Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

phân tích nội dung quyền trẻ em theo luật quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.68 KB, 20 trang )

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN
CON NGƯỜI
Đề tài 9:Phân tích nội dung quyền trẻ em theo luật quốc tế
và liên hệ thực tiễn pháp luật ở Việt Nam hiện nay
Họ và tên : ĐINH HOÀNG PHƯƠNG THẢO
Lớp

: K5B

MSSV

: 173801010082
Hà Nội, 2019


A. MỞ ĐẦU
Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai. Là lứa tuổi quyết định tương lai thịnh hay
suy của mỗi quốc gia, trẻ em luôn cần được quan tâm, giáo dục để có thể phát triển
một cách bình thường nhất. Năm 1924 Tuyên bố Gionevo đã nêu : “ Mọi dân tộc có
trách nhiệm tạo cho trẻ em điều tốt đẹp nhất, tuyên bố và chấp nhận đó là nhiệm vụ
của mình, vượt lên trên mọi sự quan tâm về chủng tộc, quốc tịch và nòi giống”.
Bên cạnh đó, Liên hợp quốc xây dựng và thông qua Công ước về quyền trẻ em
(CRC – Convention on the Rights of the Child), một văn kiện quốc tế cơ bản và
toàn diện nhất về quyền trẻ em, với bốn nguyên tắc cơ bản làm nền tảng: Trẻ em
cũng là những con người; không phân biệt đối xử; lợi ích tốt nhất dành cho trẻ em;
tôn trọng ý kiến, quan điểm của trẻ em. Sự ra đời của Công ước này có ý nghĩa to
lớn đối với sự phát triển của trẻ em, góp phần bảo vệ trẻ em trên toàn thế giới, tạo


điều kiện cho trẻ em được phát triển một cách đầy đủ trong bầu không khí lành
mạnh, hạn chế tiếp xúc với những tác nhân xấu trong xã hội.
Việt Nam là quốc gia luôn nhận thức sâu sắc được ý nghĩa và vai trò của trẻ
em đối với đất nước, Nhà nước và toàn xã hội có trách nhiệm đối với việc tăng
cường đầu tư cho trẻ, tạo ra thế hệ trẻ đầy năng lực, đầy hiểu biết để cống hiến cho
quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam là quốc gia thứ hai tham gia Công
ước quốc tế về Quyền trẻ em và cam kết thực hiện kế hoạch hành động vì trẻ em
ngay từ thập niên 90 thế kỷ trước.
Hiểu được tầm quan trọng của quyền trẻ em hiện nay, trong phạm vi bài tiểu
luận, em xin được phép nghiên cứu đề tài số 9: Phân tích nội dung quyền trẻ em
theo luật quốc tế, liên hệ thực tiễn với pháp luật ở Việt Nam từ đó nêu ra thực
trạng cùng một số kiến nghị hoàn thiện.


B. NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN TRẺ EM
1. Khái niệm về trẻ em
Theo pháp luật quốc tế, trẻ em là những người dưới 18 tuổi ( Điều 1 Công ước
quốc tế về quyền trẻ em ). Công ước giải thích rõ thêm về định nghĩa này bằng cách
nhắc lại điều đã nêu trong tuyên ngôn về quyền trẻ em năm 1959 “ Trẻ em do còn
non nớt về thể chất và trí tuệ, cần phải được bảo vệ chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo
vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời.”
Theo pháp luật Việt Nam : “ Trẻ em là công dân dưới 16 tuổi” ( Điều 1 Luật
BVCS và GDTE). Độ tuổi được coi là trẻ em trong pháp luật Việt Nam thấp hơn so
với quy định trong Điều 1 CRC. Tuy nhiên điều này không bị coi là trái với CRC vì
Điều 1 Công ước này cho phép các quốc gia thành viên quy định độ tuổi được coi
là trẻ em thấp hơn 18 tuổi.
Như vậy, trẻ em trước hết là một con người được hưởng mọi quyền tự do đã
được nêu ra trong các công ước quốc tế về quyền con người mà không bị bất cứ
một sự phân biệt đối xử nào. Trẻ em là những người chưa trưởng thành nên có

quyền được chăm sóc sự sống, phát triển, được bảo vệ và bày tỏ ý kiến. Đặc biệt là
đối với trẻ có hoàn cảnh đặc biệt
2. Khái niệm quyền trẻ em
“Quyền” là những đòi hỏi cơ bản và chính đáng của con người phải được
hưởng hoặc có thể được làm. Quyền được công nhận về mặt pháp lý, chúng ta đòi
hỏi quyền cho bản than và những người khác cũng có quyền đòi hỏi cho bản thân
họ. Vì thế tất cả mọi người đều có nghĩa vụ đáp lại tương ứng.


