Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Các yếu tố tác động đến số thu thuế của các nước thu nhập trung bình thấp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

BÙI THỊ TUYẾT

CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỐ THU THUẾ
CỦA CÁC NƢỚC THU NHẬP TRUNG BÌNH THẤP

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

BÙI THỊ TUYẾT

CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỐ THU THUẾ
CỦA CÁC NƢỚC THU NHẬP TRUNG BÌNH THẤP

Chuyên ngành: Tài Chính- Ngân Hàng
Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. LÊ QUANG CƢỜNG

Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng luận văn: “Các yếu tố tác động đến số thu thuế của các nƣớc
thu nhập trung bình thấp” là công trình nghiên cứu riêng cá nhân tôi.
Các thông tin đƣợc sử dụng trong luận văn đƣợc trích dẫn rõ ràng, nội dung tài liệu
trích dẫn đều đƣợc ghi nhận đầy đủ ở phần Tài liệu tham khảo. Số liệu sử dụng
trong bài nghiên cứu đƣợc chính tác giả thu thập là hoàn toàn trung thực và kết quả
của bài nghiên cứu chƣa từng đƣợc công bố ở bất kỳ công trình nghiên cứu nào
khác.
TP.HCM, tháng 7 năm 2017
Học viên

Bùi Thị Tuyết


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC HÌNH
DANH MỤC CÁC BẢNG
TÓM TẮT NGHIÊN CỨU
MỤC LỤC ................................................................................................................... 4
CHƢƠNG 1: MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1.1 Giới thiệu lý do chọn đề tài ...............................................................................1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu ..........................................................................................2
1.3 Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi thu thập dữ liệu ...........................................2
1.4 Phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................................2
1.5 Ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu ......................................................................3
1.6 Cấu trúc nghiên cứu ...........................................................................................3

CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU
THỰC NGHIỆM ......................................................................................................... 4
2.1 Mô hình và các nghiên cứu thực nghiệm trƣớc đây ..........................................4
2.2 Một số yếu tố ảnh hƣởng đến số thu thuế ........................................................12
2.2.1 Các yếu tố kinh tế ......................................................................................12
2.2.2 Các yếu tố về thể chế .................................................................................14
2.2.3 Các yếu tố về nhân khẩu học và xã hội .....................................................18
2.2.4 Các yếu tố khác .........................................................................................20
CHƢƠNG 3: MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU ................................................................. 22
3.1 Dữ liệu .............................................................................................................22
3.2 Phƣơng pháp nghiên cứu .................................................................................23
3.2.1 Tổng quan phƣơng pháp nghiên cứu .........................................................23


3.2.2 Mô hình nghiên cứu ..................................................................................25
3.3 Trình tự tiến hành phƣơng pháp định lƣợng ....................................................30
CHƢƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................................. 32
4.1 Thống kê mô tả ................................................................................................32
4.2 Phân tích bằng đồ thị .......................................................................................35
4.3 Phân tích ma trận hệ số tƣơng quan .................................................................44
4.4 Hồi quy theo các phƣơng pháp OLS, FE, RE ..................................................46
4.5 Kiểm tra hiện tƣợng đa cộng tuyến .................................................................48
4.6 Kiểm tra hiện tƣợng tự tƣơng quan .................................................................49
4.7 Kiểm tra hiện tƣợng phƣơng sai thay đổi trong mô hình RE ..........................50
4.8 Kết quả hồi quy bằng phƣơng pháp DGMM ...................................................50
CHƢƠNG 5: KẾT LUẬN ........................................................................................ 60
5.1 Kết luận ............................................................................................................60
5.2 Một số giải pháp và kiến nghị..........................................................................60
5.3 Những hạn chế và hƣớng phát triển của đề tài ................................................63
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 65



DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 4.1: Số thu thuế/GDP trung bình theo quốc gia giai đoạn 2002 - 2014 ........... 32
Hình 4.2: Số thu thuế/GDP trung bình theo năm trong giai đoạn 2002 - 2014 ........ 33
Hình 4.3: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và thu nhập bình quân đầu ngƣời ..... 36
Hình 4.4: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và độ mở thƣơng mại ....................... 37
Hình 4.5: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài ......... 37
Hình 4.6: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và nông nghiệp ................................. 38
Hình 4.7: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và công nghiệp ................................. 38
Hình 4.8: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và lạm phát ....................................... 39
Hình 4.9: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và quyền tự do dân sự ...................... 39
Hình 4.10: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và quyền chính trị ........................... 40
Hình 4.11: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và tỷ lệ đi học ................................. 40
Hình 4.12: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và tuổi thọ ...................................... 41
Hình 4.13: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và tỷ lệ tử vong ở trẻ em ................ 41
Hình 4.14: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và giá trị trễ một kì của thuế .......... 42
Hình 4.15: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và viện trợ ...................................... 42
Hình 4.16: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và nợ công ...................................... 43


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1: Danh sách các quốc gia đƣợc lấy dữ liệu phân theo vùng địa lý ............. 22
Bảng 3.2: Tóm tắt các biến ....................................................................................... 27
Bảng 3.3: Tóm tắt các giả thuyết nghiên cứu............................................................ 29
Bảng 4.1: Mô tả thống kê các biến ............................................................................ 35
Bảng 4.2: Ma trận hệ số tƣơng quan ......................................................................... 44
Bảng 4.3 Kết quả ƣớc lƣợng bằng phƣơng pháp OLS, FE, RE ................................ 47
Bảng 4.4: Kiểm tra hiện tƣợng đa cộng tuyến .......................................................... 49
Bảng 4.5: Kết quả hồi quy DGMM ........................................................................... 51



TÓM TẮT NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu này đƣợc thực hiện để tìm hiểu về các yếu tố tác động đến phần trăm số
thuế thu đƣợc trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của các quốc gia nhóm thu nhập
trung bình thấp giai đoạn 2002-2014. Các yếu tố đƣợc tác giả đƣa vào mô hình để
kiểm tra mối tƣơng quan với biến phụ thuộc bao gồm giá trị trễ của biến phụ thuộc,
GDP bình quân đầu ngƣời, độ mở thƣơng mại, đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài, tỷ trọng
giá trị gia tăng ngành nông nghiệp trong GDP, tỷ trọng giá trị gia tăng ngành công
nghiệp trong GDP, lạm phát, quyền chính trị, quyền tự do dân sự, tỷ lệ đi học, tuổi
thọ trung bình, tỷ lệ tử vong ở trẻ em, viện trợ, nợ công. Bộ dữ liệu thỏa tất cả các
kiểm định để áp dụng phƣơng pháp DGMM. Kết quả hồi quy cho thấy giá trị trễ của
biến phụ thuộc, GDP bình quân đầu ngƣời, độ mở thƣơng mại, đầu tƣ trực tiếp nƣớc
ngoài, tỷ trọng giá trị gia tăng ngành công nghiệp trong GDP, quyền tự do dân sự,
tỷ lệ đi học, nợ công có tác động đồng biến với biến phụ thuộc. Ngƣợc lại, tỷ trọng
giá trị gia tăng ngành nông nghiệp trong GDP, lạm phát, tuổi thọ trung bình, tỷ lệ tử
vong ở trẻ em, viện trợ có tác động nghịch biến với biến phụ thuộc. Nghiên cứu
không những khẳng định lại tác động của các biến truyền thống mà còn mở rộng mô
hình của Castro và Camarillo (2014) bằng việc thêm vào các yếu tố lạm phát, viện
trợ và nợ công. Các biến này đều có tác động có ý nghĩa thống kê đến biến phụ
thuộc.


