luôn rơi vào tình trạng mất cân đối kỳ
hạn về huy động và cho vay…)
4.2.2. Về nhược điểm:
Mặc dù đã vượt qua được những khó khăn bước đầu nhưng chặng đường đổi mới
trước mắt của hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn còn rất nhiều chông gai. Môi trường vĩ
mô đã được cải thiện rất nhiều nhưng chưa ổn định. Năng lực cạnh tranh của nền kinh

tế tuy có tăng nhẹ, nhưng vẫn thấp so với khu vực (xếp thứ 70/148 quốc gia). Lạm phát
được kiềm chế ở mức 6,81% nhưng chủ yếu là do tổng cầu suy giảm, sức mua của doanh
nghiệp và người dân đều ở mức rất thấp.
Tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng đã dồi dào hơn nhưng vẫn chưa ổn định,
nợ xấu đã giảm nhưng còn ở mức cao, thị trường BĐS đã có dấu hiệu “tan giá” nhưng
vẫn chưa đủ “độ ấm” cần thiết nên thanh khoản còn thấp. Vì thế, những chướng ngại


vật phía trước đang đặt ra nhiều thách thức không nhỏ đối với hệ thống ngân hàng
trong giai đoạn tới. Cụ thể:
4.2.2.1. Một là, tổng cầu suy giảm gây khó khăn cho việc hấp thụ vốn, vì thế các ngân
hàng rất khó khăn trong việc mở rộng tín dụng gắn với nâng cao chất lượng khoản vay.
Tuy tăng trưởng tín dụng từ quý II trở đi đã bắt đầu dương và tăng đều đặn qua các
tháng nhưng vẫn không thể đạt được mục tiêu đề ra do khả năng hấp thụ vốn rất thấp
nên dù hiện nay, lãi suất cho vay đã giảm rất nhiều, nhưng dòng vốn vẫn chưa thể luân
chuyển thông suốt. Một mặt là do nợ xấu tồn đọng, các doanh nghiệp không dễ trả
được, khiến cho các ngân hàng cũng thận trọng hơn. Một mặt khác là do tình trạng thừa
cung thiếu cầu nên các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn nên nhu cầu vay vốn cũng
giảm đi. Thực tế cho thấy, lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết ngành cao su quý
III/2013 giảm trên 30%, ngành khoáng sản giảm gần 60%, nganh than và thép thì thậm
chí là còn lỗ khá lớn. Vì vậy, dù lãi suất đã hạ, nhiều gói ưu đãi được thiết kế, song không
thể giải quyết được nên việc mở rộng tín dụng gắn với nâng cao chất lượng khoản vay
vẫn rất khó khăn.
4.2.2.2. Hai là, nợ xấu vẫn là rào cản đối với hoạt động ngân hàng.
Đây không phải là vấn đề mới và cũng không phải bây giờ mới đề cập tới mà nó đã,
đang và vẫn sẽ là vấn đề nổi cộm trong hệ thống ngân hàng. Dù nhìn vào các con số thì
có thể thấy rằng nợ xấu đang giảm đi nhưng mức độ giảm thực tế ra sao thì vẫn chưa
thể đánh giá được. Đây là vấn đề hết sức phức tạp chứ không đơn thuần là tính toán
trên những con số cộng trừ bởi việc xử lý nợ xấu phụ thuộc nhiều vào các điều kiện kinh
tế vĩ mô và thị trường, trong khi tiêu thụ hàng hoá còn chậm, năng lực tài chính và khả

năng trả nợ của doanh nghiệp còn thấp. Thị trường bất động sản chậm phục hồi, thị
trường tài chính trì trệ càng gây khó khăn cho việc bán, xử lý TSBĐ tiền vay để thu hồi
nợ. Trong khi đó các giải pháp điều hành kinh tế vĩ mô, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất


kinh doanh, hỗ trợ thị trường bất động sản luôn có độ trễ và cần phải có thời gian phát
huy tác dụng. Đã vậy, các giải pháp xử lý nợ xấu lại chưa được triển khai đồng bộ mà chủ
yếu vẫn là TCTD tự xử lý nợ xấu nên đã làm giảm mức độ lành mạnh tài chính, hiệu quả
kinh doanh của TCTD trong ngắn hạn. Cơ chế, chính sách xử lý TSBĐ còn nhiều rất vướng
mắc, phức tạp, chậm được khắc phục, hoàn thiện để tạo điều kiện thuận lợi cho xử lý nợ
xấu. VAMC đã được thành lập, đã mua nợ, song việc giải quyết số nợ này ra sao là cả
một vấn đề.
Tỷ lệ nợ xấu cao, đặc biệt là nợ có khả năng mất vốn lớn lại trong bối cảnh hoạt
động kinh doanh ngân hàng khó khăn do lãi suất giảm nhanh, tín dụng khó tăng, chi phí
hoạt động cao khiến áp lực lợi nhuận đè nặng lên vai các ngân hàng, cả các ngân hàng ở
diện tái cấu trúc cũng như các ngân hàng lớn. Bản thân các ngân hàng, để kiểm soát nợ
xấu cũng phải cho vay rất thận trọng. Thế nhưng, nợ xấu từ khoản vay cũ vẫn không
ngừng phát sinh, nợ nhóm 2, 3 chuyển sáng nhóm 4, 5 đã kéo lợi nhuận sẽ hẹp dần. Các
ngân hàng đều thừa nhận khó đạt các chỉ tiêu kinh doanh dù khi xây dựng kế hoạch đã
thận trọng nhưng chi phí dự phòng quá cao (có ngân hàng mà tổng chi phí dự phòng
tăng gấp đôi so với cùng kỳ) nên khả năng hoàn thành chỉ tiêu là khá mong manh.
4.2.2.3. Ba là, khu vực DNNN thực hiện tái cơ cấu chậm, ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt
động kinh doanh của các ngân hàng.
Hơn 1 năm qua, tiến trình cổ phần hóa vẫn hết sức chậm chạp, năm 2012 cả nước
chỉ cổ phần hóa có 13 doanh nghiệp, bằng 14% kế hoạch. 7 tháng đầu năm nay, cũng chỉ
có thêm 16 doanh nghiệp được cổ phần hóa. Việc thoái vốn thì ì ạch vì thị trường BĐS,
TTCK đều đi xuống. Thoái vốn còn theo tư duy bán để cắt lỗ, chứ không phải là để phân
bổ lại nguồn lực. Vì thế, không những không thực hiện được chức năng là “lực đẩy” cho
phát triển kinh tế mà còn ảnh hưởng lớn tới hoạt động kinh doanh ngân hàng, bởi đây là
đối tượng khách hàng rất lớn của các NHTM, là nơi hấp thụ vốn của nền kinh tế và cũng

là nơi tạo ra của cải vật chất cho xã hội nên tháo gỡ nút thắt từ phía doanh nghiệp được


coi mà giải pháp quan trọng nhất để cải thiện hoạt động tín dụng. Đối với các DNNN,
mặc dù được tập trung nguồn lực nhưng hiệu quả của khu vực này vẫn thấp hơn nhiều
so với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp tư nhân. Tái cơ cấu
nền kinh tế thông qua cổ phần DNNN là một nhiệm vụ cấp bách trước bối cảnh suy thoái
kinh tế gần đây. Không những thế, cần nâng cao năng lực cạnh tranh cho những doanh
nghiệp này để làm đầu tàu cho nền kinh tế những năm tới. Muốn vậy, các doanh nghiệp
này phải được định giá tài sản chính xác dựa trên tính công khai, hiệu quả, có chế độ tài
chính phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Việc áp dụng cơ chế kiểm toán độc lập là cần
thiết để minh bạch hóa, đảm bảo độ tin cậy từ các thông tin tài chính, kế toán của các
doanh nghiệp.