Quyền trẻ em là tất cả những gì trẻ em cần có để được sống và lớn lên một
cách lành mạnh và an toàn. Các em có quyền được sống, trưởng thành, phát triển
mạnh khỏa và hạnh phúc, trong tình yêu thương của cha mẹ, gia đình và cộng đồng.
Người lớn trước hết là cha mẹ có trách nhiệm thực hiện các Quyền trẻ em được
pháp luật quy định.
Công ước về quyền trẻ em gồm 54 điều khoản trong đó nêu bật bốn nguyên
tắc cơ bản về quyền trẻ em xuyên suốt toàn bộ công ước, bao gồm :
- Không phân biệt đối xử trong việc đảm bảo thực hiện tất cả các quyền trẻ
em.
- Trẻ em có quyền xác lập, thể hiện ý kiến riêng của mình và quyền đó phải
được tôn trọng.
- Dành những lợi ích đẹp nhất cho trẻ em.
Trên cơ sở những nguyên tắc trên, trẻ em bao gồm 4 nhóm quyền : Quyền
sống còn, Quyền bảo vệ, Quyền phát triển và Quyền tham gia.
Như vậy, Quyền trẻ em chính là quyền con người được cụ thể hóa cho phù
hợp với nhu cầu, đặc trưng phát triển và tính chất cuộc sống trẻ em. Đó là những
quyền mà trẻ em được hưởng, được làm, được tôn trọng và thực hiện nhằm bảo
đảm bảo sự sống còn, tham gia và phát triển toàn diện. Quyền trẻ em chính là biện
pháp nhằm bảo đảm cho các em không những được hưởng quyền lợi từ các quyền
mà còn trở thành chủ thể của chính các quyền đó.
II. QUYỀN TRẺ EM TRONG LUẬT PHÁP QUỐC TẾ VÀ VIỆT NAM

1. Pháp luật quốc tế về quyền trẻ em:
a. Nội dung CRC – văn kiện quốc tế cơ bản và toàn diện nhất về quyền
trẻ em


Sự ra đời của khái niệm quyền trẻ em đã mở rộng cơ sở của các hoạt động bảo
vệ trẻ em từ các khía cạnh đạo đức, xã hội sang khía cạnh pháp lý. Sau khi thành
lập, Liên Hợp Quốc đưa ra các vấn đề về quyền trẻ em lên một bước ngoặt mới.
Theo đó, trẻ em được thừa nhận là chủ thể bình đẳng với người lớn trong việc
hưởng tất cả quyền và tự do cơ bản được ghi nhận trong nhân quyền quốc tế.
Năm 1959, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua văn kiện riêng về
quyền trẻ em ( Tuyên bố của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em). Tuyên bố này là
tiền đề để Liên Hợp Quốc xây dựng và thông qua Công ước về quyền trẻ em
( Convention on the Rights of the Child, CRC) vào ngày 20-11-1989. Tính đến thời
điểm hiện nay, CRC là văn kiện quốc tế cơ bản và toàn diện nhất về quyền trẻ em.
Ngoài văn bản trên, còn có nhiều văn kiện khác, trong đó tiêu biểu là hai Nghị định
thư không bắt buộc bổ sung Công ước về sử dụng trẻ em trong các cuộc xung đột
vũ trang và về buôn bán trẻ em, bóc lột và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em...
CRC là điều ước Quốc tế về quyền con người của Liên Hợp Quốc có số lượng
quốc gia thành viên tham gia cao nhất từ trước đến nay. Tư tưởng xuyên suốt và
cũng là thể hiện cách tiếp cận của Công ước là:
Thứ nhất, trẻ em là những chủ thể của các quyền và của quá trình phát triển
chứ không phải là đối tượng hưởng sự quan tâm, lòng thương hại hay lòng từ thiện
thuần túy.
Thứ hai, trẻ em là những con người nhưng là một nhóm xã hội dễ bị tổn
thương, có những nhu cầu đặc biệt và có quyền được hưởng sự chăm sóc, bảo vệ
một cách đặc biệt.
Cách tiếp cận kể trên của CRC bảo đảm thái độ và hành động có trách nhiệm
của mọi chủ thể trong các vấn đề liên quan đến trẻ em. Nó khác với những cách