1

CHƢƠNG 1: MỞ ĐẦU
1.1 Giới thiệu lý do chọn đề tài
Đối với các thể chế Nhà nƣớc, thuế luôn đóng vai trò là nguồn thu chính cho ngân
sách các quốc gia để tài trợ cho hoạt động các cơ quan chính quyền, các chƣơng
trình chi tiêu của đất nƣớc nhƣ quốc phòng, phúc lợi xã hội, đầu tƣ phát triển…

Làm thế nào để tăng số thu thuế, phát triển dựa vào nguồn lực trong nƣớc nƣớc thay
vì nguồn viện trợ và nợ nƣớc ngoài là một đề tài đã đƣợc các nhà kinh tế nghiên cứu
từ lâu. Có nhiều nghiên cứu thực nghiệm trƣớc đây đã đƣợc tiến hành để xác định
các yếu tố có tác động đến số thu thuế đối với các nƣớc đang phát triển, trong đó dữ
liệu đƣợc chia thành các mẫu con gồm các nƣớc thu nhập thấp, thu nhập trung bình
và thu nhập cao để xem xét. Trải qua vài thập kỷ, các nhà nghiên cứu đã tìm ra
nhiều bằng chứng thực nghiệm cho thấy tác động của các yếu tố kinh tế, thể chế, xã
hội và các yếu tố khác đến số thu thuế/GDP. Nhƣ vậy, đề tài xác định các yếu tố tác
động tới nguồn thu từ thuế và tăng năng lực thuế của các quốc gia vẫn luôn dành
đƣợc sự quan tâm của các nhà kinh tế, nhất là đối với các quốc gia đang phát triển.
Hầu hết giai đoạn thu thập mẫu của các nghiên cứu này đều trƣớc năm 2007, từ đó
đến nay đã có một số quốc gia bƣớc từ nhóm các nƣớc thu nhập thấp sang nhóm các
nƣớc thu nhập trung bình nhƣ Bangladesh, Bhutan, Cambodia, Cameroon, Cote
d’ivoire, Ghana, India, Kenya, Laos, Mongolia, Moldova, Myanmar, Nigeria, São
Tomé and Príncipe, Tajikistan, Uzbekistan, Việt Nam… Vấn đề trên có thể tạo ra
những thay đổi nhất định liên quan đến kết quả nghiên cứu.
Xuất phát từ thực tiễn nói trên, tác giả thực hiện đề tài: “Các yếu tố tác động đến số
thu thuế của các nƣớc thu nhập trung bình thấp” với kì vọng xác định đƣợc chiều
hƣớng tác động của các yếu tố đƣợc xem xét đến phần trăm số thu thuế trong tổng
sản phẩm nội địa của các quốc gia trong nhóm thu nhập trung bình thấp nói chung
và Việt Nam nói riêng. Từ đó, tác giả cũng kì vọng tạo đƣợc nền tảng cho việc ra
quyết định liên quan đến chính sách thuế của các cơ quan quản lý các quốc gia
nhằm tăng thu ngân sách.


2

1.2 Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định các yếu tố tác động đến số thu thuế của các nƣớc trong nhóm thu nhập
trung bình thấp giai đoạn 2002-2014.

- Xác định chiều hƣớng tác động đến số thu thuế của các nƣớc trong nhóm thu nhập
trung bình thấp giai đoạn 2002-2014.
- Từ kết quả nghiên cứu, góp phần đƣa ra một số gợi ý và khuyến nghị nhằm cải
thiện số thu thuế cho các quốc gia trong nhóm thu nhập trung bình thấp nói chung
và Việt Nam nói riêng.
1.3 Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi thu thập dữ liệu
- Đối tƣợng nghiên cứu: Các quốc gia trong nhóm có thu nhập trung bình thấp theo
phân loại của World Bank năm 2017.
- Khung thời gian nghiên cứu: Xét trong giai đoạn 2002-2014.
- Phạm vi thu thập dữ liệu: Các quốc gia thu nhập trung bình thấp có đầy đủ dữ liệu
trên cơ sở dữ liệu của World Bank, Asian Development Bank, Freedomhouse trong
giai đoạn 2002-2014.
1.4 Phƣơng pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phƣơng pháp định lƣợng để làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu.
- Phƣơng pháp thống kê mô tả: so sánh kết hợp với các bảng biểu đồ thị để mô tả
bộ dữ liệu nghiên cứu.
- Phƣơng pháp hồi quy bội đƣợc sử dụng để xác định các yếu tố tác động đến số
thu thuế/GDP. Các tham số của mô hình hồi quy đƣợc ƣớc lƣợng bằng phƣơng
pháp DGMM (Difference Generalized Method of Moments) thực hiện trên phần
mềm STATA 12. Các bƣớc tiến hành nhƣ sau:


3

+ Hồi quy theo phƣơng pháp OLS, FE, RE, trong đó biến phụ thuộc là số thu
thuế/GDP, các biến độc lập là GDP bình quân đầu ngƣời, độ mở thƣơng mại,
đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài, tỷ trọng giá trị gia tăng ngành nông nghiệp trong
GDP, tỷ trọng giá trị gia tăng ngành công nghiệp trong GDP, lạm phát, quyền
chính trị, quyền tự do dân sự, tỷ lệ đi học, tuổi thọ trung bình, tỷ lệ tử vong ở
trẻ em, viện trợ, nợ công.