4.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT
Để giải quyết được vấn đề này, rất cần có những giải pháp mang tính đồng bộ, đó là:
4.3.1. về phía chính phủ,hoàn thiện hành lang pháp lý
Hệ thống các quy định pháp lý liên quan đến công tác quản trị rủi ro thanh khoản
trong các hoạt động của NHTM mới chỉ dừng lại ở mức sơ khai, cần phải hoàn thiện
thêm nhiều khía cạnh. NHNN Việt Nam cần ban hành một quy chế về rủi ro thanh khoản
để hướng dẫn cho các NHTM trong quá trình hoạt động.
Quy chế này cần có các quy định rõ về: Các chỉ tiêu đo lường rủi ro thanh khoản
chất lượng tài sản có, các tài sản thanh khoản năng lực đi vay dòng tiền, sự phân bố tài
sản và nghĩa vụ tài chính (công nợ) theo ngày đến hạn
đo lường thanh khoản của các hạng mục ngoại bảng, các công cụ tài chính phát sinh.


Ngoài ra quy chế về rủi ro thanh khoản cũng cần phải quy định các nguyên tắc nhằm
nâng cao hiệu quả của công tác thanh tra tại chỗ, giám sát từ xa của NHNN Việt Nam đối
với các NHTM nhằm phát hiên sớm những dấu hiệu rủi ro thanh khoản và có biện pháp

xử lý kịp thời.
Xây dựng hệ thống cảnh báo sớm
NHNN Việt Nam cần xây dựng hệ thống cảnh báo sớm rủi ro thanh khoản của NHTM
dựa trên những phân tích số liệu từ tài khoản thanh toán mở tại NHNN, hệ thống thanh
toán bù trừ qua ngân hàng hay hệ thống thanh toán điện tuwrlieen ngân hàng mà NHNN
đóng vai trò làm đầu mối thanh toán. Thông qua phân tích số liệu và các giao dịch qua
hệ thống này,NHNN có thể đánh giá được tình hình thực hiện nghĩa vụ dự trữ bắt buộc
của các NHTM Việt Nam, tỉ trọng giao dịch vay vốn trên thị trường liên ngân hàng nhằm
bù đắp thiếu hụt thanh khoản hàng ngày, tình hình vay thấu chi tại NHNN để đáp ứng
nhu cầu thanh khoản cho khách hàng, số lượng các lệnh thanh toán bị treo do ngân
hàng không đủ tiền để thanh toán…từ đó có thể đưa ra các cảnh báo sớm về mức độ
thiếu hụt tạm thời cho cacs NHTM, ngoài ra NHNN cũng cần phân tích dự báo tình hình
tài chính của NHTM trong một khoảng thời gian sắp tới nhằm chỉ ra và phân loại những
ngân hàng nào có thể gặp khó khăn về thanh khoản trong tương lai, từ đó có biên pháp
xử lý kịp thời.

4.3.2. Thứ hai, các giải pháp đối với các NHTM
Không phủ nhận những kết quả đã đạt được trong quá trình tái cơ cấu ngân hàng,
nhưng rõ ràng, mới dừng lại ở những thay đổi về lượng mà chưa có những biến đổi thực
sự về chất. Là chủ thể cung cấp vốn cho các doanh nghiệp và cho nền kinh tế, vì thế,
dòng vốn không thể khơi thông nếu bản thân các ngân hàng hoạt động không hiệu quả.
Vì thế, cần các rất cần đẩy nhanh, dứt điểm tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, đồng thời
thắt chặt sở hữu chéo bởi đây là một trong những nguyên nhân gây ra khủng hoảng


ngân hàng, song để kiểm tra, giám sát các đối tượng sở hữu chéo, các minh tài chính của
các cổ đông khi tham gia sở hữu vốn tại các ngân hàng là không đơn giản, nhất là đối với
các NHTM chưa niêm yết. Song nếu làm được như vậy sẽ không chỉ tạo ra sự ổn định
của hệ thống mà còn đảm bảo không để xảy ra khủng hoảng niềm tin trên thị trường.
Bên cạnh đó, cần khuyến khích các ngân hàng tiếp tục đẩy mạnh cho vay đối với một