tiếp cận dựa trên tình thương, lòng nhân đạo, sự che chở hay cào bằng vị thế trẻ em
và người lớn mà đã phổ biến trong các xã hội trước đó.
Về nội dung, so với các văn kiện trước đó về quyền trẻ em, CRC có những
điểm nổi bật, đó là:
Thứ nhất, công ước đưa ra định nghĩa chung về trẻ em mà có thể áp dụng cho
mọi xã hội trên thế giới mà không có sự phân biệt về bất cứ yếu tố nào về chính trị,
kinh tế, truyền thống văn hóa, phong tục tập quán...
Thứ hai, Công ước xác lập tập hợp các quyền trẻ em mà có nhiều quyền trước
đó chưa từng được pháp điển hóa trong luật quốc tế nhằm bảo đảm cho trẻ em được
bảo vệ, chăm sóc một cách có hiệu quả và được phát triển toàn diện cả về thể chất,
trí tuệ, tình cảm, đạo đức, xã hội. Chẳng hạn như Công ước đã ghi nhận các lợi ích
tốt nhất dành cho trẻ em, sự sống và phát triển của trẻ em,tôn trọng ý kiến, quan
điểm của trẻ em, vai trò và trách nhiệm của cha mẹ, cách ly với cha mẹ nếu như
điều đó mang lại lợi ích tốt nhất cho trẻ, các tự do cá nhân của trẻ em, bảo vệ trẻ em
bị mất môi trường gia đình, bảo vệ trẻ em khỏi bị bóc lột về kinh tế, bảo vệ trẻ em
khỏi tác động ma túy, bảo vệ trẻ em khỏi bị bắt cóc và buôn bán, phục hồi và tái
hòa nhập xã hội cho những nạn nhân trẻ em,v..v..
Thứ ba, công ước đề cập việc bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn
như trẻ em tàn tật, trẻ em bị mất môi trường gia đình, trẻ em mại dâm, trẻ em làm
trái pháp luật, trẻ em trong xung đột vũ trang…
Thứ tư, Công ước đề cập đến việc giải quyết những thách thức cấp bách mà trẻ
em đang gặp phải như lạm dụng tình dục trẻ em, bóc lột lao động, buôn trẻ em, trẻ
em bị buộc cầm súng, tác động của ma túy đối với trẻ em,...


Thứ năm, công ước xác lập một cơ chế pháp lý để theo dõi, giám sát sự tiến bộ
của các quốc gia trong việc bảo đảm quyền trẻ em.
Theo các chuyên gia về quyền trẻ em, có bốn nguyên tắc cơ bản làm nền tảng
cho CRC đó là :

Thứ nhất, trẻ em cũng là con người. Nguyên tắc này xác định vị thế bình đẳng
của trẻ em với người lớn về phương diện chủ thể của quyền. Nó khẳng định trẻ em
cũng có những giá trị như người lớn do đó phải được công nhận và bảo vệ các
quyền ngay từ giai đoạn thơ ấu.
Thứ hai, không phân biệt đối xử. Nguyên tắc này hàm ý rằng tất cả trẻ em trên
thế giới đều được hưởng các quyền quy định trong CRC, bất kể dân tộc, chủng tộc,
giới tính, tôn giáo, dòng dõi gia đình, tài sản…
Thứ ba, lợi ích tốt nhất dành cho trẻ em. Nguyên tắc này đòi hỏi mọi hoạt
động có liên quan đến trẻ em, Nhà nước, các bậc cha mẹ và các chủ thể khác phải
lấy lợi ích của trẻ em là mục tiêu hang đầu.
Thứ tư, tôn trọng ý kiến và quan điểm của trẻ. Nguyên tắc này nhằm bảo đảm
rằng trẻ em thực sự là chủ thể của quyền. Nó đòi hỏi các chủ thể khác phải tôn
trọng các quyền tự do ý kiến, tự do diễn đạt, tự do tôn giáo, tín ngưỡng và tự do lập
hội của trẻ em.
Nội dung quyền trẻ em trong CRC được phân thành 04 nhóm:
- Nhóm quyền được sống hay được tồn tại (các Điều 5, 6, 24, 26, 27) bao gồm
quyền của trẻ em được sống cuộc sống bình thường và được đáp ứng những nhu
cầu cơ bản nhất để tồn tại và phát triển thể chất. Đó là mức sống đủ, có nơi ở, ăn
uống đủ chất, được chăm sóc sức khoẻ. Trẻ em phải được khai sinh ngay sau khi ra
đời.


- Nhóm quyền được bảo vệ (các Điều 2, 7, 8, 9, 10, 11, 16, 19, 20, 21, 22, 23,
25, 32, 33, 34, 35, 36, 37, 38, 39, 40) gồm những điều kiện để trẻ em có thể phát
triển đầy đủ nhất về cả tinh thần và đạo đức, bao gồm việc học tập, vui chơi, tham
gia các hoạt động văn hoá, tiếp nhận thông tin, tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và
tôn giáo. Trẻ em cần có sự yêu thương và cảm thông của cha mẹ để có thể phát
triển hài hoà.
- Nhóm quyền được phát triển (các Điều 17, 18, 28, 29, 31, 32) bao gồm
những quy định như trẻ em phải được bảo vệ chống tất cả các hình thức bóc lột lao