+ Tiến hành kiểm định hiện tƣợng đa cộng tuyến, tự tƣơng quan, phƣơng sai
thay đổi sau khi hồi quy theo phƣơng pháp OLS, FE, RE.
+ Để khắc phục khiếm khuyết của mô hình, dữ liệu đƣợc hồi quy theo phƣơng
pháp DGMM, bổ sung biến giá trị trễ một kì của biến phụ thuộc.
+ Xem xét kiểm định AR, Sargan, Hansen và số biến công cụ để kết luận mức
độ phù hợp của mô hình.
1.5 Ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu
Đƣa ra các yếu tố tác động đến số thu thuế của các nƣớc trong nhóm thu nhập trung
bình thấp giai đoạn 2002-2014, từ đó xác định đƣợc chiều hƣớng và mức độ tác
động của các yếu tố này, làm cơ sở cho các cơ quan quản lý nhà nƣớc đƣa ra các
giải pháp phù hợp để nâng cao số thu thuế.
1.6 Cấu trúc nghiên cứu
CHƢƠNG 1: MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU
THỰC NGHIỆM
CHƢƠNG 3: MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
CHƢƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƢƠNG 5: KẾT LUẬN


4

CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU
THỰC NGHIỆM
2.1 Mô hình và các nghiên cứu thực nghiệm trƣớc đây
Từ đầu những năm 70 của thế kỷ trƣớc, các nhà kinh tế đã đƣa ra các mô hình nhằm
xác định các yếu tố tác động đến số thu thuế theo phần trăm trong GDP (hoặc GNP)
của quốc gia. Mô hình cơ bản thƣờng đƣợc các nhà nghiên cứu sử dụng có dạng:
T/Y = f(Xi ... Xn, U)
Trong đó T là tổng số thu thuế, Y đại diện cho thu nhập (tổng sản phẩm nội địa

GDP hoặc tổng sản phẩm quốc dân GNP), T/Y là tỷ lệ phần trăm tổng số thu thuế
trong thu nhập. Xi (i = 1...n) đại diện cho các biến độc lập khác nhau dự kiến có ảnh
hƣởng đến tỷ lệ phần trăm tổng số thu thuế trong thu nhập và U là sai số.
Từ đó đến nay, đã có nhiều nghiên cứu mở rộng và phát hiện thêm nhiều yếu tố mới
về kinh tế, thể chế, xã hội có tƣơng quan với biến số T/Y. Đặc biệt trong hơn một
thập kỷ gần đây, hàng loạt các nhà nghiên cứu đã xây dựng mô hình nghiên cứu sử
dụng các phƣơng pháp đem lại hiệu quả ƣớc lƣợng cao hơn nhƣ GMM, đào sâu vào
các khía cạnh chính trị, xã hội, đạo đức thuế cũng nhƣ so sánh nỗ lực thu thuế của
nhiều khu vực địa lý và nhóm thu nhập khác nhau trên thế giới.
Các nhà nghiên cứu này đã phát hiện các yếu tố chính có mối tƣơng quan với nỗ lực
thu thuế là trình độ phát triển, thƣờng đƣợc đại diện bằng tổng sản phẩm trong nƣớc
bình quân đầu ngƣời (Gupta, 2007; Pessino và Fenochietto, 2010), chuyên môn hóa
sản xuất, hoặc cấu trúc của nền kinh tế, có thể đƣợc phát hiện thông qua các thành
phần cấu thành của GDP (Piancastelli, 2001; Karagöz, 2013), các yếu tố bên ngoài
nhƣ mức độ đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài (FDI) và thƣơng mại (Cassou, 1997; Gupta,
2007; Bird et al, 2008.). Các yếu tố khác gồm có mức độ nợ công (Teera và
Hudson, 2004) và chính sách công, bao gồm tỷ giá hối đoái, kiểm soát lạm phát và
chính sách tài chính (Tanzi, 1988). Hiệu quả của chính phủ và các yếu tố thể chế


5

nhƣ sự ổn định chính trị, quyền tự do ngôn luận, dân chủ và quyền lực chính trị
cũng đƣợc coi là yếu tố quyết định số thu thuế (Bird et al, 2008; Martin-Mayoral và
Uribe, 2010). Một số nghiên cứu đã tìm hiểu tác động của biến xã hội nhƣ trình độ
học vấn - đƣợc đo theo chi tiêu công cho giáo dục hay tỷ lệ mù chữ (Pessino và
Fenochietto, 2010; Piancastelli, 2001) và tăng trƣởng dân số (Bahl và Wallace,
2005). Một số nghiên cứu nổi bật đƣợc trình bày tóm tắt nhƣ dƣới đây.
Piancastelli (2001) ƣớc lƣợng nỗ lực thu thuế ở 75 quốc gia bao gồm cả các quốc
gia phát triển và đang phát triển trong giai đoạn 1985/95. Các quốc gia lấy mẫu

đƣợc chia làm ba nhóm: 31 quốc gia thu nhập thấp, 19 quốc gia thu nhập trung bình
và 25 quốc gia thu nhập cao. Tác giả đề xuất biến phụ thuộc là phần trăm tổng số
thu thuế trong GDP, các biến độc lập gồm tổng sản phẩm quốc dân GNP bình quân
đầu ngƣời, thƣơng mại/GDP, nông nghiệp/GDP, công nghiệp/GDP, dịch vụ/GDP.
Ƣớc lƣợng thông qua Fixed effects và Random effects, kết quả đƣa ra gợi ý: thu
nhập bình quân đầu ngƣời, tỷ trọng thƣơng mại trên GDP và tỷ trọng nông nghiệp
trong GDP là những biến phù hợp nhất để giải thích tỷ trọng thuế trên GDP. Trong
bài viết này, chỉ số nỗ lực về thuế cho bất kỳ quốc gia nào thƣờng đƣợc tính bằng tỉ
số của tỷ lệ thuế thực tế so với tỷ lệ dự đoán. Điều này chủ yếu phản ánh sự chênh
lệch về khả năng thu thuế của một quốc gia. Chỉ số nỗ lực thuế cao cho thấy một
quốc gia cụ thể đang thu thuế nhiều hơn dự đoán, với cơ cấu thuế và các điều kiện
kinh tế xã hội hiện tại. Việc so sánh tỷ trọng thuế trên GDP và nỗ lực thuế đƣợc
thực hiện giữa các nƣớc phát triển và đang phát triển theo các nhóm thu nhập và các
châu lục khác nhau. Từ đó tác giả chỉ ra rằng hiệu suất thu thuế ở các nƣớc có thu
nhập trung bình thấp hơn ở các nƣớc thu nhập cao và các nƣớc thu nhập thấp.
Eltony (2002) sử dụng dữ liệu giai đoạn 1994 – 2000 của 16 nƣớc Arab. Biến đƣợc
giải thích là tỷ trọng thuế trong GDP, các biến giải thích đƣợc xem xét là thu nhập
bình quân đầu ngƣời, tỷ trọng ngành nông nghiệp, khai thác mỏ, ngành sản xuất
trong GDP, tỷ trọng xuất khẩu và nhập khẩu trong GDP và nợ nƣớc ngoài. Nghiên
cứu đã sử dụng mô hình Fixed effects và xác định các yếu tố tác động đến số thu


6

thuế là thu nhập bình quân đầu ngƣời, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP và tỷ trọng
khai thác mỏ trong GDP. Một số biến khác cũng khá quan trọng nhƣ tỷ trọng xuất
khẩu, nhập khẩu và nợ nƣớc ngoài. Ngoài ra, tác giả cũng nhấn mạnh rằng mô hình
đã thiếu sót khi không xét đến các yếu tố đặc biệt đặc trƣng cho từng quốc gia nhƣ
hệ thống chính trị, thái độ đối với chính phủ, chất lƣợng quản lý thuế và các yếu tố
thể chế khác. Qua quan sát chỉ số nỗ lực thuế, tác giả kết luận một số nƣớc Ả Rập