số lĩnh vực ưu tiên hiện nay, như cho vay nông nghiệp, nông thôn, cho vay DNNVV, cho
vay công nghiệp hỗ trợ và xuất khẩu. Bổ sung thêm lĩnh vực ưu tiên đối với những doanh
nghiệp sử dụng nhiều lao động và cho vay có tác dụng kích cầu thị trường để giảm tồn
kho cho doanh nghiệp (như cho vay mua nhà, cho vay xây dựng nông thôn mới...) và các
doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất và bảo vệ môi trường. Tạo chu
trình khép kín cho sự tham gia của vốn tín dụng ngân hàng vào chuỗi liên kết sản xuất thu mua - tiêu thụ sản phẩm nhằm góp phần nâng cao chất lượng tín dụng, giảm nợ xấu
của hệ thống các ngân hàng (thông qua việc đưa ra các sản phẩm tín dụng như cho vay
theo chuỗi của người nuôi, thu mua, chế biến thuỷ sản xuất khẩu, cho vay liên kết giữa
chủ đầu tư bất động sản với nhà thầu xây dựng, người cung cấp vật liệu xây dựng và
người mua nhà...). Tăng cường kiểm soát mục đích vay vốn và công tác thanh tra, giám
sát việc sử dụng vốn vay của khách hàng.
4.3.3các giải pháp đối với các doanh nghiệp
Giải phóng hàng tồn kho là phương thuốc hữu dụng tạo “hứng thú” cho các doanh
nghiệp trong việc đẩy mạnh mở rộng sản xuất kinh doanh trở lại. Thực tế cho thấy, chỉ số
tồn kho tại thời điểm 01/10/2013 toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,7%
so với cùng thời điểm năm 2012, trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp
hoặc giảm là: Sản xuất trang phục tăng 7,8%; sản xuất thiết bị điện tăng 7,4%; dệt tăng
2,7%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) giảm 6,9%; sản xuất
sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 13,7%; sản xuất xe có động cơ giảm 42,3%;
Tuy nhiên vẫn còn những ngành có chỉ số tồn kho tăng cao như: Sản xuất đồ uống tăng


165,6%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 54,8%; sản xuất giấy và sản phẩm từ
giấy tăng 38,2%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 23,3%; sản xuất, chế biến
thực phẩm tăng 23,2%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 19,6%; sản xuất
kim loại tăng 18,4%. Tỷ lệ tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng
9/2013 là 74%. Song theo một số chuyên gia kinh tế, mức giảm ấy chủ yếu là vì các
doanh nghiệp không sản xuất hoặc giảm sản xuất đi đáng kể. Khi hàng sản xuất mới
không tăng thêm, hàng tồn bán được đi chút đỉnh nên mới giúp hàng tồn kho giảm đi
như vậy. Hiểu theo nghĩa này thì việc hàng tồn kho giảm đi trong những tháng trở lại đây