động, bóc lột và xâm hại tình dục, lạm dụng ma tuý, sao nhãng và bị bỏ rơi, bị bắt
cóc và buôn bán. Trẻ em còn được bảo vệ khỏi sự can thiệp vô cớ vào thư tín và sự
riêng tư.
- Nhóm quyền được tham gia (các Điều 12, 13, 14, 15, 17, 30) tạo mọi điều
kiện cho trẻ em được tự do bày tỏ quan điểm và ý kiến về những vấn đề có liên
quan đến cuộc sống của mình. Trẻ em còn có quyền kết bạn, giao lưu và hội họp
hoà bình, được tạo điều kiện tiếp cận các nguồn thông tin và chọn lựa thông tin phù
hợp.
Mọi trẻ em Việt Nam đều có quyền được sống, bảo vệ và phát triển. Hiểu và
nắm bắt được nội dung Quyền trẻ em sẽ giúp chăm lo tốt hơn cho thế hệ tương lai
và giúp các em được hưởng đầy đủ các quyền lợi của mình.
b. Nghĩa vụ của các quốc gia thành viên
Thứ nhất, Nhà nước phải sử dụng một cách tối đa các nguồn lực sẵn có để bảo
đảm quyền Kinh tế, xã hội, văn hóa của trẻ em.
Thứ hai, huy động sự tham gia của các thành phần trong xã hội, bao gồm trẻ
em, cũng như xây dựng các cơ chế đặc biệt và thành lập cơ quan điều phối, giám


sát để thu thâp dữ liệu, nâng cao nhận thức xã hội và tổ chức thực hiện chính sách,
chương trình thích hợp nhằm bảo đảm thực hiện hóa quyền trẻ em.
Thứ ba, thành lập những bộ phận hay bổ nhiệm cá nhân trong Chính phủ,
Nghị viện chuyên trách bảo vệ quyền trẻ em; thực hiện nghiên cứu, phân tích, báo
cáo tình hình trẻ em, dành ngân sách để bảo vệ, giáo dục và chăm sóc trẻ em.
Nói tóm lại, nhiệm vụ bảo vệ quyền trẻ em không thể bị coi là một quá trình từ
thiện hay ưu đãi dành cho trẻ em mà là trách nhiệm của Nhà nước, xã hội và là một
cam kết chính trị.
2. Pháp luật Việt Nam về quyền trẻ em
Cùng với việc phát triển kinh tế, trong những năm qua, Nhà nước ta đã ban
hành nhiều chính sách, văn bản pháp luật trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến bảo
vệ các quyền trẻ em. Từ các bản Hiến pháp, các bộ luật, luật đến các văn bản dưới

luật đã tạo thành một hệ thống pháp luật bảo vệ trẻ em phù hợp với các công ước
quốc tế và truyền thống văn hoá của dân tộc. Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á
và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước của Liên Hiệp quốc về Quyền trẻ
em vào ngày 20/02/1990.
Ở Việt Nam, quyền trẻ em đã được hiến định từ Hiến pháp năm 1946 (trực
tiếp là các Điều 14, 15 và được hàm chứa trong một số điều khác) và trong tất cả
các Hiến pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992 (gồm cả lần sửa đổi, bổ sung vào
năm 2001), năm 2013. Hiến pháp năm 1992, quyền trẻ em được chế định trực tiếp
trong Điều 40 và được hàm chứa trong một số điều khác. Hiến pháp năm 2013,
quyền trẻ em được quy định trực tiếp tại khoản 1, Điều 37: “Trẻ em được Nhà
nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn
đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột
sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”. Trên tinh thần của


Hiến pháp năm 2013, quyền trẻ em cũng đã được thể chế hóa trong nhiều bộ luật và
luật, mà tập trung là Luật Trẻ em năm 2016, Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014….
Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, các quyền trẻ em bao gồm:
– Quyền được sống, được bảo vệ tính mạng, được bảo đảm tốt nhất các điều
kiện sống và phát triển.
– Quyền được khai sinh và có quốc tịch: Mọi trẻ em khi sinh ra đều có quyền
được khai sinh. Trẻ em có quyền được khai sinh, khai tử, có họ, tên, có quốc tịch;
được xác định cha, mẹ, dân tộc, giới tính theo quy định của pháp luật.
– Quyền được chăm sóc sức khỏe: Trẻ em có quyền được chăm sóc tốt nhất về
sức khỏe, được ưu tiên tiếp cận, sử dụng dịch vụ phòng bệnh và khám bệnh, chữa
bệnh. Trẻ em dưới sáu tuổi được chăm sóc sức khoẻ ban đầu, được khám bệnh,
chữa bệnh không phải trả tiền tại các cơ sở y tế công lập.
– Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng: Trẻ em có quyền được chăm sóc, nuôi
dưỡng để phát triển toàn diện. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông

nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con; tôn trọng ý
kiến của con; chăm lo việc học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể
chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích
cho xã hội.
– Quyền được giáo dục, học tập và phát triển năng khiếu: Trẻ em có quyền
được giáo dục, học tập để phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng của
bản thân; được bình đẳng về cơ hội học tập và giáo dục; được phát triển tài năng,
năng khiếu, sáng tạo, phát minh. Đối với bậc tiểu học trẻ em không phải đóng học
phí.