đã tăng đáng kể nỗ lực thu thuế trong các năm gần đây trong khi một số nƣớc khác
có dấu hiệu suy giảm. Các biện pháp tăng nỗ lực thuế sẽ ảnh hƣởng đến chính sách
tài khóa trong trƣờng hợp ngân sách bị mất cân bằng.
Agbeyegbe, Stotsky và WoldeMariam (2004) tìm bằng chứng thực nghiệm về
mối quan hệ giữa tự do hoá thƣơng mại, tỷ giá hối đoái và số thu thuế. Sử dụng dữ
liệu bảng của 22 quốc gia ở Châu Phi vùng hạ Sahara, trong giai đoạn 1980-1996,
các tác giả thực hiện phƣơng pháp Generalized Method of Moments (GMM) để
kiểm tra mối quan hệ này. Kết quả tìm thấy bằng chứng cho thấy mối quan hệ giữa
tự do hóa thƣơng mại (hay các cách đo lƣờng khác đƣợc sử dụng để đại diện cho tự
do hóa thƣơng mại) và số thu thuế là khá nhạy cảm, nhƣng nói chung, tự do hóa
thƣơng mại không liên quan chặt chẽ đến tổng số thu thuế hoặc các thành phần
trong tổng số thu thuế. Sự tăng giá tiền tệ và lạm phát cao hơn dẫn số thu thuế hoặc
thành phần của số thu thuế thấp hơn. Các kết quả này cho thấy sự nhất quán một
phần với những phát hiện trƣớc đây và ủng hộ quan điểm cho rằng tự do hóa thƣơng
mại kèm theo các chính sách kinh tế vĩ mô thích hợp có thể đƣợc thực hiện theo
cách bảo toàn tổng thu nhập.
Gupta (2007) sử dụng dữ liệu bảng cho 105 quốc gia đang phát triển qua 25 năm.
Dự liệu các biến đƣợc lấy từ các nguồn nhƣ Government Financial Statistics (GFS),
WEO Economic Trends in Africa (WETA), International Financial Statistics (IFS)
và World Development Indicators (WDI). Trong đó, biến phụ thuộc thu ngân sách
của chính phủ trung ƣơng (% GDP) đƣợc phân tích thành các biến cụ thể hơn nhƣ
thuế từ hàng hóa và dịch vụ, thuế từ thu nhập, lợi tức và chuyển nhƣợng vốn, thuế


7

từ thƣơng mại, thuế từ xuất khẩu. Các biến độc lập bao gồm GDP bình quân đầu
ngƣời, % trong GDP của giá trị gia tăng ngành nông nghiệp, xuất khẩu, % trong
GNI của viện trợ và nợ, độ ổn định chính trị, ổn định kinh tế, tham nhũng, luật
pháp, ổn định của chính phủ và thuế suất trung bình. Bằng các phƣơng pháp

Difference - Generalized Method of Moments (Difference-GMM) và System Generalized Method of Moments (System-GMM), nghiên cứu xác định rằng các
biến cấu trúc nhƣ GDP bình quân đầu ngƣời, tỷ trọng nông nghiệp/GDP, độ mở
thƣơng mại và viện trợ nƣớc ngoài tác động mạnh tới số thu thuế. Nợ nƣớc ngoài
không có tác động đáng kể tới số thu thuế trong khi tham nhũng tác động mạnh tới
số thu thuế. Ngoài ra, nghiên cứu còn phát hiện ra rằng các quốc gia phụ thuộc vào
thuế hàng hóa và dịch vụ có số thu thuế khá thấp, trong khi các quốc gia dựa vào
thuế thu nhập, thuế lợi tức có số thu thuế tốt hơn rất nhiều. Báo cáo cũng sử dụng
chỉ số hiệu quả thu thuế và nhận thấy rằng trong khi một số quốc gia châu Phi thuộc
Tiểu vùng Sahara đang hoạt động tốt hơn tiềm năng của mình trong việc thu thuế thì
một số nền kinh tế Mỹ Latinh lại thiếu khả năng thu thuế.
Bird, Martínez-Vázquez và Torgler (2008), tiến hành nghiên cứu để trả lời câu
hỏi “Các quốc gia kém phát triển có thể học hỏi cách đánh thuế không?”. Nền tảng
của câu hỏi này là giả định rằng nếu một nƣớc muốn trở thành “phát triển”, nó cần
thu thuế ở mức gần 25-30% GDP so với 10-15% ở nhiều nƣớc đang phát triển. Sử
dụng mô hình OLS, 2SLS với biến phụ thuộc thể hiện nỗ lực thu thuế của các quốc
gia đƣợc đo lƣờng bằng tỷ trọng số thu thuế trong GDP, biến độc lập gồm các yếu
tố GDP bình quân đầu ngƣời, tỷ trọng các ngành không phải nông nghiệp trong
GDP, các chỉ số đo lƣờng tiếng nói/ trách nhiệm giải trình và tham nhũng, biến
dummy để phân biệt các nƣớc Mỹ Latinh và các nƣớc đang phát triển khác. Báo cáo
chỉ ra rằng để cải thiện khả năng thu thuế, việc cải thiện tham nhũng, tiếng nói của
chính quyền và trách nhiệm giải trình có thể không mất nhiều thời gian và cũng
không khó khăn hơn là thay đổi cơ hội để xử lý thuế và cơ cấu kinh tế. Báo cáo
cũng kết luận các nƣớc có thu nhập cao có tiềm năng cải thiện hiệu quả thuế thông
qua cải thiện thể chế của mình. Sự đóng góp quan trọng của bài báo này là mở rộng


8

mô hình áp dụng thuế thông thƣờng bằng cách cho thấy rằng các yếu tố tham
nhũng, tiếng nói của chính quyền và trách nhiệm giải trình cũng xác định nỗ lực về