là điều vừa mừng, vừa lo. Điều đó cho thấy, nếu hàng tồn kho không được giải quyết,
doanh nghiệp không có nhu cầu mở rộng SXKD – mà đây là kênh chính, do đó chúng ta
muốn hướng tín dụng vào thì rõ ràng sẽ rất khó khăn trong những tháng tới.
Để giảm được hàng tồn kho, cần tập trung các giải pháp giúp tăng tổng cầu. Đặc biệt
tăng truyền thông củng cố niềm tin. Đồng thời, cần sửa đổi quy định của ngân hàng Nhà
nước về hạn chế cho vay tiêu dùng. Bởi lẽ sản xuất và tiêu dùng là hai mặt của quá trình
luân chuyển hàng hoá dịch vụ. Nếu chỉ khuyến khích cho vay sản xuất nhưng lại “khoá
chặt” cho vay tiêu dùng, chặn đầu ra của sản xuất, thì không kích thích tiêu thụ sản
phẩm, không thể giải quyết được nút thắt tồn kho và thanh khoản của nền kinh tế. Bên
cạnh các giải pháp tăng cầu cá nhân, cần có các giải pháp tầm cỡ hơn để tăng đầu tư của
Chính phủ, tạo hiệu ứng lan tỏa và tăng tổng cầu có khả năng thanh toán. Đó mới là mấu
chốt của vấn đề.
Bên cạnh các giải pháp nỗ lực từ phía bản thân ngân hàng và các doanh nghiệp, cần
và rất cần có một quyết tâm trong chỉ đạo, điều hành từ các cơ quan quản lý Nhà nước
trong việc giải quyết những bất ổn trong hệ thống cũng như nhất quán mục tiêu tái cấu
trúc hệ thống ngân hàng và xác định rõ ràng lộ trình triển khai để các ngân hàng chủ
động xây dựng các phương án một cách hợp lý nhất và khả thi nhất.


Chặng đường phía trước của cả nền kinh tế Việt Nam nói chung và các ngân hàng nói
riêng sẽ vẫn còn nhiều gian nan thử thách khi năm 2014 được dự báo vẫn là một năm
vượt khó. Song những dự đoán sáng sủa hơn về kinh tế Mỹ và châu Á, nhất là khu vực
Đông Nam Á cộng với những lợi ích từ Hiệp định Đối tác kinh tế Chiến lược xuyên Thái
Bình Dương (TPP) đang mở ra những cơ hội rộng hơn cho Việt Nam sẽ là cơ hội thu hút
vốn nước ngoài, từ đó góp phần hâm nóng thị trường nội địa, kích cầu trong nước. Vẫn
biết để làm sáng bức tranh ngân hàng Việt nam trong năm 2014 tươi sáng hơn là rất
quan trọng bởi giai đoạn 2013-2014 được coi là giai đoạn bản lề của công cuộc cải cách
đổi mới. Tuy nhiên, thành công hay không còn phù thuộc vào các bước chuẩn bị các điều
kiện để tạo nên hiệu ứng cộng hưởng và lan tỏa, từ đó tạo ra được những bước ngoặt
cần thiết một bài toán không đơn giản. Lời giải đầy đủ cho bài toán này không thể chỉ

đến từ bản thân hệ thống ngânb hàng.

C. PHẦN KẾT LUẬN
Nhận định tổng thể về rủi ro thanh khoản của cả hệ th ống ngân hàng không có
bất ổn. Theo lãnh đạo, từng ngân hàng có thể đối mặt xáo trộn về thanh khoản khi
dòng tiền chuyển dịch từ ngân hàng này sang ngân hàng kia. Hi ện lãi suất huy động
đang khá thấp nên khách hàng gửi tiền cũng không thật sự mặn mà… Và do lãi su ất
tiết kiệm giảm nhiều nên khách hàng sẽ trở nên khó tính hơn khi lựa ch ọn n ơi gửi
tiền. Nhất là cuối năm nhu cầu tiêu dùng mua sắm cá nhân sẽ tăng, ti ền nhàn r ỗi
của họ gửi trong ngân hàng cũng sẽ vơi đi. Lãi suất cho vay liên ngân hàng tăng cũng
không loại trừ khả năng một số ngân hàng muốn đẩy mạnh tín dụng nhưng huy
động từ thị trường 1 không đủ nên có thể phải vay mượn trên liên ngân hàng.


Do đó, từng ngân hàng cũng cần đưa ra các giải pháp dự phòng r ủi ro thanh
khoản dù nó không phải là cấp bách nhưng cũng cần thiết để đảm bảo an toàn
hoạt động cho ngân hàng nói riêng, cả hệ thống nói chung.



×