– Quyền vui chơi, giải trí; được bình đẳng về cơ hội tham gia các hoạt động
văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch phù hợp với độ tuổi.
– Quyền giữ gìn, phát huy bản sắc: (i) Trẻ em có quyền được tôn trọng đặc
điểm và giá trị riêng của bản thân phù hợp với độ tuổi và văn hóa dân tộc; được
thừa nhận các quan hệ gia đình; (ii) Trẻ em có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ
gìn bản sắc, phát huy truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc
mình.
– Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào và
phải được bảo đảm an toàn, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em.
– Quyền về tài sản: Trẻ em có quyền sở hữu, thừa kế và các quyền khác đối
với tài sản theo quy định của pháp luật. Cha mẹ có trách nhiệm và nghĩa vụ bảo
quản lý, bảo vệ, định đoạt tài sản riêng của trẻ em và đảm bảo quyền dân sự của trẻ
em về tài sản.
– Quyền bí mật đời sống riêng tư: (i) Trẻ em có quyền bất khả xâm phạm về
đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình vì lợi ích tốt nhất của trẻ em;
(ii) Trẻ em được pháp luật bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí mật thư tín, điện
thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác; được bảo vệ và
chống lại sự can thiệp trái pháp luật đối với thông tin riêng tư.
– Quyền được sống chung với cha, mẹ: Trẻ em có quyền được sống chung với

cha, mẹ; được cả cha và mẹ bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, trừ trường hợp cách ly
cha, mẹ theo quy định của pháp luật hoặc vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Khi phải
cách ly cha, mẹ, trẻ em được trợ giúp để duy trì mối liên hệ và tiếp xúc với cha, mẹ,
gia đình, trừ trường hợp không vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Trong trường hợp xét
thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con, thì Tòa án quyết định
giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật Dân sự.


– Quyền được đoàn tụ, liên hệ và tiếp xúc với cha, mẹ: Trẻ em có quyền được
biết cha đẻ, mẹ đẻ, trừ trường hợp ảnh hưởng đến lợi ích tốt nhất của trẻ em; được
duy trì mối liên hệ hoặc tiếp xúc với cả cha và mẹ khi trẻ em, cha, mẹ cư trú ở các
quốc gia khác nhau hoặc khi bị giam giữ, trục xuất; được tạo Điều kiện thuận lợi
cho việc xuất cảnh, nhập cảnh để đoàn tụ với cha, mẹ; được bảo vệ không bị đưa ra
nước ngoài trái quy định của pháp luật; được cung cấp thông tin khi cha, mẹ bị mất
tích.
– Quyền được chăm sóc thay thế và nhận làm con nuôi: (i) Trẻ em được chăm
sóc thay thế khi không còn cha mẹ; không được hoặc không thể sống cùng cha đẻ,
mẹ đẻ; bị ảnh hưởng bởi thiên tai, thảm họa, xung đột vũ trang vì sự an toàn và lợi
ích tốt nhất của trẻ em; (ii) Trẻ em được nhận làm con nuôi theo quy định của pháp
luật về nuôi con nuôi.
– Quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị xâm hại tình dục
– Quyền được bảo vệ để không bị bóc lột sức lao động
– Trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị bạo lực, bỏ
rơi, bỏ mặc làm tổn hại đến sự phát triển toàn diện của trẻ em.
– Được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị mua bán, bắt cóc, đánh tráo,
chiếm đoạt
– Quyền được bảo vệ khỏi mọi hình thức sử dụng, sản xuất, vận chuyển, mua,
bán, tàng trữ trái phép chất ma túy
– Quyền được bảo vệ trong tố tụng và xử lý vi phạm hành chính: (i) Được bảo
đảm quyền được bào chữa và tự bào chữa, được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp;

được trợ giúp pháp lý, được trình bày ý kiến, không bị tước quyền tự do trái pháp