thuế ở mức độ đáng kể.
Mahdavi (2008) lập luận rằng cải cách thuế ở các nƣớc đang phát triển nhất thiết
phải bao gồm việc thay đổi mức thu nhập và/hoặc thành phần thuế. Theo lập luận
này, tác giả áp dụng các mô hình cho tổng số thu thuế và các thành phần của nó và
sử dụng dữ liệu bảng không cân bằng của các nƣớc đang phát triển trong giai đoạn
1973-2002. Phát hiện chung cho thấy một số biến số ảnh hƣởng đến cả mức độ và
thành phần của tổng số thu thuế nhƣ quy mô của khu vực thƣơng mại quốc tế, tỷ lệ
dân số đô thị, tỷ lệ ngƣời lớn biết đọc biết viết, thu nhập bình quân đầu ngƣời, sự
gia tăng dòng chảy viện trợ, phần trăm dân số “già”, mật độ dân số, mức độ tiền tệ
hóa và tỷ lệ lạm phát. Trong khi đó, một số biến khác nhƣ phạm vi hoạt động kinh
tế của phụ nữ, mức độ bất ổn về kinh tế, cấp độ dân chủ và mức độ tham nhũng ảnh
hƣởng đến các thành phần của số thu thuế theo các hƣớng ngƣợc lại, làm cho hiệu
quả thuần của các biến này lên số thu không có ý nghĩa thống kê. Sự khác biệt này
nhấn mạnh sự cần thiết trong việc lựa chọn các công cụ chính sách có thể ảnh
hƣởng đến các loại thuế riêng lẻ.
Pessino và Fenochietto (2010) trình bày một mô hình để xác định nỗ lực thuế và
khả năng thu thuế của 96 quốc gia và các yếu tố chính mà hai biến này phụ thuộc
vào. Tác giả sử dụng phƣơng pháp Maximum Likelihood Method cho 96 quốc gia
qua 16 năm, từ 1991 đến 2006. Biến đƣợc giải thích là tổng số thu thuế tính theo
phần trăm GDP đƣợc lấy từ World Bank. Các biến giải thích đƣợc lấy dữ liệu từ
World Bank và các nguồn đáng tin cậy khác, bao gồm: mức độ phát triển (GDP
bình quân đầu ngƣời), độ mở thƣơng mại (nhập khẩu và xuất khẩu theo phần trăm
GDP), tính dễ dàng trong việc thu thuế (giá trị gia tăng của nông nghiệp so với
GDP), trình độ giáo dục (chi tiêu công cho giáo dục theo phần trăm GDP), phân
phối thu nhập (hệ số GINI), lạm phát (chỉ số tiêu dùng CPI), tính không hiệu quả
trong việc thu thuế (chỉ số nhận thức tham nhũng TICPI). Kết quả nghiên cứu cho


9


phép các tác giả xác định rõ các quốc gia nào đang ở gần khả năng thu thuế và quốc
gia nào đang có khoảng cách xa so với tiềm năng thu thuế của mình và do đó vẫn
còn cơ hội tăng số thu thuế trong tƣơng lai. Nghiên cứu cũng chứng minh đƣợc các
phân tích trƣớc đây về mối quan hệ tích cực và quan trọng giữa số thu thuế tính theo
phần trăm trên GDP và mức độ phát triển, thƣơng mại và giáo dục. Nghiên cứu
cũng cho thấy mối quan hệ tiêu cực giữa thuế và lạm phát, phân phối thu nhập, tính
dễ thu thuế và tham nhũng.
Dioda (2012) nghiên cứu với mục đích là để mở rộng phạm vi thực nghiệm tìm
hiểu các nhân tố cấu trúc và dài hạn của số thu thuế bằng cách áp dụng mô hình
chuẩn cho các nƣớc Mỹ Latinh và Caribbean. Thông qua các phƣơng pháp kinh tế
lƣợng trên dữ liệu bảng, bài viết đánh giá ý nghĩa thống kê của một số nhân tố tiềm
năng tác động đến số thu thuế trên GDP, sử dụng dữ liệu từ 32 nƣớc Mỹ Latinh
trong giai đoạn 1990-2009. Phân tích định lƣợng tập trung chủ yếu vào việc kiểm
định các biến liên quan đến chính trị và lịch sử để hiểu đƣợc sự khác nhau trong số
thu thuế giữa các vùng. Biến phụ thuộc của mô hình bao gồm tổng số thu thuế theo
% của GDP, số thuế trực thu theo % GDP, số thuế gián thu theo % GDP. Các biến
độc lập gồm các biến kinh tế nhƣ GDP bình quân đầu ngƣời, tỷ lệ tăng trƣởng GDP
bình quân đầu ngƣời, % nông nghiệp trong GDP, độ mở thƣơng mại, thâm hụt các
năm trƣớc; các biến xã hội và nhân khẩu học nhƣ giáo dục trung học, % dân số trên
65 tuổi, tỷ lệ phụ nữ tham gia lực lƣợng lao động, tỷ lệ thành thị, mật độ dân số, tốc
độ tăng dân số, kinh tế ngầm; các biến thể chế nhƣ quyền tự do dân sự, quyền chính
trị, độ bền của chế độ, xung đột bên trong và xung đột bên ngoài, biến dummy xác
định liệu quốc gia có phải thuộc địa cũ của Anh và Hà Lan không. Kết quả chỉ ra
rằng các biến GDP bình quân đầu ngƣời và độ mở thƣơng mại có tác động đồng
biến đến số thu thuế và có ý nghĩa thống kê. Trong khi biến % nông nghiệp trong
GDP và quy mô kinh tế ngầm có tác động nghịch biến có ý nghĩa. Các biến nhân
khẩu học và xã hội có ý nghĩa thống kê bao gồm sự tham gia của lực lƣợng lao động
nữ, thành phần độ tuổi của dân số, trình độ học vấn cũng nhƣ mật độ dân số. Với
yếu tố thể chế, độ bền của chế độ và tự do công dân có tác động đồng biến với tổng



10

số thu thuế/GDP, trong khi quyền chính trị lại có tƣơng quan thuận mạnh với thuế
trực thu. Hơn nữa, tác giả cũng phát hiện ra rằng các yếu tố lịch sử và thể chế có thể
giải thích đƣợc sự khác nhau về thuế giữa các vùng.
Nguyễn Phi Khanh (2013) sử dụng dữ liệu bảng cho 7 quốc gia Đông Nam Á giai
đoạn từ 2000 đến 2012. Biến phụ thuộc đƣợc xem xét là số thu thuế/GDP, các biến
giải thích bao gồm thu nhập bình quân đầu ngƣời, độ mở thƣơng mại, tỷ trọng
ngành nông nghiệp, tỷ trọng ngành công nghiệp và lạm phát. Thông qua ƣớc lƣợng
OLS, Fixed effects và Random effects, tác giả đƣa ra kết luận: biến thu nhập bình
quân đầu ngƣời và độ mở thƣơng mại có ý nghĩa thống kê và là các nhân tố có ảnh
hƣởng đáng kể đến tổng số thu thuế. Tỷ trọng ngành nông nghiệp, tỷ trọng ngành
công nghiệp và lạm phát không tác động đến tổng số thu thuế/GDP.
Castro và Camarillo (2014) bằng cách sử dụng kỹ thuật dữ liệu bảng tĩnh và bảng
động, các tác giả phân tích tác động của kinh tế, cơ cấu sản xuất, thể chế và các yếu
tố xã hội đến số thu thuế, nghiên cứu trên 34 quốc gia thuộc tổ chức Hợp tác và phát
triển kinh tế OECD, giai đoạn 2001-2011. Biến phụ thuộc trong mô hình là số thu
thuế theo % GDP, các biến giải thích bao gồm: giá trị trễ một kì của số thu thuế
theo % GDP, mức độ phát triển (GDP bình quân đầu ngƣời), độ mở thƣơng mại
(nhập khẩu và xuất khẩu theo phần trăm GDP), đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài (đầu tƣ
trực tiếp nƣớc ngoài trên tổng vốn cố định), % giá trị gia tăng ngành công nghiệp
trong GDP, % giá trị gia tăng ngành nông nghiệp trong GDP, quyền chính trị và các
quyền tự do cơ bản của công dân (nguồn dữ liệu từ Freedom House), tuổi thọ trung
bình, tỷ lệ đi học gộp, tỷ lệ tử vong ở trẻ em. Thông qua phƣơng pháp DGMM và
System-GMM, kết quả cho thấy thu nhập bình quân đầu ngƣời, khu vực công
nghiệp, dân chủ và các quyền tự do cơ bản của công dân có tác động tích cực lên
biến phụ thuộc, trong khi khu vực nông nghiệp và đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài lại có
tác động tiêu cực. Độ trễ của biến phụ thuộc cho thấy mối quan hệ đồng biến và ảnh
hƣởng của nó lớn hơn ở các nƣớc có thu nhập cao. Tác giả cũng nghiên cứu nỗ lực