luật; (ii) không bị tra tấn, truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm
phạm thân thể, gây áp lực về tâm lý và các hình thức xâm hại khác.
– Quyền được ưu tiên bảo vệ, trợ giúp dưới mọi hình thức để thoát khỏi tác
động của thiên tai, thảm họa, ô nhiễm môi trường, xung đột vũ trang
– Trẻ em là công dân Việt Nam được bảo đảm an sinh xã hội theo quy định
của pháp luật phù hợp với Điều kiện kinh tế – xã hội nơi trẻ em sinh sống và Điều
kiện của cha, mẹ hoặc người chăm sóc trẻ em.
– Quyền được tiếp cận thông tin và tham gia hoạt động xã hội
– Quyền được bày tỏ ý kiến, nguyện vọng về các vấn đề liên quan đến trẻ em
và được tự do hội họp theo quy định của pháp luật phù hợp với độ tuổi, mức độ
trưởng thành và sự phát triển của trẻ em; được cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia
đình, cá nhân lắng nghe, tiếp thu, phản hồi ý kiến, nguyện vọng chính đáng
– Quyền của trẻ em khuyết tật: Trẻ em khuyết tật được hưởng đầy đủ các
quyền của trẻ em và quyền của người khuyết tật theo quy định của pháp luật; được
hỗ trợ, chăm sóc, giáo dục đặc biệt để phục hồi chức năng, phát triển khả năng tự
lực và hòa nhập xã hội.
– Quyền của trẻ em không quốc tịch cư trú tại Việt Nam, trẻ em lánh nạn, tị
nạn được bảo vệ và hỗ trợ nhân đạo, được tìm kiếm cha, mẹ, gia đình theo quy định
của pháp luật Việt Nam và Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên.
III. THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ
ĐỂ NÂNG CAO QUYỀN TRẺ EM Ở VIỆT NAM
1. Thực tiễn việc thực hiện quyền trẻ em ở Việt Nam


a. Thành tựu
Công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em luôn được Đảng, Nhà nước và

các địa phương xem là chính sách ưu tiên hàng đầu trong việc bảo đảm an sinh xã
hội, vì mục tiêu phát triển ổn định và lâu dài của đất nước. Cả nước có hơn 26 triệu
trẻ em, trong đó có khoảng 1,5 triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và gần 2,5 triệu
trẻ em có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặt biệt. Những năm qua, thành quả được tập
trung chủ yếu ở một số nội dung như hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về
bảo vệ, chăm sóc trẻ em; tăng cường truyền thông, giáo dục, vận động xã hội; vận
động nguồn lực dành cho công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em; công tác kiểm tra,
giám sát, xây dựng cơ sở dữ liệu về trẻ em; thực hiện phối hợp liên ngành trong
thực hiện quyền trẻ em và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, chú trọng, kiện toàn hệ thống pháp luật,
chính sách về bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Một số văn bản chính sách quan trọng đã
được ban hành như Hiến pháp năm 2013 (Khoản 1 Điều 37 quy định “Trẻ em được
Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các
vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc
lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”); Chỉ thị số 20CT/TW, ngày 05-11-2012, của Bộ Chính trị về “Tăng cường công tác chăm sóc,
giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới”; Chính sách hỗ trợ phẫu thuật tim
cho trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh;; Kế hoạch hành động quốc gia vì trẻ em bị ảnh
hưởng bởi HIV/AIDS giai đoạn 2014 - 2020. Đặc biệt là việc nghiên cứu, xây dựng
sửa đổi Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 và các chương trình
liên quan đến trẻ em giai đoạn 2016 - 2020.
Bên cạnh hệ thống thể chế pháp luật đang ngày càng được hoàn thiện, các hoạt
động truyền thông, giáo dục và vận động xã hội về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em cũng được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện, tạo sự chuyển biến tích


cực về cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em, đồng thời mở rộng, nâng cao chất lượng
dịch vụ và phúc lợi xã hội dành cho trẻ em. Hiện nay, tại Việt Nam, trẻ em trong
gia đình nghèo, trẻ em là người dân tộc thiểu số cư trú tại các xã đặc biệt khó khăn,
trẻ em dưới sáu tuổi được miễn 100% chi phí khám, chữa bệnh; hơn 90% số trẻ em
dưới một tuổi được tiêm phòng đầy đủ. Trong công tác giáo dục trẻ em, hiện nay

mạng lưới trường, lớp ở các cấp học phát triển rộng khắp trong cả nước; 100% số
tỉnh miền núi có trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú dành cho trẻ em là người
dân tộc thiểu số. Tỷ lệ trẻ em đi học ở các cấp học tăng mạnh qua các năm học.
Trong đó, gần 50% số trẻ khuyết tật được đi học với các hình thức giáo dục chuyên
biệt. Từ đó tạo ra mạng lưới phối hợp giữa các cơ quan chức năng, các tổ chức xã
hội trong việc chăm sóc và bảo vệ trẻ em...
Để công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em đạt hiệu quả thì hoạt động kiểm tra, giám
sát, cơ sở dữ liệu về trẻ em cũng là một yếu tố quan trọng. Hằng năm, Ủy ban Văn
hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, các bộ, ngành
liên quan đã tổ chức các đoàn giám sát, kiểm tra liên ngành về tình hình thực hiện
công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em tại trung ương và địa phương.
Để huy động nguồn lực trong việc xây dựng và thực hiện các chương trình, đề
án, dự án trợ giúp, chăm sóc và bảo vệ trẻ em, nhất là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt,
trong những năm qua, Việt Nam đã tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế như
UNICEF, ILO, WHO, Save the Children, Plan, World Vision, ChildFund,...; đồng
thời cũng tích cực trong việc thực hiện các cam kết quốc tế liên quan đến trẻ em.
b. Hạn chế
Nhà nước Việt với hành lang pháp lý càng ngày càng tiến bộ, những tưởng trẻ
em sẽ được trưởng thành trong điều kiện tốt nhất, nhưng trên thực tế trẻ em ngày
nay đã và đang bị lôi kéo, mắc phải những tệ nạn xã hội, sự phát triển của trẻ em
dường như chưa được quan tâm đúng mực, trẻ em không được đáp ứng đủ các nhu


cầu về cả vật chất lẫn tinh thần. Mặc dù đạt được các thành tựu trên nhưng nước ta
còn một số tồn tại như sau:
- Về tình trạng bất bình đẳng giới giữa trẻ em nữ và trẻ em nam. Tình trạng lựa
chọn giới tính thai nhi và nạo phá thai khiến cho những đứa trẻ chưa kịp đến với
thế giới này thì đã bị tước đoạt quyền được sinh ra và quyền được sống từ trong
bụng mẹ. Điều này xuất phát từ quan niệm “trọng nam khinh nữ” đã có từ xa xưa
ăn sâu vào tiềm thực và ý thực hệ của đại bộ phận người Việt Nam. Theo số liệu

thống kê của Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, năm 2018 Tỷ số giới tính
khi sinh là 115,1 bé trai/100 bé gái, tăng 3 điểm phần trăm so với năm 2017, không
đạt kế hoạch (chỉ tiêu là 112,8 bé trai/100 bé gái). Số liệu cho thấy mức độ chênh
lệch giữa bé trai và bé gái được sinh ra.
- Tình trạng trẻ em bị bỏ rơi, bạo lực, bị lạm dụng, xâm hại... có chiều hướng
gia tăng Tổng hợp số liệu từ các địa phương cho thấy, mỗi năm, tại Việt Nam có
khoảng 2.000 trường hợp trẻ em bị bạo lực, xâm hại nguyên nhân do nhận thức của
cha mẹ, gia đình, xã hội đối với việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em chưa cao; việc hỗ trợ
của các gia đình trong việc chăm nuôi đỡ đầu trẻ có hoàn cảnh đặc biệt chưa được
phổ biến rộng rãi. Điều này ảnh hưởng lớn đến sự nhận thức và phát triển sau này
của trẻ khi tham gia hoạt động xã hội.
- Vai trò phản biện xã hội của các tổ chức xã hội, các tổ chức chính trị - xã hội
chưa cao nên ít có tiếng nói của các tổ chức này trong quá trình xây dựng luật pháp,
chính sách liên quan tới trẻ em.
- Một số địa phương chưa thực sự quan tâm đến việc xây dựng, đào tạo đội
ngũ cộng tác viên làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em, dẫn đến nhiều xã/phường
không có mạng lưới cộng tác viên làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em, vì vậy gây
khó khăn trong việc theo dõi, nắm bắt tình hình, thu thập số liệu về bảo vệ, chăm


sóc trẻ em tại địa phương, chưa kịp thời phát hiện, can thiệp các vụ việc vi phạm
quyền trẻ em trên địa bàn...
- Về tình trạng trẻ em trong điều kiện lao động độc hại nguy hiểm và tình
trạng bóc lột lao động trẻ em. Với mức giá nhân công hết sức rẻ mạt, phải lao động
trong một môi trường và điều kiện không đảm bảo, lao động là trẻ em vẫn đang
từng ngày buộc phải đối mặt với nguy cơ bị bóc lột sức lao động thậm tệ. Theo kết
quả điều tra mới nhất do Tổng cục Thống kê phối hợp với BLĐ- TB & XH cùng Tổ
chức lao động Quốc tế ILO thực hiện cho thấy, hiện nay cả nước đang có khoảng
1,75 triệu lao động trẻ em và người chưa thành niên (từ 5- 17 tuổi) đang phải làm
việc nặng nhọc hoặc làm việc trong những điều kiện có hại cho sức khỏe. Tỷ lệ lao