thu thuế và khoảng cách về thuế và nhận thấy các chỉ số này ổn định theo thời gian


11

nhƣng khác nhau giữa các quốc gia bất kể trình độ phát triển của các nền kinh tế.
Bùi Thị Mai Hoài và Nguyễn Thanh Hùng (2016) với mục tiêu đánh giá tác động
của các yếu tố kinh tế, cấu trúc, thể chế và xã hội đến số thu thuế ở các quốc gia có
thu nhập trung bình, tác giả sử dụng dữ liệu của 50 quốc gia có thu nhập trung bình
trong giai đoạn 2000-2013 và ƣớc lƣợng bằng phƣơng pháp GMM sai phân. Kết
quả ƣớc lƣợng phát hiện trình độ phát triển của quốc gia, độ mở thƣơng mại, chỉ số
về quyền chính trị có tác động tích cực đến số thu thuế, trong khi giá trị gia tăng của
khu vực nông nghiệp và chỉ số về quyền tự do dân chủ lại có tác động tiêu cực. Kết
quả này có ý nghĩa đối với việc thiết kế chính sách tài khóa ở các quốc gia có thu
nhập trung bình.
Mặc dù nghiên cứu của tác giả chủ yếu dựa trên nghiên cứu của Castro và
Camarillo (2014) và có sự tƣơng đồng với nghiên cứu của các tác giả Bùi Thị Mai
Hoài và Nguyễn Thanh Hùng (2016), tuy nhiên, vẫn có một số điểm khác biệt.
Trƣớc tiên, nghiên cứu đƣợc tiến hành riêng cho các quốc gia có thu nhập trung
bình thấp, một số biến độc lập đƣợc thêm vào mô hình nhƣ lạm phát, viện trợ và nợ
công. Tiếp theo, kết quả nghiên cứu cho thấy đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài, giá trị gia
tăng ngành công nghiệp trong GDP, các biến về xã hội và các biến đƣợc thêm vào
đều có tác động đến biến phụ thuộc. Trong khi các biến này lại không có ý nghĩa
thống kê trong mẫu 50 nƣớc thu nhập trung bình của các tác giả Bùi Thị Mai Hoài
và Nguyễn Thanh Hùng (2016).
Nhƣ vậy đa phần các nghiên cứu thực nghiệm trƣớc đây đều tìm ra các bằng chứng
chứng minh mối quan hệ giữa số thu thuế của các quốc gia và các yếu tố mức độ
phát triển, độ mở thƣơng mại và tự do hóa tài chính, sự dễ dàng trong việc thu thuế,
thể chế chính trị và tham nhũng, các yếu tố thuộc về an sinh xã hội,… Ngoài ra, các
nhà nghiên cứu trƣớc đây cũng khám phá nỗ lực thu thuế và tiềm năng thuế của các

quốc gia, kết hợp các hiểu biết này để đề xuất các biện pháp giúp tăng thu thuế cho
cơ quan quản lý các quốc gia.


12

2.2 Một số yếu tố ảnh hƣởng đến số thu thuế
Thông qua xem xét các nghiên cứu thực nghiệm đã đƣợc tiến hành trong giai đoạn
trƣớc đây, có thể tóm tắt và phân loại lại các yếu tố có tác động đến số thu
thuế/GDP vào các nhóm: nhóm các yếu tố kinh tế, nhóm các yếu tố thể chế, nhóm
các yếu tố xã hội và nhân khẩu học và các yếu tố khác.
2.2.1 Các yếu tố kinh tế
GDP bình quân đầu ngƣời đại diện cho mức độ phát triển của một quốc gia và
đƣợc kì vọng là một chỉ báo tốt về mức độ phát triển kinh tế tổng thể và tính phức
tạp của cấu trúc kinh tế. Mức độ phát triển cao hơn đi kèm với khả năng chi trả và
thu thuế cao hơn (Chelliah, 1971; Bahl, 1971). Hơn nữa, nhu cầu về các dịch vụ của
chính phủ có tính đàn hồi, do đó, tỷ trọng hàng hoá và dịch vụ do chính phủ cung
cấp sẽ tăng cùng với thu nhập (Gupta, 2007). Nhìn chung, chúng ta mong đợi mối
quan hệ thuận chiều hay tích cực giữa thu nhập bình quân đầu ngƣời và mức độ nỗ
lực về thuế hay số thu thuế. Tuy nhiên, một số nghiên cứu trƣớc đây cũng tìm ra
mối quan hệ ngƣợc chiều giữa biến này và nỗ lực thuế (Teera, 2002; Alm và
Martinez-Vazquez, 2003b).
Độ mở thƣơng mại đƣợc đo bằng tỷ trọng xuất khẩu và nhập khẩu - cũng là một
yếu tố tác động tới hiệu suất thu. Nhập khẩu và xuất khẩu có thể chịu thuế khi
chúng đƣợc thực hiện tại các địa điểm cụ thể. Tác động của tự do hoá thƣơng mại
đối với việc huy động nguồn thu có thể không rõ ràng. Việc mở cửa thị trƣờng đòi
hỏi phải giảm thuế và các rào cản thƣơng mại và thực tế này có thể có tác động tiêu
cực đến việc thu thuế (Baunsgaard và Keen, 2010). Tuy nhiên trái lại, nó có thể có
tác động tích cực do việc áp dụng thuế nhập khẩu, ngoài ra, khi mở rộng thƣơng
mại, thì tính chính thức và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế sẽ tăng lên và do đó,

tăng khả năng thu thuế. Mặt khác, doanh thu có thể tăng lên nếu tự do hóa thƣơng
mại xảy ra thông qua việc hạn chế miễn thuế, giảm thuế quan và cải cách thủ tục hải
quan (Keen và Simone, 2004). Sự tƣơng quan tích cực mạnh mẽ giữa sự mở cửa
thƣơng mại với quy mô của chính phủ cũng đƣợc phát hiện, vì xã hội dƣờng nhƣ