động trẻ em tập trung đông nhất chủ yếu ở các thành phố lớn, trong đó có Hà Nội
và thành phố Hồ Chí Minh. Điều đáng buồn hơn nữa khi tỷ lệ trẻ em bị thất học
vẫn còn rất cao. Cụ thể, trong số trẻ em được khảo sát, có tới 52% trẻ đã từng đi
học; 45,2% đang đi học và 2,8% chưa bao giờ được cắp sách đến trường.
3. Giải pháp kiến nghị thực hiện quyền trẻ em ở Việt nam
Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá là một trong những quốc gia có
cam kết chính trị mạnh mẽ và các biện pháp tích cực về xây dựng pháp luật, chính
sách, chương trình quốc gia thực hiện Công ước về quyền trẻ em. Tuy nhiên môi
trường sống hiện tại vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ dẫn đến các vụ xâm hại trẻ em,
trẻ em bị bỏ rơi, mua bán trẻ em, trẻ em vi phạm pháp luật, trẻ em phải lao động
trong điều kiện nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm,… Trong thời gian tới, chúng ta cần
có những giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn, thách thức trong công tác bảo
vệ, chăm sóc trẻ em để đạt mục tiêu đề ra, cụ thể:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến trẻ em nhằm
tạo môi trường luật pháp đầy đủ, thân thiện với trẻ em và tạo môi trường xã hội phù
hợp với trẻ em; cụ thể là trình Chính phủ, Quốc hội xem xét dự án Luật Bảo vệ,


chăm sóc và giáo dục trẻ em (sửa đổi), trong đó có quy định việc hình thành, củng
cố hoạt động của hệ thống bảo vệ trẻ em ở ba cấp độ phòng ngừa, can thiệp và hỗ
trợ; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện luật pháp, chính sách về
bảo vệ, chăm sóc trẻ em; xây dựng, hoàn thiện và vận hành có hiệu quả hệ thống cơ
sở dữ liệu quốc gia về trẻ em; thực hiện đầy đủ công ước quốc tế về quyền trẻ em
mà Việt Nam đã phê chuẩn.
Thứ hai, tăng cường hoạt động truyền thông công giáo dục, thực hiện các giải
pháp phòng chống xâm hại bạo lực trẻ em.Tổ chức các lớp giáo dục kỹ năng sống,
kỹ năng tự bảo vệ mình cho trẻ em; Phổ biến, tuyên truyền nội dung kiến thức về
bảo vệ trẻ em, phòng chống xâm hại tình dục và bạo lực trẻ em, giáo dục giới tính
bằng các phương tiện truyên thông đại chúng. Tích cực điều tra, xử lý nghiêm
minh, kịp thời đối với các đối tượng có hành vi xâm hại trẻ em, dụ dỗ lôi kéo trẻ

em để thu lợi dưới mọi hình thức.
Thứ ba, các bộ, ngành, địa phương cần quan tâm bố trí nguồn lực cho công
tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Phân cấp rõ trách nhiệm của các cấp chính quyền địa
phương trong việc tổ chức thực hiện, bảo đảm điều kiện cho các hoạt động bảo vệ,
chăm sóc trẻ em tại địa phương. Tiếp tục nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, tình
nguyện viên làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em các cấp.
Thứ tư, cần đẩy mạnh hợp tác với các tổ chức quốc tế trong việc huy động
nguồn lực xây dựng và thực hiện các chương trình, đề án, dự án trợ giúp, chăm sóc,
bảo vệ trẻ em, thực hiện quyền tham gia của trẻ em; hỗ trợ kỹ thuật, kiến thức và
kinh nghiệm cho công tác xây dựng, sửa đổi và hoàn thiện chính sách, hướng dẫn
thực hiện cũng như xây dựng kế hoạch, giám sát, đánh giá thực hiện mục tiêu về
bảo vệ, chăm sóc trẻ em.


C. KẾT LUẬN
Trên thực tế, hạnh phúc của trẻ em không chỉ đuợc bảo đảm bởi hệ thống
chính sách, chương trình trợ giúp xã hội đối với trẻ em về nuôi dưỡng, giáo dục, y
tế, …, mà còn cần được bồi bổ lý tuởng và ý chí, nghị lực với những giá trị nhân
văn vững chắc, cũng như quyền đuợc sống trong môi trường an toàn, lành mạnh và
thân thiện, giảm thiểu bất bình đẳng về mức sống, về cơ hội phát triển giữa các
nhóm trẻ em khác nhau. Vì lợi ích tốt nhất của trẻ em, đã đến lúc cả cộng đồng xã
hội phải chung tâm, chung trí, chung sức bảo vệ trẻ em. Luật pháp phải được
thượng tôn, dù là ai, ở môi trường nào cũng đều phải biết dành cho con trẻ tình yêu
thương và trách nhiệm. Trẻ em chính là tương lai của cả quốc gia, với tư cách là
một người học luật, đòi hỏi bản thân phải am hiểu kiến thức sâu sắc về luật pháp
bên cạnh đó còn phải có trách nhiệm và đảm bảo quyền lợi tuyệt đối của trẻ em.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Khoa Luật – Đại học

2.
3.
4.
5.
6.

quốc gia Hà Nội, NXB Đại học quốc gia Hà Nội
Tuyên bố Gionevo 1924
Công ước về quyền trẻ em (CRC - Convention on the Rights of the Child)
Hiến pháp năm 2013
Luật trẻ em năm 2016
/>
e_cham_soc_tre_em_o_Viet_Nam_hien_nayall.html
7. />


×