13

đòi hỏi (và nhận) một vai trò mở rộng hơn của chính phủ trong việc cung cấp bảo
hiểm xã hội ở các nền kinh tế mở phụ thuộc vào các rủi ro bên ngoài (Rodrik,
1998).
Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài có thể tác động tới nỗ lực thuế theo hai chiều hƣớng.
Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài đƣợc kỳ vọng là có tác động tiêu cực, vì các quốc gia
có thể tạo ra các ƣu đãi tài chính để thu hút nguồn vốn đầu tƣ nƣớc ngoài (Cassou,
1997; Martin-Mayoral và Uribe, 2010). Từ một góc nhìn khác, yếu tố này có thể có
tác động tích cực, nhƣ là dòng vốn FDI làm tăng khả năng cạnh tranh và tính chính
thức của nền kinh tế (Gugler và Brunner, 2007).
Chuyên môn hóa sản xuất bao gồm tỷ trọng giá trị gia tăng của nông nghiệp
trong GDP và tỷ trọng giá trị gia tăng của công nghiệp trong GDP. Thành phần
ngành của sản phẩm trong nƣớc cũng có thể ảnh hƣởng đến khả năng thuế vì một số
lĩnh vực nhất định của nền kinh tế dễ dàng nộp thuế hơn các ngành khác. Ví dụ,
ngành nông nghiệp có thể gặp khó khăn trong việc thu thuế, đặc biệt là nếu nó bị chi
phối bởi một số lƣợng lớn nông dân tự cung tự cấp. Một số ngƣời cho rằng ngành
nông nghiệp không khó khăn về thuế (Bahl, 2003), nhƣng tầm quan trọng tƣơng đối
lớn của nó trong nền kinh tế của một quốc gia càng làm giảm nhu cầu chi tiêu cho
các hoạt động và dịch vụ của chính phủ, vì nhiều hoạt động của khu vực công là ở
thành phố (Tanzi, 1992). Ngoài ra, vì lý do chính trị, một số nƣớc đƣợc miễn thuế
một phần lớn các hoạt động nông nghiệp.
Ngƣợc lại, chuyên môn hóa sản xuất các ngành công nghiệp thì đƣợc kỳ vọng là có
tác động tích cực trong việc thu thuế vì các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp

thƣờng dễ dàng thu thuế và sản xuất tạo ra mức thu nhập chịu thuế lớn hơn so với
ngành nông nghiệp (Eltony, 2002).
Tỷ giá hối đoái: Một số giả thuyết rộng rãi về mối quan hệ giữa các biến số kinh tế
vĩ mô, bao gồm lạm phát, tỷ giá và số thu thuế cho rằng có mối quan hệ nghịch biến
giữa số thu thuế của một quốc gia và tỷ giá thực chính thức. Đồng nội tệ bị định giá
quá cao có ảnh hƣởng trực tiếp vì nó thu hẹp cơ sở đánh thuế xuất nhập khẩu dựa


14

trên các điều khoản quy định bằng đồng nội tệ. Điều này làm giảm thu thuế trên
hoạt động thƣơng mại quốc tế, thuế trên doanh thu và thuế tiêu thụ đặc biệt, thƣờng
đƣợc đánh vào tiêu dùng trong nƣớc và nhập khẩu. Việc định giá quá mức cũng có
những tác động gián tiếp vì nó giảm bớt sự khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu,
khuyến khích đầu tƣ vốn và thay thế đồng tiền, làm suy yếu cán cân thanh toán,
khuyến khích thị trƣờng chợ đen và khuyến khích các hạn chế thƣơng mại (Tanzi,
1989).
Lạm phát thƣờng đƣợc sử dụng làm đại diện cho chính sách tiền tệ và tài khóa mở
rộng. Những thay đổi trong môi trƣờng chính sách kinh tế vĩ mô đóng một vai trò
quan trọng trong việc nâng cao thu nhập từ thuế, lạm phát là một minh chứng tốt
đƣợc sử dụng để đo lƣờng môi trƣờng chính sách kinh tế vì nó nắm bắt đƣợc tác
động của chính sách kinh tế vĩ mô. Có khá nhiều các tài liệu liên quan đến tác động
của lạm phát đối với thuế. Một số tài liệu trƣớc đây cho thấy rằng lạm phát cao làm
tăng tỷ lệ thuế trên GDP, nhƣng các tài liệu gần đây cho thấy lạm phát có tác động
đồng biến hoặc nghịch biến còn phụ thuộc vào độ trễ. Sự kết hợp của lạm phát cao,
độ trễ trung bình trong thu thuế và độ co dãn thấp của hệ thống thuế dẫn đến sự sụt
giảm mạnh về doanh thu thực tế khi lạm phát xảy ra (Tanzi, 1977).
2.2.2 Các yếu tố về thể chế
Tham nhũng: Để giải thích những khác biệt về tỷ lệ thuế, chúng ta cũng cần tính
đến các yếu tố nhƣ quản trị và mức độ tham nhũng. Nếu ngƣời nộp thuế tin rằng họ

đang sống trong một quốc gia mà tham nhũng tràn lan và ít có lòng tin vào cơ quan
có thẩm quyền thì sự sẵn sàng bỏ phiếu cho mức thuế cao hơn và tuân thủ nghĩa vụ
thuế của họ sẽ giảm xuống (Bird et al, 2008).
Quyền tự do dân sự: Chỉ số tự do dân sự đo lƣờng mức độ tự do ngôn luận và tín
ngƣỡng của tổ chức, cộng đồng. Nó có thể đƣợc xem nhƣ là một thƣớc đo cả về luật
pháp, và cũng có thể là quyền tự trị cá nhân mà không bị can thiệp từ nhà nƣớc. Nó
cũng đại diện cho mức độ tham nhũng vì việc cải thiện tự do dân sự của một quốc


15

gia nên gắn liền với việc giảm tham nhũng, tăng sự minh bạch và trách nhiệm giải
trình trong khu vực công (Mahdavi, 2008).
Quyền chính trị: Chỉ số quyền chính trị thể hiện các đặc quyền pháp lý cho phép
công dân tham gia tự do vào chính trị thông qua quyền bỏ phiếu và quyền đƣợc ứng
cử cho văn phòng chính phủ và các quyền chính trị.
Hai chỉ số trên đƣợc kỳ vọng là có tác động tích cực đến nguồn thu thuế bởi vì ở
những quốc gia có chỉ số cao về quyền dân chủ và tự do, ngƣời nộp thuế có nhận
thức tốt hơn về chính phủ của họ và do đó, họ thiện chí chấp hành các quy định nộp
thuế, tuân thủ tốt hơn và trốn thuế ít hơn. Ngoài ra, sự ổn định trong chính sách và
sự tin tƣởng vào một môi trƣờng xã hội tốt tạo ra một môi trƣờng tốt hơn cho các
hoạt động của nền kinh tế và sự sáng tạo trong kinh doanh (Castro và Camarillo,
2014).
Tiếng nói của chính quyền: Nếu ngƣời đóng thuế nhận thức rằng quyền lợi của họ
đƣợc thể hiện đúng đắn trong các thể chế chính trị có tiếng nói có ý nghĩa trong việc
ảnh hƣởng đến nhà nƣớc, họ sẵn sàng đóng góp vào tăng trƣởng (Bird et al, 2008).
Chỉ số độ bền của chế độ cho thấy số năm mà một chế độ lên nắm quyền hoặc kết
thúc một giai đoạn chuyển tiếp không có thể chế chính trị ổn định. Chỉ số bắt đầu
đƣợc xác định kể từ năm đầu tiên có một chính quyền mới lên nắm quyền và mỗi
năm sau đó sẽ tiếp tục đƣợc đếm nếu chính quyền này còn tồn tại. Chỉ số này càng

cao thì khả năng thu thuế càng cao vì thể chế có thời gian kéo dài là thể chế đáng tin
cậy (Dioda, 2012)
Chỉ số chất lƣợng quản lý (Kaufmann et al, 2003) thể hiện giá trị trung bình của
sáu khía cạnh quản lý. Chỉ số dựa trên hàng trăm biến số đo nhận thức về quản lý và
lấy từ 25 nguồn dữ liệu khác nhau. Sáu tiêu chí quản trị đƣợc phân loại thành ba
nhóm nhƣ sau:


16

i) Quá trình theo đó các chính phủ đƣợc lựa chọn, theo dõi và thay thế:
-

Tiếng nói và trách nhiệm: đo lƣờng tiến trình chính trị, tự do dân sự, và các
quyền chính trị.

-

Ổn định chính trị và vấn đề bạo hành: đánh giá các khả năng chính phủ sẽ bị mất
ổn định / lật đổ.

ii) Năng lực của chính phủ để có thể xây dựng và thực hiện các chính sách lành
mạnh một cách hiệu quả:
-

Tính hiệu quả của chính phủ: các đầu vào cần thiết cho chính phủ để có thể thiết
lập và thực hiện tốt chính sách và cung cấp hàng hóa công.

-


Chất lƣợng điều hành: tập trung nhiều hơn vào các chính sách, chẳng hạn nhƣ tỷ
lệ các chính sách thân thiện / không thân thiện với thị trƣờng, nhận thức về gánh
nặng do việc áp đặt các quy định quá mức.

iii) Sự tôn trọng của công dân và nhà nƣớc đối với các thể chế chi phối các tƣơng
tác kinh tế và xã hội:
-

Luật pháp: một số chỉ số đo mức độ tự tin của một cá nhân trong việc tuân thủ
các quy tắc của xã hội. Các chỉ số này đo sự thành công của một xã hội trong
việc phát triển một môi trƣờng, trong đó các quy tắc công bằng và có thể dự
đoán đƣợc tạo thành nền tảng cho các tƣơng tác kinh tế và xã hội (Kaufmann et
al, 2003).

-

Kiểm soát tham nhũng: đánh giá tham nhũng (thực thi quyền lực công cộng vì
lợi ích cá nhân).

Tất cả các chỉ số trên có giá trị từ -2.5 đến 2.5, với giá trị cao hơn tƣơng đƣơng thể
chế tốt hơn và thuế thu đƣợc nhiều hơn.


17

Hƣớng dẫn Quốc tế về Rủi ro Quốc gia (ICRG) (Knack, 1999). ICRG cung cấp
một bộ dữ liệu thay thế cho Chỉ số chất lƣợng quản lý, đặc biệt chú trọng vào các
khía cạnh ảnh hƣởng đến các quyết định đầu tƣ nƣớc ngoài. Dữ liệu chứa các giá trị
hàng năm cho các chỉ số về chất lƣợng quản lý, đƣợc xây dựng bởi Stephen Societal
và IRIS Centre, Đại học Maryland và The PRS Group. Đáng quan tâm nhất trong bộ

dữ liệu này là Các Thành phần Rủi ro Chính trị. Các yếu tố cấu thành nên Các
Thành phần Rủi ro Chính trị bao gồm Tham nhũng trong chính phủ, Luật pháp,
Mức độ quan liêu, Căng thẳng sắc tộc, Sự từ chối các yêu cầu của chính phủ, Rủi ro
quốc hữu hóa. Số điểm cao hơn cho thấy nguy cơ tiềm ẩn thấp hơn. Hầu hết các giá
trị nằm trong khoảng từ 1 đến 6 (ngoại trừ: Rủi ro quốc hữu hóa và Sự từ chối các
yêu cầu của chính phủ nằm trong khoảng từ 1 đến 10).
Hai yếu tố Chỉ số chất lƣợng quản lý và ICRG đã đo lƣờng phần nào “tiếng nói”
của chính quyền và nói chung là chất lƣợng phản hồi của chính phủ đối với yêu cầu
của ngƣời dân. Hai yếu tố này đều có tác động tới nỗ lực thu thuế và có thể đƣợc sử
dụng thay thế cho nhau (Bird et al, 2004).
Phân cấp tài khóa: mức độ nỗ lực về thuế cũng có thể phụ thuộc vào cơ cấu theo
chiều dọc của chính phủ, đặc biệt là mức độ phân cấp về tài chính. Thứ nhất, một hệ
thống phân quyền của chính phủ có xu hƣớng đáp ứng tốt hơn nhu cầu và mong
muốn của ngƣời đóng thuế (Oates, 1972). Một chính phủ có hiệu quả và đáp ứng tốt
ở tất cả các cấp có thể dẫn đến sự sẵn sàng đóng góp, sự gia tăng nhu cầu về chi tiêu
công và mức độ tự nguyện cao hơn về thuế. Mặt khác, một hệ thống phân cấp buộc
chính phủ phải hạn chế khai thác cơ sở thuế và cắt giảm chi tiêu công vì ngƣời nộp
thuế có thể lựa chọn sinh sống ở các khu vực có mức chi tiêu và thuế thấp hơn và
các khu vực này có thể phải cạnh tranh với nhau để giữ thuế và chi tiêu thấp
(Brennan và Buchanan, 1980). Một số bằng chứng thực nghiệm cho thấy rằng mức
độ phân cấp cao hơn dẫn đến mức chi tiêu công thấp hơn (Arze et al, 2004.). Hơn
nữa, việc phân quyền có thể khuyến khích các chính phủ dựa nhiều vào phí, lệ phí
của ngƣời sử dụng (Feld et al, 2003), và phí, lệ phí nhƣ vậy có thể không đƣợc ghi


×